Bạn đang xem bài viết Ý Nghĩa Bài Kinh Cúng Ngọ Theo Nghi Thức Hệ Phái Khất Sĩ được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Apim.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
A. DẪN NHẬP
Từ thuở mới hình thành Tam bảo cho đến ngày nay, tinh thần giác ngộ của người xuất gia được kết tinh trên hệ thống giáo lý kinh tạng và đời sống phạm hạnh thanh cao của nhà Phật. Trải qua biết bao năm tháng trên cuộc đời, bản thân Phật giáo đã phân hóa đa dạng để phương tiện tùy duyên theo từng quốc độ cho phù hợp với người bản xứ. Điều này làm cho hệ thống kinh tạng và nếp sống phạm hạnh cũng phân hóa theo. Nhưng trong cái phân hóa đa dạng ấy vẫn không hề mất đi tính thống nhất là mang đến sự giác ngộ cho những người hữu duyên. Điều này thể hiện ở chỗ trong cùng một hoàn cảnh xã hội và cùng một lý tưởng đi tìm con đường giải thoát nhưng các Hệ phái Phật giáo đã phát triển theo từng bản chất riêng và theo các khuynh hướng khác nhau.
Đất nước Việt Nam ta hữu duyên có sự tương hội đầy đủ các hệ phái lớn như Nam tông, Bắc tông và Khất sĩ. Ngoài ra, các tông phái Tịnh độ, Mật tông, Hoa tông, Thiền tông… cũng ảnh hưởng sâu rộng vào quần chúng. Mỗi tông phái tuy đều là Phật giáo nhưng trên phương diện xiển dương Chánh pháp lại có cách truyền thừa riêng biệt. Chúng ta có thể nhận rõ điều đó qua cách thọ trì kinh điển và cách thức sinh hoạt thường ngày.
Hệ phái Khất sĩ hoạt động trong lòng Giáo hội được xem là Hệ phái biệt truyền, có nghi thức và nếp sinh hoạt tu tập riêng. Tiêu biểu nhất trong nghi thức tu tập của người Khất sĩ chính là bài “Kinh Cúng ngọ”. Ngay từ khi mới hình thành, Hệ phái không đặt nặng vấn đề cúng kiến. Bản kinh tụng duy nhất là Kinh Tam bảo cũng dành cho hàng cư sĩ mà thôi. Do đó, thời cúng ngọ là thời tụng kinh duy nhất được trì tụng mỗi ngày trước giờ thọ trai. Trong thời đại hiện nay, Hệ phái đã có bản kinh riêng cho mình qua các thời kinh tụng sáng và tối trong Nghi thức tụng niệm. Tuy nhiên, bài Kinh Cúng ngọ là bài kinh căn bản do chính đức Tổ sư Minh Đăng Quang soạn và hành trì cho đến tận ngày nay cho cả giáo đoàn Tăng lẫn giáo đoàn Ni. Và dù ở mỗi trú xứ có nghi thức sai khác thế nào đi chăng nữa thì bài Kinh Cúng Ngọ vẫn được trì tụng như nhau.
Ý nghĩa bài Kinh cúng ngọ sẽ phân tích nội dung và ý nghĩa qua từng bài kệ tụng nhằm để cho hàng hậu học nắm được yếu chỉ quan trọng của bài kinh này. Trong phạm vi khóa “Bồi dưỡng Đạo hạnh”, tiểu luận không đặt nặng vấn đề học thuật, không đi sâu triết lý cao siêu hay truy tìm nguồn gốc sử liệu kinh văn mà chỉ đơn thuần là phân tích nội dung và ý nghĩa tu tập của nó mà thôi.
Đúng như tên gọi, Kinh Cúng ngọ là bài kinh được sử dụng trong giờ ngọ trước khi người xuất gia thọ thực.
Chúng ta thấy, tuy đây không phải là kinh văn do đức Phật tuyên thuyết và cũng không phải do chư Thánh Tăng truyền dạy nhưng lại do chính Tổ sư Minh Đăng Quang biên soạn nên Tăng Ni xuất gia theo Khất sĩ phải tôn kính như là một bản kinh. Theo các bản kinh được dịch thuật, hầu như không thấy bản kinh nào ghi chép về nghi thức cúng ngọ của đức Phật hay chư vị Thánh Tăng. Hầu như trong các kinh chỉ ghi chép việc đức Thế Tôn thọ trai sau đó quang lâm pháp tòa và thuyết pháp giáo hóa cho hàng cư sĩ.
Trong chiều dài lịch sử truyền bá giáo pháp đến các quốc gia, Phật giáo buộc phải tùy nghi phương tiện cho nên các vị Tổ sư phải trước tác và biên soạn một số nghi thức tu tập dùng làm tư tưởng cho hệ phái của mình. Do đó, bài Kinh Cúng Ngọ ra đời cũng chỉ là phương tiện tu tập mà thôi. Trong ba Hệ phái lớn của Phật giáo, Hệ phái nào cũng có nghi thức riêng dành cho các thời khóa tụng niệm cả. Chính vì lẽ đó, tuy có khác nhau về hình thức nhưng vào buổi ngọ trai dù tu tập theo truyền thống nào cũng phải tụng bài Kinh Cúng Ngọ.
Kinh Cúng Ngọ trước hết là để người xuất gia thành kính cúng dường lên Tam bảo chứng minh, sau đó là chứng minh cho hàng cư sĩ hộ trì Phật pháp. Về phương diện thứ nhất, vì nhớ ơn Tam bảo và Tổ thầy, người xuất gia thành tâm dâng cúng phẩm vật mà mình đi khất thực hoặc thọ nhận trai duyên tại tịnh xá hay tư gia để cầu Tam bảo và Tổ thầy thùy từ chứng giám. Về phương diện thứ hai, khi người cư sĩ đem lòng thành kính sớt bát cúng dường tứ vật dụng, người xuất gia phải tụng kinh chú nguyện, nhờ sức gia hộ của Tam bảo và oai đức thanh tịnh của chư Tăng hiện tiền để hồi hướng phước báu cho thí chủ được thành tựu viên mãn. Đây là hai phương diện chính trong bài kinh này.
Mặt khác, trên phương diện tu tập, thì bài kinh này là lời cảnh tỉnh cho chúng ta phải biết dụng công tu hành, đem công đức đó ra sức chú nguyện thì sở cầu, sở ý mới thành tựu viên mãn. Bài kinh này cũng dạy chúng ta pháp Tam đề, Ngũ quán và phép Lục hòa cộng trụ. Những pháp này chúng ta sẽ phân tích rõ hơn trong nội dung từng bài kệ tụng ở phần sau.
Trong phần đầu tiên trước khi đi vào kệ tụng, chúng ta có 3 câu cầu nguyện như một lời tác bạch cúng dường. Cũng giống như khi bắt đầu thời thuyết pháp hay nghi lễ Phật giáo chúng ta thường khởi niệm hồng danh đức Phật Bổn Sư Thích Ca để cầu gia hộ vậy.
Cấu trúc của phần này khá đặc biệt. Chúng không phải là đoạn văn mà chỉ là 3 câu mang tính cầu nguyện. Về mặt ngữ pháp, mỗi câu đều không có chủ ngữ. Trên thực tế mỗi câu được hợp thành từ 3 cụm từ mang nghĩa liên tiếp nhau và chúng chỉ liên kết nhau trên phương diện như vậy.
Xét về nội dung phần này lại càng đặc biệt. Như chúng ta thấy tiêu đề của nó là Cúng dường Tam bảo, lẽ ra mỗi câu phải theo thứ tự từ cúng dường Phật đến cúng dường Pháp rồi đến cúng dường Tăng. Nhưng trong phần chánh văn, chúng ta thấy chỉ có 2 câu cúng dường Phật và Tăng mà không có cúng dường Pháp riêng lẻ. Đến câu thứ ba mới có sự cúng dường chung. Sở dĩ như vậy là vì ngọ trai là cúng dường thực phẩm hay tứ vật dụng. Các món này khi dâng cúng chỉ có Phật và Tăng mới có thể chứng minh, còn pháp mang tính chất tinh thần, một cái phi vật thể hiện hữu trong Phật và Tăng nên không thể là đối tượng chứng minh. Do đó, câu thứ ba là câu cúng dường Tam bảo đầy đủ nhất.
Mỗi câu có cách dùng từ vô cùng thú vị. Trên lĩnh vực văn chương chúng ta có thể xem là hình thức dùng chữ theo phương pháp đối ngẫu về ngữ nghĩa. Mỗi câu đều có ba vế: vế thứ nhất trình bày lời tác bạch, vế thứ hai trình bày đối tượng cúng dường, và vế thế ba trình bày lời cầu xin được chứng minh. Trong câu thứ nhất: đem lễ phẩm cúng dường hiện tại dù là bữa cơm thanh đạm hay lễ trai Tăng kỳ hội cúng dường lên đấng Như Lai và cầu xin Phật chứng minh. Đại danh từ “Như Lai” ở vế thứ hai đồng nghĩa với đại danh từ “Phật” ở vế thứ ba là sự đối ngẫu ngữ nghĩa và tránh đi lỗi lặp từ. Tương tự, trong câu thứ hai: danh từ “Bồ-tát” chỉ cho hàng Thánh Tăng đồng nghĩa với danh từ “Tăng” trong Tăng bảo. Và trong câu thứ ba danh từ Phật Pháp Tăng chính là Tam bảo vậy.
Như vậy, lời cầu nguyện qua ba câu tác pháp cúng dường này là đem lòng thành kính dâng lên Tam bảo chứng minh. Đến đây, chúng ta mới nhận ra ý nghĩa tuyệt vời trong việc không sử dụng chủ ngữ trong từng câu cầu nguyện. Sở dĩ không sử dụng chủ ngữ là vì chủ thể cúng dường Tam bảo bao hàm cả người dâng cúng và người đang thọ nhận sự cúng dường. Chủ thể ấy là người cư sĩ dâng phẩm vật và cũng chính là chư Tăng Ni đang tụng kinh chú nguyện. Cả hai đều hết lòng tha thiết dâng cúng phẩm vật lên Tam bảo chứng minh qua lời chú nguyện của hàng xuất gia. Ở đây chỉ có pháp cúng dường chứ không còn phân biệt người cúng dường nữa.
Đây là đoạn văn duy nhất trong bài Kinh Cúng Ngọ và đây cũng là phần thường bị lược giảng (bỏ qua) nhất.
Nội dung của đoạn văn này là một lời khuyến khích hàng cư sĩ phát tâm cúng dường dựa trên quy luật nhân quả. Đoạn văn này trình bày khá rõ cho hàng cư sĩ nhận biết pháp cúng dường thanh tịnh để hưởng trọn vẹn phước báu như thế nào.
Đoạn văn thực chất chỉ là một câu văn khá dài được chia thành ba vế rõ nét và mỗi vế đều có ý nghĩa đặc trưng:
– Vế thứ nhất: Chỉ rõ những người dâng cúng phẩm vật cho chư đệ tử của Phật là những thành phần phát tâm trong sạch và có sự tôn kính trong đó. Thành phần này không luận là Phật tử hay không phải Phật tử đều có thể hưởng phước báu như nhau.
– Vế thứ hai: khuyên người cúng dường cần phải tu tập thiện pháp (làm phải cho mọi người) và khi dâng cúng phải vượt lên trên tâm bỏn sẻn và tánh tư vị. Làm phải cho mọi người nghĩa là có tâm từ bi thương yêu chúng sanh vạn loại mà tu tập thập thiện nghiệp, không làm 10 điều ác tàn hại chúng sanh. Bên cạnh đó, phải phá bỏ lòng bỏn sẻn keo kiệt và tánh cách chỉ biết riêng cho bản thân mình. Vượt qua sự thấp hèn như vậy mới là một tâm hồn cao thượng đáng quý.
– Vế thứ ba: nói về quả báo tốt đẹp sau khi đạt được hai vế đầu. Quả báo khi cúng dường thanh tịnh mang hai yếu tố vật chất lẫn tinh thần. Vật chất là người cúng dường sẽ hưởng đầy đủ sự sung sướng trên cõi đời. Còn tinh thần thì luôn luôn an lạc. Nhất là khi thân hoại mạng chung có thể sanh về cõi trời và có thể chứng được các quả đạo lành.
