Xu Hướng 12/2023 # Vì Sao Lại Nói ‘Cúng Quanh Năm Không Bằng Rằm Tháng Giêng’? # Top 19 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Vì Sao Lại Nói ‘Cúng Quanh Năm Không Bằng Rằm Tháng Giêng’? được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Apim.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Dân gian có câu “cúng quanh năm không bằng Rằm tháng Giêng”, vậy tại sao lại nói như vậy và ý nghĩa của câu nói này.

“Cúng quanh năm không bằng Rằm tháng Giêng”

Trong tâm thức của người Việt, Rằm tháng Giêng có ý nghĩa quan trọng vì đầy là ngày Rằm đầu tiên của năm mới. Ngày Rằm tháng Giêng vào mùa xuân, theo quan niệm dân gian, tượng trưng cho sự phát triển, sinh sôi. Vì vậy mà ngày này được coi trọng, người dân gửi gắm vào đó nhiều mong ước về một năm thuận hòa, sung túc.

Câu nói “Cúng quanh năm không bằng Rằm tháng Giêng” nhằm nhấn mạnh ý nghĩa và tầm quan trọng của ngày này. Trong sách “Cơ sở văn hóa Việt Nam”, GS Trần Ngọc Thêm viết không chỉ ngày đầu năm mà tháng đầu năm cũng đặc biệt quan trọng. Theo quan niệm của người Việt, phàm làm bất kỳ điều gì hễ đầu xuôi thì đuôi lọt. Bởi vậy trong những ngày đầu năm, đầu tháng, người dân Việt có tục cúng vái và kiêng kỵ rất được coi trọng.

Người Việt rất coi trọng ngày Rằm tháng Giêng. Vào ngày này, các gia đình chuẩn bị mâm cơm cúng chu đáo dâng tổ tiên. (Ảnh: Tô Hưng Giang)

Rằm tháng Giêng – đó là ngày trăng tròn đầu tiên còn gọi là Tết Thượng Nguyên. Đây là một Tết nằm trong hệ thống Thượng – Trung – Hạ Nguyên. Tết Thượng Nguyên là Rằm tháng Giêng, Tết Trung Nguyên là Rằm tháng Bảy và Tết Hạ Nguyên là Rằm tháng Mười. Ba ngày Tết này mang các ý nghĩa khác nhau. Tết Thượng Nguyên là Tết hướng thiên cầu phúc an lành, Tết Trung Nguyên là địa quan xá tội, Tết Hạ Nguyên là thủy quan giải ách.

Trong tâm thức của người Việt, Rằm tháng Giêng còn được coi là Tết muộn, có ý nghĩa không khác gì ngày Tết Nguyên đán. Bởi dư âm những ngày Tết Nguyên đán vẫn còn khi nhiều gia đình vẫn tiếp tục ăn Tết, gói bánh chưng, chơi mai, đào nở muộn. Ngày nay, ở nhiều vùng, địa phương, vẫn lưu giữ tục lệ này. Thậm chí có nơi còn ăn Rằm to hơn cả những ngày Tết.

Năm 2023, Rằm tháng Giêng rơi vào ngày 8/2 dương lịch. Thời gian này, các gia đình chuẩn bị mâm cúng, thành tâm dâng tổ tiên và thần linh.

Mâm cúng Rằm tháng Giêng thường có bánh trôi. (Ảnh: Tô Hưng Giang)

Còn theo GS Lương Ngọc Huỳnh, ngày Rằm tháng Giêng có ba tích. Thứ nhất, ngày Rằm tháng Giêng là ngày Vía Phật. Đây là ngày Rằm đầu tiên trong năm mới. Tất cả những may mắn nhất của năm mới đều ở ngày này.

Vì thế, đối với những người theo đạo Phật, trừ ngày mùng 1 Tết thì đây là ngày lễ đầu tiên trong năm. Họ lên chùa thắp nén nhang, cầu xin một sự may mắn.

