Ý Nghĩa Của Việc Cúng Phát Tấu / Top 9 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Apim.edu.vn

Ý Nghĩa Của Việc Cầu An

Như vậy, khi cầu an nên hiểu căn bản của năm thứ tham nêu trên; giảm bớt ít thì an ít, giảm bớt nhiều thì an nhiều. Nếu tham luyến không còn thì bình an vô sự, đó là tôn chỉ của đạo Phật, là chân lý cứu cánh của đạo Phật, chứ Phật không phải là người ban phước giáng họa. Giáo lý của đạo phật là phương thuốc hay, khi Ngài chẩn đoán được tâm bệnh của chúng sinh (nguyên nhân bất an), Ngài giúp cho toa thần dược để trị liệu.

Khi nói về tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật vốn đã in đậm trong tâm khảm của người con Phật. Hay nói xa hơn, bất kỳ sự xuất hiện một tôn giáo nào, tôn chỉ và mục đích cũng nhằm vào sự cứu khổ (cứu rỗi), hầu đem lại sự an lạc cho mọi người hiện sống và sau khi chết, linh hồn được siêu độ (siêu rỗi) nơi sở nguyện nào đó.

Chung quy con người có khổ đau, họ mới đến với tôn giáo để cầu xin, hoặc để an ủi và làm điểm tựa của tinh thần. Còn tôn giáo cũng thế, vì con người có khổ đau, các bậc Thánh triết mới tự tìm ra một giải pháp: gọi là chân lý, rồi đem chân lý ấy hướng dẫn con người đi dần đến chỗ thoát khổ, lấy lại sự an lạc và giải thoát. Nhưng tôn chỉ và mục đích mỗi tôn giáo đều có đường hướng khác nhau.

Đơn cử như tôn giáo này hướng dẫn rằng: Nếu tin tưởng và cầu xin ta, ta sẽ ban ân và cứu rỗi cho thoát ly khổ đau. Tôn giáo nọ hướng dẫn: Phải cầu nguyện cúng kiếng, vái van thật nhiều thì thần linh sẽ phù hộ cho tai qua nạn khỏi, đem lại sự an lạc như chỗ mong cầu.

Tôn giáo khác lại hướng dẫn: Phải thi ân làm phước, tế lễ cùng thần linh thật nhiều thì thần linh sẽ phù trợ cho thoát khỏi khổ đau, hoặc phải coi tuổi tác, ngày giờ, xuất hành, khai trương, gả cưới, xây dựng, phương hướng bếp núc, cửa nẻo, phòng ốc, phong thủy Đông, Tây, Nam, Bắc, coi có phạm vào ngũ quỷ, tuyệt mạng, lục sát, họa hại hay không để tránh.

Tìm đặt lại các cung tốt: sinh khí, phục vì, diên niên, thiên y… cho đúng thì sẽ đem lại lợi lạc và an vui v.v… hoặc đêm đêm phải lạy cúng Bà Đất, Ông Trời, Thượng Động Cố Hỷ, Chúa Xứ, Vạn Ban Ngủ Hành, Thất vị Nương Nương, Cửu Phẩm Lịnh Bà, Lịnh Cô, Thổ Địa, Thổ Thần, Thổ Trạch, Thổ Công, Thổ Chủ, Thổ Táo, Thổ Kỳ, Thần Hoàn Bổn Cảnh.v.v… để cầu xin ban rỗi cho những điều mong cầu tùy tâm khấn nguyện.

Tóm lại: Con người có nhiều khổ đau, từ tinh thần lẫn vật chất, mới đi đến chỗ tín ngưỡng, để nhờ đấng tha lực nào đó tiếp giải quyết cho cuộc đời họ, đồng thời họ cũng tựa vào đức tin, họ mới có đủ niềm tin và nghị lực để phấn đấu trong cuộc sống. Chung quy chỉ vì bốn chữ bình an và lợi lộc.

Riêng có một tôn giáo, tôn giáo này không chủ trương ban phước giáng họa, tôn chỉ nhằm hướng dẫn cho con người hiểu được nhân quả và nghiệp báo, để họ tự cải hóa trong cuộc sống hằng ngày, để tìm đến an lạc và giải thoát mọi khổ đau. Còn mục đích của tôn giáo này chỉ cho con người thấy rõ được nguyên nhân từ đâu đem lại sự bất an trong cuộc sống. Nguyên nhân này từ tha lực đem đến, hay tự mình gây nên, rồi chuốc lấy, tôn giáo đó chính là đạo Phật. Thế thì, đạo Phật vẫn có chủ trương CẦU AN và CẦU SIÊU.