Thông qua bài “Khuyến khích”, chúng ta có thể tán thán công đức lành của hàng Phật tử phát tâm cúng dường. Đồng thời lồng vào đó là sự khuyên răn tu tập thiện pháp cũng như xả bỏ tâm ích kỷ nhỏ nhen để mở rộng tâm hồn cao thượng. Đặc biệt ngoài sự thọ hưởng phước báu ra, bài này còn thầm khuyên người cúng dường nên nhắm đến việc tu học đạo lý và hướng đến thành tựu các quả đạo lành là quan trọng hơn cả.
Bài kệ tụng này trình bày theo thể thơ thất ngôn tự do: thơ 7 chữ không giới hạn câu. Trong bài này có 4 khổ, mỗi khổ 4 câu, tổng cộng là 28 câu. Chúng ta thấy rằng thơ kệ của nhà Phật dùng để tán tụng hoặc cầu nguyện nên không đặt nặng tính văn chương hay nghệ thuật ẩn dụ nào trong đó. Chính vì vậy, đọc vào từng câu kệ ngay lập tức chúng ta hiểu một cách rõ ràng nội dung và ý ngĩa của nó.
Bài kệ có 4 khổ nhưng nội dung của nó chỉ có 2 phần: Phần tán dương công đức và phần phát nguyện dấn thân.
– Phần tán dương công đức: nằm trong khổ 1, khổ 2 và khổ 4. Ba khổ kệ này đều lấy tính nhân quả làm nòng cốt chính. Khổ thứ nhất: lấy việc thành tâm cúng dường của hàng Phật tử để cầu nguyện cho họ phước báu luôn tăng trưởng đời đời. Khổ thứ hai: Nhờ vào việc cúng dường hôm nay mà tín chủ gieo trồng nhân duyên sâu xa vào cửa đạo, còn gọi là “nhơn chánh giác” mà từ đó về sau các vị sẽ được chứng quả bồ đề. Có lẽ lời cầu nguyện này xuất phát từ các tích truyện về tiền thân của Phật. Hầu như trong các kiếp tu hạnh Bồ-tát, đứcThế Tôn thường tu pháp cúng dường. Có kiếp Ngài là Thái tử Sumadha cúng dường những cành hoa sen lên Phật Nhiên Đăng, có kiếp Ngài là Thái tử Câu-thi-na cúng dường đôi mắt và tủy cho vua cha trị bệnh… Nhờ phước cúng dường như vậy mà đến kiếp hiện tại ngài thạnh tựu đạo quả Toàn giác. Khổ thứ tư là lời cầu nguyện cho phước báu được hiện tiền ngay trong hiện tại: “kiếp nay thành Phật đạo”. Phước báu trong dòng nhân quả khó ai biết được mình sẽ nhận vào lúc nào. Nhưng khi phát tâm cúng dường thì từ ngày ấy nhân lành đã gieo quả lành chắc chắn sẽ có ngày được hưởng.
Kinh Na Tiên chép một đoạn Vua Di-lan-đà chất vấn Tỳ-kheo Na Tiên về vấn đề nhân quả. Vua cho rằng: chưa thấy một ai làm phước chết sanh lên cõi trời sau đó trở về làm chứng nên vua không tin làm phước hưởng phước. Ngài Na Tiên bèn chỉ vào một cây xoài con và hỏi vua cây xoài này có sanh trái xoài không? Khi vua bảo rằng có, Ngài Na Tiên bảo vua hãy chỉ trái xoài nằm ở đâu thì vua không làm sao chỉ ra được. Ngay lúc đó Ngài Na Tiên liền dạy: tạo phước phải chờ đầy đủ nhân duyên quả lành mới đến cũng như trồng cây xoài thì chắc chắn sẽ có trái xoài.
Kinh Pháp Cú cũng dạy:
– Phần phát nguyện nằm trong khổ thứ 3. Khổ kệ này nói lên tấm lòng của người xuất gia. Đứng trước sự cúng dường trong sạch của hàng Phật tử, chúng ta đem thân mình ra chấp nhận nghiệp báo để phần phước thanh tịnh cho người.
Tăng bảo là ruộng phước cho chúng sanh. Miếng ruộng có màu mỡ thì cây trồng mới tốt tươi, ngược lại miếng ruộng khô cằn thì cây sẽ èo uột. Cũng vậy, một người xuất gia cần phải tu tập giới thân huệ mạng cho viên mãn mới đủ phẩm hạnh làm bậc phước điền. Hai câu kệ này còn là một lời tri ơn sâu sắc gửi đến tín thí đàn na. Ngang qua đó, chúng ta cần phải cố gắng tu tập, đem thân ra chấp nhận mọi khó khăn gian khổ và nguyện dâng quả phước ấy cho người.
Rồi trên vạn nẻo đường hành đạo, dù đến chốn thành thị hay thôn quê, bước chân người Khất sĩ cũng chẳng bao giờ mòn mỏi. Bước chân ấy là sự ra đi để thọ nhận vạn pháp nuôi dưỡng tinh thần lý trí rồi lại đem đạo đức trí tâm mà cứu giúp muôn người. Chỉ trong một mảnh áo che thân, chỉ trong một bình bát đất mà hạnh nguyện lợi sanh lại trở thành ngọn đèn tâm linh làm nơi quy hướng cho biết bao chúng hữu tình. Con đường ấy chỉ có bậc Khất sĩ xuất trần mới hành vân tự tại.
Hạnh nguyện của người Khất sĩ không chỉ dừng lại trong một kiếp hiện tại hay trong một cõi Ta bà duyên sanh như huyễn, mà là hạnh nguyện sâu rộng được bắt đầu đầu từ lúc phát bồ đề tâm cho đến ngày giác hạnh viên mãn. Tâm ấy là tâm Phật. Hạnh ấy là hạnh Phật. Có tâm như vậy, có hạnh như vậy chúng ta mới xứng đáng là bậc thầy mô phạm cho chúng sanh và cụ thể hơn là xứng đáng thọ nhận phẩm vật do tín chủ cúng dường.
Bài kệ này cũng hành theo lối thơ thất ngôn tự do và có 3 khổ. Nội dung của bài kệ này là một lời cầu nguyện có đối tượng cụ thể. Đối tượng ấy đi từ nhân sinh quan đến thế giới quan, đi tự góc độ một con người ra đến chúng sanh vô hình hữu hình vạn loại. Mẫu số chung gom tất cả lời cầu nguyện cho các đối tượng ấy được gói gọn một cách trọn vẹn trong lời phát nguyện vãng sanh cõi Phật.
– Đoạn đầu là lời nhấn mạnh phước cúng dường này là của người tín chủ hiện tiền đang đang cúng. Với quả phước làm được hôm nay, người thí chủ nên xây dựng cho mình đời sống tu tập dựa trên tam nghiệp thân, khẩu, ý. Bởi vì đạo Phật không phải là nơi chỉ để cầu nguyện đơn thuần mà còn là nơi hướng dẫn các pháp tu thoát khổ. Do vì còn bận bịu đời sống gia đình nên người tại gia chưa được tự tại như người xuất gia. Cho nên, nhờ vào phước báu làm được đó mà noi theo gương hạnh của hàng xuất gia để gia công tu tập.
Trong lời kinh cầu nguyện, nội dung đoạn đầu lấy tam nghiệp làm đối trọng để xây dựng ba pháp Giới, Định, Tuệ làm căn bản. Tuy trong đoạn này không nói đến Giới là bởi vì một câu kệ không thể liệt kê hết các chi pháp nên chữ Giới được hiểu ngầm. Như chúng ta biết, đời sống con người vốn bị nhấn chìm trong tình, tiền, danh, lợi. Để đạt được sự no đủ về các phương diện vật chất, con người dễ tạo ác nghiệp nơi thân, khẩu, ý. Đây là nguyên nhân chính đưa đến sự sa đọa trong những kiếp vị lai. Nhận thức được sự nguy hại ấy, người tín chủ cần phải tự cảnh tỉnh lấy mình. Trong giờ chứng trai, hình ảnh trang nghiêm thoát tục trong tư thế kiết già ngay hàng thẳng lối của hàng xuất gia làm đánh động lòng khát ngưỡng của chư Phật tử. Hình ảnh ấy là biểu trưng của tam nghiệp trong sạch mà Phật tử cần noi theo.
Để có được thân tướng trang nhiêm và cõi lòng thanh tịnh là ba pháp tu: Giới, Định, Tuệ. Giới là hàng rào ngăn ngừa hành động, lời nói và suy nghĩ không vi phạm lỗi lầm. Định là sự trạng thái tâm tĩnh lặng khi hành thiền. Tuệ là tri kiến như thật về vạn pháp. Ba pháp này là lộ trình đi đến giác ngộ dành cho mọi đối tượng tu hành không luận là xuất gia hay tại gia. Trong Chơn lý “Cư Sĩ”, Tổ sư dạy rằng: “Người cư sĩ khi bước chân vào đời nhớ mang theo Giới, Định, Tuệ”.
– Đoạn thứ hai là lời cầu nguyện cho các hương linh đã quá vãng. Thông thường các hương linh được chú nguyện thường là người thân của tín chủ. Vì muốn cầu siêu độ cho các vong linh này mà người tín chủ sớt bát cúng dường để hồi hướng phước báu. Lời cầu nguyện nhắm thẳng đến việc cầu cho chư hương linh được dứt trừ hết tội chướng đã từng gây tạo khi còn sống. Khi còn sanh tiền, chúng ta gây tạo bao nhiêu lỗi lầm dù vô tình hay cố ý sẽ trở thành gánh nặng trên con đường tái sanh. Nhờ lời chú nguyện của chư Tăng mà hương linh được tội diệt phước sanh, tốc xả mê đồ vậy. Lời cầu nguyện còn nhấn mạnh các hương linh phải nhận thức tội lỗi khi xưa mình đã làm mà phát khởi tâm sám hối, phát tâm niệm tưởng Phật pháp. Như vậy là vừa nhờ tha lực của chư Tăng vừa tự lực cứu mình mới mong thoát khổ.
Lời cầu nguyện này tương hợp với hình ảnh Tôn giả Mục Kiên Liên cứu mẹ năm nào. Theo một số kinh sách ghi chép, sau khi vâng theo lời đức Phật chỉ dạy, Tôn giả Mục Kiền Liên cúng dường mười phương Tăng để cầu siêu cho thân mẫu thì bà Thanh Đề đã hưởng được phần phước báu đó. Nhưng cũng nhờ việc làm của người con báo hiếu, bà đã ăn năn tội lỗi của mình và cầu xin sám hối. Chính nhờ tâm thành khẩn cộng với phước lực của chư Tăng bà mới thoát cảnh địa ngục mà sanh về thiên giới. Do đó, bài kệ này thầm khuyên nhắc các hương linh cũng nên phát tâm sám hội tội lỗi của mình.
– Đoạn thứ ba là lời cầu nguyện chung cho tất cả cư gia bá tánh đều được bình an khỏe mạnh, tai qua nạn khỏi, tật bệnh tai ách đều được tiêu trừ. Nhưng điều cần thiết hơn cả là cầu nguyện tất cả mọi người biết phát tâm tu hành cho đến khi thành Chánh giác. Lời cầu nguyện ấy mới viên mãn tâm hạnh lợi la của hàng Thích tử.
Trong bài kệ tụng này, lời cầu nguyện đi từ người tín chủ hiện tiền, đến các hương linh đã quá vãng và rộng ra cho đến tất cả bá tánh vạn dân đều hưởng tròn phước báu. Nhưng điểm chung của phần cầu nguyện là cho tất cả đều được vãng sanh Tây phương Tịnh độ. Đây là cảnh an nhàn mà mọi người đều mong mỏi được tái sanh về. Cho nên lời cầu nguyện này vừa để chứng minh công đức, vừa để chúc phúc cho tất cả đều được vãng sanh Cực Lạc sau khi thân hoại mạng chung.
Bài kệ này được viết theo thể thơ tự do: mỗi câu 8 chữ và tất cả có 6 câu. Nội dung của nó không mở ra thêm điều gì mới mà chỉ là tổng hợp lại tất cả các lời cầu nguyện phía trên. Ta thấy rõ trong 5 câu đầu như: nguyện cho tất cả chúng sanh kẻ còn được thơi thới, người chết được siêu thăng, cầu cho tất cả những người tín thí được gieo trồng phước thí và thành tựu quả lành. Duy có câu thứ 6 là lời hồi hướng cho mọi loài chúng sanh dù hữu tình hay vô tình cũng đều đồng thành Phật đạo.
