Xu Hướng 3/2023 # Vài Nét Về Chữ Hiếu Trong Đạo Cao Đài Qua Quyển Kinh Thiên Đạo Và Thế Đạo # Top 11 View | Apim.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Vài Nét Về Chữ Hiếu Trong Đạo Cao Đài Qua Quyển Kinh Thiên Đạo Và Thế Đạo # Top 11 View

Bạn đang xem bài viết Vài Nét Về Chữ Hiếu Trong Đạo Cao Đài Qua Quyển Kinh Thiên Đạo Và Thế Đạo được cập nhật mới nhất trên website Apim.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Thiên Đạo (the Way of Heaven) là con đường tu tập để giải thoát con người khỏi vòng luân hồi, để linh hồn được đến cảnh cực lạc, niết bàn (cũng gọi là cõi thiêng liêng hằng sống, bồng lai, nước Trời, Thiên Quốc, v.v…).

Muốn theo Thiên Đạo thì trước tiên tín đồ phải nhớ làm tròn phần Nhân Đạo (Nhơn Đạo). Đức Chí Tôn dạy: “Hễ Nhơn Đạo thành thì là phù hạp Thiên Đạo.” (1) Thánh ngôn lại dạy: Rằng ở đời thì Nhơn Đạo trọn, Trọn rồi Thiên Đạo mới hoàn toàn.(2)

Trong Nhân Đạo, điều gì là chánh yếu? Đó là chữ Hiếu. Thật vậy, trong dịp kỷ niệm lễ vía Đức Khổng Tử (ông Tổ đạo Nho, tức là Đức Khổng Thánh Tiên Sư), Ngài giáng đàn dạy như sau: Hiếu phần chánh của Nhân Đạo vậy, Hiếu phụ thì mới thấy hiếu nhi, Hiếu tâm ngày tháng nhớ ghi, Hiếu thường thăm viếng vui thì song thân.(3)

Cũng vậy, Đức Ni Sư Diệu Lộc dạy: “Từ cõi Thiên Đình hay niết bàn, bồng lai, tiên cảnh đến cửa đạo đức, không một vì Phật Tiên Thánh Thần hay nhà lãnh giáo [lãnh đạo tôn giáo] nào thiếu trung, hiếu, tín, nghĩa, nhân, lễ, liêm, sỉ mà nên.” (4)

Nhân Đạo (the Way of Man) là đạo làm người, là con đường tu tập để hoàn thiện hóa con người, bao gồm nhiều nội dung quy định các mối quan hệ giữa người với người.

Chữ Nho gọi các mối quan hệ giữa người với người (human relations) là Luân 倫. Khi nhấn mạnh đến phương diện đạo đức của các mối quan hệ người và người thì gọi là Nhân Luân (human ethical relations). Khi nhấn mạnh đến ý nghĩa nguyên tắc sống giữa người với người thì gọi là Luân Lý (ethical principles). Chữ Lý nghĩa là nguyên tắc, quy luật (principle).

Nho Giáo chia các mối quan hệ đạo đức của con người sống trong xã hội thành năm nhóm, gọi chung là Ngũ Luân. Theo Nho Giáo, năm mối quan hệ đạo đức này là chính yếu, chủ yếu, cốt yếu (cardinal) của đời người. Hiểu như thế nên phương Tây thường dịch Ngũ Luân là the Five Cardinal Relationships.

Ngũ Luân gồm có: Quân thần, phụ tử, phu thê, huynh đệ, bằng hữu. Điều này có chép trong sách Trung Dung (chương 20, đoạn 2).(5) Giáo lý đạo Nho là một bộ phận nòng cốt của giáo lý Cao Đài. Nên phần Nhân Đạo của Cao Đài cũng dạy tín đồ phải làm tròn những bổn phận quy định trong Ngũ Luân. Chữ Hiếu trong Ngũ Luân thuộc về mối quan hệ phụ tử (hiểu theo mặt chữ là cha con, ngày nay nên hiểu khái quát là ông bà, cha mẹ và con cái).

