Ý Nghĩa Lễ Cúng Rằm Tháng 7 / Top 10 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Apim.edu.vn

Cúng Rằm Tháng 7. Nguồn Gốc, Ý Nghĩa Và Bài Cúng Rằm Tháng 7

Nguồn gốc và ý nghĩa ngày Cúng rằm tháng 7.

Về sau, người ta thường gọi ngày Cúng cô hồn là Phóng diệm khẩu, và được tổ chức vào ngày rằm tháng 7 âm lịch hằng năm. Về sau lại được hiểu rộng thêm một lần nữa thành “tha tội cho tất cả những người chết”. Cho nên ngày nay mới có câu “Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân”.

Tháng 7 âm lịch có hai lễ lớn là Lễ cúng cô hồn (Cúng rằm tháng 7) và Lễ Vu Lan

Đa phần mọi người thường hay nhầm lẫn Lễ Vu Lan và Cúng rằm tháng 7 là 1. Tuy nhiên trên thực tế mục đích của hai ngày lễ này là hoàn toàn khác nhau.

Lễ Vu Lan xuất phát từ sự tích Bồ tát Kiều Liên đại hiếu đã cứu mẹ mình ra khỏi kiếp ngạ quỷ. Theo kinh Vu Lan, Mục Kiều Liên sau khi tu luyện thàn thông quảng đại, ông tưởng nhớ mẹ mình là bà Thanh Đề và muốn biết mẹ mình đang chịu tình cảnh thế nào. Ông dùng mắt phép tìm mẹ và thấy mẹ ông bị đày làm ngạ quỷ. Vì gây nhiều nghiệp ác nên phải xuống tận cõi quỷ. Ông đem cơm xuống tận ngã quỷ dâng cho mẹ. Mẹ ông vì chịu đói lâu ngày nên che cơm lại không cho các cô hồn khác đến tranh cướp, cho nên khi cơm đến miệng đã hóa thành lửa đỏ.

Như vậy, về bản chất thì Cúng cô hồn và Lễ Vu Lan đều được gọi là rằm tháng 7 nhưng ý nghĩa của lễ cũng hoàn toàn khác nhau, nên sẽ có những cách làm lễ khác nhau mà mọi người cần chú ý.

Các bài khấn cúng rằm tháng 7

Cúng rằm tháng 7 hay còn gọi là cúng Tết Trung Nguyên. Vào ngày này có những nghi thức cúng như sau: Cúng Phật, Cúng Thần Linh, Cúng Gia Tiên, Cúng thí thực cô hồn và Cúng phóng sinh. Nhiều gia đình Việt thường cúng rằm tháng 7 vào buổi chiều tối ngày 14/7 hoặc 15/7 âm lịch. Người ta quan niệm, đây là thời gian các vong linh trở về địa ngục. Để tránh sự quấy rối của các vong linh hay cô hồn, mọi người cần phải “hối lộ” cho những vong linh đấy. Chúng ta cần nắm rõ để thực hiện chuẩn các nghi thức cúng theo đúng truyền thống văn hóa Việt Nam.

Cúng phật

Cúng và thụ lộc ngay tại nhà. Mọi người có thể chuẩn bị cơm chay hoặc đơn giản là mâm ngũ quả. Khi cúng, chúng ta sẽ đọc kinh Vu Lan.

Cúng thần linh và gia tiên

Lễ cúng này xuất phát từ quan niệm về công việc đồng áng của người nông dân trước kia. Hằng năm cứ đến tháng 6-7 âm lịch là vào đúng mùa vụ thu hoạch mùa màng. Người nông dân mong muốn những ngày này mọi việc trở nên trôi chảy, tránh sự quấy nhiễu của vong hồn, họ thường hay cầu xin thần linh, thổ địa bắt giam các yêu ma, oan hồn để tránh sự những nhiễu. Ngày 15/7, khi mọi thứ mùa vụ đã hoàn tất, người nông dân sẽ thường làm lễ cúng bái tạ ơn thần lịn và một mâm tưởng nhớ ông bà tổ tiên, cũng như cầu mong cho các cô hồn vong linh không nơi nương tựa được siêu thoát, mang lại bình yên cho mọi nhà. Mâm cơm thường là cúng chay hoặc cúng mặn tùy theo căn số của mỗi người.

