Bạn đang xem bài viết Ý Nghĩa Của Việc Thờ Cúng Thần Tài được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Apim.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Thần Tài – Ông Địa là một cặp 2 ông thần được thờ trong một cái tủ thờ, đặt ở dưới đất. Tủ thường làm bằng gỗ và có khi được Tủ thờ Thần Tài – Ông Địa đều đặt hướng thẳng ra phía cửa nhà, thường ở vị trí có vách dựa vào (để tạo sự vững chắc cho tủ thờ cũng như cho sự kinh doanh và cuộc sống bạn). Người ta không chỉ cúng 2 ông vào ngày Tết, mà cúng quanh năm, nhất là những gia đình chuyên nghề buôn bán, kinh doanh thì người ta tin rằng chỉ khi nào lo cho các vị thần này chu đáo hàng ngày thì mới được các Thần phù hộ làm ăn thuận lợi “tiền vào như nước”. Sáng sớm khi mở cửa bán hàng hoặc kinh doanh, người ta thường thắp hương cầu khẩn Thần Tài “phù hộ” cho họ mua may bán đắt, cúng cho Ông Địa một ly cà phê đen kèm theo một điếu thuốc để ông “độ” cho trong ấm ngoài êm.sơn son thiếp vàng, phía trong khảm hoặc dán bài vị của Thần Tài.
Thần Tài – Ông Địa là một cặp thờ tuy về hình chỉ có 1 ông Địa và 1 Thần tài, nhưng Mỗi một vị như vậy là đại diện cho 5 người. Về Thần Tài có Hắc Thần Tài, Thanh Thần Tài, Bạch Thần Tài, Xích Thần Tài Và Hoàng Thần tài là vị chủ chốt. Còn ông Địa cũng có 5 ông : Đông phương Thanh Đế, Tây phương Bạch Đế, Nam phương Xích Đế, Bắc phương Hắc Đế và Trung ương Huỳnh Đế. Về hình thức bên ngoài thì Ông Địa thường bụng phệ, người trắng nõn, để ngực trần, đầu quấn khăn, tay cầm quạt và hay có con cọp đi theo. Cần phân biệt Ông Địa của Việt Nam và Phật Di Lặc. Phật Di Lặc mang bao bố hay cười tươi, có đồng tử đi theo. Hình ảnh Ông Địa còn khá quen thuộc trong đội múa lân, Ông Địa thường có vai trò cản trở Lân trong việc nhặt tiền thưởng hay quà cúng của gia chủ. Thần Tài thường tay cầm cục vàng (kim ngân lượng) hoặc bạc, đội mũ mão, trang phục nghiêm chỉnh hơn Ông Địa.
Nếu như Thần Tài người ta cúng hoa quả thì trái lại Thổ Địa lại cúng chuối xiêm, thuốc lá hay cúng ly cà phê. Thông tường Thần Tài người Hoa kính trọng và khấn vái nhiều, thì trái lại người Việt luôn luôn khấn vái Ông Địa. Vào ngày Tết, vai trò của Thần Tài càng được xem trọng hơn. Người ta lo trang hoàng nhà cửa, sửa soạn cho ông sạch sẽ, nếu vị thần này đã quá cũ hay bị hư thì sẽ thỉnh vị mới về hoặc bàn thờ cũ hay bị hư cũng được thay thế bàn thờ mới. Họ tin rằng năm mới, mọi thứ đều ngăn nắp và bàn thờ Thần Tài có sạch sẽ thì làm ăn mới phát tài.
Nhìn vào cấu trúc bàn thờ Thần Tài – Ông Địa đúng cách, từ ngoài nhìn vào ta thấy dán trên vách 1 tấm Bài vị là 1 tấm màu đỏ được viết bằng mực nhũ kim với nội dung ” Ngũ phương Ngũ thổ Long thần, Tiền hậu địa Chúa Tài thần “. Bên trái là ông Thần tài, bên phải là Ông Địa. Ở giữa hai ông là một hũ gạo, một hũ muối và một hũ nước đầy, 3 hũ này chỉ đến cuối năm mới thay. Giữa bàn thờ là một bát nhang, bát nhang này khi bốc phải chọn ngày và theo một số thủ tục nhất định. Để tránh động bát nhang khi lau chùi bàn thờ, nguời ta dùng keo 502 dán chết bát nhang xuống bàn thờ. Khi đang làm ăn tốt mà xê dịch bát nhang gọi là bị động bát nhang, mọi chuyện trở nên trục trặc liền. Theo nguyên lý ” Đông Bình – Tây Quả “, lọ hoa bên tay phải – thường nên cắm hoa hồng, hoa cúc, hoa đồng tiền đĩa trái cây bên tay trái – nên sắp ngũ quả (5 loại trái cây). Thường ở ngoài nơi bán đồ thờ cúng, các bạn nên bỏ khay và xếp 5 chén nước thành hình chữ thập, tượng trưng cho ngũ phương, và cũng là tương trưng cho Ngũ Hành phát sinh phát triển. Cúng 5 chén nước chứ không phải 3 chén cũng vì tượng trưng cho 5 ông Thần tài và 5 ông Địa đã nói ở trên.
Ông Cóc (hình tượng rất đặc trưng văn hóa Việt) để bên trái, lưu ý là sáng quay Cóc ra, tối quay Cóc vào trong với mong muốn tiền của không bị trôi đi. Ngoài cùng trên mặt đất, các bạn nên chọn một cái tô sứ thật đẹp, nông lòng, đổ đầy nước và ngắt những bông hoa trải trên mặt nước (làm Minh Đường Tụ Thủy) – một cách giữ tiền bạc khỏi trôi đi. Trong miền Nam khi cúng Thần Tài – Ông Địa, thường cúng kèm theo một đĩa tỏi có 5 củ tươi nguyên đẹp đẽ hay nhiều khi là cả một bó tỏi . Họ cho rằng tỏi giúp cho ông Địa có phương tiện để bài trừ “các đạo chích vong binh” ám muội vì người âm cũng có người tốt kẻ xấu như thường giống người dương mình vậy. Ngoài ra, họ dùng bó tỏi đó để phòng chống các Tà sư làm ác, phá hoại bàn thờ nhà người ta bằng Bùa, Ngải . Tỏi có tác dụng tránh được điều đó (vì người luyện Bùa, Ngải thường kiêng ăn Ngũ Vị Tân : Hành , Hẹ, Tỏi, nén, Kiệu).
Trên nóc bàn thờ Thần Tài – Ông Địa, người ta thường đặt tượng của Di Lặc Phật Vương hay các câu chú Phạn tự (tượng trưng cho cơ quan chủ quản các Thần). Mục đích là để có sự quản lý, không cho các vị Thần làm điều sai trái.