*  *  *

Các nhà đạo đức học phương Tây hay bảo rằng con người có xu hướng phạm lỗi (Man is error-prone). Cũng thế, ngày 21-10-1925 (04-9 Ất Sửu), Đức Quan Âm Bồ Tát dạy: “Người ở thế mấy ai khỏi lỗi…”

Có lỗi thì phải biết tỉnh ngộ mà sửa chữa. Đức Quan Âm Bồ Tát dạy:

Người ở thế mấy ai khỏi lỗi, Biết lạc lầm sám hối tội căn,(6) Tu tâm sửa tánh ăn năn, Ba Giềng (7) nắm chặt, Năm Hằng (8) chớ lơi.(9)

Do đó, để giúp con người làm tròn phần Nhân Đạo của mình, tức là đắp nền tảng cho phần Thiên Đạo, trong quyển Kinh Thiên Đạo Và Thế Đạo của Cao Đài, bài Kinh Sám Hối (dài 444 câu song thất lục bát) được đặt trong phần Kinh Thiên Đạo.

Trong Kinh Sám Hối, ngày 22-4-1925 (30-3 Ất Sửu), Ðức Thái Thượng Lão Quân dạy về chữ Hiếu như sau: Làm con phải trau giồi hiếu đạo, Trước là lo trả thảo (10) mẹ cha, Lòng thành thương tưởng ông bà, Nước nguồn cây cội mới là tu mi.(11) (12)

Cũng trong Kinh Sám Hối, để răn những kẻ bất hiếu, ngày 25-8-1925 (06 rạng 07-7 Ất Sửu), Ðức Tề Thiên Đại Thánh dạy:

Con bất hiếu, xay, cưa, đốt, giã, Mổ bụng ra, phanh rã tim gan, Chuyển thân trở lại trần gian, Sanh làm trâu chó, đội mang lông sừng.(13)

Ngoài Kinh Sám Hối, trong phần Kinh Thiên Đạo có những bài kinh nhật tụng, cúng vào bốn giờ Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu trong ngày (gọi là kinh cúng tứ thời). Trong đó, ở bài kinh xưng tán Nho Giáo có câu: “Khai nhơn tâm tất bổn ư đốc thân chi hiếu.”

Câu kinh này ngụ ý nhắc nhở tín đồ bốn lần mỗi ngày rằng việc giáo hóa cho con người mở mang tâm trí tất yếu đặt trên căn bản là dạy kẻ làm con phải hết lòng hiếu kính cha mẹ (đốc thân chi hiếu).(14)

*  *  *

Trong phần Kinh Thế Đạo, gồm hai mươi bài, thì chữ Hiếu được dạy trong bài 16: Kinh Tụng Cha Mẹ Ðã Quy Liễu.

Bài kinh này dài ba mươi hai câu. Mở đầu bài kinh (câu 1-4) liền nhắc đến công ơn cha mẹ nhọc nhằn, khổ cực nuôi nấng con cái. Cha mẹ mất đi là một mất mát lớn của kẻ làm con vì không còn được báo hiếu.

Ơn cúc dục cù lao (15) mang nặng, Lỡ thân côi mưa nắng khôn ngừa, Âm dương cách bóng sớm trưa, Thon von phận bạc không vừa hiếu thân.(16)

Nhà Nho cho rằng hiếu là duy trì được nòi giống huyết tộc của tổ tiên truyền lại. Ngoài ra, con cháu phải biết sống ở đời đúng theo đạo nghĩa để giữ thơm danh tiếng của gia tộc, tức là không làm những điều xấu xa, tội lỗi để gia tộc khỏi phải hổ thẹn, nhục nhã.

Bài Kinh Tụng Cha Mẹ Ðã Quy Liễu (câu 21-22) phản ánh luân lý nhà Nho về chữ hiếu như sau: Nối hương lửa nhơn luân đạo trọng, Con gìn câu chết sống trọn nghì.(17)

Theo Cao Đài, cách báo hiếu đúng nhất là con cháu nên biết tu hành, biết lập công bồi đức để hồi hướng về tổ tiên, cha mẹ. Vì thế giáo lý Cao Đài dạy rằng tu là cứu cửu huyền thất tổ, tu là giúp cho linh hồn các vị đã lìa trần được siêu thăng và lập được ngôi vị ở cõi trời.

Bài Kinh Tụng Cha Mẹ Ðã Quy Liễu vì thế có bốn câu (câu 25-28) vừa để nhắc nhở chơn hồn cha (hay mẹ) hãy tu học ở cõi vô hình, vừa để con cái hứa nguyện với người đã khuất là phận làm con cũng ráng lo tu ngõ hầu báo hiếu để cha (hay mẹ) phục hồi được ngôi vị cũ ở cõi trời.