Cúng thí thực cô hồn (Cúng chúng sinh)

Ngoài việc cúng Phật, cùng thần linh và gia tiên, còn một lễ nữa là cúng Cô hồn (còn gọi là cúng chúng sinh), cúng bố thí cho các cô hồn sa cơ lỡ vận không nơi nương tựa.

* Thời gian: Có thể cúng từ ngày mùng 1 đến 15 tháng 7 (âm lịch).

* Sắm lễ:

Tiền vàng từ 15 lễ trở lên, quần áo chúng sinh từ 20 đến 50 bộ.

Tiền chúng sinh (tiền trinh), hoa, quả 5 loại 5 mầu (ngũ sắc).

Bỏng ngô, khoai lang luộc, ngô luộc, sắn luộc.

Kẹo bánh. Tiền mặt (tiền thật, các loại mệnh giá).

Nếu cúng thêm cháo thì thêm mâm gạo muối (5 bát, 5 đôi đũa hoặc thìa)

Chú ý: Không cúng xôi, gà. Khi rải tiền vàng ra mâm, để 4 hướng Đông, Tây, Nam, Bắc, mỗi hướng từ 3-5-7 cây hương. Bày lễ và cúng ngoài trời. Cúng cô hồn chỉ cúng đồ chay, không cúng đồ mặn vì sẽ khơi gợi tham, sân, si.

Cúng cô hồn phải đặt lễ cúng trước cửa nhà hoặc nơi đang buôn bán.

Kết thúc buổi cúng ngoài trời, gạo, muối được vãi ra sân, đường, sau đó là đốt vàng mã. Một số nơi có xảy ra tình trạng cướp cỗ cô hồn, đấy được xem là “cô hồn sống”. Nếu “cô hồn sống” cướp càng nhiều thì có nghĩa là gia đình đã mua chuộc được cô hồn không đến quấy phá.

Nên cúng buổi chiều, tối và không nên cúng sau 21 giờ thì các cô hồn mới dễ nhận được đồ cúng.

Cúng chúng sinh xong, đốt đồ mã ngay tại chỗ để các cô hồn nhận và đi ngay.

Nghiêm cấm không được giật lại đồ từ “cô hồn sống”, vì giật lại sẽ mang đến những điều vô cùng xui xẻo tai hại cho gia chủ.

Văn khấn cúng cô hồn rằm tháng 7

Cúng phóng sinh

Có thể phóng sinh chim, cá, tôm, cua v.v, tuyệt đối không phóng sinh rùa tai đỏ hoặc một số sinh vật ngoại lai vì hủy hoại môi trường. Việc phóng sinh này tùy theo tín tâm và điều kiện của mỗi gia đình phật tử, không bắt buộc.

Sau khi thực hiện đầy đủ các bài khấn và nghi thức cúng rằm tháng 7, chúc gia chủ và gia đình sẽ xua đuổi được tà ma, oan hồn vất vưởng, gặp nhiều điều may mắn trong cuộc sống và công việc làm ăn.

Bài tiếp theo: Tránh 30 điều đại kỵ này để được bình an trong tháng 7 cô hồn

Ý Nghĩa Sâu Sắc Về Lễ Cúng Cô Hồn Ngày Rằm Tháng 7

Cúng cô hồn là một hình thức tín ngưỡng dân gian phát sinh từ chữ Tâm của con người mà ra. Người Việt với quan niệm ” vạn vật hữu linh “, kết hợp với việc mắt thấy, tai nghe hàng ngày những khốn khó, vất vả, hiểm nguy trong cuộc sống buộc con người phải nhìn lại mình và có tư duy hướng Thiện, nhằm bình ổn tâm hồn của người sống và làm ăn lòng người chết. Chính vì vậy, tục cúng cô hồn của người Việt có điều kiện tồn tại và phát triển ngày càng sâu rộng trong cộng đồng.