Tích thứ hai, ngày Rằm tháng Giêng là ngày Tết Nguyên tiêu. Thời xưa có một vị vua cứ đến ngày Rằm tháng Giêng là cho mời các trạng nguyên vào hầu triều và để nói chuyện đầu năm. Sau khi các quân vào hầu triều, buổi trưa họ được vua thiết đãi yến tiệc.

Thiết đãi yến tiệc xong, buổi tối, vua và các trạng vào vườn Thượng Uyển để ngắm trăng và vịnh thơ. Các ông trạng sẽ thi nhau đọc thơ để cho vua nghe.

Từ đó, người ta coi ngày Rằm tháng Giêng là ngày Tết Nguyên tiêu, là ngày Tết của các vị vua và trạng.

Thứ 3, ngày Tết Nguyên tiêu là ngày rằm đầu tiên của tổ tiên, dòng họ trong năm mới. Do vậy, chúng ta cũng cần phải lễ tổ tiên trong gia đình.

Trong ngày này, người Việt thường đi lễ chùa và làm mâm cơm cúng dâng lên tổ tiên bày tỏ lòng biết ơn, trân trọng với người đã khuất và mong một năm mới an lành, may mắn.

Những điều kiêng kỵ trong đêm giao thừa để năm mới Canh Tý 2023 may mắn, bình an

Để năm mới may mắn, bình an, cần lưu ý một số điều trong đêm giao thừa như kiêng kỵ mặc quần áo đen – …

Những điều kiêng kỵ ngày Tết nên nhớ để cả năm may mắn, thuận lợi

Người Việt có câu “có thờ có thiêng, có kiêng có lành”, vì thế mọi người đều ghi nhớ những điều kiêng kỵ ngày Tết …

Vì Sao Người Ta Lại Nói: ‘Mượn Hoa Dâng Phật’?

Hiện nay chúng ta thường hiểu câu thành ngữ: “Mượn hoa dâng Phật” là dùng thứ của người khác để đem tặng, tặng không xuất phát từ cái tâm, ý nghĩa gần giống với câu “Của người phúc ta”. Cách hiểu này thực ra hoàn toàn trái ngược với nội hàm chân thực của nó…

“Mượn hoa dâng Phật” vốn có nguồn gốc từ câu thành ngữ Hán Việt “Tá hoa hiến Phật”, là một định ngữ trong Phật giáo, kể lại câu chuyện mối nhân duyên đời xưa của Phật Thích Ca Mâu Ni trước khi tu thành chính quả với người vợ của Ngài.

Truyền thuyết kể rằng: Trước khi tu thành chính quả, Phật Thích Ca Mâu Ni đã trải qua luân hồi nhiều đời. Một trong những đời đó, Ngài là người tu hành Bà La Môn, gọi là Thiện Huệ. Một lần, Thiện Huệ khi đó 16 tuổi tham gia đại hội biện luận của các tăng lữ, được một ít đồ cúng dường, cậu bèn trở về Tuyết Sơn cúng dường sư phụ.

Giữa đường, cậu đi qua một địa phương gọi là thành Liên Hoa. Trong thành trang hoàng vô cùng trang nghiêm thù thắng, thì ra Phật Nhiên Đăng sắp đến đây thuyết Pháp giáo hóa. Thiện Huệ nghĩ: “Chư Phật không cần đồ cúng dường tiền tài, mà vui nhất là cúng dường bằng Pháp, nhưng mình lại chưa đắc Pháp, vậy thì mua hoa cúng Phật”. Nhưng cậu đi tìm tất cả những cửa hàng hoa mà cũng không mua được một bông. Thì ra quốc vương đã bao tiêu tất cả các cửa hàng hoa, ông muốn đem hoa cúng Phật, nên hạ lệnh cho các cửa hàng hoa không được phép bán hoa cho người khác.

Thiện Huệ đi khắp nơi tìm kiếm, gặp một thiếu nữ áo xanh đang lấy nước, thấy cô cất giữ 7 bông hoa sen xanh (Utpala) ở trong bình nước. Thiện Huệ vô cùng vui mừng, muốn dùng 500 lượng vàng mua hoa.