Thí dụ, người mất cha sẽ khấn nguyện:

Xin phụ thân (18) định thần định tánh, Noi khuôn linh nẻo Thánh đưa chơn [chân], Thong dong cõi thọ nương hồn, Chờ con lập đức giúp huờn [hoàn] ngôi xưa.

Bài kinh nói trên do Đức Ðoàn Thị Ðiểm giáng cơ ban cho. Tiền kiếp Ngài là danh Nho Việt Nam, bút danh Hồng Hà Nữ Sĩ (1705-1748). Quả vị của Ngài trong Tam Kỳ Phổ Độ là Giác Minh Thánh Đức.(19)

*  *  *

Phú Nhuận, 11-11-2010.

(1) Tòa Thánh Tây Ninh, Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Quyển 1: Đàn ngày 01-3-1927. (2)Tòa Thánh Tây Ninh, Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Quyển 1: Thi Văn Dạy Đạo, bài 92. (3) Hườn Cung Đàn (Tam Giáo Điện Minh Tân, quận 4), đàn đêm 30 rạng sáng 01-9 Nhâm Dần (28-9-1962). (4) Đàn cơ tại Chơn Lý Đàn (Vạn Quốc Tự, quận 3), ngày 01-5 Kỷ Dậu (15-6-1969). (5) Thay vì huynh đệ, trong sách Trung Dung viết côn đệ. Chữ côn có nghĩa là anh (huynh). (6) Tội căn: Cội rễ gây ra lỗi lầm, tội lỗi (the root of sins). (7) Ba Giềng: Tam Cang (Cương), gồm ba mối quan hệ xã hội: 1. Quân thần cang là quan hệ chánh phủ và người dân (dân trung thành với Tổ Quốc, chánh phủ chăm lo cho dân); 2. Phụ tử cang là quan hệ cha mẹ và con cái (cha mẹ thương yêu con, con hiếu thảo với cha mẹ); 3. Phu thê cang là quan hệ vợ chồng (chung thủy). (8) Năm Hằng: Ngũ Thường, gồm năm đức tính mà con người phải luôn luôn có: 1. Nhân: Lòng thương người, thương vật (tương ứng giới cấm Nhứt bất sát sanh); 2. Nghĩa: Cách sống hợp lẽ phải, đạo đức (tương ứng giới cấm Nhị bất du đạo); 3. Lễ: Sự trang nghiêm, khuôn phép, đứng đắn trong tư tưởng và hành vi. Thí dụ: ăn nói tục tằn; xem những hình ảnh, sách vở thô tục; ham muốn sắc dục ngoài tình vợ chồng… đều là trái lễ (tương ứng giới cấm Tam bất tà dâm); 4. Trí: Sáng suốt, biết phân biệt phải trái nên hư, biết lúc nào tiến lúc nào lui (tương ứng giới cấm Tứ bất tửu nhục, vì say sưa làm tâm trí mê muội); 5. Tín: Đối với bản thân thì tự tin ở mình; đối xử với người khác thì không dối trá, lừa gạt; đối với các Đấng thiêng liêng thì làm đúng những gì đã nguyện hứa (tương ứng giới cấm Ngũ bất vọng ngữ). (9) Tòa Thánh Tây Ninh, Kinh Thiên Đạo Và Thế Đạo: bài Kinh Sám Hối, câu 425-428. (10) Trả thảo: Trả hiếu, báo hiếu (to fulfil one’s filial duty). (11) Tu mi: Đàn ông, kẻ mày râu (tu: râu; mi: lông mày). Phụ nữ không có râu lại thường cạo hoặc nhổ sạch lông mày để vẽ cho đẹp; do đó tu mi chỉ đàn ông. (12) Kinh Sám Hối, câu 49-52. (13) Kinh Sám Hối, câu 329-332. (14) Thân nghĩa là cha, mẹ. Gọi cha là phụ thân, mẹ là mẫu thân, cả cha và mẹ là song thân. (15 ) Cúc dục: Nuôi nấng. Cù lao: Vất vả, khổ nhọc. (16) Thân: Cha, mẹ. Hiếu thân: Báo hiếu cha, mẹ. (17) Trọn nghì: Trọn nghĩa. (18) Người mất mẹ thì đọc: Xin mẫu thân… Nếu mất cả cha và mẹ thì đọc: Xin song thân… (19) Hội Thánh Tam Quan, Kinh Tam Thừa Chơn Giáo. Quyển 1 (phẩm Tiểu Thừa): bài Tam Tùng Tứ Đức, đàn cơ ngày 19-8 Canh Tý (09-10-1960).