Ý nghĩa sâu sắc về việc cúng cô hồn ngày rằm tháng 7

Cúng cô hồn được thể hiện rõ nét nhất là vào ngày rằm tháng bảy âm lịch hàng năm. Theo quan niệm dân gian, đây là ngày xá tội vong nhân. Nhà nghiên cứu Sơn Nam mô tả cúng cô hồn ở Nam Bộ như sau: “Nhiều người dịp này bày cúng đơn sơ, trước sân, với thức ăn đơn giản như: trái cây, mía, bánh ngọt. Người chết oan ức, vì tai nạn, vất vưởng, không được người cai quản cõi âm lưu ý dịp ấy cũng được ăn. Lắm nơi cúng gạo, muối. Sau khi cúng, thức ăn được bố thí cho trẻ con, chúng tha hồ giựt vì trẻ con được gọi đùa là “cô hồn sống” .

Đứng về nghi thức mà xét, nếu những thức ăn dâng cúng cho thần thánh, cho ông bà đều là món sạch, để người cúng “cộng hưởng” với người khuất mặt, lấy sự may mắn, thì cúng cô hồn tháng Bảy mang ý nghĩa khác. Đó là những món ăn bị ô uế (ma quỉ đã ăn rồi), nếu ăn là xui xẻo, nhưng vất bỏ thì phí phạm. Thời xưa, ở nông thôn, lũ trẻ chăn trâu được ưu tiên ăn uống những món ấy mà không sao cả, vì chúng nó là “con của Thần Nông”. Ở thành thị, ta quan niệm trẻ con ngây thơ ở hàng xóm giành giựt nhau cũng phải, vì chúng nó đều vô tội”

Đặc điểm của tục thờ cúng cô hồn của người Việt

Tục cúng cô hồn của người Việt có sự thâm nhập khá sâu sắc của Phật giáo thông qua việc nhà chùa tổ chức cúng thí, thể hiện được tính dung hợp của truyền thống văn hóa Việt Nam. Sự thâm nhập của Phật giáo không chỉ dừng lại ở các nghi cúng cầu siêu, cầu an mà còn tồn tại trong quan niệm của cộng đồng: vừa cúng thí cô hồn để cầu an cho người sống, cầu siêu cho người chết; vừa tích đức, hướng thiện.

Ý nghĩa sâu sắc về việc cúng cô hồn ngày rằm tháng 7

Tục cúng cô hồn là nhu cầu tín ngưỡng tâm linh phổ biến trong cộng đồng của người Việt được nhiều nhà nghiên cứu văn hóa tìm hiểu, từ góc nhìn văn hóa dân gian sẽ thấy những đóng góp nhất định của tập tục này trong việc bình ổn tinh thần của con người , củng cố niềm tin của con người vào cuộc sống trong bối cảnh xã hội vốn rất nhiều biến cố, rủi ro có thể đến với bất kỳ ai mà chúng ra không thể đoán lường hết được.

Tóm lại cúng bái dựa trên niềm tin của con người hướng đến những điều tốt đẹp trong cuộc sống, sẻ chia đến với nhận người bất hạnh, kém may mắn mang tính nhân văn cần được nhân đôi và chia sẽ rộng rãi.

Rằm Tháng 7 Là Tết Gì Và Ý Nghĩa Của Rằm Tháng 7 Trong Dân Gian

Trong tháng 7 âm lịch hằng năm sẽ có hai lễ lớn diễn ra, bao gồm lễ vu lan báo hiệu và lễ xá tội vong nhân hay còn gọi là ngày lễ cúng cô hồn.

Cũng như các ngày rằm trong các tháng khác, người ta thường thắp hương, khấn gia tiên. Nhưng có điều khác là trong tháng 7 vào ngày rằm, họ thường chuẩn bị đồ lễ và văn cúng cẩn thận hơn, chu đáo hơn.