Thổ Công hay Thổ Địa là một vị thần trong tín ngưỡng Việt Nam cai quản một vùng đất đai. Sống ở đâu thì có Thổ Công ở đó: “Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá”. Thông thường, mỗi khi làm việc có đụng chạm đến đất đai như xây cất, đào ao, đào giếng, mở vườn, mở ruộng, đào huyệt thì người Việt đều phải cúng vị thần này. Với người Hoa, Thổ Địa cũng là một trong các vị thần Tài. Do ngày xưa, nông nghiệp chiếm vai trò quan trọng trong lịch sử nên đất đai cùng các loại nông phẩm từ đất sinh ra là thứ của cải, tài sản chủ yếu ngày xưa nên thần Đất cũng là 1 thần Tài. Mặt khác, thần Đất có công năng là thần Tài là do thuyết ngũ hành tương sinh Thổ sinh Kim (đất sinh vàng bạc)… Có lẽ vì lý do đó mà đến tận bây giờ, Thần Tài và Ông Địa (Thổ Địa) vẫn cứ được thờ chung như một cặp đôi bất khả phân li ở khắp nơi, từ văn phòng công ty lớn – nhỏ, cửa hàng bán lẻ, tư gia. Người Hoa sang VN làm nghề buôn bán trở nên giàu có, mỗi nhà người Hoa đều có thờ Ông Địa – Thần tài nên người Việt thấy vậy bắt chuớc theo. Theo tín ngưỡng dân gian, Ông Địa – Thần tài mang lại tiền bạc hay của cải cho mỗi gia đình, nên nhất là gia đình mua bán hay kinh doanh đều phải có bàn thờ Ông Địa – Thần Tài.Ông Địa – Thần tài được người Hoa truyền cho dân Việt.
1. Khi sắp đồ nên đặt mâm cúng trong nhà; chuẩn bị đồ lễ đơn giản; không cần quá lãng phí; chỉ cần đầy đủ hoa quả tươi và nước sạch là được.
2. Vào ngày mùng 10 tháng Giêng; ngày cuối tháng và 14 âm lịch hàng tháng nên lau bàn thờ bằng rượu pha nước hoặc nước hoa bưởi. Chú ý; khăn lau bàn thờ và khăn tắm cho các thần phải để riêng; không được dùng vào những việc khác.
3. Nghi lễ thắp hương: thường thì sẽ thắp hương và khấn vào buổi sáng mỗi khi bắt đầu mở cửa kinh doanh. Tuy nhiên; cũng có một số người thắp hương vào buổi tối. Tốt nhất; gia chủ nên chọn giờ tốt lành để hành lễ; như vậy sẽ kích hoạt trường khí dễ hơn.
4. Nước: Phải rửa sạch chén trước khi lấy nước; tốt nhất nên bày 5 chén nước trên ban thờ; lượng nước đổ cách miệng chén chừng 1cm; không nên rót nhiều; dễ bị tràn ra bàn thờ thì không tốt.
5. Hoa: dùng bình hoa thủy tinh; hay gốm sứ đều được. Khi mua nên chọn hoa tươi; có nụ; có hương thơm thì càng tốt. Tuyệt đối không nên sử dụng hoa giả.
6. Quả: chọn quả tươi; không bị héo hay dập nát; có thể dùng táo; lê; chuối; cam; quýt…. Và cũng tuyệt đối không dùng quả nhựa giả để cúng.
7. Đèn; nến: dùng nến hoặc đèn dầu; không nên dùng bóng điện; hay đèn nhấp nháy; bởi vì chúng dễ tạo ra trường khí xấu; ảnh hưởng không tốt đến việc thờ cúng.
8. Gạo; muối sau khi cúng xong thì nên giữ lại; không rắc ra ngoài; rượu nên đứng ở ngoài cửa tưới vào trong nhà; điều này mang nghĩa rước lộc vào nhà.
9. Lộc cúng xong thì không chia cho người ngoài; chỉ phân phát cho người trong nhà cùng hưởng.
10. Không vật nuôi như chó mèo quấy nhiễu; phá phách làm ô uế bàn thờ.
11. Nơi đặt bàn thờ Thần Tài và Ông Địa thì phải luôn giữ cho sạch sẽ. Nhớ tắm rửa thường xuyên cho hai Ông bằng nước pha rượu; hoặc nước hoa bưởi. Vào những ngày có mưa to; nên đặt hai Ông vào chậu sạch; cho ra ngoài trời tắm mưa khoảng 15′. Sau đó; rước hai Ông vào nhà và dùng khăn sạch lau khô; xịt nước thơm rồi thắp hương cầu khấn thì sẽ cực kì linh nghiệm.
12. Sau khi lập bàn thờ; gia chủ nên thắp hương liên tục trong vòng 100 ngày để bàn thờ tụ khí. Không tắt đèn ở bàn thờ; bởi vì ánh sáng là công cụ chỉ đường cho các thần giáng xuống trần gian.
-Trong 100 ngày này; nên thay nước hằng ngày. Khi cần xin điều gì; thì thắp 3 nén hương cắm theo mỗi ngày. Vào ngày rằm; mùng một; lễ tết thì thắp 5 nén hương cắm theo hình chữ thập. Gia chủ nên chọn loại hương cuốn tàn; để giữ được tàn hương; như vậy thì sau một thời gian sẽ có bát hương đẹp và tụ khí. Đến ngày 23 tháng Chạp âm lịch thì rút chân hương hóa vàng. Lưu ý; sau khi hóa vàng thì nên đổ một ít rượu vào tro.
13. Tuyệt đối không nên để hoa; quả trên bàn thờ héo úa; bởi như vậy sẽ làm ảnh hưởng đến việc kinh doanh của gia chủ.
Cùng Danh Mục Bình Luận Facebook
Ý Nghĩa Của Việc Cúng Nước Trên Bàn Thờ Phật
Trang chủ
Ý nghĩa của việc cúng nước trên bàn thờ Phật
Cúng nước đến Phật, Hòa thượng Tịnh Không khuyên chúng ta nên cúng ly nước bằng thủy tinh, trong suốt, có thể từ bên ngoài nhìn thấy nước bên trong. Nên cúng nước suối hoặc nước lạnh, không nên cúng nước đun sôi để nguội, nước trà hoặc các loại nước có màu.Đặc tính của nước là trong sạch, phẳng lặng, thuần khiết. Chính vì thế khi ta cúng nước lên Phật, liền nghĩ đến tâm của ta phải thanh tịnh, bình đẳng, trong sạch như nước. Trong cuộc sống chúng ta đối nhân xử thế, ứng xử giao tiếp người, sự, vật, tâm chúng ta không nên có sự phân biệt giàu-nghèo, sang-hèn, trí-ngu. Như vua Võ Tắc Thiên nói: “Con người lúc mới sinh ra đều giống nhau, đều bình đẳng. Khi trưởng thành khoác lên mình chiếc áo lông bào thì gọi là vua. Còn nếu khoác lên mình chiếc áo rách thì gọi là ăn mày”. Trong nhà Thiền cũng có một mẫu chuyện rất nổi tiếng, đó là: “Lục Tổ Huệ Năng đến huyện Huỳnh Mai yết kiến Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn để cầu pháp. Khi gặp, Ngũ Tổ hỏi: “Ngươi từ đâu đến? Đến đây cầu việc gì?”. Huệ Năng đáp: “Con từ Lĩnh Nam đến. Đến đây chỉ cầu làm Phật, không cầu việc gì khác”. Tổ tiếp: “Ngươi là người xứ Lĩnh Nam lại là dân man rợ, thành Phật thế nào được!”. Huệ Năng đáp: “Con người tuy có phân chia Nam Bắc, chớ Phật tánh vốn không có Nam Bắc. Cái thân man rợ này đối với hòa thượng tuy chẳng giống nhau, nhưng cái tánh Phật đâu có khác!”.