Giới Thiệu Khái Quát Về Đạo Cao Đài – Cecrs

Đầu thế kỷ XX, chính quyền thực dân Pháp và triều đình phong kiến nhà Nguyễn tăng cường áp bức bóc lột, vơ vét tài nguyên, đàn áp nhân dân để phục vụ lợi ích của chúng. Cuộc sống của nhân dân lao động, đặc biệt là người nông dân Nam bộ bị bần cùng hoá, phải đi làm thuê, làm mướn. Các cuộc đấu tranh của nhân dân đều thất bại. Bất lực trong cuộc sống, khủng hoảng về tư tưởng, đồng thời các tôn giáo và đạo lý đương thời bị suy thoái đây là tiền đề và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của đạo Cao đài.

Tòa thánh Cao đài Tây Ninh

            Phong trào Thông linh học của phương Tây phát triển nhanh tại Nam bộ, tạo thành phong trào cầu cơ, chấp bút gọi tắt là “cơ bút”. Trong các đàn cơ này, có hai nhóm chính hình thành đạo Cao đài. Nhóm thứ nhất do ông Ngô Minh Chiêu cầu cơ tại các đền, chùa thuộc các nhóm Ngũ chi Minh đạo. Nhóm thứ hai gồm ba ông: Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài Sang, Phạm Công Tắc tổ chức xây bàn cầu cơ nhằm mục đích giải trí.

Đến ngày 12/2/1926, trong một bài cơ Đức Thượng đế đã phán dạy hai nhóm cơ bút thống nhất hình thành đạo Cao đài. Ông Ngô Minh Chiêu được Thiên phong phẩm vị Giáo tông đầu tiên của đạo Cao đài.

Ngày 7/10/1926, 28 người đại diện cho 247 tín đồ đã thống nhất ký tên vào Tờ khai đạo gửi chính quyền Pháp. Giữa tháng 11/1926, những chức sắc Thiên phong đầu tiên của đạo Cao đài tổ chức lễ khai đạo tại chùa Gò Kén, Tây Ninh, chính thức cho ra mắt Đại đạo Tam kỳ Phổ độ, gọi tắt là đạo Cao đài.

          Tôn chỉ của đạo Cao đài là “Tam giáo quy nguyên, Ng̣ũ chi hiệp nhất”, lấy sự thương yêu làm nền tảng, lấy nhân nghĩa làm phương châm hành đạo, lấy việc phụng sự chúng sinh làm hành động, lấy sự cứu rỗi các chơn linh làm cứu cánh, phấn đấu xây dựng một xã hội đạo đức, an lạc bằng tinh thần thương yêu đồng đạo. Giáo lý của đạo Cao đài đề cao tính thiêng liêng, sự huyền diệu của cơ bút. Luật lệ của đạo Cao đài thực hiện theo Tân luật, Pháp Chánh truyền. Lễ nghi của đạo Cao đài khá cầu kì thể hiện tinh thần Tam giáo đồng nguyên. Đạo Cao đài thờ Thiên nhãn, có nghĩa là “mắt trời”, biểu tượng Đức Chí Tôn của đạo Cao đài. Cơ sở thờ tự có Toà thánh ở Trung ương giáo hội và thánh thất (thánh tịnh, điện thờ Phật Mẫu) ở Họ đạo cơ sở.

          Mô hình tổ chức của đạo Cao đài theo 3 đài: Bát Quát đài là đài vô vi thờ Đức Chí Tôn (Thiên nhãn) và Phật, Tiên, Thánh, Thần; Hiệp Thiên đài là cơ quan bảo pháp có hai chức năng thông công giữa Bát Quát đài và Cửu Trùng đài và bảo vệ pháp luật Đạo, đồng thời giám sát các hoạt động của cơ quan Cửu Trùng đài, đứng đầu Hiệp Thiên đài là phẩm Hộ pháp; Cửu Trùng đài là cơ quan hành pháp, tổ chức hữu hình của đạo Cao đài, gồm 09 Viện và 9 phẩm, đứng đầu Cửu Trùng đài là phẩm Giáo tông.