II – Nguồn gốc của lễ rằm tháng 7

Trong ngày rằm tháng 7, cũng chính là 2 ngày lễ lớn của người dân Việt Nam, đó là ngày lễ vu lan báo hiếu và ngày xá tội vong nhân. Về nguồn gốc của ngày lễ như sau:

Nguồn gốc ngày lễ vu lan: Trong Phật giáo có bồ tát bồ tát Mục Kiều Liên sau khi tu thành chánh quả, ông đã tưởng nhớ tới mẹ mình và đã dùng mắt thần để tìm kiếm xem vong hồn mẹ mình đang ở đâu. Bằng phép thần thông quảng đại, ông đã tìm thấy mẹ ông dưới địa ngục, trở thành quý đói, bị hành hạ và ông rất thương xót. Vì thương mẹ, ông đã tự mình xuống dâng cơm lên mẹ mình.

Nhưng bản tính ” tham, sân, si ” trong mẹ ông vẫn còn, lúc thấy cơm, bà đã sợ các vong hồn khác thấy và cướp mất nên đã lấy tay che bát cơm đi. Vì thế khi đưa cơm lên miệng thì cơm biến thành lửa. Qúa thương xót, ông đã tìm tới Phật tổ, Phật đã dạy: “Dù ông thần thông quản đại đi chăng nữa cũng không thể tự cứu mẹ mình chỉ dựa vào sức của mình. Chỉ còn cách nhờ hợp lực của chư tăng khắp mười phương trời mới mong giải cứu được.

Ngày rằm tháng bảy chính là ngày thích hợp cho ông cung thỉnh các chư tăng, sắm sửa lễ cúng để nhằm cứu được mẹ mình”. Ông đã làm theo lời Phật chỉ bảo và đã cứu được mẹ mình cùng các vong hồn khác. Từ đó, lễ vu lan ra đời, như là ngày lễ cho con người ta cầu siêu cho cha mẹ đã mất hoặc thể hiện lòng tôn kính tới bậc sinh thành, biết ơn công dưỡng dục của cha mẹ.

Nguồn gốc ngày xá tội vong nhân: Ngày xá tội vong nhân hay còn gọi là ngày cầu siêu xuất phát từ sự tích rằng, từ ngày 1 đến tối 15/7 âm lịch hàng năm, cửa Quỷ Môn Quan sẽ được mở để cho các vong hồn trở lại trần thế. Họ thường cúng lễ xá tội vong nhân vào ngày rằm tháng 7 để cầu siêu cho các vong hồn không về cõi âm kịp, cầu siêu cho các vong hồn không nơi nương tựa, trẻ sinh trẻ lạc, cũng là cách cầu khấn cho bản thân và gia đình không bị ma quỷ quấy phá

Còn trong Phật giáo thì cho rằng, đức phật A Nan Đà trong lúc đang tụng kinh thì có một con Quỷ Miệng Lửa bay vào báo hiệu 3 ngày nữa Đức Phật sẽ chết và bị hóa thành Diệm Khẩu Quỷ. Trừ khi Người cho chúng thức ăn thì thì mới thêm tuổi thọ. Đồng thời Đức Phật phải tụng kinh siêu độ, tăng thêm phước cho mình, cũng vừa giúp cho Diệm Khẩu Quỷ có thể siêu thoát. Và ngày lễ Xá Tội Vong Nhân ra đời từ đó.

Lễ Vu lan có ý nghĩa là thể hiện lòng thành kính tới công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ; nhằm khuyên con người ta hãy biết trân trọng những gì mình đang có hiện tại và làm nhiều việc thiện khi còn sống.

Còn lễ Xá tội vong nhân có ý nghĩa là cầu siêu thoát cho các vong hồn không nơi nương tựa, không ai thờ cúng. Vào ngày lễ vu lan cũng là ngày bố thí thức ăn cho các vong hồn lưu lạc nhằm cầu siêu và khấn cầu sự bình an, vô sự cho bản thân và người thân trong gia đình.