Thiếu nữ áo xanh nói: “Tôi muốn dùng những bông hoa này cúng dường Phật Đà”.

Thiện Huệ hỏi: “Vậy cô có thể bán cho tôi 5 bông, cô giữ 2 bông được không?”

Thiếu nữ hỏi: “Anh mua hoa làm gì?”

Thiện Huệ đáp: “Tôi muốn mua hoa cúng dường Phật Nhiên Đăng, để cầu tương lai thành tựu Phật quả”.

Thiếu nữ ngắm nhìn kỹ cậu, sau đó nói: “Tôi thấy anh phát tâm dũng mãnh, cầu Pháp tinh tấn, tương lai sẽ thành đại quả vị. Nếu anh đáp ứng với tôi rằng, trước khi anh đắc Đạo thì sẽ đời đời lấy tôi làm vợ, sau khi đắc Đạo thì cho phép tôi xuất gia làm đệ tử của anh, thế thì tôi sẽ tặng hoa cho anh”.

Thiện Huệ nói: “Để đắc Đạo, tôi sẽ buông bỏ hết thảy phú quý vinh hoa, bao gồm cả vợ con, cô có nguyện ý không? Hơn nữa, nếu vì tình yêu của cô mà trở ngại tôi tu Đạo, tội nghiệp của cô sẽ rất lớn. Nếu cô có thể phát nguyện, tương lai tuyệt đối không cản trở hết thảy việc bố thí của thôi, thì tôi sẽ đáp ứng với cô đời sau sẽ lấy cô làm vợ”.

Đôi thiếu niên nam nữ này đều có tâm kiên định cầu Đạo, thế là cùng cam kết với nhau. Thiếu nữ đưa cả 7 bông hoa cho Thiện Huệ, hai bông trong số đó, nhờ cậu thay cô dâng lên cho Phật Đà.

Khi đó, quốc vương và đại chúng đều ra khỏi thành nghênh đón Phật Nhiên Đăng. Thiện Huệ cũng nhanh chóng đến cổng thành, đem 7 bông hoa sen tung lên không về phía Phật Nhiên Đăng. 5 bông hoa quay xuống dưới, giống như một cái lọng vàng che phía trên đỉnh đầu Phật Đà, còn hai đóa hoa của cô thiếu nữ áo xanh kia cúng dường cũng nở trên hai vai Phật Đà.

Lúc đó mặt đất ẩm ướt, còn có một rãnh nước; để tránh làm bẩn chân Phật, Thiện Huệ cởi chiếc áo da hươu của mình ra, trải lên mặt đất, lại lấy tóc của mình trải lên, mặt cúi trên chỗ lầy lội, để Phật Đà giẫm lên thân thể mình đi qua.

Phật Nhiên Đăng cảm niệm được sự thành kính từ nội tâm của Thiện Huệ, thế là Ngài thọ ký cho cậu và nói: “Vô lượng kiếp sau, con nhất định thành Phật, hiệu là Thích Ca Mâu Ni”.

Đây chính là nguồn gốc câu thành ngữ “Tá hoa hiến Phật”.

Chữ “hiến” trong câu “Tá hoa hiến Phật” không chỉ có nghĩa là cúng dường, dâng cúng trên bề mặt, mà còn tượng trưng cho lòng thành tín xả thân cầu Phật. Chữ “hoa” ở đây có nghĩa là hoa Utpala (Ưu bát la hoa), tức là hoa sen xanh.

Thiếu nữ áo xanh sau này trở thành vợ của Phật Thích Ca Mâu Ni trước khi đắc Đạo, tức thái tử phi Da Du Đà La (Yasodharā). Sau này quy y Phật môn, bà trở thành tỳ kheo ni đầu tiên, chứng ngộ được quả A La Hán.

Quốc vương mua hoa cúng dường Phật Nhiên Đăng đương nhiên cũng là lòng chân thành, mong muốn thông qua cúng dường Phật mà thoát khỏi bể khổ trần thế, kiến lập công đức cho mình. Nhưng ông không cho phép người khác mua hoa cúng Phật, do đó lòng thành tín của ông đối với Phật là vị tư, là vì lợi ích cá nhân.