Qua kinh tạng Pàli, trở về thời Ấn- độ lúc bấy giờ. Đức Phật phủ nhận sự phân chia giai cấp xã hội và kỳ thị giới tính. Ngài dạy hành động (hay việc làm) nói lên giá trị của mỗi người là Bà La Môn, Sát Đế Lợi, Phệ Xá hay Thủ Đà La, mà không phải là dòng dõi hay chủng tộc. Càng hiểu rõ được cái giá trị tôn trọng quyền bình đẳng tột cùng của Đức Phật Thích Ca đã nói : “Không có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ, không có hận thù trong giọt nước mắt cùng mặn”.
Qua ba mẫu chuyện trên ta thấy cách ứng nhân xử thế của người xưa thật đẹp, thật cao thượng. Ngày nay trong cuộc sống, trong công việc tuy có sự phân biệt giám đốc, nhân viên, người chủ, giúp việc, v.v…, nhưng nếu chúng ta biết ứng xử với nhau theo tinh thần “bổn phận của người Phật tử tại gia” thì cuộc sống sẽ tốt đẹp.
Bổn phận chủ đối với người giúp việc trong nhà, phải có đủ 5 điều: – Chủ nhà trước khi sai khiến người giúp việc làm gì, trước phải biết họ đói, no, ấm, lạnh thế nào để họ có đủ sức khỏe và vui lòng làm lụng.
– Lúc nào người giúp việc bị bệnh hoạn, phải chăm non thuốc thang và để cho họ được nghỉ ngơi, để bồi bổ sức khỏe lại.
– Khi họ có phạm lỗi gì, phải xét coi họ cố ý hay vô tình. Nếu vô ý lầm lỡ, thì nên dung thứ. Nếu họ quyết lòng phá hại, thì phải làm nghiêm trách hẳn hoi, với lời lẽ thanh nhã, cho họ biết lỗi để chừa.
– Khi họ tiện tặn tích góp được số tiền riêng, không nên tìm cách thâu đoạt.
– Khi muốn thưởng công lao cho họ, phải giữ mực công bình, tùy công lao của mỗi người mà phân chia cho cân xứng.
Bổn phận người giúp việc đối với chủ nhà, cũng phải có đủ 5 điều kiện: – Mỗi buổi sáng phải thức dậy trước chủ nhà, không đợi kêu.
– Phải biết phần việc nào của mỗi ngày, cứ y như thường lệ mà thi hành, không đợi chủ sai bảo.
– Khi làm việc phải thận trọng đồ dùng của chủ, không làm cẩu thả, hư hao.
– Phải hết lòng kính mến chủ nhà, lúc chủ ra đi, phải ân cần đưa tiễn; lúc chủ trở về, phải vui mừng tiếp đón.
– Không nên chỉ trích, nói xấu chủ với người ngoài.
Cúng nước đến Phật, Hòa thượng Tịnh Không khuyên chúng ta nên cúng ly nước bằng thủy tinh, trong suốt, có thể từ bên ngoài nhìn thấy nước bên trong. Nên cúng nước suối hoặc nước lạnh, không nên cúng nước đun sôi để nguội, nước trà hoặc các loại nước có màu. Nhìn thấy nước chúng ta phải liên tưởng đến tâm thanh tịnh, bình đẳng của chính mình. Ứng nhân xử thế giao tiếp phải dùng tâm bình đẳng. Ngài nói các vật cúng khác (bông, trái cây, nhang, đèn,….) có thể thiếu, không cần thiết, nhưng đặc biệt ly nước cúng Phật thì không thể thiếu. Do tâm thanh tịnh sanh ra công đức, tâm thanh tịnh sanh trí tuệ, tâm thanh tịnh vượt thoát luân hồi.
Thích Hạnh Phú
Ý Nghĩa Của Việc Cầu An
Như vậy, khi cầu an nên hiểu căn bản của năm thứ tham nêu trên; giảm bớt ít thì an ít, giảm bớt nhiều thì an nhiều. Nếu tham luyến không còn thì bình an vô sự, đó là tôn chỉ của đạo Phật, là chân lý cứu cánh của đạo Phật, chứ Phật không phải là người ban phước giáng họa. Giáo lý của đạo phật là phương thuốc hay, khi Ngài chẩn đoán được tâm bệnh của chúng sinh (nguyên nhân bất an), Ngài giúp cho toa thần dược để trị liệu.
Khi nói về tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật vốn đã in đậm trong tâm khảm của người con Phật. Hay nói xa hơn, bất kỳ sự xuất hiện một tôn giáo nào, tôn chỉ và mục đích cũng nhằm vào sự cứu khổ (cứu rỗi), hầu đem lại sự an lạc cho mọi người hiện sống và sau khi chết, linh hồn được siêu độ (siêu rỗi) nơi sở nguyện nào đó.
Chung quy con người có khổ đau, họ mới đến với tôn giáo để cầu xin, hoặc để an ủi và làm điểm tựa của tinh thần. Còn tôn giáo cũng thế, vì con người có khổ đau, các bậc Thánh triết mới tự tìm ra một giải pháp: gọi là chân lý, rồi đem chân lý ấy hướng dẫn con người đi dần đến chỗ thoát khổ, lấy lại sự an lạc và giải thoát. Nhưng tôn chỉ và mục đích mỗi tôn giáo đều có đường hướng khác nhau.
Đơn cử như tôn giáo này hướng dẫn rằng: Nếu tin tưởng và cầu xin ta, ta sẽ ban ân và cứu rỗi cho thoát ly khổ đau. Tôn giáo nọ hướng dẫn: Phải cầu nguyện cúng kiếng, vái van thật nhiều thì thần linh sẽ phù hộ cho tai qua nạn khỏi, đem lại sự an lạc như chỗ mong cầu.
Tôn giáo khác lại hướng dẫn: Phải thi ân làm phước, tế lễ cùng thần linh thật nhiều thì thần linh sẽ phù trợ cho thoát khỏi khổ đau, hoặc phải coi tuổi tác, ngày giờ, xuất hành, khai trương, gả cưới, xây dựng, phương hướng bếp núc, cửa nẻo, phòng ốc, phong thủy Đông, Tây, Nam, Bắc, coi có phạm vào ngũ quỷ, tuyệt mạng, lục sát, họa hại hay không để tránh.
Tìm đặt lại các cung tốt: sinh khí, phục vì, diên niên, thiên y… cho đúng thì sẽ đem lại lợi lạc và an vui v.v… hoặc đêm đêm phải lạy cúng Bà Đất, Ông Trời, Thượng Động Cố Hỷ, Chúa Xứ, Vạn Ban Ngủ Hành, Thất vị Nương Nương, Cửu Phẩm Lịnh Bà, Lịnh Cô, Thổ Địa, Thổ Thần, Thổ Trạch, Thổ Công, Thổ Chủ, Thổ Táo, Thổ Kỳ, Thần Hoàn Bổn Cảnh.v.v… để cầu xin ban rỗi cho những điều mong cầu tùy tâm khấn nguyện.