Hiểu Đúng Về Ý Nghĩa Lễ Vu Lan Và Cúng Cô Hồn Ngày Rằm Tháng 7

Rằm tháng Bảy âm lịch hàng năm được gọi là ngày lễ Vu Lan (báo hiếu). Ngày này cũng thường được gọi là ngày lễ cúng cô hồn hay ngày xá tội vong nhân. Lễ Vu Lan và lễ cúng cô hồn tuy có chung nguồn gốc Phật giáo và nhằm mục đích rốt ráo là cầu nguyện cho chư hương linh được siêu thoát, song lại xuất phát từ những điển tích riêng biệt và thực hành theo các nghi thức khác nhau. Một đằng là để cầu siêu cho cha mẹ và cửu huyền thất tổ nhiều đời nhiều kiếp, một đằng là để bố thí cho những vong hồn không ai thờ cúng. Một đằng là báo hiếu, một đằng là tu phúc. Do hai lễ đó trùng trong ngày rằm tháng 7 nên nhiều người lầm tưởng rằng hai lễ đó là một.

Ngày rằm tháng Bảy là ngày chư tăng tự tứ, cũng là ngày chư Phật, Bồ Tát mười phương hoan hỷ, chư thiên đều tán thán và chư thiện thần gia tâm hộ trì. Chư tăng đã tròn đủ ba tháng an cư kiết hạ, giới luật tinh nghiêm, tâm niệm thanh tịnh, tăng thêm tuổi đạo, công đức cao dày. Ngày này cũng là ngày trong ba đường ác – địa ngục, ngã quỷ, súc sinh – được dừng nghỉ hành hạ, để cho chúng sinh nào biết hồi tâm hướng thiện niệm Phật, hồi tâm giác tỉnh theo tiếng chuông u minh, theo lời chú nguyện của chư tăng thì liền đó chư Phật đến phóng quang tiếp độ, cứu thoát khỏi cảnh khổ.

Lễ Vu Lan bắt nguồn từ sự tích về lòng hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên. Tôn giả Mục Kiền Liên là một đệ tử lớn của đức Phật, và được suy tôn là bậc thần thông đệ nhất. Sau khi chứng quả A la hán, Ngài dùng thiên nhãn quan sát khắp các cõi sống thì thấy mẹ mình đang bị nạn đói khát dày vò trong cõi sống quỷ đói. Tôn giả bèn cầm bát cơm xuống cõi quỷ đói đưa cho mẹ. Mẹ cầm lấy bát cơm đưa vào miệng, thì cơm hóa thành than hồng cháy đỏ không tài nào ăn được. Tôn giả Mục Kiền Liên không biết làm sao được, bèn trở về xin Phật ra tay cứu giúp. Đức Phật nói: “Mẹ ông bao nhiêu đời sống xan tham keo kiệt, nên phải chịu khổ báo là quỷ đói, một mình ông không thể cứu nổi mẹ đâu. Phải nhân ngày rằm tháng Bảy tổ chức cúng dường đức Phật và chúng Thánh Tăng mười phương nhờ vào sức mạnh chú nguyện của đức Phật và chúng Tăng mười phương thì mẹ ông mới có thể siêu thoát được”.

Tôn giả Mục Kiền Liên vâng lời đức Phật dạy, đến ngày rằm tháng Bảy là ngày tự tứ ra hạ của chư Tăng, đem thức ăn, đèn, sáp, hương hoa… đặt vào chậu lớn, cúng dường trai Tăng. Bà mẹ của Tôn giả Mục Kiền Liên nương nhờ vào uy lực của Giới đức và phước đức của chư Tăng mười phương, và cũng nương nhờ vào công đức bố thí và lòng chí thành của Tôn giả Mục Kiền Liên, mà sớm thoát khỏi nỗi khổ của quỷ đói, nỗi khổ ví như nỗi khổ của người bị treo ngược, siêu thăng lên các cõi lành.

Nhân đó, đức Phật Thích Ca có lời dạy Tôn giả Mục Kiền Liên rằng: “Làm người đệ tử Phật có đức hiếu thuận, phải thường xuyên ghi lòng tạc dạ công ơn cha mẹ đời này cho đến cha mẹ bảy đời. Mỗi năm vào ngày rằm tháng Bảy, hãy nên làm lễ Vu Lan Bồn, cúng dường đức Phật và chúng Tăng, để báo ơn sinh thành nuôi dưỡng của cha mẹ, cầu cho cha mẹ sống lâu trăm tuổi và sau khi mạng chung được sinh vào các cõi lành”.