Vậy chúng ta muốn cầu an cho ta, cho gia đình, trước hết ta phải tìm hiểu nguyên nhân nào làm cho chúng ta KHÔNG AN. (Vì không an nên mới đi CẦU AN). Trong kinh tạng và rải rác trong giáo lý, Phật dạy: “Tâm bất tham luyến, ý bất điên đảo”… (trong bài Sám Nhứt Tâm). Sở dĩ không an do tâm tham và luyến còn ý, lúc nào cũng điên đảo vọng tưởng. Vì do lòng tham dục, luyến ái và vọng tưởng, kết quả bị khổ đau.

Tiền bạc, ngọc ngà, châu báu… các thứ này nó luôn cám dỗ con người không biết sao gọi là đủ, có một trăm nó muốn một triệu, có một triệu nó muốn một tỷ, nó không lúc nào dừng lại vì “túi tham không đáy”. Khi lòng tham dấy khởi, thì ý nó phải ước mơ vọng tưởng, để đạt cho kỳ được, nếu đạt không được thì lo nghĩ trằn trọc, quên ăn, bỏ ngủ…, lâu ngày thần trí bất minh, lúc tính toán không sáng suốt, phán quyết việc gì thất bại nhiều hơn thành công.

Còn thân xác vì biếng ăn bỏ ngủ, tuy ăn đầy đủ, nhưng lúc ăn đầu óc vẫn nghĩ lo. Do đó, tuyến não thùy bị chi phối, không tiết chế cho bộ phận mật, gan, trợ cho thức ăn mau tiêu hóa, lâu ngày đau bao tử. Lúc ngủ suy tính mông lung, giấc ngủ chập chờn cho đến khi mỏi mòn, ngủ trong uể oải sinh ra nhiều bệnh tật.

Đây là nguyên nhân bất an thứ nhất, do lòng tham tài không biết đủ. Đức Phật dạy: ” Đa dục vi khổ ” (nhiều tham muốn là khổ) (Bát Đại Nhơn Giác 2)

Chữ sắc ở đây theo pháp tướng tôn thì có hai thứ sắc.

a. Sắc đẹp: đối tượng của thể xác, do lòng tham vọng không lường, hay so sánh. Đã có vợ có chồng cùng nhau chung sống rồi, thế nhưng lòng tham không muốn vô bờ bến, khi gặp người khác phái nó muốn chiếm hữu để đáp ứng sự thỏa mãn. Một khi lòng dấy lên thì ý nó phải vọng tưởng ước mơ, để rồi tìm mọi lời lẽ, mọi thủ thuật, bất chấp thuần phong mỹ tục, vợ con, bạn bè…, nói chung là bàn quan thiên hạ.

Nhưng khi đối tượng từ chối không đáp ứng lại được, thì bấy giờ tinh thần lúc nào cũng mơ mộng, thể xác biếng ăn, thẫn thờ tương tư. Rồi nó lây họa cho gia đình, làm cho cha mẹ lo lắng, vợ con buồn khổ, lâu ngày trở nên quạo quọ, cau có, làm cho bản thân và gia đình xào xáo, mất hạnh phúc, bất an.

b. Sắc pháp: Chỉ chung mọi hình tướng như : Nhà cửa, xe cộ…

Chung quy lại, nhu cầu vật chất, nếu tâm không biết đủ, ý dấy lên so sánh và ước muốn. Thấy nhà người kia đẹp hơn, thì muốn xây dựng lại cái nhà của mình bằng hoặc đẹp hơn người đó. Thấy xe người kia model mới, ta phải đua đòi sắm mới cho bằng được.v.v…, vì tham vọng đua đòi model này model nọ, rồi khởi tâm tiền vay bạc tháng để đáp ứng nhu cầu, lúc tham muốn đó nó che lấp tâm trí, tính sai nước cờ kinh tế, để rồi nhắm mắt mở mắt đến tháng đóng lãi, nợ nần chồng chất, mất ăn mất ngủ. Do lòng tham sắc không biết đủ nêu trên làm cho khổ đau. Đó là nguyên nhân bất an thứ hai.

Danh vọng, danh dự, danh tước gọi chung là danh tướng. Danh tướng từ nơi bản ngã mà sinh ra. Đức Phật dạy, danh vốn không thật có, nó là giả danh, hư vọng.

Ví dụ: tên của mình Nguyễn Văn A, vốn nó không có. Nếu nó thật có, thì lúc mẹ vừa sinh ra thì nó phải có tên là A đi. Như vậy, tên A đã không có ngay từ đầu, xong cha mẹ lại đặt cho nó cái tên A, từ đó nó có tên A rồi chấp nhận ta là tên A.

Ai đụng đến tên A, chửi đến tên A thì bênh vực nổi nóng lên, có thể chết sống vì cái tên giả danh A kia. Và chưa đủ, nó còn tham tên, muốn mọi người phải biết đến tên tuổi của mình, thán phục mình, khom cúi trước mình và địa vị phải trên mọi người v.v… Vì tham vọng như thế nên phải so tài đấu trí, khôn dại, thế thần … để thỏa mãn danh tước.