Tóm lại: Con người có nhiều khổ đau, từ tinh thần lẫn vật chất, mới đi đến chỗ tín ngưỡng, để nhờ đấng tha lực nào đó tiếp giải quyết cho cuộc đời họ, đồng thời họ cũng tựa vào đức tin, họ mới có đủ niềm tin và nghị lực để phấn đấu trong cuộc sống. Chung quy chỉ vì bốn chữ bình an và lợi lộc.
Riêng có một tôn giáo, tôn giáo này không chủ trương ban phước giáng họa, tôn chỉ nhằm hướng dẫn cho con người hiểu được nhân quả và nghiệp báo, để họ tự cải hóa trong cuộc sống hằng ngày, để tìm đến an lạc và giải thoát mọi khổ đau. Còn mục đích của tôn giáo này chỉ cho con người thấy rõ được nguyên nhân từ đâu đem lại sự bất an trong cuộc sống. Nguyên nhân này từ tha lực đem đến, hay tự mình gây nên, rồi chuốc lấy, tôn giáo đó chính là đạo Phật. Thế thì, đạo Phật vẫn có chủ trương CẦU AN và CẦU SIÊU.
Vậy chúng ta muốn cầu an cho ta, cho gia đình, trước hết ta phải tìm hiểu nguyên nhân nào làm cho chúng ta KHÔNG AN. (Vì không an nên mới đi CẦU AN). Trong kinh tạng và rải rác trong giáo lý, Phật dạy: “Tâm bất tham luyến, ý bất điên đảo”… (trong bài Sám Nhứt Tâm). Sở dĩ không an do tâm tham và luyến còn ý, lúc nào cũng điên đảo vọng tưởng. Vì do lòng tham dục, luyến ái và vọng tưởng, kết quả bị khổ đau.
Tiền bạc, ngọc ngà, châu báu… các thứ này nó luôn cám dỗ con người không biết sao gọi là đủ, có một trăm nó muốn một triệu, có một triệu nó muốn một tỷ, nó không lúc nào dừng lại vì “túi tham không đáy”. Khi lòng tham dấy khởi, thì ý nó phải ước mơ vọng tưởng, để đạt cho kỳ được, nếu đạt không được thì lo nghĩ trằn trọc, quên ăn, bỏ ngủ…, lâu ngày thần trí bất minh, lúc tính toán không sáng suốt, phán quyết việc gì thất bại nhiều hơn thành công.
Còn thân xác vì biếng ăn bỏ ngủ, tuy ăn đầy đủ, nhưng lúc ăn đầu óc vẫn nghĩ lo. Do đó, tuyến não thùy bị chi phối, không tiết chế cho bộ phận mật, gan, trợ cho thức ăn mau tiêu hóa, lâu ngày đau bao tử. Lúc ngủ suy tính mông lung, giấc ngủ chập chờn cho đến khi mỏi mòn, ngủ trong uể oải sinh ra nhiều bệnh tật.
Đây là nguyên nhân bất an thứ nhất, do lòng tham tài không biết đủ. Đức Phật dạy: ” Đa dục vi khổ ” (nhiều tham muốn là khổ) (Bát Đại Nhơn Giác 2)
Chữ sắc ở đây theo pháp tướng tôn thì có hai thứ sắc.
a. Sắc đẹp: đối tượng của thể xác, do lòng tham vọng không lường, hay so sánh. Đã có vợ có chồng cùng nhau chung sống rồi, thế nhưng lòng tham không muốn vô bờ bến, khi gặp người khác phái nó muốn chiếm hữu để đáp ứng sự thỏa mãn. Một khi lòng dấy lên thì ý nó phải vọng tưởng ước mơ, để rồi tìm mọi lời lẽ, mọi thủ thuật, bất chấp thuần phong mỹ tục, vợ con, bạn bè…, nói chung là bàn quan thiên hạ.
Nhưng khi đối tượng từ chối không đáp ứng lại được, thì bấy giờ tinh thần lúc nào cũng mơ mộng, thể xác biếng ăn, thẫn thờ tương tư. Rồi nó lây họa cho gia đình, làm cho cha mẹ lo lắng, vợ con buồn khổ, lâu ngày trở nên quạo quọ, cau có, làm cho bản thân và gia đình xào xáo, mất hạnh phúc, bất an.
b. Sắc pháp: Chỉ chung mọi hình tướng như : Nhà cửa, xe cộ…
Chung quy lại, nhu cầu vật chất, nếu tâm không biết đủ, ý dấy lên so sánh và ước muốn. Thấy nhà người kia đẹp hơn, thì muốn xây dựng lại cái nhà của mình bằng hoặc đẹp hơn người đó. Thấy xe người kia model mới, ta phải đua đòi sắm mới cho bằng được.v.v…, vì tham vọng đua đòi model này model nọ, rồi khởi tâm tiền vay bạc tháng để đáp ứng nhu cầu, lúc tham muốn đó nó che lấp tâm trí, tính sai nước cờ kinh tế, để rồi nhắm mắt mở mắt đến tháng đóng lãi, nợ nần chồng chất, mất ăn mất ngủ. Do lòng tham sắc không biết đủ nêu trên làm cho khổ đau. Đó là nguyên nhân bất an thứ hai.
Danh vọng, danh dự, danh tước gọi chung là danh tướng. Danh tướng từ nơi bản ngã mà sinh ra. Đức Phật dạy, danh vốn không thật có, nó là giả danh, hư vọng.
Ví dụ: tên của mình Nguyễn Văn A, vốn nó không có. Nếu nó thật có, thì lúc mẹ vừa sinh ra thì nó phải có tên là A đi. Như vậy, tên A đã không có ngay từ đầu, xong cha mẹ lại đặt cho nó cái tên A, từ đó nó có tên A rồi chấp nhận ta là tên A.
Ai đụng đến tên A, chửi đến tên A thì bênh vực nổi nóng lên, có thể chết sống vì cái tên giả danh A kia. Và chưa đủ, nó còn tham tên, muốn mọi người phải biết đến tên tuổi của mình, thán phục mình, khom cúi trước mình và địa vị phải trên mọi người v.v… Vì tham vọng như thế nên phải so tài đấu trí, khôn dại, thế thần … để thỏa mãn danh tước.
Muốn thỏa mãn danh vị bất chấp mọi thủ đoạn, mưu tính; hoặc luồn cúi như Hàn Tín, thủ đoạn như Tào Tháo, sát phạt như Napoléon như Hitlèr v.v… dẫm trên xương máu của mọi người. Chung quy chỉ vì danh vị. Một khi không đạt được thì thất vọng ê chề, đâm ra mê tín, xây nhà, sửa hướng, trấn bếp, coi tay, di dời mồ mả ông bà… để địa vị vững vàng thăng cao.
Người tham danh không biết dừng nghỉ, ý niệm luôn luôn củng cố danh vị cho mình, mải mê khoác chiếc áo danh lên mình ngã tướng, để rồi khổ đau, lo âu, sợ hãi. Hậu quả chất chồng thù oán… Cổ đức dạy: “Càng cao danh vọng, càng dài gian nan”. Đây là nguyên nhân không an thứ ba.