Sau ngày khai đạo, những chức sắc lãnh đạo giáo hội Cao đài tiến hành xây dựng Toà thánh, phát triển các thánh thất, điện thờ, xây dựng giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức Giáo hội. Trong 2 năm 1926 – 1927, thông qua cơ bút đạo Cao đài đã tập trung xây dựng xong hai văn bản quan trọng qui định luật lệ, lễ nghi và tổ chức Giáo hội là Pháp Chánh truyền và Tân luật. Vì vậy, đến năm 1930 hoạt động tại Toà thánh dần dần đ­ược củng cố và đi vào nề nếp, những chức sắc thư­ờng trực đã thực hiện theo đúng chức năng nhiệm vụ, các cơ sở đạo phát triển, tổ chức Giáo hội hình thành từ Trung ương đến cơ sở theo 5 cấp hành chính đạo.

Từ 1931 đến 1934, mâu thuẫn giữa một số chức sắc Hiệp Thiên đài và Cửu Trùng đài ngày càng nặng nề, tình hình nội bộ Giáo hội mất đoàn kết ngày càng tăng, một số chức sắc cao cấp bất đồng với Toà thánh đã tự hoạt động theo ý riêng, tiến hành lập nhiều đàn cơ để lôi kéo tín đồ. Vì vậy, nội bộ chức sắc xuất hiện t­ư tư­ởng ly khai khỏi Toà thánh như­ các ông Nguyễn Văn Ca, Nguyễn Hữu Chính, Trần Đạo Quang, Nguyễn Ngọc T­ương, Lê Bá Trang, các vị chức sắc rời Toà thánh Tây Ninh về các địa phư­ơng lập ra các chi phái Cao đài mới như: Cao đài Ban Chỉnh đạo, Cao đài Tiên Thiên, Cao đài Chơn lý, Cao đài Minh Chơn đạo, Cao đài Bạch y…

Giai đoạn từ 1935 đến 1975, đạo Cao đài phát triển mạnh mẽ nhất nhưng cũng xảy ra tình trạng phân chia thành nhiều chi phái, đã có lúc lên đến hơn 30 phái Cao đài khác nhau. Số lượng tín đồ đạo Cao đài cũng phát triển nhanh chóng đến hơn 2 triệu người, tập trung chủ yếu ở Nam bộ và một vài tỉnh ở miền Trung, miền Bắc.

Giai đoạn từ năm 1975 đến nay: sau năm 1975, các phái Cao đài không hoạt động theo mô hình tổ chức cũ. Các Hội thánh Cao đài xây dựng tổ chức hành chính đạo theo hai cấp: cấp Trung ương là Hội thánh, cấp cơ sở là Họ đạo. Từ năm 1995 đến năm 2000, lần lượt 09 Hội thánh Cao đài có đông chức sắc, tín đồ tổ chức Đại hội thông qua Hiến chương, chương trình hành đạo, xây dựng tổ chức giáo hội 2 cấp, hoạt động theo 3 Hội: Thượng hội, Hội thánh, Hội Nhơn sanh và xác định đường hướng hành đạo “Nước vinh, Đạo sáng”.

Hiện nay, đạo Cao đài có 09 Hội thánh có tổ chức giáo hội gồm: Cao đài Tây Ninh, Cao đài Ban Chỉnh đạo, Cao đài Tiên Thiên, Cao đài Minh Chơn đạo, Truyền giáo Cao đài, Cao đài Cầu Kho Tam Quan, Cao đài Chơn lý, Cao đài Chiếu Minh Long Châu, Cao đài Bạch y.

Ngoài ra, đạo Cao đài còn có tổ chức Pháp môn Cao đài Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi là pháp môn tu hành của đạo Cao đài theo “Nội giáo tâm truyền” không có chức sắc, không lập giáo hội, chỉ chuyên tu tâm, luyện tánh theo truyền dạy của ông Ngô Minh Chiêu (được công nhận năm 2010). Giáo hội Cao đài Việt Nam (Bình Đức) cũng là một phái Cao đài có tổ chức giáo hội 02 cấp nhưng mới được cấp đăng ký hoạt động tôn giáo năm 2009.

Bên cạnh các tổ chức giáo hội, đạo Cao đài còn có trên 20 tổ chức Cao đài hoạt động độc lập không phụ thuộc vào các tổ chức Hội thánh nêu trên như: Cao đài Thượng đế, Cao Thượng Bửu Toà, Nam Thành Thánh Thất, Cơ quan Phổ thông giáo lý Đại đạo, Liên Hoa Cửu Cung Thiên đạo học đường, Thánh tịnh Tân Minh Quang, Thánh tịnh Huỳnh Quang Sắc, Thánh tịnh Thiên Trước, Thánh thất Bàu Sen.