Kết thúc bài kệ này ta bắt gặp có 3 câu xưng tụng và được xưng tán đến 5 lần. Hai câu đầu 1 lần và câu thứ 3 lặp lại 3 lần.
– Câu thứ nhất là lòng tôn kính đối với cảnh giới giải thoát của hàng Tăng bảo. Đó có thể là xứ Tây phương Cực lạc của Phật A Di Đà, đó có thể là hội Linh Sơn trong kinh Đại thừa, đó có thể là chốn Tòng lâm Thánh chúng và đó có thể chỉ là một trú xứ đơn sơ mà thanh tịnh. Chỉ có coi thanh tịnh như vậy mới mở ra cánh cửa giái thoát cho hành giả.
– Câu thứ hai là lòng tôn kính đối với con đường mà đức Như Lai đã chỉ dạy lại cho chúng ta. Con đường ấy chư Phật quá khứ đã đi, chư Phật hiện tại đang đi và chư Phật vị lai sẽ đi. Và cánh cửa để đến với con đường ấy chính là hạnh tu Khất sĩ.
– Câu thứ ba là lời xưng tụng đến với ngôi Tam bảo trong khắp mười phương và trải khắp từ quá khứ, hiện tại đến vị lai. Với lòng tôn kính Phật Pháp Tăng vô biên nên câu này được lặp lại 3 lần.
Bài kệ Thọ bát của Hệ phái chúng ta được biên soạn thống nhất trong một bài thơ thất ngôn bát cú: 5 câu đầu là Ngũ quán, 3 câu cuối là Tam đề.
– Một là không làm các điều ác, – Hai là siêng làm các việc lành, – Ba là giữ tâm ý thanh tịnh.
– Nhứt kế công đa thiếu, lượng bỉ lai xứ: So sánh vật mà thí chủ cúng dường cho mình, công lao của người ta phải cực khổ như thế nào ?
Nhìn bát cơm, hãy quán niệm về những nguồn lực đã làm cho có bát cơm, như: bác nông phu, con trâu, cái cày, hạt giống, đất, nước, ánh sáng, nhà máy xay lúa, phương tiện chuyên chở v.v… Quán niệm như vậy để thấy rằng, bát cơm đến với ta không phải là chuyện giản dị; không phải chỉ cần bỏ ra đồng bạc là có được bát cơm. Sự hiện hữu của bát cơm trước mặt ta đồng thời là sự hiện hữu của cả vũ trụ, trong đó có sự hiện hữu của ta. Bát cơm nuôi sống ta, đồng thời bảo cho ta biết là ta đang mang một nguồn ơn nghĩa vô tận mà ta có nhiệm vụ phải đáp đền.
Khi đã thực tập thuần thục, ta có thể quán niệm điều này bằng một ý tưởng ngắn gọn: “Thức ăn này là tặng phẩm của đất trời và công phu lao tác”.
– Nhị thổn kỷ đức hạnh, toàn khuyết ứng cúng: Xem xét đức hạnh của mình, coi có xứng đáng mà thọ lãnh đồ cúng dường ấy chăng?
Nhìn bát cơm, hãy quán niệm về bản thân ta, xem có tư cách xứng đáng để ăn bát cơm ấy không. Ta nên lặp lại câu nói ở trên: “Không phải chỉ cần bỏ ra đồng bạc là có được bát cơm.” Có những người giàu có tiền muôn bạc triệu nhưng không có tư cách xứng đáng để ăn bát cơm, hoặc có lúc không có được bát cơm để ăn. Trong thiền môn có câu châm ngôn: “Bất tác bất thực” (không làm thì không ăn). Ý nghĩa của câu châm ngôn này là chính ta phải bỏ công sức ra để góp phần vào việc làm cho có bát cơm, để ta không phải hổ thẹn khi bưng bát cơm lên đưa vào miệng. Bưng bát cơm lên mà không thấy hổ thẹn tức là ta được ăn cơm trong an lạc. Như trên vừa nói, sự hiện hữu của bát cơm trước mặt ta cũng đồng thời là sự hiện hữu của cả vũ trụ, vì vậy, không cứ gì phải trực tiếp cày cấy, xay lúa giã gạo mới là đóng góp công sức vào bát cơm, mà ta có thể cống hiến bất cứ khả năng nào mà ta có, cùng với thì giờ và tâm lực cho cuộc đời, là ta đã góp phần vào việc làm cho có bát cơm rồi vậy.
Khi đã thực tập thuần thục, ta có thể quán niệm điều này bằng một ý tưởng ngắn gọn: “Xin nguyện sống xứng đáng để thọ nhận thức ăn này.”
– Tam phòng tâm ly quá, tham đẳng vi tôn: ba hãy đề phòng tâm tránh xa mọi lỗi lầm tội lỗi mà tham, sân, si, là nguyên nhân.
Nhìn bát cơm, dù ta đã quán niệm và tự biết mình có tư cách xứng đáng để ăn bát cơm, nhưng không vì thế mà cho rằng “ta có quyền ăn cho thỏa thích!” Ta nên tiếp tục quán niệm để biết xót thương những người đang chịu đói khát ở khắp nơi trên thế giới. Quán niệm như thế ta sẽ bỏ được tính tham lam và phát triển tình thương trong ta, để một ngày nào đó, có thể lắm, ta sẽ làm được một cái gì để góp phần vào việc thay đổi tình trạng bất công của cuộc sống hiện nay.
Khi đã thực tập thuần thục, ta có thể quán niệm điều này bằng một ý tưởng ngắn gọn: “Xin nhớ ngăn ngừa những tật xấu, nhất là tật tham lam.”
– Tứ chánh sự lương dược vi liệu hình khô: Bốn chính vì lấy thực phẩm làm lương dược mà trị bệnh khô gầy của thân.
Ngồi trước bát cơm mà lòng tham đã bị dập tắt thì hành giả sẽ thấy được rằng, bát cơm quả thật là phương thuốc mầu nhiệm để nuôi dưỡng và trị bệnh gầy yếu cho cơ thể. Khi đã thấy rõ như vậy, hành giả sẽ biết quí trọng thức ăn, và càng cẩn trọng trong việc chọn lựa thức ăn – nghĩa là chỉ ăn những thức ăn nào có tính chất nuôi dưỡng mà không gây tật bệnh cho cơ thể. Cẩn trọng như thế là vì hành giả luôn luôn có ý thức rằng, nếu hành giả khỏe mạnh, an vui thì những người liên hệ chung quanh cũng khỏe mạnh, an vui; nếu hành giả bệnh tật, đau khổ thì họ cũng bị ảnh hưởng y như vậy.
Khi đã thực tập thuần thục, ta có thể quán niệm điều này bằng một ý tưởng ngắn gọn: “Chỉ xin ăn những thức ăn có tác dụng nuôi dưỡng và ngăn ngừa tật bệnh.”
– Ngũ vị thành đạo nghiệp ưng thọ thử thực: Năm vì muốn có sức mạnh để tu thành đạo nghiệp, nên tạm dùng đồ ăn mà thôi.
Nếu sự đam mê ăn uống không làm cho hành giả tu học và hành đạo được thì đói khát cũng không thể nào làm cho hành giả tu học và hành đạo được. Cho nên, khi nhìn bát cơm để trước mặt, hành giả hãy quán niệm để thấy đó là nguồn năng mầu nhiệm để nuôi sống và bảo vệ thân mạng. Thân mạng có được bảo vệ thì đạo nghiệp mới viên thành. Không riêng gì cho hành giả, mà bát cơm cũng còn là nguồn năng mầu nhiệm để nuôi sống và bảo vệ thân mạng của bao nhiêu triệu người đang bị đói khổ trên thế giới, cũng như của muôn loài chúng sinh khác. Bệnh đói là một chứng bệnh vô cùng thê thảm trong đời sống nhân loại và mọi loài chúng sinh! Nếu ngồi trước bát cơm mà thấy được điều đó thì hành giả sẽ phát khởi tình thương rộng lớn và tâm nguyện vì đời phụng sự, đem khả năng và tâm lực giúp người cứu vật, cho đến khi thành tựu đạo nghiệp.
Khi đã thực tập thuần thục, ta có thể quán niệm điều này bằng một ý tưởng ngắn gọn: “Vì muốn thành tựu đạo nghiệp nên thọ nhận thức ăn này.”
Tăng, chữ Phạn là “Sangha”, Trung Hoa dịch âm là Tăng-già, dịch nghĩa là “Hòa hợp chúng”, tức chỉ một số tu sĩ, hoặc Tăng hoặc Ni sống chung với nhau trong tập thể, hòa hợp vui vẻ tu hành, nên còn gọi là hòa hợp Tăng. Chúng ta sống hòa hợp thì gọi là Tăng, không hòa hợp thì không đủ nghĩa của Tăng. Đức Phật đặt sự hòa hợp trên tất cả các giới luật. Nếu chúng ta sống không hòa hợp thì sự tu hành không bao giờ thăng tiến.
Trong quyển Luật nghi Khất sĩ bài “Kệ giới”, đức Tổ sư dạy rằng: “Trong các đẳng cấp của các hạng người trong xã hội, khi xuất gia vào thọ lãnh giới luật, mà Phật đã giáo hóa rồi, thì cần nhất phải dứt bỏ danh vọng, dòng dõi, tổ tông mà nhìn nhận lấy chủng tộc sa môn, họ hàng khất sĩ mới được. Ví như nước của các nguồn sông, khi chảy vào biển rồi cũng phải dứt bỏ cái nguyên chất của nó, mà chung lấy một chất với nước biển[1]“. Đây là lời dạy về tinh thần hòa hợp triệt để trong cộng đồng Tăng lữ. Và để trở nên gắn kết như nước với sữa chúng ta phải thọ trì pháp lục hòa.
Lục hòa là sáu nguyên tắc sống đưa lại sự hòa hợp trong đời sống hàng ngày của các vị tu sĩ Phật giáo. Nhân cuộc luận tranh, đấu tranh của các vị Tỳ-kheo ở xứ Kosambi, đức Phật đã dạy sáu nguyê n tắc sống làm căn bản cho các vị Tỳ-kheo để đạt sự hòa hợp trong Tăng đoàn. Sáu nguyên tắc ấy gồm: vị Tỳ-kheo phải có từ thân hành, từ khẩu hành, từ ý hành, chia sẻ tri kiến, đồng tu Thánh giới và chia đều phẩm vật đối với các vị đồng tu phạm hạnh. Đức Thế Tôn nhấn mạnh: “Này các Tỳ-kheo, có sáu pháp này cần phải ghi nhớ, tạo thành tương ái, tạo thành tương kính, đưa đến hòa hợp, đưa đến hòa đồng, đưa đến vô tranh luận, hòa hợp, nhất trí[2]“.
Đặc biệt lời Phật dạy nhấn mạnh ở chỗ thực hành sáu nguyên tắc này “cả trước mặt lẫn sau lưng”, nghĩa là luôn luôn chánh niệm tỉnh giác thực hành ứng xử với nhau bằng sáu nguyên tắc dù ở một mình hay ở chỗ đông người, dù có mặt hay không có mặt của người bạn đồng tu.
Mở đầu bài kệ hồi hướng sau khi thọ thực là xướng niệm 3 câu chú nguyện cho tất cả chúng sanh tròn xong Phật sự. Đây có thể được xem là câu chứng minh kết thúc buổi ngọ trai. Phật sự được nói đến trong câu này chính là việc cúng dường ngọ trai vừa trải qua. Chúng ta cần phải hiểu rằng ý nghĩa của hai từ Phật sự là việc làm của Phật hay việc làm đưa đến sự giác ngộ. Thế nên, khi vào giờ thọ trai tại Tịnh xá nhất là khi tín chủ thỉnh rước chư Tăng Ni về tư gia ngoài việc cúng dường, họ còn muốn chiêm ngưỡng oai nghi tế hạnh của người xuất gia.
Cũng trong Luật nghi Khất sĩ bài “Kệ giới”, Tổ sư lại dạy rằng: Một người thay mặt cho Phật thật không phải dễ, mỗi cách hành động như đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, mặc, nói, làm, mỗi cách cư xử đều phải giống y Phật, cho đặng thiện tín, hễ thấy Tăng cũng như thấy Phật. Tăng chúng chỉ giữ giới, tướng mạo trang nghiêm, ở ăn theo Phật, cũng đủ khêu gợi được lòng tín ngưỡng của bá tánh.