Phàm là con người có thân xác, cần phải ăn uống để nuôi dưỡng nó. Nhưng nếu để tâm tham, xen lẫn vào thì rất là ty tiện hèn hạ (tham ăn). Một khi tâm tham nổi lên làm mất đạo nghĩa, nhân cách và sĩ diện con người. Ví dụ: Sáng ra chợ chỉ vì một con cá, đôi bên có thể cãi vã với nhau và dập thúng lên đầu nhau. Anh em ruột thịt tham nhau một tấc đất có thể đâm chém lẫn nhau, xã hội chỉ một trái ớt, trái cà cũng cự cãi gây gỗ. Tục ngữ có câu:
“Miếng ăn là miếng tồi tàn Mất ăn một miếng lộn gan lên đầu”Thế nhưng lòng tham con người vô hạn, ý nghĩ luôn luôn tính toán hơn thiệt. Chịu khó xét soi cho kỹ: một tấc đất có thể làm giàu được không? Có thể lưu giữ cho con cháu hưởng thụ đời đời hay không? Đừng nói chi cọng rau trái ớt, chỉ thưởng thức ngoài chót lưỡi chút xíu, khi nuốt sâu xuống 3 tấc nó là vật gì? Có thơm ngon không? Có đạo nghĩa lý thú không?… Tất cả đều thúi tha đáng ghét. Nhưng vì lòng tham che lấp, làm cho tối tăm tâm trí, làm cho gia đình thù hận nhau, xã hội mất phẩm chất văn hóa, quốc gia mất đạo đức văn minh, thế giới gây chiến, tàn hại sinh linh, tất cả cũng chỉ vì tham ăn. Đây là nguyên nhân bất an thứ tư.
Thùy là giấc ngủ mê, người sống trong u tối mê lầm gọi là mê ngủ hay say ngủ, phải luôn luôn tỉnh thức, cho tâm trí minh mẫn. Người tham ngủ (Thùy) biết việc đó là sai lầm, là nguy hiểm vẫn dấn thân vào, hành động cố chấp làm theo ý riêng của mình, bất chấp mọi lời khuyên bảo, đến khi đụng việc mới tỉnh ngộ là chuyện đã rồi. Sự mê ngủ này nó hàm chứa 4 loại tham: tài, sắc, danh, thực nêu trên. Vì mê lầm không nhận thức được tiền tài có nghĩa hay vô nghĩa, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống v.v… bởi nhân tố đó gây ra khổ đau lầm lạc. Đó là nguyên nhân bất an thứ năm.
Do năm nguyên nhân không an nêu trên, nó làm cho ta điên đảo trong cuộc sống, vọng tưởng những chuyện ảo huyền, tâm lúc nào cũng nơm nớp tính toan; thân hệ lụy kiệt sức mỏi mòn. Phật dạy: “Đa dục vi khổ, sanh tử bì lao, trùng tham dục khởi…”
Nếu tài, sắc, danh, thực, thùy không đáp ứng lại thì khổ đau quằn quại, còn điều nào được như ý thì tâm luyến ái không muốn buông bỏ, tâm lúc nào cũng luyến tiếc của cải, vật chất, chức tước, địa vị, ăn uống, ngủ nghỉ (mê lầm). Sự luyến ái bao giờ nó cũng vun vén cho “cái ta” (bản ngã), nào là nhà của ta, tiền bạc của ta, xe cộ của ta, vợ của ta, chồng của ta, con cháu của ta, danh vị của ta v.v. và v.v…
Phật dạy: ” Con là nợ, vợ chồng là oan gia, của cải, nhà cửa là nghiệp báo “. Vì vô lượng kiếp đến nay, chúng sinh mãi vùi đầu trong giấc ngủ say, lấy giả cho là thật, rồi cứ ôm ấp luyến tiếc. Rốt cuộc, cũng do tham luyến làm cho không an. Vì không an, nên mới ghi danh sách cúng thập tự, bá tự để CẦU AN, đến miếu môn cầu khấn ban cho những điều an. Đa số cúng kiến, vái van đều cầu cho gia đình tự thân được bình an, tai qua nạn khỏi.
Trở lại ý nghĩa cầu an trong tinh thần đạo Phật. Phật dạy: ” Thiểu dục vô vi thân tâm tự tại ” (bớt lòng tham muốn thì thân và tâm an lạc tự tại).
Như vậy, khi cầu an nên hiểu căn bản của năm thứ tham nêu trên; giảm bớt ít thì an ít, giảm bớt nhiều thì an nhiều. Nếu tham luyến không còn thì bình an vô sự, đó là tôn chỉ của đạo Phật, là chân lý cứu cánh của đạo Phật, chứ Phật không phải là người ban phước giáng họa. Giáo lý của đạo phật là phương thuốc hay, khi Ngài chẩn đoán được tâm bệnh của chúng sinh (nguyên nhân bất an), Ngài giúp cho toa thần dược để trị liệu.
Nếu người bệnh muốn hết bệnh thì nên ứng dụng toa lương dược mầu nhiệm này. Chứ còn cầm chén thuốc mà cứ nói: “Thuốc hay quá, thuốc hay quá” (vái van an bình) mà không chịu uống (không thực hiện năm điều tham luyến nêu trên) thì bệnh bất an vẫn hoàn bất an, uổng công vô ích, vô tình đưa đạo Phật vào con đường thần quyền mê tín.
Thích Nhật Quang (Chùa Long Phước, Lấp Vò, Đồng Tháp)
Thích Nhật Quang
Sự kiện nổi bậtTìm kiếm
Bạn Có Biết Ý Nghĩa Của Việc Cúng Thần Tài Ngày Mùng 10 Tháng Giêng?
Thần Tài là ai?
Trước tiên để biết ý nghĩa của việc cúng Thần Tài ngày 10 tháng 1 âm lịch như thế nào chúng tôi xin chia sẻ cùng bạn thông tin Thần Tài là ai và nguồn gốc ra sao?
Truyền thuyết kể lại rằng Thần Tài là vị thần trông nom tiền bạc, ngân xuyến. Một lần do uống rượu quá say Thần Tài chân ngã xuống trần gian và bị mất trí nhớ, quên đường về, quên mất mình là ai. Ông thường lang thang và đi xin ăn để sống qua ngày.
Một ngày ông được một chủ quán ăn mời vào ăn. Từ khi ông lão ăn xin bước vào thì quán ăn trở nên đông khách lạ thường, người người ra vào tấp nập. Thấy vậy ông chủ quán có nhã ý giữ ông lão ở lại và hàng ngày cho ông ăn uống chu đáo.
Thời gian trôi qua ông lão ăn xin đã nhớ lại mọi chuyện và trở về trời. Ngày ông về trời là ngày mùng 10 âm lịch. Bởi thế mà sau này nhân gian nhớ ngày mùng 10 hàng tháng là ngày Thần Tài . Và từ đó duy trì phong tục thờ cúng Thần Tài ngày mùng 10 tháng giêng, đó ngày Thần Tài đầu tiên của năm hay còn gọi là ngày vía Thần Tài.
Vào ngày mùng 10 tháng giêng mỗi năm hay còn gọi là ngày vía Thần Tài. Mọi nhà, cửa hàng công ty đều s ửa soạn lễ vật cúng Thần Tài thể hiện lòng biết ơn Thần Tài 1 năm qua đã luôn phù hộ, bảo vệ gìn giữ tiền bạc, của cải, ngân xuyến cho gia chủ. Và mong muốn cầu xin tài lộc cho một năm mới làm ăn thuận lợi.