Theo thống kê năm 2009 của các tổ chức Cao đài, đến nay đạo Cao đài có trên 1 vạn chức sắc, gần 3 vạn chức việc, khoảng 2,4 triệu tín đồ, với 958 tổ chức Họ đạo cơ sở được công nhận ở 35/38 tỉnh, thành phố có đạo Cao đài, thành lập 65 Ban Đại diện, 1.290 cơ sở thờ tự (hàng năm có khoảng 4 ngàn tín đồ mới nhập môn vào đạo Cao đài).

Trong hai cuộc kháng chiến cứu nước, đông đảo chức sắc, tín đồ đạo Cao đài đã tích cực tham gia đóng góp sức người, sức của vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, đồng bào đạo Cao đài đang cùng toàn dân tham gia vào công cuộc đổi mới, góp phần xây dựng đất nước./.

                                                                            Nguyễn Thị Diệu Thúy

                                                                         Chuyên viên Vụ Cao đài

Nguồn: http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/vi/News/38/0/162/0/957/Gioi_thieu_khai_quat_ve_dao_Cao_dai

Về Tây Ninh Dự Lễ Hội Lớn Của Đạo Cao Đài

Cứ vào mùa trung thu, không khí Tây Ninh lại trở nên nhộn nhịp hẳn vì đây là thời điểm có lễ hội lớn nhất trong năm của những tín đồ Cao Đài: Đại lễ Hội Yến Diêu Trì Cung. Lễ hội này gồm phần lễ và phần hội, trong đó phần lễ được chú trọng hơn.

Không phải ai cũng biết đến lễ hội này của tín đồ Cao Đài, nhưng nếu đến Tây Ninh một tuần trước ngày trung thu, chắc chắn bạn sẽ cảm nhận được không khí náo nhiệt. Hội thánh cho sửa sang lại mọi thứ từ con đường, cây cảnh, chậu hoa. Họ còn cho trang hoàng lại các cổng lớn và dựng các dãy nhà rạp xung quanh Điện thờ Phật Mẫu. Cái hay của một lễ hội mang dấu ấn tôn giáo là những tín đồ Cao Đài thời gian này tự nguyện về tòa thánh để giúp sức, làm công quả. Theo những người đạo Cao Đài, rằm tháng tám là cơ hội để làm những việc phúc đức nên chẳng ai tính toán, so đo góp công.

Phần lễ theo truyền thống của đạo, cúng vào đêm 15 âm lịch, kéo dài từ chiều đến mười hai giờ với nhiều hoạt động như rước cộ bông Đức Phật Mẫu và cửu vị Tiên Nương, múa rồng nhang, ngọc kỳ lân, quy, phụng; đội múa phụng và đội nhạc hoành tráng. Trong đó, đoàn rước cộ bông Đức Phật Mẫu được diễn ra rất lớn, theo sau là đội nhạc, đội trống, vũ công và đội múa lân.

Đặc biệt, múa Rồng nhang là một nét đặc trưng chỉ có ở Tây Ninh. Con rồng dài gần 20 mét được điều khiển bởi 30 vũ công. Chỉ cần đứng nhìn từ xa, bạn đã có thể thấy một vùng trời sáng rực. Khói nhang nghi ngút chuyển động liên tục làm những người chứng kiến quanh đó cảm nhận được uy lực và sự tôn nghiêm của con vật linh thiêng trong tín ngưỡng. Con Rồng nhang sẽ chuyển mình chầm chậm về hướng Tòa thánh.

Vì là ngày lễ hội rất lớn của tín đồ đạo Cao Đài, nên du khách còn được trải nghiệm nhiều hoạt động đặc sắc khác như biểu diễn võ nghệ, làm thơ, diễn kịch, đánh cờ tướng, thi cắm hoa hoặc làm bánh. Đặc biệt, du khách đến đây còn có dịp thưởng thức bữa ăn chay vô cùng thơm ngon mà không nơi nào có được. Đây là bữa cơm chay tập thể lớn nhất và đông vui nhất. Có gần 500 người tình nguyện làm công quả, nấu ăn phục vụ khách hành hương trong suốt 3 ngày, từ ngày 13 đến rằm tháng tám.

Từ 4 giờ sáng đến 10 giờ tối, khách hành hương có thể ghé vào ăn tùy thích. Ước tính cao điểm số người ghé vào đây ăn chay lên tới 25.000 người. Mùa trung thu trời thường đổ mưa, nhưng hầu như tín đồ Cao Đài và những người hành hương đều không quản khó khăn để đến đây dự lễ hội. Đại lễ Hội Yến Diêu Trì Cung là một nét đẹp sinh hoạt ở Tây Ninh nói chung và đạo Cao Đài nói riêng. Đại lễ chứa nhiều giá trị không chỉ thuộc về tâm linh mà còn tác động tích cực lên cuộc sống thường nhật.