Giờ độ ngọ được xem là một giờ tu nghiêm chỉnh của người Khất sĩ, còn gọi là bữa cơm chánh niệm hay bữa cơm hòa chúng. Nếu trong giờ ấy chúng ta rơi vào trạo cử, hôn trầm, biểu biển khó chịu, bực bội, đau nhức… sẽ trở thành những hình ảnh không tốt làm mất tín tâm cho hàng Phật tử tại gia. Rơi vào trường hợp như vậy dĩ nhiên điều chúng ta làm không còn là Phật sự mà trở thành ma sự. Câu chú nguyện này ngoài việc hồi hướng ra nó còn trở thành cầu khuyên nhắc và cảnh tỉnh lại mình.
Bài kệ cuối cùng trong Kinh Cúng Ngọ được trước tác theo thể thơ lục bát, một thể thơ thuần túy của người Việt Nam. Nội dung của bài kệ này một lần nữa tổng hợp lại tất cả các lời nguyện cầu trong suốt các bài kệ cúng ngọ đã nêu mục đích là để hồi hướng chung cho âm siêu, dương thới.
Ở đây, tư tưởng hồi hướng không còn giới hạn cụ thể vào người tín chủ cúng dường mà mang một tầm vóc vô biên vô tận. Chúng ta bắt gặp trong đó có đầy đủ các đối tượng: tín thí, kẻ âm, người dương, pháp giới chúng sanh… và kể cả các vật vô tri còn gọi là chúng sanh vô tình như: bụi, đất, đá, cây … cũng đều trượng thừa Tam bảo lực mà siêu thăng thoát hóa. Lời hồi hướng không đặt nặng vấn đề phước báu mà hướng chúng sanh đi vào đạo lộ tu hành: dứt sạch ái dục ở đời, gieo mầm giống tuệ giác sâu xa, bền công tu tập để viên thành đạo quả. Tư tưởng hồi hướng siêu xuất như vậy đã nâng tầm công hạnh và tâm đức của người Khất sĩ trên bước đường xin ăn tu học và hành đạo giữa cõi đời này.
Bài “Kinh Cúng Ngọ” được trước tác và biên soạn một cách tổng hợp gồm các đoạn văn xuôi, các kệ tụng và các câu xưng tán Tam bảo. Mỗi phần trong đó đều có ý nghĩa riêng biệt và rõ ràng. Tính đồng nhất trong bài kinh này là tán dương công đức tín chủ cúng dường và cầu nguyện phước báu cho hàng Phật tử tại gia. Bên cạnh đó, nội dung của bài kinh cũng nhằm khuyên nhắc người tu hành phải biết nỗ lực tu tập các pháp quán niệm để Tăng đoàn ngày càng thanh tịnh hòa hợp làm chốn phước điền cho hàng cư sĩ dựa nương.
Bài kinh này không đặt nặng tính văn chương nên bút pháp trước tác đơn giản và dễ hiểu. Hoàn toàn không có tính ẩn dụ hay đưa các nội dung tiềm ẩn đằng sau mặt chữ vào các câu kệ tụng. Do đó, lời kinh trôi chảy, dễ đọc, dễ tụng giúp chứ hành giả ghi nhớ dễ dàng từng lời văn và tiếp cận nhanh chóng đến nội dung từng bài.
Người xuất gia ngay từ buổi ban sơ cần phải học thông thuộc và tự mình cầu học nơi chư Tôn đức cũng như tự tư duy về nghĩa lý của bài kinh này. Tuy đây không phải là lời Phật dạy nhưng nó được xem như một bản kinh căn bản vô cùng quan trọng không thể thiếu trong đời sống tu hành. Dù chúng ta sống giữa đại chúng đông đảo hay chỉ ở tịnh thất một mình thì cũng phải trì tụng bài kinh này hàng ngày trong giờ cúng ngọ. Vậy nên việc suy tầm nghĩa lý và ứng dụng tu hành là việc làm có ý nghĩa thực tiễn nhất.
Con đường Khất sĩ là lối tu trung đạo. Con đường này không đặt nặng địa vị hay giai cấp, cũng không đặt trên trình độ thấp cao. Chỉ cần chúng ta có tâm khát ngưỡng giáo pháp và tinh thần cầu học giáo pháp cũng như dấn thân trải nghiệm đời sống thanh bần tri túc thì con đường giác ngộ chắc chắn sẽ nằm trong tầm tay. Hãy cố gắng tu hành để thọ trì và giữ gìn giáo pháp để xứng đáng là thế hệ nối tiếp sứ mạng thiêng liêng của bậc Thầy mô phạm vậy.
[1] Tổ sư Minh Đăng Quang, “Luật nghi Khất sĩ”, nxb. chúng tôi 1998, trang 105.
[2] HT. Minh Châu dịch, Kinh Trung bộ I, VNCPHVN ấn hành 1992, trang 704.
Tìm Hiểu Về Nghi Thức Cúng Ngọ
Tại tư gia vẫn có thể cúng ngọ nhưng nếu thực hành vào mỗi ngày thì chắc chắn rất tốt song không bắt buộc. Đa phần hầu như Phật tử chỉ cúng ngọ mỗi khi trong gia đình có kỵ giỗ hay cúng linh, còn thường ngày chỉ đốt hương mà thôi. Chỉ riêng ở chùa thì cúng ngọ là một trong những lễ tiết rất quan trọng và sẽ được thực hiện hàng ngày.
Lễ phẩm cúng ngọTrên bàn thờ Phật thì phải nhớ lúc nào bông trái cũng tươi tốt, nhang đèn cần sáng sủa, bàn thờ thì sạch sẽ, tinh tươm là điều cốt yếu. Song tùy thuộc vào những hoàn cảnh riêng của mỗi gia đình, không phải bất cứ nhà nào cũng làm được việc như vậy. Trong từng trường hợp điều kiện không cho phép thì chỉ cần dâng cúng hoa trái vào những ngày rằm hay mùng một hoặc những ngày vía Phật và Bồ tát mà thôi. Tuy nhiên thì dù những ngày còn lại trong tháng dẫu không có hoa trái nhưng nhang đèn chắc chắn phải luôn đầy đủ, hãy cố gắng quét dọn bàn thờ sạch sẽ, rút bớt chân nhang hay thay nước sạch cũng như đốt hương cúng Phật mỗi ngày.
Dùng những lễ vật như hoa trái giả hay đèn nến điển để cúng Phật tuy sẽ không mang tội nhưng nên hạn chế làm như vậy. Dẫu rằng, với thời hiện đại thì việc chế tạo nhang, đèn, hoa hay trái giả trông khá đẹp và giống như thật nhưng căn bản chúng chỉ là vật trang trí chứ không phải là lễ phẩm để dâng cúng. Mỗi người phải nhớ phẩm vật dâng cúng dù nhiều hay ít cũng như ngon hay dở đều phải là thật hãy biết lễ phẩm cần có lòng thành và tâm thành thì Phật mới chứng nhận. Biểu hiện của tấm lòng còn do ở lễ phẩm, do đó sẽ lố bịch khi con người dùng lễ giả để mong biểu thị tấm lòng chân thật. Tất cả những lễ phẩm này không hề tạo nên sức sống hay sự trang nghiêm, thanh tịnh và sống động của bàn thờ Phật mà ngược lại, chính sự cứng nhắc cũng như lòe loẹt và giả tạo này đã một phần làm mất đi nét thành kính thiêng liêng, đông cứng những rung động tâm linh, chính do vậy nên khó có thể giao cảm với Phật lực.
Trong nghi thức cúng ngọ thì ngoài việc cúng Phật ra còn có phổ đồng cúng dườngTrên hết là cúng dường chư Phật trong mười phương sau đó đến là chư Hiền Thánh tiếp đến là chúng sanh trong lục đạo rồi dâng cúng hết thảy chúng sanh trong pháp giới. Muốn chúng sanh trong lục đạo có thể ăn được, tất yếu phải gia trì thần chú biến thực. Ngay đây, bản thân chúng ta cần xác định rõ là cúng Phật với lễ phẩm cơm nước hay hoa trái cùng với cái tâm thành kính, thanh tịnh của ngũ phần tâm hương là đủ rồi. Còn về vấn đề gia trì thần chú biến thực trong nghi thức cúng Ngọ chỉ dùng để cúng dường cho tất cả chúng sanh trong toàn thể lục đạo. Không nên hiểu cũng như liên tưởng một cách máy móc hay thô thiển về việc dâng cúng cơm nước và trị tụng thần chú biến thực. Phần lớn trong nghi thức cúng ngọ là cúng để cho Phật ăn như các chúng sanh khác.
Ý nghĩa nghi thức cúng ngọĐể bày tỏ niềm tin cũng như lòng thành kính của bản thân mình đối với Đức Phật, chánh pháp và chúng tăng, người Phật tử làm lễ cúng ngọ. Nghi lễ chính là một món ăn tinh thần rất cần thiết của mỗi tín đồ. Khi mà tâm hồn con người chưa thực sự được khai phóng triệt để, nói cách khác là trình độ nhận thức của mỗi tín đồ chưa đạt đến được tầm cao và con người chưa tự giải thoát đối với mọi hệ lụy của cuộc đời thì nghi lễ như biểu lộ lòng thành kính trong sạch của tín đồ đối với bậc Đạo sư qua hành vi ngôn ngữ. Trong những trường hợp thế này, nghi lễ tất nhiên sẽ được coi trọng và khuyến khích, vì đó chính là hành động tăng thượng tâm, thiện pháp củng cố cũng như ác pháp tổn giảm. Nghi thức cúng ngọ phần nào tạo điều kiện làm cho con người có tập quán đạo đức hướng về những điều tốt một cách tự nhiên và còn giúp bản thân ta tạo được mối quan hệ gắn bó giữa đạo và đời hay giữa người tu hành với toàn thể quần chúng nhân dân. Qua đó, chúng ta có thể chuyển hóa họ bỏ ác làm lành và sống có đạo đức.
Ðạo Phật luôn chủ trương hành động thực tiễn. Mặc vẫn còn có nhiều bài kinh dạy về cách làm thế nào để có thể đạt được an lạc và hạnh phúc trong cuộc sống. Nếu thực hành nghi thức cúng ngọ đúng cách chắc chắn sẽ có tác dụng làm cho tâm hồn con người định tĩnh cũng như chuyên chú trang nghiêm. Con người rất dễ bị ngoại cảnh tác động, nên chắc hẳn một khung cảnh trang nghiêm của nghi thức sẽ làm cho lòng người có những rung cảm và ứng xử thích hợp cũng như tạo thành không khí lễ nghĩa, làm cho bản thân mỗi người có tập quán đạo đức hướng về điều tốt điều phải một cách tự nhiên.
Theo Nghi Thức Công Giáo
CÁC CÔNG VIỆC LIÊN QUAN CẦN PHẢI LÀM KHI CÓ NGƯỜI QUA ĐỜI – Liên lạc Nhà Quàn (Funeral Home) để di chuyển xác, tắm rửa và tẩm liệm – Chọn Quan Tài (Áo Quan), gói dịch vụ mai táng. – Chọn Nghĩa Trang, Mộ Huyệt, Bia Đá (nếu an táng – chôn) – Sắp xếp Chương Trình Viếng Xác, Cầu Nguyện, và Thánh Lễ An Táng. – Thông Báo cho họ hàng thân quyến, bà con bạn hữu, xóm làng quen biết, – Thông Báo cho Ông Tổng Thư Ký HĐGX, hay Ông Chủ Tịch Cộng Đoàn. – Phóng Di Ảnh lớn của Người Quá Cố. – Thực hiện sách kinh, sách hát dùng trong giờ cầu nguyện và Thánh Lễ, – Đặt các Vòng Hoa tưởng nhớ. – In Tiểu Sử Người Quá Cố – Sổ Ghi Nhớ cho Khách Viếng Thăm – Chụp hình, quay phim – Giấy Chứng Thực Qua Đời (Clergy Record hoặc Certificate of Death) – Đăng Cáo Phó, Cảm Tạ.(nhà quàn thực hiện). – Chuẩn bị đồ tang (nhà quàn chuẩn bị).