Thiếu nữ áo xanh cúng dường Phật là vô tư, cô có thể buông bỏ độc hưởng, nguyện ý chia sẻ công đức với người khác.

Thiện Huệ và thiếu nữ áo xanh cúng dường Phật đều không vì cầu phúc báo, chỉ vì đắc Đạo chân chính.

Vì kính Phật, Thiện Huệ thậm chí không tiếc hết thảy mọi giá. Do đó “Tá hoa hiến Phật”, mấu chốt không phải là “hoa”, mà là là cái tâm chí thành xả bỏ hết thảy.

Vì Sao Người Ta Lại Nói: ‘ Mượn Hoa Cúng Phật Nghĩa Là Gì

Rate this post

tá hoa hiến phật(借花獻佛) Mượn hoa dâng Phật. Dụng ngữ này có xuất xứ từ các chuyện bản sinh của đức Phật ghi trong: Phẩm Thụ quyết định kí trong kinh Phật bản hạnh tập quyển 3, 4, phẩm Hiện biến trong kinh Tu hành bản khởi quyển thượng và kinh Thái tử thụy ứng bản khởi quyển thượng. Theo các kinh trên, thủa xưa, có đệ tử của 1 người Bà la môn tên là Thiện tuệ đi tham học các nơi, khi đến thành Liên hoa, nghe tin đức Phật Nhiên đăng sắp đến đó thuyết pháp, Thiện tuệ muốn dâng hoa tươi cúng Ngài, nhưng nhà vua đã thu mua hết để cúng dường Phật. Thiện tuệ tìm khắp trong thành nhưng không được bông nào. Sau, Thiện tuệ gặp 1 tì nữ trẻ tuổi bên cạnh giếng, tay cầm 1 bình hoa có 7 cọng ưu bát la, Thiện tuệ liền khẩn thiết xin hoa, người tì nữ cảm động trước lòng chí thành của Thiện tuệ nên cho 5 cọng, còn 2 cọng thì gửi Thiện tuệ dâng cúng Phật để tích góp công đức cho mình, nhưng với điều kiện Thiện tuệ phải hứa: Khi chưa chứng được Thánh đạo thì đời đời kiếp kiếp kết làm vợ chồng. Vì lòng xin hoa tha thiết nên Thiện tuệ chấp nhận điều kiện đó. Sau khi được hoa, Thiện tuệ đến cửa thành dâng hoa cúng Phật Nhiên đăng, Ngài thụ kí cho Thiện tuệ trong vô lượng kiếp sau, sẽ được thành Phật hiệu là Thích ca mâu ni.

Đang xem: Mượn hoa cúng phật nghĩa là gì

Thiện tuệ tức là tiền thân của Phật Thích ca mâu ni, còn người tì nữ là tiền thân của Da du đà la. Kinh Quá khứ hiện tại nhân quả quyển 1 (Đại 3, 622 thượng) nói: Nay, tôi là con gái yếu đuối không thể đến đó được, vậy xin gửi 2 bông hoa dâng cúng Phật. Trong nguyên văn không có từ ngữ Tá hoa hiến Phật. Có chỗ nói có lẽ chữ Tá (mượn) đã viết lầm từ chữ Kí (.. ) (gửi), vì nội dung câu chuyện không có nghĩa mượn mà là nghĩa gửi. .

KINH LĂNG NGHIÊM HÀNH GIẢI – Đương Đạo – TTT 2023

Từ Chánh Niệm Đến Giác Ngộ ( Cẩm Nang Của Người Tu Thiền) – Tác Giả: Thiền Sư Ajahn Brahm

Những Điểm Thiết Yếu Của Đại Ấn: Nhìn Thẳng Tâm

Kinh Lăng Nghiêm giảng giải – Tác Giả: HT Thích Thiện Hoa

Vì Sao Lại Cúng Sao Giải Hạn?