Thảo Nghi

Tìm Hiểu Phân Tích Cái Chấp Tay Và Lạy Của Đạo Cao Đài

Bài viết được cập nhật lần cuối vào ngày 23/07/2010

a/ Ý nghĩa ấn Tý : Đạo Cao Đài như trong Thánh Ngôn, Thánh Giáo ,Pháp Chánh Truyên,và Đạo Qui của Hội Thánh Truyền Giáo đã xác định : Tôn Giáo Cao Đài dựa trên ba nguyên lý cơ bản “LÝ,KHÍ,HÌNH”

Trong Dịch Học Đông Phương : mổi ngày chia ra 12 giờ, mổi giờ mang một tính cách lấy tên một con vật đại diện như sau : Tý, Sữu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân , Dậu, Tuất, Hợi; và dựa vào đó tính ngáy, tháng, năm cũng mang tính cách ấy .

CUNG TÝ là cung khởi đầu, cho nên trong Dịch Học phân ra ngôi TAM TÀI như sau : THIÊN (Trời)Sanh ư TÝ, ĐỊA (Đất) Tịch ư SỮU, NHÂN (Con người) Sanh ư DÂN . Theo qui ước trên bàn tay trái thì Cung Tý nằm ở đót đầu tiên(Gốc) ngón áp út; Từ đó đếm thuận chiều kim đồng hồ, mổi đót là một cung, như vậy :Cung Sữu nằm ở gốc ngón giữa, Cung Dần nằm ở gốc ngón trỏ, cũng từ ngón trỏ tính ngược lên ,mổi đót là một cung, đến đầu ngón trỏ là cung Tỵ, thuận chiều kim đồng hồ dến đầu ngón út và đếm xuống đến gốc ngón út là Cung Hợi, giáp một vòng là 12 cung .

Theo quy ước trên nên nên Tôn Giáo Cao Đài dùng Cung Tý là CUNG TRỜI, cho nên mổi lân lễ bái mọi tín hữu Cao Đài đêu chấp tay ẤN TÝ là biểu hiện giữ vững NGÔI TRƠI đó vậy.

b/ Ý nghĩa Chấp tay : Trong hai bàn tay, bàn tay trái là DƯƠNG, Bàn tay Phải là ÂM. Như Vậy NGÔI TRỜI ở tại Ngôi Dương , khi chấp tay thì Đầu Ngón Cái (Tay Trái) Ấn vào gốc ngón áp út , và các ngón còn lại co chặc lại đè lên ngón cái , ý nghĩa là giữ vững NGÔI TRỜI , nên khi cấp tay bàn tay TRái bọc ngoài bàn Tay Phải, Hồi Hứơng về NGÔI TRỜI vậy. Như đã nói bàn tay phải là ÂM, mà hễ nói đến ĐẠO là :”Nhứt Âm,nhứt Dương” ; Đầu ngón cái của bàn tay Trái đặt ngay vào gốc ngón trỏ

Bàn tay Phải (Cung DẦN) nơi đó tượng trưng cho NGƯỜI . Hàm một ý nghĩa vi diệu là âm dương hiệp nhau điều hòa vững bền là trở vê với ĐẠO để cùng nhập vào Ngôi TRƠI làn Bản Thể, là bản lai diện mục của ta đó vậy

c/ Ý nghĩa của Lạy : Trong toàn bộ các hướng dẫn về nghi thức của Cao Đài Giáo đã chỉ rõ : “Lạy Thầy (Thượng Đế” 12 lạy, Phật, Tiên, Thánh,Thần 9 lạy ; Mà tại sao mổi khi cúng lạy chỉ thấy lạy có 3 lạy ?