1. NGHI THỨC CẦU NGUYỆN Ở NHÀ QUÀN HAY TƯ GIA (dành cho người lớn) Phần Khai Mạc (Hướng dẫn viên có đôi lời chào hỏi và mời mọi người đứng dậy, bắt đầu bằng dấu thánh giá). HDV: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen. Nguyện xin ở sủng và bình an của Thiên Chúa, là Cha chúng ta và Ðức Giêsu Kitô ở cùng anh chị em. Cđ: Và ở cùng cha (thầy, ông, bà, anh, chị). HDV: Ðể bắt đầu nghi thức phụng vụ cầu nguyện cho ông/bà T. xin mời mọi người cùng hát bài (Cầu Xin Chúa Thánh Thần hoặc Thánh Thần Xin Ngự Ðến). (Sau khi chấm dứt bài hát) HDV: Anh chị em thân mến, chúng ta tin rằng mọi tương quan bằng hữu và tình cảm trong đời sống đã liên kết chúng ta nên một, và các tương quan ấy không bị hủy diệt bởi sự chết. Chúng ta cũng tin rằng Thiên Chúa luôn nhớ đến các việc lành mà chúng ta đã thực hiển để tha thứ những lỗi lầm của chúng ta. Giờ đây, chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa đưa linh hồn T. lên cùng Chúa. (Giữ im lặng trong giây lát) HDV: Lạy Thiên Chúa, cái chết của người anh/chị em của chúng con đây, là ông/bà T., đã nhắc nhở chúng con về thân phận con người và sự ngắn ngủi của cuộc sống này. Nhưng, với những ai tin tưởng ở tình yêu Thiên Chúa, sự chết không phải là chấm dứt, và nó cũng không tiêu hủy các mối dây liên kết mà Thiên Chúa đã tôi luyện trong đời sống chúng con. Vì được chia sẻ cùng một đức tin với các thánh tông đồ và niềm hy vọng của con cái Thiên Chúa, xin Chúa đem lại ánh sáng phục sinh của Ðức Kitô vào thời gian thử thách và đau khổ khi chúng con cầu nguyện cho ông/bà T. và những người thân yêu của họ. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Giêsu Kitô Chúa chúng con. Cđ: Amen.
Phụng Vụ Lời Chúa (Chọn các bài đọc cho phù hợp với hoàn cảnh. Mọi người ngồi để nghe các bài đọc) Bài Ðọc 1 Thánh Vịnh Ðáp Ca Phúc Âm Bài Giảng (nếu có linh mục hoặc phó tế) Kinh Cầu HDV: Chúng ta hãy quay về Ðức Kitô với niềm tin tưởng trong quyền lực thập giá và phục sinh của Người để dâng lời cầu nguyện. Người Xướng: Lạy Chúa Kitô Phục Sinh, Ngài là gương mẫu muôn đời của chúng con. Xin Chúa thương xót chúng con. Cđ: Xin Chúa thương xót chúng con. X: Lạy Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, Ðấng đã đến để tiêu diệt tội lỗi và sự chết. Xin Chúa thương xót chúng con. Cđ: Xin Chúa thương xót chúng con. X: Lạy Ngôi Lời Thiên Chúa, Ðấng đã giải thoát chúng con khỏi sợ hãi cái chết. Xin Chúa thương xót chúng con. Cđ: Xin Chúa thương xót chúng con. X: Lạy Chúa Kitô, Ðấng Chăn Chiên nhân hậu, Người đem linh hồn chúng con tới chỗ nghỉ ngơi, xin ban bình an muôn đời cho ông/bà T. Xin Chúa thương xót chúng con. Cđ: Xin Chúa thương xót chúng con. X: Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin Người an ủi những ai đang than khóc và sầu khổ. Xin Người chúc lành cho gia đình ông/bà T. và thân bằng quyến thuộc cũng như bạn hữu đang quy tụ nơi đây. Xin Chúa thương xót chúng con. Cđ: Xin Chúa thương xót chúng con.
Kinh Lạy Cha HDV: Các anh chị em thân mến. Ngôi nhà thật chúng ta là ở thiên đàng. Bởi đó, chúng ta hãy dâng lời cầu khẩn lên Cha trên trời, như Chúa Giêsu đã dạy chúng ta. Cđ: Lạy Cha chúng con ở trên trời?
Lời Nguyện Kết HDV: Lạy Chúa Giêsu, Ðấng Cứu Ðộ chúng con, Ngài đã sẵn sàng hy sinh chịu chết, để mọi người được cứu chuộc và được đi từ sự chết đến sự sống. Chúng con khiêm tốn nài xin Chúa an ủi các tôi tớ Chúa trong sự sầu khổ và xin Chúa đón nhận ông/bà T. vào vòng tay thương xót của Ngài. Chỉ có một mình Ngài là Ðấng Thánh, và chính Ngài là sự thương xót; Qua cái chết Ngài đã mở cánh cửa sự sống cho những ai tin vào Ngài. Xin Chúa hãy tha thứ những lỗi lầm của ông/bà T., và xin ban cho ông/bà T. một nơi hạnh phúc, ngập tràn ánh sáng và bình an trong vương quốc vinh hiển của Chúa cho tới muôn đời. Cđ: Amen. (Bạn hữu có thể ngỏ đôi lời cùng tang quyến).
Chấm Dứt Nghi Thức HDV: Phúc cho những ai được chết trong Chúa; xin cho họ được nghỉ yên khỏi sự lao nhọc, vì những công việc tốt lành họ làm sẽ có giá trị trước mặt Chúa. (vẽ dấu thánh giá trên trán người chết và đọc) Lạy Chúa, xin ban sự nghỉ yên muôn đời cho linh hồn T. Cđ: Và xin ánh sáng bất diệt chiếu soi trên linh hồn ấy. HDV: Xin cho ông/bà T. được nghỉ yên muôn đời. Cđ: Amen HDV: Xin cho linh hồn ông/bà T. , và linh hồn của mọi tín hữu đã qua đời, nhờ lòng thương xót Chúa sẽ được nghỉ yên muôn đời. Cđ: Amen Ban phép lành (Nếu là linh mục hoặc phó tế) HDV: Xin bình an của Thiên Chúa, vượt quá mọi trí hiểu, sẽ gìn giữ tâm hồn và lòng trí anh chị em trong tình yêu và sự nhận biết của Thiên Chúa Cha và Thiên Chúa Con, là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Cđ: Amen. HDV: Xin Thiên Chúa toàn năng là Cha, và Con, và Thánh Thần, ban phép lành cho anh chị em. Cđ: Amen. Có thể chấm dứt nghi thức phụng vụ bằng một bài hát hoặc thinh lặng cầu nguyện
Trao Khăn Tang Nếu có phát tang, thêm phần cầu nguyện sau đây trước khi ban phép lành kết thúc. HDV: Giải khăn tang này biểu tượng cho lòng hiếu thảo của con cái, cháu chắt, báo đền ơn nghĩa sinh thành và dưỡng dục của Cha/Mẹ, Ông/Bà, Bác, Chú/Cô, Dì/Dượng … và của mỗi người thân quyến bầy tỏ lòng kính mến, tiếc thương đối với người thân yêu đã lìa trần. Ước mong sao, mỗi người, khi nhận lãnh tấm khăn trắng này, luôn tưởng nhớ đến người thân yêu đã qua đời, bằng những việc hy sinh, hãm mình, bằng lời cầu nguyện để xin Chúa tha thứ cho linh hồn T., và mau được hưởng phần thưởng Nước Trời. (gia đình, con cháu, họ hàng lên nhận khăn tang)
Chuỗi Mai Khôi Lần chuỗi là một hình thức đạo đức mà Giáo Hội không buộc phải theo một hình thức nhất định nào. Mục đích khi lần chuỗi là suy niệm về cuộc đời Chúa Giêsu. Do đó, thay vì các ngắm mùa vui, mùa thương và mùa mừng như thường lệ, chúng ta có thể thay thế bằng các đoạn Kinh Thánh. Sau mỗi một đoạn Phúc Âm, nên giữ thinh lặng để suy niệm. Chuỗi Mai Khôi Kinh Thánh
2. NGHI THỨC CẦU NGUYỆN TRƯỚC KHI DI CHUYỂN LINH CỮU VÀO NHÀ THỜ HOẶC RA NGHĨA TRANG Mở Ðầu HDV: Anh chị em thân mến trong Ðức Giêsu Kitô, nhân danh Chúa Giêsu và Giáo Hội của Người mà chúng ta quy tụ nơi đây để cầu nguyện cho ông/bà T., xin Thiên Chúa đưa ông/bà T. đến nơi an nghỉ muôn đời. Chúng ta đau buồn trước sự ra đi của người thân yêu, nhưng lời Thiên Chúa hứa ban sự sống đời đời đã đem cho chúng ta niềm hy vọng. Chúng ta hãy an ủi nhau bằng những lời sau đây:
Ðọc Sách Thánh Bài trích thư Thánh Phaolô Tông Ðồ gửi tín hữu Colossê (3:3-4) Thật vậy, anh chị em đã chết, và sự sống mới của anh chị em hiện đang tiềm tàng với Ðức Ki-tô nơi Thiên Chúa. Khi Ðức Ki-tô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh chị em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang.
Hoặc Bài trích thư Thánh Phaolô Tông Ðồ gửi tín hữu Rôma (6:8-9) Nếu chúng ta đã cùng chết với Ðức Ki-tô, chúng ta tin rằng chúng ta sẽ cùng sống với Người. Chúng ta biết rằng, một khi Ðức Ki-tô đã sống lại từ cõi chết, thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người.
Kinh Cầu HDV: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu đã đến để phục sinh kẻ chết và an ủi chúng ta với tình yêu của Người. Chúng ta hãy chúc tụng ngợi khen Ðức Giêsu Kitô. Phụ Tá: Lạy Ngôi Lời Thiên Chúa, Ðấng Tạo Thành trái đất mà nay thân xác ông/bà T. sẽ trở về với lòng đất; trong bí tích rửa tội, Ngài đã kêu gọi ông/bà đến sự sống vĩnh cửu để chúc tụng ngợi khen Chúa Cha đến muôn đời. Xin Chúa thương xót chúng con. Ð: Xin Chúa thương xót chúng con. PT: Lạy Ðức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Ngài nâng đỡ người công chính và bao bọc họ với vinh quang Nước Trời. Xin Chúa thương xót chúng con. Ð: Xin Chúa thương xót chúng con. PT: Lạy Ðức Kitô chịu đóng đinh, Ngài đã che chở linh hồn ông/bà T. với quyền năng thập giá của Ngài, và trong ngày tái giáng lâm, Ngài sẽ tỏ lòng thương xót đối với mọi tín hữu đã ly trần. Xin Chúa thương xót chúng con. Ð: Xin Chúa thương xót chúng con. PT: Lúc phán xét kẻ sống và kẻ chết, khi nghe tiếng Chúa, mồ mả sẽ mở tung và những người công chính — đang ngủ yên trong bình an của Chúa — sẽ chỗi dậy và ca tụng vinh quang Chúa. Xin Chúa thương xót chúng con. Ð: Xin Chúa thương xót chúng con. PT: Lạy Ðức Giêsu Kitô, mọi chúc tụng ngợi khen đều quy về Chúa, Ngài nắm cái chết trong tay và mọi sự sống sẽ tùy thuộc vào chỉ một mình Ngài. Xin Chúa thương xót chúng con. Ð: Xin Chúa thương xót chúng con.
Kinh Lạy Cha HDV: Với đức tin và đức cậy, chúng ta dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa Cha với những lời mà Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ: Lạy Cha chúng con…
Phần Kết HDV: Lạy Chúa, ông/bà T. nay đã từ giã nơi cư ngụ trần gian và để lại những người thân yêu đang khóc thương ông/bà. Khi chúng con đang đau buồn trước sự ra đi này, xin cho chúng con luôn nhớ đến ông/bà T. và sống với niềm hy vọng vào vương quốc vĩnh cửu là nơi Chúa sẽ quy tụ chúng con lại với nhau. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Ð: Amen.