Câu chuyện cúng sao giải hạn

Hồi chiều, vào FB thấy ở phần tin nhắn có “số đỏ”, bấm xem thấy một “bạn” nhắn: Chúc thầy năm mới mạnh khỏe, mọi việc như ý. Nhân tiện cho MH hỏi là việc cúng sao giải hạn có thật là hiệu quả không?. Lúc sáng, nhỏ bạn rũ con đến chùa… Lúc đầu con chỉ lạy Phật cầu nguyện cho gia đình bình an thôi, nhưng nó kéo con đến thầy…coi sao, Thầy ấy nói là năm nay con sao Kế Đô, hạn xấu, phải cúng giải hạn mới được yên. Con ra về mà lo lắng quá, thầy có cúng sao giúp con hết hạn được không thầy?.

Lễ vật cúng sao giải hạn của Bà-la-môn giáo ở Ấn Độ.

– Câu hỏi lần này chẳng lẽ tôi lại trả lời (huề vốn) là …bạn nên hỏi ông Google xem cho chắc (như mấy câu hỏi lần trước thì..kỳ quá), mà trả lời thì e rằng sẽ có “động chạm” không ít …. Vì mùa này là mùa …cúng sao mà.

– Tôi hồi âm liều là… bạn muốn cúng sao hay không cúng sao thì cũng…chẳng sao đâu, quan trọng ở chỗ là mỗi ngày bạn sống có chúng tôi sao hay không thôi. (Hì hì).

Cúng sao giải hạn là của Bà-la-môn giáo

– Tập tục cúng sao vốn có từ rất xưa trong Bà-la-môn giáo ở Ấn Độ, sau đó ảnh hưởng đến Trung Hoa, rồi mới qua nước Việt Nam.

– Các nhà Chiêm tinh xưa cho rằng mỗi năm mỗi người đều có 1 trong 9 sao chiếu. Chín vị sao này, Phạn ngữ gọi là Navagraha, Trung Hoa dịch là Cửu diệu, trong đó có: 3 sao tốt: Thái dương, Thái Âm, Mộc đức. 3 sao xấu: La hầu, Kế đô, Thái bạch. và 3 sao trung: Vân hớn, Thổ tú, Thủy diệu. Và họ cho rằng ai trúng vào sao xấu chiếu mạng thì phải cúng giải hạn mới …hết hạn. – Tôi nghĩ, nếu 9 vị thần sao đó có khả năng “điều khiển”, làm chủ vận mạng của ta, hay “xí xóa” khỏa lấp được những việc làm xấu ác của con người, thì luật công bằng, nhân quả ở đâu?. Chúng ta đã hiểu rõ chưa về giáo lý Nhân quả mà Đức Phật truyền đạt?. (Hay là: “hiểu rồi, nhưng mà…phương tiện trong phương tiện”,…hay lo sợ “nếu mình không tổ chức cúng sao thì sẽ không có tín đồ đến chùa…”?). – Kinh Phật có câu: “Muốn biết quá khứ chúng ta đã gieo nhân gì (làm tốt hay xấu) thì cứ nhìn cái quả (vui hay khổ) mà chúng ta đang có hôm nay. Muốn biết tương lai chúng ta thế nào thì cứ nhìn cái nhân chúng ta đang gieo trồng trong hiện tại”.

Đức Phật cũng đã khuyên các thầy Tỳ Kheo, không nên làm những việc xa rời chánh pháp như: “chiêm tinh, chiêm tướng, đoán số mạng, xem mặt trăng, mặt trời, các sao mọc lặn, sáng mờ, …, dùng bùa chú để giúp người được may mắn, dùng bùa chú để khiến người bị rủi ro, …” (Trong Kinh Trường Bộ – Kinh số 2, Sa Môn Quả).

Những vị thầy xuất gia có bao giờ họ làm lễ dương sao, cúng sao, giải hạn cho mình đâu! những bậc thầy luôn chuyên tâm tu hành thiện pháp, làm phước là chuyển nghiệp thì đó là cúng sao giải hạn rồi.