– Vị trí đặt bàn thờ Thần Tài
Bàn thờ không đặt sát nhà tắm, nhà vệ sinh, chuồng gia súc.
Bàn thờ để gần cửa nhưng tránh lối đi.
Bàn thờ Thần Tài không nên nhìn ra hướng Đông bắc, hướng Tây Nam vì theo phong thủy đây là hướng ngũ quỷ không tốt.
– Chuẩn bị đồ lễ cúng Thần TàiTheo kinh nghiệm ông bà ta truyền lại: Vào ngày thường và ngày mùng 10 hàng tháng thì đồ cúng Thần Tài là đồ chay, riêng ngày mùng 10 tháng giêng thì cúng đồ mặn. Đồ cúng có thể là tôm luộc, lợn quay và trứng luộc 3 quả đều được.
Ngoài đồ mặn ra cũng cần bày thêm khay vàng giấy, hai cây đèn cầy nhỏ để hai bên, một khay nước có 3 cốc và 2 chén rượu, hoa quả tươi.
– Điều kiêng kị khi cúng Thần Tài
Khi cúng Thần Tài phải mặc gọn gàng, trang nghiêm không lôi thôi.
Trong và sau cúng không được nói tục hoặc chửi bậy, có thái độ thành tâm.
Lộc cúng Thần tài chỉ được chia cho người trong nhà cùng hưởng.
Cúng Thần Tài phải thắp bằng đèn dầu hoặc nến không nên thắp điện
Ý Nghĩa Của Việc Đúc Chuông
Trong Phật giáo, chuông được đưa vào sử dụng từ bao giờ, ít sử liệu nào ghi lại một cách cụ thể rõ ràng. Nhưng có một điều chắc chắn rằng, Phật giáo sử dụng chuông rất sớm bởi đó là một pháp khí rất hữu hiệu, là phương tiện để tác động cũng như khai mở trí tuệ cho các hành giả đang tiến bước trên con đường giải thoát giác ngộ. Khi đức Thế Tôn còn tại thế, ngài đã dùng chuông làm phương tiện đánh thức, khai mở tâm trí cho các đệ tử của mình, ngoài giáo lý thậm thâm qua con đường lắng nghe, tư duy và thấu hiểu để rồi thực hành một cách hữu hiệu, mang lại lợi ích thiết thực cho đời sống xuất gia, phạm hạnh. Trong một số kinh điển, khi Đức Phật giải thích, khai ngộ giáo lý cho các đệ tử, ngài hay thỉnh chuông để thức tỉnh đệ tử cảm nhận sự việc qua tính nghe của chính mình mà dung nhập vào sâu Phật trí. Trong kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật cũng bảo La Hầu La đánh chuông để giảng giáo lý viên thường cho ngài A-Nan nghe, vì thế chúng ta cũng có thể hiểu trong Phật giáo chuông được sử dụng từ thời Đức Thế Tôn còn tại thế.
Chuông Chùa trong động Hương tích – Chùa Hương
Ở Việt nam, chuông được sử dụng trong các chùa chiền từ năm nào, điều đó rất khó xác định. Nhưng chúng ta biết, Phật giáo du nhập vào Việt Nam khá sớm. Do tiếp cận được nhiều luồng tư tưởng, lối sống của người Việt Nam phóng khoáng, dễ dàng tiếp thu và dung nhiếp những triết lý khác, tạo cho mình một nét văn hoá riêng biệt và phát triển. Từ khi chùa xuất hiện cũng là lúc chuông được đưa vào sử dụng, bởi hình ảnh ngôi chùa, tiếng chuông là máu thịt của người dân Việt Nam, là một phần không thể thiếu để tạo nên bản sắc và linh hồn dân tộc. Ca dao có câu:
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói toả ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ”.
Lịch sử nước Nam vào thời kỳ Lý – Trần, Phật giáo phát triển hưng thịnh, có thể xem là quốc giáo. Những thập niên đầu của nhà Lý, chúng ta còn được biết đến “An Nam tứ đại khí”, đó là bốn vật khí bằng đồng cực lớn, bao gồm: Tháp Báo Thiên, Chuông Quy Điền, Vạc chùa Phổ Minh và Tượng Phật chùa Quỳnh Lâm. Trải qua không biết bao lần bị giặc phương Bắc đô hộ, cộng thêm sự tàn phá thảm khốc của chiến tranh, tất cả các công trình này đều bị phá huỷ. Hiện giờ khuôn viên cũng như nền chùa Sùng Khánh hay gọi Báo Thiên Tự, bao gồm cả bảo tháp Đại Thắng Tư Thiên (gọi tắt là Tháp Báo Thiên) bị Nhà Thờ Lớn Hà Nội xây đè lên, việc này xảy ra từ năm 1873 – 1882 (thời Pháp thuộc), khi quân Pháp chiếm đóng nước ta, phá huỷ chùa chiền và san bằng khu đất này để xây nhà thờ, những hình ảnh ấy, những chứng tích ấy, ngày nay sử liệu vẫn còn ghi rõ. Nhà thơ Phạm Sư Mạnh(thế kỷ XIV), người Hải Dương, tiến sĩ đời vua Trần Minh Tông(1314 – 1329) viết (Nhà thơ Vô Ngã Phạm Khắc Hàm dịch):
“Trấn áp đông tây giữ đế kỳ
Một mình cao ngất tháp uy nghi
Chống trời cột trụ non sông vững
Sừng sững ngàn năm một đỉnh chuỳ
Chuông khánh gió đưa vang đối đáp
Đèn sao đêm đến rực quang huy
Đến đây những muốn lưu danh tính
Mài mực sông xuân viết ngẫu thi”.
Ngày nay, chuông được sử dụng một cách rộng rãi ở trong các chùa và am, tự viện. Tuỳ theo nhu cầu của người sử dụng, người ta làm ra nhiều loại mẫu chuông khác nhau, nhưng chung quy thì có ba loại căn bản: Đại hồng chung, Bảo chúng chung và Gia trì chung.
Đại hồng chung là loại chuông lớn hay còn gọi là chuông U minh, chuông này thường được đánh vào những lúc đầu hôm và cuối đêm. Đánh vào lúc đầu hôm là để thức tỉnh và nhắc nhở mọi người rằng: “Vô thường mau chóng, chẳng hẹn một ai, khi hơi thở ra mà không trở lại là qua đời khác”. Còn đánh vào lúc cuối đêm là để sách tấn mọi người mau mau tu tập, đoạn trừ mọi phiền não cấu uế của tự tâm, gạn lọc tham, sân và si là ba thứ gây ra tội lỗi, trói buộc trong vòng sinh tử luân hồi. Lối đánh chuông này, thường là 108 tiếng, ý nghĩa biểu trưng cho 108 thứ phiền não của chúng sinh, khi chuông đánh lên thì 108 thứ phiền não này đều bị rơi rụng, trí tuệ phát sinh, căn lành tăng trưởng, đạt được sự giải thoát giác ngộ trong tương lai.