Trước Khi Di Chuyển Linh Cữu HDV: Thiên Chúa gìn giữ chúng ta lúc đến cũng như lúc đi. Xin Thiên Chúa ở với chúng ta trong chuyến đi cuối cùng với người anh chị em của chúng ta. (Trong khi di chuyển linh cửu đến nhà thờ hoặc nghĩa trang, có thể hát Thánh Vịnh)
3. NGHI THỨC AN TÁNG (phần chi tiết xin xem trong sách của Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam) Lời Nguyện Giáo Dân Mẫu A. Lm: Anh chị em thân mến, Ðức Giêsu Kitô đã sống lại từ kẻ chết và đang ngự bên hữu Chúa Cha để cầu bầu cho Giáo Hội của Người. Với niềm tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ lắng nghe những ai tín thác vào Ðức Giêsu Kitô, chúng ta dâng lời cầu nguyện:
1. Trong bí tích rửa tội, ông/bà T. đã được lãnh nhận ánh sáng của Ðức Kitô. Giờ đây, xin Chúa xua tan bóng tối và dẫn ông/bà vượt qua nước của sự chết. Chúng ta hãy cầu xin Chúa. Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.
2. Người anh chị em của chúng ta là ông/bà T. đã được nuôi dưỡng ở bàn tiệc của Ðấng Cứu Thế. Xin Chúa đưa ông/bà vào tham dự bàn tiệc trên trời. Chúng ta hãy cầu xin Chúa. Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.
3. (Nếu người chết là tu sĩ) Anh chị em của chúng ta là T. đã trọn cuộc đời theo Chúa Giêsu trong sự khó nghèo, khiết tịnh và vâng lời. Xin Chúa hãy coi T. như một trong những người thánh thiện đang hỉ hoan trong cung điện trên trời. Chúng ta hãy cầu xin Chúa. Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.
4. (Nếu người chết là giám mục hay linh mục) Người anh em của chúng ta là T. đã được chia sẻ chức vụ tư tế của Chúa Giêsu trong việc dẫn dắt Dân Chúa cầu nguyện và thờ phượng. Xin Chúa đưa T. hiện diện trước mặt Chúa là nơi T. sẽ được một chỗ trong phụng vụ nước trời. Chúng ta hãy cầu xin Chúa. Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.
5. (Nếu người chết là phó tế) Người anh em chúng ta là T. đã phục vụ dân Chúa với tư cách của một phó tế trong Giáo Hội. Xin Chúa chuẩn bị cho T. một chỗ trong vương quốc mà tên của T. sẽ được Chúa công bố. Chúng ta hãy cầu xin Chúa. Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.
6. Nhiều thân bằng quyến thuộc và bằng hữu đã ra đi trước chúng ta và đang chờ đợi phần thưởng nước trời. Xin Chúa ban cho họ một mái nhà vĩnh viễn với Con Chúa. Chúng ta hãy cầu xin Chúa. Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.
7. Nhiều người bị chết vì võ lực, chiến tranh và đói khát. Xin Chúa xót thương những ai bị đau khổ một cách bất công vì những tội lỗi xúc phạm đến tình yêu của Chúa, và xin đưa tất cả vào vương quốc bình an muôn đời. Chúng ta hãy cầu xin Chúa. Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.
8. Những người tín thác vào Ðức Kitô hiện đang ngủ yên trong Chúa. Xin Chúa ban bình an, sự nghỉ ngơi tĩnh dưỡng cho tất cả những ai có đức tin mà chỉ có mình Chúa biết. Chúng ta hãy cầu xin Chúa. Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.
9. Những người thân yêu của T. đang cần sự nguôi ngoai an ủi. Xin Chúa hãy xoa dịu sự đau thương của họ và xua tan những u uẩn, nghi ngờ vì buồn chán. Chúng ta hãy cầu xin Chúa. Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.
10. Chúng ta đang quy tụ nơi đây trong đức tin và đức cậy để cầu nguyện cho anh chị em chúng ta là ông/bà T. Xin Chúa kiên cường niềm hy vọng của chúng ta để chúng ta có thể sống xứng đáng khi chờ đợi Ðức Kitô tái giáng lâm. Chúng ta hãy cầu xin Chúa. Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.
Lm: Lạy Thiên Chúa, Ðấng ban phát bình an và chữa lành các linh hồn, xin lắng nghe lời cầu khẩn của Ðấng Cứu Thế, là Ðức Giêsu Kitô, và của dân Người, mà sự sống của họ đã được trả bằng máu của Con Chiên. Xin Chúa tha thứ những lỗi lầm của tất cả những ai đang yên giấc trong Ðức Kitô, và xin ban cho họ một chỗ trong nước trời. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
Mẫu B. Lm: Thiên Chúa là Cha toàn năng, Người đã đưa Ðức Kitô chỗi dậy từ cõi chết; với sự tin tưởng chúng ta hãy cầu xin Người gìn giữ tất cả những ai thuộc về Người, dù còn sống hay đã chết. 1. Trong bí tích rửa tội, ông/bà T. đã được hứa ban sự sống đời đời, xin cho ông/bà T. được đón nhận vào cộng đồng các thánh. Chúng ta hãy cầu xin Chúa. Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.
2. Vì ông/bà T. đã được ăn Mình Thánh Ðức Kitô, là bánh hằng sống, xin cho ông/bà được sống lại vào ngày sau hết. Chúng ta hãy cầu xin Chúa. Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.
3. (Nếu là phó tế) Vì người anh em của chúng ta là T. đã công bố Tin Mừng của Ðức Giêsu Kitô và phục vụ người nghèo xin cho T. được đón nhận vào cung thánh ở thiên đàng. Chúng ta hãy cầu xin Chúa. Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.
4. (Nếu là giám mục hay linh mục) Vì người anh em của chúng ta là T. đã phục vụ Giáo Hội với tư cách một linh mục, xin cho T. được một chỗ trong phụng vụ nước trời. Chúng ta hãy cầu xin Chúa. Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.
5. Xin cho thân nhân và bạn hữu của người quá cố và cho tất cả những ai đã giúp đỡ chúng ta được Chúa đền đáp vì những công việc tốt lành của họ. Chúng ta hãy cầu xin Chúa. Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.
6. Xin cho những ai đang an nghỉ trong niềm hy vọng sống lại sẽ được chiêm ngưỡng Chúa cách nhãn tiền. Chúng ta hãy cầu xin Chúa. Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.
7. Xin cho gia đình và bạn hữu của ông/bà T. được an ủi trong sự buồn sầu của Ðức Kitô, là Người đã thương khóc cái chết của Lagiarô. Chúng ta hãy cầu xin Chúa. Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.
8. Xin cho tất cả chúng ta đang quy tụ thờ phượng trong cùng một niềm tin sẽ được tái xum họp trong vương quốc Thiên Chúa. Chúng ta hãy cầu xin Chúa. Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.
Lm: Lạy Thiên Chúa là nơi nương náu và là sức mạnh của chúng con, Ngài đã nghe tiếng khóc than của dân Ngài; xin lắng nghe lời chúng con cầu nguyện cho anh chị em chúng con, là ông/bà T. vừa mới qua đời. Xin thanh tẩy tội lỗi của họ và xin ban cho họ sự no đủ của ơn cứu độ. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
4. NGHI THỨC HẠ HUYỆT HDV: Người thân yêu của chúng ta là ông/bà T. đã đến nơi an nghỉ trong sự bình an của Ðức Kitô. Giờ đây xin Thiên Chúa đón nhận ông/bà vào bàn tiệc của con cái Thiên Chúa trên thiên đàng. Với niềm tin và niềm hy vọng trong sự sống vĩnh cửu, chúng ta hãy nâng đỡ ông/bà trong lời cầu nguyện. Chúng ta cũng dâng lên Chúa lời cầu nguyện cho cả chúng ta nữa. Ðể ngày nào đó chúng ta sẽ được tái hợp với người thân yêu của chúng ta, và cùng nhau chúng ta sẽ được gặp Ðức Kitô–là sự sống của chúng ta–mà Ngài sẽ xuất hiện trong vinh quang.
Trong Sách Thánh, chúng ta đọc (chọn một): A. Bấy giờ Ðức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa.” (Mt 25:34).
B. Ý của Ðấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. (Gioan 6:39).
C. Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Ðức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta. (Phil. 3:20).
D. Xin Ðức Giê-su Ki-tô là vị Chứng Nhân trung thành, là Trưởng Tử trong số những người từ cõi chết chỗi dậy, là Thủ Lãnh mọi vương đế trần gian, ban cho anh chị em ân sủng và bình an. Người đã yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta, làm cho chúng ta trở thành vương quốc và hàng tư tế để phụng sự Thiên Chúa là Cha của Người: kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn thuở muôn đời. A-men! (Kh. 1:5-6).
Làm Phép Huyệt HDV: Lạy Ðức Giêsu Kitô, nhờ Chúa ở ba ngày trong mộ, Chúa đã thánh hóa các ngôi mộ của những ai tin vào Chúa, và đã biến ngôi mộ trở thành dấu chỉ hy vọng vào lời hứa phục sinh, dù ngôi mộ đang cầm giữ thân xác chúng con. Xin cho ông/bà T. được nghỉ yên trong bình an cho tới khi Chúa đánh thức ông/bà dậy trong vinh quang, vì Chúa là sự phục sinh và là sự sống. Sau đó ông/bà sẽ được thấy Chúa nhãn tiền và được thấy ánh sáng trong sự sáng của Chúa Và nhận biết sự huy hoàng của Thiên Chúa, vì Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời. Ð: Amen.
Hạ Huyệt Vì Chúa đã gọi ông/bà T. ra khỏi thế gian về với Chúa, chúng ta gửi gấm thi thể ông/bà T. vào lòng đất vì chúng ta là cát bụi sẽ trở về với cát bụi. Nhưng Ðức Giêsu Kitô sẽ thay đổi thân xác hay chết của chúng ta trở nên giống thân xác của Ngài trong vinh quang, vì Ngài đã sống lại, là trưởng tử của kẻ chết. Chúng ta hãy phó thác người thân yêu của chúng ta cho Thiên Chúa, để Người ấp ủ trong bình an, và cho thân xác ấy chỗi dậy trong ngày sau hết. Lời Nguyện Giáo Dân (sau khi hạ huyệt)
Mẫu A. HDV: Chúng ta hãy cầu xin Ðức Kitô, là Ðấng đã nói: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta, dù có chết, cũng sẽ được sống, và bất cứ ai sống và tin vào Ta sẽ không bao giờ chết.” 1. Lạy Chúa, Chúa đã an ủi bà Mácta và Maria khi họ buồn sầu; xin Chúa hãy gần chúng con, là những người đang thương tiếc ông/bà T., và xin Chúa lau khô mọi giọt lệ của những kẻ khóc than. Chúng con cầu xin Chúa. Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.
2. Chúa đã nhỏ lệ khi đứng trước mộ Lagiarô, người bạn của Ngài; xin Chúa an ủi chúng con đang trong sự buồn sầu. Chúng con cầu xin Chúa. Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.
3. Chúa đã làm cho kẻ chết sống lại; xin cho người thân yêu của chúng con được sự sống đời đời. Chúng con cầu xin Chúa. Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.
4. Chúa đã hứa nước trời cho kẻ trộm biết ăn năn sám hối; xin Chúa đưa ông/bà T. vào hưởng niềm vui nước trời. Chúng con cầu xin Chúa. Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.
5. Xin Chúa an ủi chúng con đang buồn sầu vì cái chết của người thân yêu; xin cho đức tin của chúng con trở nên nguồn an ủi và sự sống đời đời là nguồn hy vọng của chúng con. Chúng con cầu xin Chúa. Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.
Mẫu B. HDV: Anh chị em thân mến, với một lòng sùng kính chúng ta hãy dâng lên Chúa lời khẩn nguyện của chúng ta, vì Ngài là nguồn mạch mọi sự thương xót. Lạy Chúa khoan nhân, xin hãy tha thứ tội lỗi cho những ai đã chết trong Ðức Kitô. Chúng con cầu xin Chúa. Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.
1. Xin Chúa hãy nhớ đến các việc lành mà chúng con đã làm. Chúng con cầu xin Chúa. Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.
2. Xin Chúa đón nhận ông/bà T. vào sự sống đời đời. Chúng con cầu xin Chúa. Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.
3. Chúng ta hãy cầu nguyện cho những thân nhân đang thương khóc. Xin Chúa an ủi họ khi sầu muộn. Chúng con cầu xin Chúa. Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.
4. Xin Chúa gia tăng đức tin và kiên cường niềm hy vọng của họ. Chúng con cầu xin Chúa. Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con. 5. Chúng ta cũng cầu nguyện cho chính chúng ta đang trên đường lữ thứ. Xin cho chúng ta luôn trung thành phục vụ Thiên Chúa. Chúng con cầu xin Chúa. Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.