” Chờ đợi các vì sao, Kẻ ngu hỏng điều lành, Điều lành chiếu điều lành, Sao trời làm gì được?”

Hạo Nhiên / Phật học đời sống

Viết theo quan điểm của tác giả

Vì Sao Lại Phải Cúng ‘Cô Hồn’ ?

Người làm ăn buôn bán, tài xế… cúng cô hồn vào hai ngày mùng 2 và 16 âm lịch hàng tháng. Tục vào tháng 7 lễ Vu Lan là văn hóa tâm linh nên dân gian bày mâm cúng cho các vong linh không nhà cửa, không nơi nương tựa để cầu gia đạo được bình an, ma quỷ không quấy phá.

Tuy nhiên ngày nay cứ vào ngày 16 tháng 7 âm lịch cho đến hết tháng, tục cúng cô hồn bị biến tướng. “Cô hồn sống” dạo quanh khắp các hẻm cùng ngõ cụt để chờ gia đình nào bày mâm cúng là nhào vô vét tất tần tật khi gia chủ chưa kịp thắp nhang. Hình ảnh biến tướng này ở hầu hết tại TP.HCM.

Gia chủ này cẩn thận với những người đi giựt cô hồn – Ảnh tư liệu

Trang Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, viết: “Tín ngưỡng cổ truyền tin rằng con người có hai phần: hồn và xác. Khi chết, hồn lìa khỏi xác, xác bị phân hủy còn hồn sẽ tiếp tục tồn tại. Hồn có thể về trời, hoặc đầu thai kiếp khác (làm người hoặc vật), hoặc bị đày xuống địa ngục tùy theo những điều lành hay dữ mà người đó làm khi còn sống. Tuy nhiên, dân gian cũng tin rằng, nếu một người bị chết oan hoặc do tác động của những nghiệp xấu, các cô hồn không (hoặc chưa) được cõi nào tiếp nhận, phải lang thang và chịu đói rét, hoặc quấy rối người sống.

Lễ vật cúng cô hồn. Ảnh tư liệu

Vì tin có linh hồn nên đa số người Việt Nam giữ tục lệ thờ cúng tổ tiên và người thân đã qua đời, kể cả khi việc thờ cúng này không phù hợp với giáo lý của tôn giáo mà họ theo. Cúng cô hồn có thể là một hành vi mang tính nhân đạo, để “cứu giúp” những linh hồn khốn khổ. Nhưng đồng thời, cúng cô hồn cũng có thể là một hình thức “hối lộ” để khỏi bị các oan hồn quấy phá, hoặc để được họ “hỗ trợ”.

Mâm cúng có cả đồ chay lẫn đồ mặn. Ảnh Zing

Có những gia đình làm kinh doanh, họ cúng cô hồn nhiều lần trong năm, thường vào các ngày 2 và 16 âm lịch mỗi tháng. Trong các dịp cúng giỗ, ngoài cúng vái tổ tiên, người ta còn làm một mâm cỗ để cúng cô hồn. Dịp cúng cô hồn lớn nhất là ngày rằm tháng bảy, trùng với lễ Vu Lan của Phật giáo. Một số người tin rằng việc cúng cô hồn bắt nguồn từ ngày lễ Vu Lan này”.

Khoảng hơn 20 người chờ, giành tiền và đứng xem một cửa hàng kinh doanh thuốc bắc tại ngã tư Trần Hưng Đạo – Phùng Hưng, quận 5 rải những xấp tiền lẻ xuống đường chiều muộn ngày 28-8. Ảnh Zing Gia chủ ném cả tiền thật. Ảnh Dân trí

Cũng theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: “Để cúng, người ta hay thắp hương, đèn (hoặc nến). Thường thì người ta khấn vái thầm thì với nội dung mời “bà con cô bác” (ý nói các cô hồn) thụ hưởng các món cúng. Đôi khi người ta đọc một bài văn tế cô hồn (thường là dạng văn vần), trong đó có thể miêu tả các cái chết thảm khốc. Bài văn tế nổi tiếng nhất có lẽ là bài Văn tế thập loại chúng sinh của đại thi hào Nguyễn Du. Nhiều bài tế cô hồn phóng tác dựa theo tác phẩm này với nội dung phù hợp với hoàn cảnh của địa phương nơi cúng.