Bảo chúng chung hay còn gọi là Tăng đường chung, tức là loại chuông này dùng để báo tin trong lúc nhóm họp Đại chúng, thọ trai hoặc khi lên khoá lễ hay kiền chuỳ v.v… trong các chùa và am tự viện.
Gia trì chung là loại chuông dùng để đánh trong trường hợp đầu bài hoặc cuối bài những câu kinh hay câu sám, hoặc cũng có lúc xuống dòng của đoạn hay của câu, và còn ra hiệu cho biết khi bắt đầu hoặc chấm dứt buổi lễ. Đồng thời cũng là để điều hoà cho người tụng kinh, lễ Phật được nhịp nhàng đều đặn, hướng người tụng vào một con đường duy nhất là Chí Tâm.
Âm ba của tiếng chuông như là một liều thuốc “trực chỉ nhân tâm”, xoáy sâu vào thức A Lại Da của mọi người, vượt thoát không gian và thời gian, phá tan mọi thành trì căn trần và thức, bức phá mọi gốc rễ của vô minh ngàn đời tăm tối, đưa hành giả tới chỗ hốt nhiên, vỡ oà, chạm được cửa ngõ của Bản Lai, vào sâu căn nhà của Diện Mục, “linh linh bất muội, liễu liễu thường tri”. Quả là hợp với câu:
“Hồng chung vang vọng tiếng ban đầu
Địa ngục A Tỳ thăm thẳm sâu
Thiên đường Hữu Đảnh ngân vang khắp
Trước Phật mười phương con cúi đầu”.
Sức công phá, sự lan toả của nó không chỉ hạn hữu ở thế giới hiện thực, mà nó còn quét sâu vào thế giới siêu hình, tạo nên một sự nối kết hoàn hảo, bù đắp cho những thiếu hụt trong quá khứ, gắt kết với đời sống hiện tại, xây dựng một kết quả viên mãn trong tương lai. Tính chất này giúp cho người hiện còn có thêm những phương tiện, thể hiện lòng tri ân và báo ân của mình đối với những người đã khuất, xua đi tất cả những mặc cảm, thân phận của cuộc đời, để nhích lại gần với nhau hơn trên lộ trình “pháp giới đồng nhất thể”. Việc làm này, trong một số kinh sách cũng có nói đến, ví như Kinh Tăng nhất A-hàm có chép: “Mỗi khi nghe tiếng chuông chùa ngân lên, thì những hình phạt trong các ác đạo được tạm thời dừng nghỉ, chúng sinh nào đang chịu những hình phạt ấy cũng được tạm thời an vui”. Hay như trong Truyện Cảnh Thông cũng nói: “Ngày xưa, Ðức Phật Câu Lưu Tôn, ở tại viện Tu-da-la xứ Càn trúc, đã có tạo một quả chuông bằng đá xanh thường đánh vào những lúc mặt trời vừa mọc. Khi tiếng chuông ấy ngân lên thì trong ánh sáng mặt trời có các vị hóa Phật hiện ra, diễn nói 12 bộ kinh, làm cho người nghe chứng được thánh quả không thể kể xiết”. Vả lại trong Bộ Kim-cang-chí cũng có chép: “Vua Hiếu Cao Hoàng Ðế đời nhà Ðường, vì nghe lời xàm tấu của Tống Tề Khư, giết lầm kẻ tôi trung tên là Hòa Châu, nên khi chết bị đọa vào địa ngục. Một hôm có người bị bạo tử (chết thình lình), thần hồn đi lạc vào địa ngục ấy, thấy một tội nhân đang bị gông cùm kìm kẹp đánh đập rất khổ sở, hỏi ra mới biết là vua Hiếu Cao đời nhà Ðường. Vua gọi người bạo tử ấy bảo rằng: Nhờ ngươi trở lại dương thế nói giùm với Hậu chúa, hãy vì ta mà đúc chuông cúng dường và làm việc phước thiện. Khi trở lại dương thế, người bạo tử ấy liền bái yết với Hậu chúa và chuyển lời nhắn nhủ của vua Hiếu Cao. Nghe vậy, Hậu chúa liền thân hành đến chùa Thanh Lương phát nguyện đúc một quả chuông để cúng dường và cầu siêu cho Hiếu Cao Hoàng đế”, (tích này ở trong bộ “Bách trượng thanh quy” quyển thứ 87 trang 68). Thế mới biết:
Nghe tiếng chuông, phiền não nhẹ
Lìa địa ngục, khỏi hầm lửa
Nguyện thành Phật, độ chúng sinh.
Nguyện tiếng chuông này vang pháp giới
Xa xôi tăm tối cũng đều nghe
Những ai lạc bước mau dừng lại
Tỉnh giấc hôn mê thấy nẻo về.
Qua đó cho chúng ta thấy sự lợi ích vô cùng, sự mầu nhiệm vô biên mà Thần Chung đã mang lại, không những người còn, mà kẻ mất cũng đều được thấm nhuần pháp vị an lạc, siêu việt ba cõi, đạt được sự giải thoát giác ngộ ngay trong hiện tại cũng như tương lai. Ngày xưa, chư Tổ thấy được sự quí báu này mà phương tiện thiện xảo, lập ra quy củ thiền môn, hai thời sớm tối đều phải hô chuông, để tạo phước điền cho trăm họ, không những người dương, mà kẻ âm cũng được siêu thoát. Thế nên, công việc đúc chuông là một việc làm vô lượng công đức, vô lượng cát tường, trời người đều tán thán, ai nấy cũng hân hoan.
Tạo hồng chung, tiếng vang trời đất
Chuyển âm kỳ, hoằng pháp lợi sinh
Giữa khuya buông tiếng chày kình,
Thong dong tĩnh tại, vạn dân an hoà
Trăm linh tám tiếng chuông giải kết
Khiến ba ngàn cõi sạch bụi trần,
Quỷ thần kính lễ thanh chân
U minh được mát, ngục tù biến tan
Người lĩnh hội thanh chung trọn vẹn
Lý diệu huyền giáo pháp nhận ngay,
Người nghe thấy tiếng chuông này,
Khuyến thiện trừ ác, quay về bình an.
Tâm ý lặng bỏ lòng phân biệt,
Cả cộng đồng hưởng được lợi vui
Tinh thần vững mạnh không lui
Người phàm, kẻ tục cùng vui chung hoà
Chuông pháp khí Sa bà đánh thức,
Thỉnh chư Thần, chư Phật giáng lâm
Phù trì ban phúc muôn dân
An bang hưng quốc, nhà nhà hoà yên.
Nam Mô Công Đức Lâm Bồ Tát Ma Ha Tát
Ý Nghĩa Của Việc Cầu Siêu
Chữ “Siêu” có nghĩa vượt ra, vọt ra, hay thoát ra. Cầu siêu là cầu cho thân nhân quá cố của mình mau vượt ra THAM DỤC và LUYẾN ÁI, thoát ly luyến ái để vãng sinh nơi đâu đó, tùy theo sở nguyện.