Kinh Lạy Cha HDV: Với sự khát khao ngày ngự trị của vương quốc Thiên Chúa, chúng ta cùng cầu nguyện:
Lạy Cha chúng con…
Lời Nguyện Kết HDV: Lạy Thiên Chúa toàn năng, qua cái chết của Con Chúa trên thập giá, Chúa đã tiêu diệt sự chết; qua việc Ðức Kitô nằm trong mộ Chúa đã thánh hóa các phần mộ của những ai tin vào Ngài; và qua sự sống lại của Ðức Kitô Chúa đã phục hồi sự sống vĩnh cửu cho chúng con. Lạy Thiên Chúa của kẻ sống cũng như kẻ chết, xin nhận lời chúng con cầu khẩn cho những ai đã chết trong Ðức Kitô và đã được mai táng với Người trong niềm hy vọng sống lại. Vì khi còn sống họ đã trung thành với danh thánh Ngài, xin cho họ được ca tụng Ngài cho đến muôn đời trong niềm vui thiên đàng. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Ð: Amen.
Cầu Nguyện Cho Người Tham Dự HDV: Mọi người hãy cúi đầu và cầu xin Chúa chúc lành. (sau giây phút thinh lặng) Lạy Thiên Chúa giầu lòng thương xót, Chúa biết thế nào là buồn sầu khổ não, Chúa luôn lắng nghe lời cầu xin của kẻ khiêm nhường. Xin hãy lắng nghe con dân Chúa đang khẩn thiết nài xin Chúa và xin kiên cường niềm hy vọng của họ trong sự nhân từ vô cùng của Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Ð: Amen. HDV: Lạy Chúa, xin ban sự nghỉ yên muôn đời cho ông/bà T. Cđ: Và xin ánh sáng bất diệt chiếu soi trên họ. HDV: Xin cho ông/bà T. được nghỉ yên muôn đời. Cđ: Amen HDV: Xin cho linh hồn ông/bà T. , và linh hồn của mọi tín hữu đã ly trần, nhờ lòng thương xót Chúa sẽ được nghỉ yên muôn đời. Cđ: Amen
Ban phép lành A. Nếu là linh mục hoặc phó tế HDV: Xin bình an của Thiên Chúa, vượt quá mọi trí hiểu, sẽ gìn giữ tâm hồn và lòng trí anh chị em trong tình yêu và sự nhận biết của Thiên Chúa Cha và Thiên Chúa Con, là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Cđ: Amen. HDV: Xin Thiên Chúa Toàn Năng là Cha, và Con, và Chúa Thánh Thần ban phép lành cho anh chị em. Ð: Amen.
B. Nếu là giáo dân HDV: Nguyện xin tình yêu của Thiên Chúa và bình an của Chúa Giêsu Kitô chúc lành và an ủi chúng ta và lau khô mọi giọt lệ của chúng ta nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần. Ð: Amen. HDV: Hãy ra đi trong bình an của Ðức Kitô. Ð: Tạ ơn Chúa.
Có thể hát thánh ca kết thúc. Mọi người có thể ném đất hoặc ném bông hoa để tượng trưng cho việc chôn xác kẻ chết.
5. NGHI THỨC HỎA TÁNG Mở đầu HDV: Anh chị em thân mến, Chúng ta đến đây để cử hành nghi thức hoả táng T… Việc hỏa táng nhắc chúng ta nhớ đến thân phận mỏng dòn của con người. Thiên Chúa dựng nên con người từ tro bụi, rồi lại cho con người trở về bụi tro, đợi mai sau thân xác sẽ được tái tạo trong trời mới, đất mới.
(giữ thinh lặng trong giây phút)
Chúng ta dâng lời cầu nguyện. Lạy Cha, Cha đã tạo dựng nên lửa và ban lửa cho chúng con. Lửa đã sưởi ấm khi chúng con sinh ra, đã tạo điều kiện tốt cho cuộc sống hàng ngày, và khi chúng con qua đời, lửa còn làm cho thân xác này nên giống của lễ toàn thiêu xưa. Xin Cha chúc lành và thánh hóa ngọn lửa chúng con sắp dùng để hoả táng thân xác người anh (chị) em của chúng con là T… Chúng con cầu xin, nhờ Ðức Kitô Chúa chúng con. Cđ: Amen.
Lời Nguyện Giáo Dân HDV: Anh chị em thân mến, Tác giả thư gửi tín hữu Do Thái (12:29) đã cho chúng ta biết: “Thiên Chúa là một ngọn lửa thiêu. Người đã cho ông Môsê được gặp Người qua bụi gai rực lửa. Người cũng hiện diện giữa dân Người qua cột lửa về ban đêm trong sa mạc. Chính Thiên Chúa Cha đã cho Ðức Giêsu Kitô đến thanh tẩy chúng ta bằng lửa trong Thánh Thần, và đã ban Chúa Thánh Thần như lửa sưởi ấm linh hồn chúng ta. Người cũng mời gọi chúng ta dâng hiến đời sống cho Người như lễ vật toàn thiêu. Với những xác tín ấy, trong việc cử hành nghi thức hỏa táng hôm nay, chúng ta hãy dâng lên Chúa Cha những lời nguyện xin tha thiết, và đầy tin tưởng sau đây:
1. Lạy Cha, Con một Cha là Ðức Giêsu Kitô đã đem lửa xuống trần gian, và Người không ao ước gì hơn là thấy lửa ấy bừng cháy lên. Xin cho ánh sáng Tin Mừng được thắp lên trong toàn Giáo Hội và trên khắp hoàn cầu. Chúng con cầu xin Chúa. Ðáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2. Như ngọn lửa vật chất sắp thiêu đốt thi hài T…, xin cho ngọn lửa mến Chúa yêu người cũng luôn nung nấu tâm hồn chúng con. Chúng con cầu xin Chúa. Ðáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con.
3. Lạy Cha, chúng con tạ ơn Cha đã ban cho T… được làm người và được làm con cái Cha. Chúng con tạ ơn Cha vì muôn ơn lành Cha đã ban cho T… trong suốt cuộc đời, và bây giờ Cha lại gọi T… về với Cha. Xin Cha thương đón linh hồn T… cùng với những việc lành cũng như mọi sự yếu đuối của T… trong cuộc sống làm người. Chúng con cầu xin Chúa. Ðáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con.
4. Cũng như thân xác của T… sắp thành những hạt bụi mất hút trong lòng đời, xin Cha cho mỗi người chúng con cũng biết quên mình, biết hy sinh trong cuộc sống phục vụ anh chị em. Chúng con cầu xin Chúa. Ðáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con.
5. Xin cho thân nhân của T… nhận được mọi ơn lành của Cha, và được mọi người quý mến thiết tha như ngọn lửa an ủi sưởi ấm tâm hồn họ. Chúng con cầu xin Chúa. Ðáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Kinh Lạy Cha HDV: Và giờ đây, chúng ta hãy dâng lên Chúa những lời cầu nguyện mà chính Chúa Giêsu Kitô đã dạy chúng ta.
Tất cả đọc Kinh Lạy Cha, trong khi linh mục HDV: rẩy nước thánh và xông hương.
Lời Nguyện Kết HDV: Chúng ta dâng lời cầu nguyện. Lạy Cha, giờ đây chúng con phó dâng linh hồn T… cho tình thương của Cha, và chúng con hỏa táng T… như của lễ toàn thiêu dâng lên Cha. Xin cho lễ hiến dâng này, cùng với tình yêu của gia đình và cộng đoàn chúng con, được kết hiệp với Chúa Giêsu trên thập giá thành của lễ đẹp lòng Cha.
Xin cho đời sống chúng con và mọi lời chúng con cầu nguyện được như hương trầm toả bay trước thánh nhan Cha, để cầu cho T…, và mọi người đã chết trong ân tình Cha, được vào hưởng vinh quang Cha muôn đời. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Cđ: Amen. HDV. Lạy Cha, xin cho linh hồn T… được nghỉ yên muôn đời. Cđ. Và cho ánh sáng ngàn đời chiếu soi trên linh hồn ấy.
Sưu tầm
- Đặt gì vào tiểu quách khi sang cát, bốc mộ - Bốc mộ, cải táng, sang cát cần chuẩn bị và thực hiện như thế nào ? - Cung cấp đất Nghĩa trang và đất Mai táng - Dịch vụ hỏa táng tại Thiên Đức
Thiên Đức Vĩnh Hằng Viên – Nơi giá trị được mang về từ những điều bình dị nhất
Chân thành cảm ơn! Tagged: công viên nghĩa trang, nghĩa trang đẹp Thiên đức vĩnh hằng viên, công viên sinh thái kết hợp nghĩa trang.
Lễ Cúng Mụ 7 Ngày: Ý Nghĩa Và Nghi Thức
Mụ bà Trần Tứ Nương coi việc sinh đẻ (chú sinh)
Mụ bà Vạn Tứ Nương coi việc thai nghén (chú thai);
Mụ bà Lâm Cửu Nương coi việc thụ thai (thủ thai);
Mụ bà Lưu Thất Nương coi việc nặn hình hài nam, nữ cho đứa bé (chú nam nữ);
Mụ bà Lâm Nhất Nương coi việc chăm sóc bào thai (an thai);
Mụ bà Lý Đại Nương coi việc chuyển dạ (chuyển sinh);
Mụ bà Hứa Đại Nương coi việc khai hoa nở nhụy (hộ sản);
Mụ bà Cao Tứ Nương coi việc ở cữ (dưỡng sinh);
Mụ bà Tăng Ngũ Nương coi việc chăm sóc trẻ sơ sinh (bảo tống);
Mụ bà Mã Ngũ Nương coi việc ẵm bồng con trẻ (tống tử);
Mụ bà Trúc Ngũ Nương coi việc giữ trẻ (bảo tử);
Mụ bà Nguyễn Tam Nương coi việc chứng kiến và giám sát việc sinh đẻ (giám sinh).
Mỗi bà mụ có nhiệm vụ nhào nặn một bộ phận của trẻ, trẻ có xinh xắn hoặc khỏe mạnh hay không đều là công ơn của các bà. Vì vậy mà các buổi lễ cúng mụ nói chung hay cúng mụ đầy cữ nói riêng chính là những lời cảm tạ sâu sắc tới công ơn sinh dưỡng của mười hai bà.
Mỗi dịp cúng mụ đều mang trong mình một ý nghĩa riêng. Nếu như cúng đầy tháng là dịp xin phép đặt tên cho trẻ, cúng thôi nôi là cột mốc trưởng thành đầu tiên trong đời của các em thì cúng đầy cữ lại là lời cầu mong các bà mụ sẽ phù hộ cho trẻ mau biết ăn, biết nói, biết lật bò, biêt đi đứng… Lễ cúng mụ 7 ngày là nghi thức dành riêng cho bé trai còn 9 ngày là thời điểm tổ chức lễ cho bé gái. Sở dĩ có khác biệt như vậy vì ông cha ta quan niệm rằng con trai phải đi trước để dẫn đầu còn con gái phải biết nhún nhường để nhà cửa yên ấm. Lễ vật dành cho hai giới nam, nữ cũng vì vậy mà cũng có đôi chút khác biệt.
Xôi gấc: gia đình sẽ chuẩn bị 7 nắm xôi cho bé trai (chuẩn bị 9 nắm nếu là bé gái). Có thể thay thế xôi gấc bằng loại xôi khác tùy từng vùng.
Cua bể: 7 con cho bé trai (9 con cho bé gái). Có thể thay cua thường nếu không có cua bể.
Trứng gá luộc nhuộm đỏ: 7 quả cho bé trai (9 quả nếu là bé gái)
Hoa quả và bình hoa tươi.
Các loại trầu cau, giấy tờ vàng mã, vv…
Những món lễ vật này phải được kê lên mâm, sắp xếp theo quy tắc “Đông bình tây quả”. Như thế có nghĩa là xếp bình hoa về hướng đông của bàn thờ còn các món còn lại để ở hướng tây. Thường thì những món lễ vật đơn như trầu cau, hoa quả… sẽ được sắp vào giữa mâm, các lễ vật còn lại nhu xôi, cua bể được xếp xen kẽ hoặc đối xứng xung quanh. Các món ăn phải được bày biện hài hòa, đẹp mắt, càng hài hòa thì buổi lễ sẽ càng nhận được nhiều may mắn.