Trước tiên ta thử tìm hiểu tại sao lạy Thượng Đế 12 lạy, ý nghĩa do đâu ? . Như Thánh Ngôn Hiệp Tuyển đã dạy : “con số 12 là con số riêng của Thầy” Thầy là Đấng Quyền năng làm chủ tất cả Tam Thập Lục Thiên, Tam thiên Thế Giới, muôn loài vạn vật cũng bao gồm trong số 12 , Các Môn đồ đầu tiên của Nền Đại Đạo cũng mang số 12,thâm chí đến cách phân định năm, tháng, ngày giờ cũng mang só 12 ; Nên ta ngầm hiểu với nhau rằng con số 12 là con số “Quyền năng tối thượng” hễ nói đến số 12 là nói đến Thượng Đế. Cho nên người tín hữu Cao Đài mổi khi cúng phải lạy đủ 12 lạy, nghĩa là khuất phục dưới Quyền năng của Thượng Đế để học hỏi và ngưỡng mong được Đấng Quyền năng phán truyền ; Tuy vậy mổi khi lạy Thượng đế thường chỉ có lạy 3 lạy x 4 gật( mổi lạy); Vì lòng từ bi của Thầy nên Thầy cho chế giảm cứ mổi gật được thay cho một lạy . Như vậy chúng ta lạy Thầy chỉ có 3 lạy x 4 gật tức là ta đã lạy 12 lạỵ vậy !

Lòng từ bi Thầy thương Chúng sanh, Thầy cho chế giảm, mổi khi vào lạy Thầy cứ mổi gật (thay cho) một lạy, thì chúng ta phải thực hiện một cách nghiêm túc nghiã là mổi gật ta thầm niệm câu danh hiệu Thầy mới thể hiện đầy đủ sư tôn kính và khuất phục dưới Đấng Quyền năng đã hóa sanh và dưỡng dục muôn loài vạn vật, trong đó có chúng ta . 2/ VÔ VI TÂM PHÁP (Nội Giáo Tâm Truyền)

Như chúng ta đã hiểu Giáo lý Cao Đài có hai phần:

– Phần phổ độ (Ngoại giáo Công Truyền .

– Phần Tu luyện (Nội Giáo Tâm Truyên)

Cách lạy của phần Vô Vi Tâm Pháp : Hai bàn tay áp vào nhau có ý nghĩa là : Âm, Dương, Ngủ Hành hòa hiệp là Đạo và mổi lần lạy Thầy cũng chỉ lạy một lạy cũng mang ý nghĩa “Đạo Tất cả là một, và một là Tất cả” .

Khi ngồi luyện Đạo, người tu chấp hai tay (như Phổ Độ) để ngay trước ngực gọi là ôm “Quả Đạo” dể vận khí điều Thần .

Còn các tầng bậc Công phu trước như : Linh Châu và Tứơng Châu là bước đầu học Đạo, luyện Đạo , tâm thần và tự thân chưa được vững vàng nên phải nương vào hạt châu, câu chú, tay phải lần hạt, tay trái ngón cái ấn trụ vào cung Tý, nơi đây ta ngầm hiểu là nương nhờ vào gốc Trời . Tiến dần lên Bậc Tu TÂM CHÂU thì có hai phần :

a/ Phần Tướng

b/ Phần Tâm .

Đến đây người Tu Luyện đã bước đầu đã thuần thành con đường Đạo Pháp, nhưng chưa được vững chắc, nên mổi khi bước vào Tịnh luyện trước tiên phải ôn lại phần Tướng rồi mới bước vào phần Tâm, cho nên ý nghĩa của mổi giai đoạn của Bậc Công Phu nầy khi vận dụng hai bàn tay có phần khác nhau .

* Phần đầu (tướng) có dùng chuỗi hạt nên hai tay vận hành như phần Tướng Châu và Linh Châu .

* Phần Tâm : Không dùng chuỗi hạt mà tự thân chuyển Khí, điều Thần, hai bàn tay ngữa ra để trước ngang Đan Điền, đan vào nhau thành “ẤN TAM MUỘI” hay còn gọi “ĐẠI ẤN A DI ĐÀ” có ý nghĩa là kể tư đây đã bắt đầu tập dần vào con đương ĐẠO VÔ VI” Âm Dương tương giao, tương kết, dần dần tiến lên trong phép Tu Luyện để đạt đến chân lý vô ngã, hầu trỡ về cùng Thầy tức la “Phản bổn hườn nguyên” vây !

Qua những năm tháng Tu Học và nghiên cứu của một tu sinh trong nền Đại Đạo , Đệ mạo muội ghi lên đây Kính Chư Huynh,Hữu cùng suy gẫm và chỉ giáo thêm .

Quý Hạ, Canh Dần

Cập nhật thông tin chi tiết về Vài Nét Về Chữ Hiếu Trong Đạo Cao Đài Qua Quyển Kinh Thiên Đạo Và Thế Đạo trên website Apim.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!