Nhắc lại ý nghĩa cầu an phần trước, nếu hiện đời thoát ly được tham luyến thì an lạc, sau khi chết do nhân tố dứt trừ luyến tham, thần thức (linh hồn) chắc chắn sẽ siêu rỗi (vượt ra). Rồi cũng do nhân tố hiện đời niệm Phật thì thần thức được vãng sinh Tịnh Độ, tu Thập thiện được vãng sinh lên cõi Trời hưởng phước báu v.v… Không còn sinh tử luân hồi khổ đau nữa.
Tóm lại, hiện sống cầu an và cũng là cầu siêu cho chính mình rồi đó.
Nếu hiện đời chất chứa lòng tham tài, sắc, danh, thực, thùy, khởi tâm luyến ái không xả ly được. Do luyến ái, ôm ấp, giữ gìn, nhớ nhung… ghi vào Tàng thức (A Lại Da Thức) kết thành nghiệp. Nghiệp nó có sức hút (mạnh) lôi dẫn thần thức đi vào hướng đó (nghiệp lực).
Trong cảnh sách dạy: ” Hóc xuyên tước phi thức tâm tùy nghiệp “, nghiệp nó tùy thuộc nơi tâm, tâm hướng đâu nghiệp theo đó, như hướng bay của chim vậy. Có câu chuyện kể rằng:
Thuở đức Phật còn tại thế, có gia đình ông Phú trưởng giả nọ, rất mực cung kính cúng dường Phật. Thường ngày đi khất thực, Phật đi ngang qua nhà ông Phú trưởng giả. Ông ta sắm sửa thức ăn sẵn, chờ Phật đi ngang qua, Ông ra cung đón Phật vào để cúng dường.
Một hôm, Phật đi khất thực gần đến nhà, mà những người nấu bếp loay hoay chưa xong, ông trưởng giả phải xuống bếp để thúc hối. Lúc ấy, đức Phật đã đi đến trước cổng nhà, ông không kịp ra cung đón Phật, có con chó rất mực cưng yêu của ông trưởng giả, nó chạy ra vồ sủa đức Phật. Lúc bấy giờ, Phật dùng chánh định quán biết con chó và Phật dùng Phạm âm thuyết pháp cho con chó nghe, sau khi nghe xong, nó liền riu ríu đi thẳng vô nhà, đến chỗ bàn thờ nằm đó, mà nước mắt con chó chảy ròng ròng.
Khi ông trưởng giả dâng cúng cho Phật rồi, ông liền bạch Phật: “Bạch Đức Thế Tôn, hôm nay vì bận việc thúc hối bọn người nấu bếp nên không kịp ra cung đón đức Thế Tôn, lúc đó con chó của con nó ra vồ sủa, xong đức Thế Tôn dạy gì với nó mà bây giờ nó buồn hiu nằm nơi giường thờ mà hai hàng nước mắt rưng rưng? Ngưỡng bạch đức Thế Tôn chỉ dạy cho con được biết.
Phật mỉm cười và nói rằng: “Này ông trưởng giả, con chó ban nãy đâu phải ai xa lạ, chính là cha ruột của ông, lúc sinh tiền cha ông tu rất nhiều công đức. Lẽ ra, sau khi chết, thần thức sẽ sinh lên cõi Trời, để hưởng phước báu. Nhưng lúc cha ông hấp hối quá nhanh, không kịp trối lại cho ông. Số là cha ông lúc sinh thời có chôn cất một lu vàng nơi đít giường thờ. Do đó thần thức sắp rời khỏi xác lưu luyến lu vàng mà phải nhập thai vào con chó.
Từ ngày ông nuôi con chó này, ông rất mực cưng yêu và con chó không chịu ngủ ở đâu hết, chỉ nằm nơi giường thờ. Vậy ông phải mau sai người đào lên trước mặt con chó, để cha ông an lòng mà thác sinh nơi Thiên giới. Ông trưởng giả vâng lời làm y như vậy, quả nhiên lấy được lu vàng và 7 ngày sau con chó tự nhiên chết. Ông trưởng giả đến tịnh xá trình lên Phật. Phật nói nay cha ông thoát khỏi kiếp chó, sinh về cõi Trời rồi đấy.
Câu chuyện trên cho thấy tâm lưu luyến có hại vô cùng. Lúc sinh tiền luyến ái con cái, sau khi chết, nghiệp thức cũng lẩn quẩn bên con cái, hoặc làm con của con mình, hoặc làm chó, làm mèo để gần gũi bên con. Cho đến nhà cửa, sự sản, chồng vợ v.v… Cũng thế, quan trọng trong lúc sinh tiền chớ nên tham và luyến, sau khi xả báu thân này chắc chắn siêu thoát, khỏi phải nhờ con cháu đi cầu siêu. Hiểu được vậy ta hãy tự siêu đi, không ai siêu tiếp cho ta được.
1. Nghiệp chướng của chúng sinh vô lượng kiếp đến nay xâu kết tham luyến rất nặng nề. Hôm nay mới hiểu đạo, nên phát tâm xả bỏ nghiệp tham luyến trong một đời, chưa hẳn đã dứt hết. Tuy nhiên, nhờ có ý thức xả ly và tập tành xả ly. Nếu trong lúc chết, nghiệp tham luyến nhiều kiếp nó có dấy khởi lên ngăn che chánh niệm (chướng). Trong lúc đó, nếu có chư tăng đến khai thị hoặc con cháu nhắc nhở, thì thần thức nghe qua và thức tỉnh lại, dẹp bỏ cấu trần luyến nhiễm, hướng tâm niệm Phật cũng được siêu thoát. Nhưng nhớ rằng phải tập tu hiện đời cho thuần quen đi đó là tự lực siêu độ.
2. Theo trong kinh Địa Tạng, đức Phật dạy: “Người quá cố linh hồn đọa lạc nơi chốn u đồ, khổ đau không kể xiết, linh hồn luôn luôn hướng về thân nhân con cái, họ rất mong con cái tu tạo phước đức để hồi hướng, thì người chết kia có được một phần nhẹ nhàng.
Với ý nghĩa cầu an, cầu siêu cho ta thấy tinh thần đạo Phật chú trọng vào định thuyết Nhân – Quả. Đức Phật đã chứng đắc chân lý Nhân – Quả đó, Ngài chỉ dạy cho chúng sinh thấy được Nhân – Quả để chuyển đổi nhân thiện sẽ gặt quả lành, nhân ác sẽ gặt quả dữ. Tự chúng sinh gieo nhân nào gặt quả ấy. Phật, Thánh không thể nhúng tay mà hoán cải được. An hay bất an, siêu hay chẳng siêu cũng thế!
Nguyên nhân do tâm THAM và LUYẾN, ý theo đó ĐIÊN ĐẢO vọng tưởng làm cho thân tâm không an. Vậy cầu an có nghĩa là cắt đứt lòng tham luyến, không cho tâm điên đảo, mơ mộng, khi đó đã an ổn và cũng từ cái nhân hiện đời thân tâm an ổn. Sau khi chết chắc chắn sẽ được siêu thoát ra khỏi cái vòng tham luyến, tâm lúc bấy giờ an trụ trong chính niệm thì phải giải thoát thôi.
Thích Nhật Quang (Chùa Long Phước, Lấp Vò, Đồng Tháp)
Thích Nhật Quang
Cập nhật thông tin chi tiết về Ý Nghĩa Của Việc Thờ Cúng Thần Tài trên website Apim.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!