Cách đọc văn khấn và cho lễ cúng mụ 7 ngày
Sau khi đã bày biện mâm lễ xong xuôi thì gia đình sẽ cử ra một đại diện để thắp hương và đọc một bài văn khấn. Bài văn khấn này là một đoạn văn nói lên lời cầu xin của gia đình dâng lên mười hai bà mụ. Bài văn khấn này có thể tùy vào từng vùng miền mà khác nhau một chút ở lời văn hay từ ngữ…
Sau khi đọc xong bài văn khấn thì người đọc sẽ vái 3 tuần hương rồi làm lễ tạ. Sau khi hương tàn thì gia đình có thể thụ hưởng đồ lễ.
Nghi Thức Cúng Ngọ Và Những Điều Cần Biết
Ý nghĩa nghi thức cúng ngọ
Cúng ngọ là để bày tỏ niềm tin, lòng thành kính dâng lên Đức Phật, Chánh Pháp và Chư Tăng. Nghi thức là biểu hiện lòng thành kính trong sạch của các Phật tử đối với Đạo Sư qua hành vi ngôn ngữ. Và đó cũng chính là hành động tăng thượng tâm, thiện pháp củng cố ác pháp tối giản.
Nghi thức cúng ngọ sẽ tạo điều kiện cho con người có tập quán đạo đức hướng về những điều tốt đẹp một cách tự nhiên và giúp các Phật tử tạo được mối quan hệ giữa người tu hành với đại chúng sinh. Giúp con người chuyển hóa bỏ cái ác làm lành và sống có đạo đức.
Nghi thức cúng ngọ DÂNG HƯƠNGXinh tốt như hoa sen
Rạng ngời như Bắc Đẩu
Xin quay về nương náu
Bậc thầy của nhân thiên.
Hương đốt, khói trầm xông ngát
Kết thành một đóa tường vân
Đệ tử đem lòng thành kính
Cúng dường chư Bụt mười phương
Giới luật chuyên trì nghiêm mật
Công phu thiền định tinh cần
Tuệ giác hiện dần quả báu
Dâng thành một nén tâm hương.
Chúng con kính dâng hương lên Bụt và chư vị Bồ Tát.
CÚNG DƯỜNGNam mô Bụt thường trú trong mười phương
Nam mô Pháp thường trú trong mười phương
Nam mô Tăng thường trú trong mười phương
Nam mô Đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni
Nam mô Đức Bổn A Di Đà thế giới Cực Lạc
Nam mô các Đức Bụt trong mười phương và ba đời
Nam mô Đức Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi
Nam mô Đức Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền
Nam mô Đức Bổn Tát Đại Bi Quan Thế Âm
Nam mô Đức Bổn Tát Đại Lực Đại Thế Chí
Nam mô Đức Bồ Tát Đại Nguyện Địa Tạng Vương
Nam mô chư tôn Bồ Tát Thánh Chúng có mặt chốn già lam
Nam mô các Đức Bồ Tát, tổ sư qua các thời đại
Nam mô Đức Bồ Tát Sứ Giả Giám Trai
Nam mô Đức Bồ Tát Minh Vương Thập Điện
Nam mô các Đức Bụt và Bồ Tát có mặt trên đạo tràng.
TRÌ CHÚNam mô tát phạ, đát tha nga đa, phạ rô chỉ đế
Án, tam bạt ra, tam bạt ra hồng.
Nam mô tô rô bà gia, đát tha nga đá gia, đát điệt tha
Án, tô rô, tô rô, bạt ra tô rô, bạt ra tô rô, ta bà ha.
TỤNG BÁT NHÃ TÂM KINHQuán tự tại Bồ tát hành thâm Bát Nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.
Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố không trung, vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới; vô vô minh diệc vô vô minh tận; nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc.
Dĩ vô sở đắc cố, bồ đề tát đỏa y Bát Nhã ba la mật đa cố tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố vô hữu khủng bố; viễn ly điên đảo mộng tưởng; cứu cánh niết bàn, tam thế chư Phật y Bát Nhã ba la mật đa cố đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Cố tri Bát Nhã ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư.
Cố thuyết Bát Nhã ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết: Yết đế, yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề. Tát bà ha.
Thiên thượng thiên hạ vô như Phật,
Thập phương thế giới diệc vô tỷ.
Thế gian sở hữu ngã tận kiến,
Nhứt thiết vô hữu như Phật giả.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. ( 3 lần)
CÚNG DƯỜNGSắc hương vị cơm này
Trên cúng dường chư Bụt
Đến các bậc hiền thánh
Rồi các giới lục đạo
Cúng dường không phân biệt
Tất cả đều no đủ
Xin nguyện cho thí giả
Vượt qua bờ bên kia
Ba đức và sáu vị
Cúng dường Bụt và Tăng
Mọi loài trong pháp giới
Cũng đều xin cúng dường.
Án, nga nga nẳng tam bà phạ phiệt nhật ra hộc. (3 lần)
KỆThành tâm hiến cúng toàn cam lộ
Như núi Tu Di chẳng ít hơn
Sắc hương mỹ vị đầy hư không
Xin hãy xót thương mà chấp nhận.
Nam mô Đức Bồ Tát Phổ Cúng Dường. (3 lần)
HỒI HƯỚNGCúng dường pháp thâm diệu
Tạo công đức vô biên
Đệ tử xin hồi hướng
Cho chúng sinh mọi miền.
Pháp môn xin nguyện học
Ân nghĩa xin nguyện đền
Phiền não xin nguyện đoạn
Quả Bụt xin chứng nên.
Nguồn Gốc Và Ý Nghĩa Của Nghi Thức Cúng Đại Bàng
Cúng đại bàng là một nghi thức trong lễ Quá đường mỗi buổi trưa ở các tự viện theo truyền thống Phật giáo Bắc tông. Nghi thức có ý nghĩa trước hết là lòng từ bi có thể cảm hóa được các thế lực xấu ác.
Nguồn gốc của nghi thứcCúng Đại Bàng là một nghi thức quan trọng trong lễ cúng Quá Đường mỗi buổi trưa ở các tự viện theo truyền thống Phật Giáo. Ảnh: Internet
Theo lời thuật lại trong khế kinh, ngày kia Đức Phật đi du hóa gặp một con chim Đại Bàng bắt các loài chim nhỏ ăn thịt. Chim Đại Bàng này có chiều kích rất lớn, mỗi lần há miệng, một hơi hút của nó chiếm một phạm vi nhiều cây số, tất cả các loài chim nhỏ đều bị cuốn hút vào miệng nó. Thấy việc sát sanh quá nhiều nên Đức Phật đã từ bi giáo hóa. Ngài dạy rằng ” tất cả chúng sanh đều ham sống sợ chết, do đó chớ giết và chớ bảo giết”. Chim Đại Bàng tự nghĩ: “thực phẩm hằng ngày của mình là thịt sống của các loài chim, nay Phật không cho ăn, lấy gì để nuôi thân mạng này”.
Phật dạy: “từ đây về sau ngươi về chùa nào gần nhất để quý Tăng Ni cho ăn” có nghĩa là chư Tăng Ni trước khi thọ trai phải trích một phần nhỏ thức ăn sẻ chia cho chúng. Mục đích là để giúp cho các loài này sau khi đã từ bỏ tà pháp khỏi bị đói khát bức bách mà phải trở lại đường ác. Đó là duyên khởi của nghi thức Xuất sanh.
Bài kệ cúng Đại bàng là:
Đại bàng kim sí điểu Khoáng dã quỷ thần chúng La-sát, quỷ tử mẫu Cam lồ tất sung mãn Án mục đế tóa ha.
Nghĩa:
Chim đại bàng cánh vàng Chúng quỷ thần hoang dã La-sát, quỷ tử mẫu Cam lồ đều no đủ.
Ý nghĩa của nghi thức cúng chim đại bàngÝ nghĩa trước hết là lòng từ bi có thể cảm hóa được các thế lực xấu ác. Qua bài kệ Xuất sanh, chúng ta thấy rõ được tinh thần cơ bản của đạo Phật: Chỉ có lòng từ bi mới giải tỏa được oán thù để chuyển hóa người ác thành thiện. Đức Phật không vì thương rồng, bảo vệ rồng mà tiêu diệt loài kim sí điểu. Không vì yêu quý trẻ thơ mà tàn hại quỷ tử mẫu. Bởi vì với tuệ giác, Đức Phật thấy rằng bạo lực không thể nào giải quyết được vấn đề mà chỉ tạo ra oán thù, oan oan tương báo không bao giờ chấm dứt. Ngài dạy rằng “Tất cả chúng sanh đều ham sống sợ chết, do đó chớ giết và chớ bảo giết”.
Trong kinh Pháp cú có ghi: “Oán thù diệt oán thù, đời này không thể có, từ bi diệt oán thù, là định luật ngàn thu”. Muốn diệt trừ tận gốc rễ oán thù không thể đứng về một phía. Chỉ có lòng từ bi vô lượng, vô biên mới làm cho các oan gia trái chủ thức tỉnh, sám hối lỗi lầm của mình mà quay về chánh đạo. Khi lấy bảy hạt cơm bỏ vào trong chén nước nhỏ, chư Tăng Ni đem tâm từ bi kiết ấn cam lồ, thành tâm chú nguyện bài kệ:
Pháp lực bất tư nghì Từ bi vô chướng ngại Thất lạp biến thập phương Phổ thí châu sa giới.
Nghĩa:
Pháp lực không nghĩ bàn Từ bi chẳng chướng ngại Bảy hạt biến mười phương Cho khắp vô lượng cõi.
Ý nghĩa trước hết là lòng từ bi có thể cảm hóa được các thế lực xấu ác. Qua bài kệ Xuất sanh, chúng ta thấy rõ được tinh thần cơ bản của đạo Phật: Chỉ có lòng từ bi mới giải tỏa được oán thù để chuyển hóa người ác thành thiện. Ảnh: Internet
Ở đây không chỉ là “do nguyện lực thần chú của Phật mà bảy hạt cơm kia sẽ biến thành cam lồ pháp nhũ khiến cho loài đại bàng ăn no đủ” mà còn là sự lan tỏa của tâm từ. Lòng từ bi có sức mạnh rất phi thường, có thể làm ấm lại những tâm hồn giá lạnh cũng như làm mềm những trái tim sắt đá nhất. Lịch sử tôn giáo đã ghi lại không biết bao nhiêu trường hợp cái xấu ác bị khuất phục bởi tình thương. Trường hợp Đức Phật cảm hóa Vô Não là một điển hình.
Tương tự như nghi thức cúng cháo Mông Sơn Thí Thực buổi chiều, Nghi thức cúng Đại Bàng buổi trưa được phát xuất từ đó, và hơn hai ngàn năm nay truyền thống này vẫn tiếp tục gìn giữ và duy trì. Có người thắc mắc rằng, sao chỉ cúng bảy (7) hạt cơm, có thể làm no đủ loài đại bàng, và 7 hạt cơm có thể thay thể được thịt sống? Theo như trong bài kệ ghi rằng ” Pháp lực bất tư nghì, từ bi vô chướng ngại, thất liệp biến thập phương, phổ thí châu sa giới” Nghĩa là: “Pháp lực khó nghĩ bàn, từ bi vô giới hạn, bảy hạt biến mười phương, biến khắp cõi vô biên”. Các Hòa Thượng cũng dạy rằng do nguyện lực của thần chú của Phật mà bảy hạt cơm kia sẽ biến thành cam lồ pháp nhũ khiến cho loài Đại Bàng ăn no đủ, nhờ lực gia trì của thiện niệm.
Việc cúng Đại bàng còn có ý nghĩa nữa là muốn cho người ta không phạm tội thì trước hết phải đảm bảo được cho họ điều kiện sống cơ bản. Để giúp cho các loài kim sí điểu, la-sát, quỷ tử mẫu… sau khi đã từ bỏ tà pháp mà không quay trở lại con đường cũ bất chính, Đức Phật đã dùng biện pháp thay thế, tức là phải cho chúng thức ăn khác. Điều này có ý nghĩa xã hội vô cùng to lớn đối với mọi thời đại.
Qua bài kệ cúng thí nhỏ trong hành trì của Tăng Ni, ta thấy được bao nhiêu là tâm tình, ước vọng được thể hiện trong đó, về một xã hội an lành, hạnh phúc.
Thanh Tâm (Tổng hợp)
Cập nhật thông tin chi tiết về Ý Nghĩa Bài Kinh Cúng Ngọ Theo Nghi Thức Hệ Phái Khất Sĩ trên website Apim.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!