Cảnh chờ giật cô hồn gây ùn tắc giao thông. Ảnh NLĐ

Buổi cúng thường kết thúc với việc vãi gạo, muối ra sân, ra đường và đốt vàng mã. Ở vài nơi, người ta cho phép trẻ con cướp (cỗ) cô hồn khi việc cúng được tiến hành xong”.

Lễ vật cúng cô hồn

– Tiền vàng từ 15 lễ trở lên, quần áo chúng sinh từ 20 đến 50 bộ.

– Tiền chúng sinh (tiền trinh), hoa, quả 5 loại 5 mầu (ngũ sắc).

– Bỏng ngô, khoai lang luộc, ngô luộc, sắn luộc.

– Kẹo bánh. Tiền mặt (tiền thật, các loại mệnh giá).

– Nếu cúng thêm cháo thì thêm mâm gạo muối (5 bát, 5 đôi đũa hoặc thìa)

Chú ý: Không cúng xôi, gà. Khi rải tiền vàng ra mâm, để 4 hướng Đông, Tây, Nam, Bắc, mỗi hướng từ 3-5-7 cây hương. Bày lễ và cúng ngoài trời.

Vì Sao Lại Gọi Là Mâm Ngũ Quả

Con số 5 “ngũ hành” là một con số rất tốt trong quan niệm phong thủy, thể hiện sự phát triển bền vững, mạnh mẽ. Chính vì vậy, mâm ngũ quả ngày Tết nhằm thể hiện mong muốn âm dương hòa hợp, sinh sôi nảy nở, phát triển. Và cũng bởi thế, cho nên ông cha ta đã chọn 5 loại trái cây để cúng vào đêm giao thừa với ngụ ý rằng: những sản vật này được đúc kết từ biết bao công sức, mồ hôi và nước mắt của người lao động, kính dâng lên đất trời, thần thánh trong giờ phút linh thiêng của vạn vật sinh tồn.

Ý nghĩa của các loại quả thường được bày biện trên mâm ngũ quả ngày Tết

Chuối: tượng trưng cho con cháu sum vầy, quây quần, đầm ấm hạnh phúc bên nhau và cùng nhau hứng lấy may mắn, luôn bao bọc và che chở cho nhau suốt đời.

Phật thủ: tượng trưng cho bàn tay khổng lồ của Phật Tổ Như Lai luôn che chở cho cả gia đình.

Bưởi: thể hiện mong muốn an khang, thịnh vượng.

Lê, Đào, Cam, Quýt: tượng trưng cho sự thành đạt danh vọng, thăng tiến trong sự nghiệp.

Lựu: mong muốn con đàn cháu đống.

Táo: tượng trưng cho sự phú quý, giàu sang.

Thanh long: tượng trưng cho rồng mây hội tụ, thể hiện sự phát tài phát lộc.

Quả trứng gà/ Lêkima: là lộc trời cho.

Mỗi loại quả có 1 ý nghĩa khác nhau

Dưa hấu: căng tròn, mát lành thể hiện sự ngọt ngào, may mắn.

Sung: gắn với biểu tượng sung mãn, sức khỏe và tiền bạc.

Đu đủ: nghĩ là đầy đủ, tượng trưng cho sự thịnh vượng.

Xoài: phát âm giống như “xài” tượng trưng cho cầu mong việc tiêu xài không thiếu thốn.

Mặc dù thường có những thức quả trên và đã gọi là mâm ngũ quả thì tất nhiên sẽ phải có đủ 5 loại quả thế nhưng theo từng quan niệm của vùng miền đồng thời phụ thuộc vào mùa xuân hoa trái khác nhau mà mâm ngũ quả ngày Tết cũng có sự khác nhau.