Theo Kinh Cứu Bạt Diệm Khẩu Đà La Ni, lúc bấy giờ Đức Phật đang thuyết pháp tại tăng xá Ni-câu-luật-na trong thành Ca-tỳ-la-vệ, tôn giả A Nan ngồi nhập định ở chỗ thanh vắng. Trong đêm hôm đó, khoảng quá canh ba bỗng thấy một ngã quỷ tên Diệm Khẩu (còn gọi là Diệm Nhiên) xuất hiện, cổ họng nhỏ như cây kim, hình dáng khô gầy xấu xí, tóc xõa rối bời, móng vuốt sắc bén giơ ra rất đáng sợ, miệng phun lửa đỏ. Ngã quỷ đến trước Ngài A Nan và báo rằng còn 3 ngày nữa Ngài sẽ chết rồi đọa đường ngã quỷ. Tôn giả nghe như vây sinh tâm hoảng sợ, liền hỏi xem phải làm sao để thoát khỏi cảnh khổ ấy. Ngã quỷ bảo, nếu ngày mai tôn giả có thể bố thí cho vô số ngã quỷ cùng vô số các vị tiên nhân Bà la môn, mỗi người đều được thí cho một hộc lương thực…. cũng như vì ngã quỷ mà cúng dường Tam bảo thì bản thân Ngài sẽ được tăng tuổi thọ lại cũng giúp cho ngã quỷ này được thoát khỏi cảnh khổ và sinh lên cõi trời.

Tôn giả A Nan nhìn thấy ngã quỷ thân hình khô gầy xấu xí, miệng phun lửa đỏ, cổ họng nhỏ như cây kim… lại nói ra những lời đáng sợ như vậy thì hết sức kinh hoàng, vội vàng đứng dậy tìm đến Đức Phật, cầu xin Ngài chỉ dạy phương thức để không phải đọa cảnh ngã quỷ.

Đức Phật bảo A Nan: “Ông không nên quá lo lắng, ta có cách giúp ông có thể bố thí cho vô số ngạ quỷ cùng vô số các vị tiên nhân Bà la môn đều được đầy đủ món ăn thức uống”.

Kinh cũng dạy rằng: “Tất cả chúng sinh đều do nơi ăn uống mới sống được, nếu không ăn uống, thì thân thể ốm gầy, dẫu có thí tài, thí pháp cũng không đủ cho sinh mạng; nay nhân sự cực khổ của chúng sinh, mà khởi cái bi tâm, nên dùng chân ngôn vật thực, mà cúng thí cho Quỷ loại, khiến đặng dứt khổ được vui”.

Sau đó, Đức Phật truyền dạy chân ngôn Vô lượng uy đức tự tại quang minh thù thắng diệu lực (tức chú biến thực). Đức Phật dạy Ngài A Nan rằng, chân ngôn này có năng lực giúp người trì chân ngôn có thể bố thí cho vô số ngạ quỷ, vô số vị tiên nhân Bà la môn… đều được no đủ với các món ăn thức uống tùy theo nghiệp lực của họ; giúp họ bỏ thân ngã quỷ sinh lên cõi trời, đồng thời giúp người trì chân ngôn tăng được tuổi thọ…

Lễ cúng thí thực cô hồn thấm đẫm tinh thần từ bi của đạo Phật. Chính sức mạnh của câu chân ngôn cộng hưởng với năng lực tu hành đức độ của hành giả tác động vào thần thức của cô hồn sẽ giúp cô hồn, ngã quỷ tỉnh ngộ và siêu thoát.

Lễ cúng cô hồn có thể được thực hành công phu mỗi ngày, hoặc tổ chức trong ngày lễ Vu Lan rằm tháng Bảy. Những hành giả muốn đi trên con đường thánh thiện giải thoát của Đức Phật không gì khác hơn là phải nỗ lực phát huy trí tuệ, trưởng dưỡng tình yêu thương, phát triển đời sống giới đức, phạm hạnh. Vì chỉ có đức hạnh và trí tuệ mới tạo cho hành giả tự tại trong mọi tình huống, cứu độ vong linh, cô hồn, tạo phúc điền cho người tại thế nương nhờ.