Mâm ngũ quả của người miền Bắc

Ở miền Bắc, đa số mọi người đều bày biện mâm ngũ quả theo thuyết Ngũ hành trong văn hóa phương Đông là nhất nhất vạn vật phải dung hòa cùng trời đất. Do đó, mâm ngũ quả cũng thường phải phối theo 5 màu: kim trắng, mộc xanh, thủy đen, hỏa đỏ, thổ vàng.

Mâm ngũ quả đầy đủ theo ngũ hành của miền Bắc

Năm loại quả xuất hiện trong mâm cúng của người miền Bắc tượng trưng cho ngũ hành, sự đơm hoa kết trái, viên mãn, tròn đầy. Chuối xanh tượng trưng cho hành mộc, như bàn tay hứng lấy may mắn. Quả phật thủ hay quả bưởi có màu vàng là hành thổ, với ý nghĩa đem phúc lộc đầy nhà. Các loại quả đỏ như cam, quýt, hồng là hành hỏa, quả trắng như roi, đào là hành kim và quả đen như mận, hồng xiêm, nho là hành thủy.

Mâm ngũ quả của người miền Nam

Mâm quả Tết: “Cầu vừa đủ xài”: Với tâm hồn phóng khoáng, người miền Nam thường bày các loại quả chính là mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài, đọc chệch thành “cầu vừa đủ xài”, với mong muốn có một năm mới nhiều tài lộc. Các gia đình cho thêm quả sung – tượng trưng cho sự sung mãn về sức khỏe, tiền bạc.

Mâm ngũ quả của miền Nam không có quả chuối

Ngoài ra, còn có thêm quả thơm (dứa) với mong muốn là con đàn cháu đống đầy nhà hay một cặp dưa hấu xanh vỏ đỏ lòng để cầu xin sự may mắn. Trong khi, mâm ngũ quả ngày Tết của người miền Bắc có thể thờ chuối, lê…thì người miền Nam lại rất kỵ một số loại quả có phát âm mang tên gọi với ý nghĩa không tốt như chuối gần với từ chúi nhủi, làm ăn không phất lên được, cam, quýt với ý nghĩa cam làm quýt chịu, lê gần với lê lết, đổ bể, thất bại.

Mâm ngũ quả của người miền Trung

Miền Trung được ví như là đòn gánh đỡ 2 đầu Nam Bắc của đất nước ta. Nơi đây vốn là mảnh đất nghèo khó, đất đai cằn cỗi, khí hậu khắc nghiệt và không hề nhận được sự ưu ái của thiên nhiên ban tặng một chút nào. Do đó, vào dịp Tết Nguyên đán, ở đây rất ít hoa quả nên người dân cũng không quá câu nệ hình thức. Không cầu kỳ như miền Bắc hay có ý nghĩa đặc biệt như miền Nam, mâm ngũ quả của người miền Trung thường là có gì cúng nấy, chủ yếu là thành tâm dâng kính tổ tiên.

Mâm ngũ quả của miền Trung không cầu kỳ như miền Bắc

Mâm ngũ quả của các tỉnh miền Trung, thường bao gồm thanh long, dưa hấu, xoài, bưởi, nho, táo, cam, lê, mãng cầu, dứa, chuối xanh,… khéo léo điểm thêm những bông cúc vàng xung quanh và đặt thêm hai quả dưa hấu hai bên, tạo dáng cho mâm ngũ quả như hình tháp, thêm phần vững chắc. Với cách bài trí đơn giản, không quá cầu kỳ, qua đó cũng thể hiện phần nào tính cách chân chất của người dân nơi đây. Tuy nhiên, họ không hay dùng chuối xanh (đắng, chát), mà thường lựa những loại quả ngọt ngào, tròn thơm để cầu mong một năm mới an vui, thuận lợi.

Cập nhật thông tin chi tiết về Vì Sao Lại Nói ‘Cúng Quanh Năm Không Bằng Rằm Tháng Giêng’? trên website Apim.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!