Muốn thỏa mãn danh vị bất chấp mọi thủ đoạn, mưu tính; hoặc luồn cúi như Hàn Tín, thủ đoạn như Tào Tháo, sát phạt như Napoléon như Hitlèr v.v… dẫm trên xương máu của mọi người. Chung quy chỉ vì danh vị. Một khi không đạt được thì thất vọng ê chề, đâm ra mê tín, xây nhà, sửa hướng, trấn bếp, coi tay, di dời mồ mả ông bà… để địa vị vững vàng thăng cao.

Người tham danh không biết dừng nghỉ, ý niệm luôn luôn củng cố danh vị cho mình, mải mê khoác chiếc áo danh lên mình ngã tướng, để rồi khổ đau, lo âu, sợ hãi. Hậu quả chất chồng thù oán… Cổ đức dạy: “Càng cao danh vọng, càng dài gian nan”. Đây là nguyên nhân không an thứ ba.

Phàm là con người có thân xác, cần phải ăn uống để nuôi dưỡng nó. Nhưng nếu để tâm tham, xen lẫn vào thì rất là ty tiện hèn hạ (tham ăn). Một khi tâm tham nổi lên làm mất đạo nghĩa, nhân cách và sĩ diện con người. Ví dụ: Sáng ra chợ chỉ vì một con cá, đôi bên có thể cãi vã với nhau và dập thúng lên đầu nhau. Anh em ruột thịt tham nhau một tấc đất có thể đâm chém lẫn nhau, xã hội chỉ một trái ớt, trái cà cũng cự cãi gây gỗ. Tục ngữ có câu:

“Miếng ăn là miếng tồi tàn Mất ăn một miếng lộn gan lên đầu”

Thế nhưng lòng tham con người vô hạn, ý nghĩ luôn luôn tính toán hơn thiệt. Chịu khó xét soi cho kỹ: một tấc đất có thể làm giàu được không? Có thể lưu giữ cho con cháu hưởng thụ đời đời hay không? Đừng nói chi cọng rau trái ớt, chỉ thưởng thức ngoài chót lưỡi chút xíu, khi nuốt sâu xuống 3 tấc nó là vật gì? Có thơm ngon không? Có đạo nghĩa lý thú không?… Tất cả đều thúi tha đáng ghét. Nhưng vì lòng tham che lấp, làm cho tối tăm tâm trí, làm cho gia đình thù hận nhau, xã hội mất phẩm chất văn hóa, quốc gia mất đạo đức văn minh, thế giới gây chiến, tàn hại sinh linh, tất cả cũng chỉ vì tham ăn. Đây là nguyên nhân bất an thứ tư.

Thùy là giấc ngủ mê, người sống trong u tối mê lầm gọi là mê ngủ hay say ngủ, phải luôn luôn tỉnh thức, cho tâm trí minh mẫn. Người tham ngủ (Thùy) biết việc đó là sai lầm, là nguy hiểm vẫn dấn thân vào, hành động cố chấp làm theo ý riêng của mình, bất chấp mọi lời khuyên bảo, đến khi đụng việc mới tỉnh ngộ là chuyện đã rồi. Sự mê ngủ này nó hàm chứa 4 loại tham: tài, sắc, danh, thực nêu trên. Vì mê lầm không nhận thức được tiền tài có nghĩa hay vô nghĩa, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống v.v… bởi nhân tố đó gây ra khổ đau lầm lạc. Đó là nguyên nhân bất an thứ năm.

Do năm nguyên nhân không an nêu trên, nó làm cho ta điên đảo trong cuộc sống, vọng tưởng những chuyện ảo huyền, tâm lúc nào cũng nơm nớp tính toan; thân hệ lụy kiệt sức mỏi mòn. Phật dạy: “Đa dục vi khổ, sanh tử bì lao, trùng tham dục khởi…”

Nếu tài, sắc, danh, thực, thùy không đáp ứng lại thì khổ đau quằn quại, còn điều nào được như ý thì tâm luyến ái không muốn buông bỏ, tâm lúc nào cũng luyến tiếc của cải, vật chất, chức tước, địa vị, ăn uống, ngủ nghỉ (mê lầm). Sự luyến ái bao giờ nó cũng vun vén cho “cái ta” (bản ngã), nào là nhà của ta, tiền bạc của ta, xe cộ của ta, vợ của ta, chồng của ta, con cháu của ta, danh vị của ta v.v. và v.v…

Phật dạy: ” Con là nợ, vợ chồng là oan gia, của cải, nhà cửa là nghiệp báo “. Vì vô lượng kiếp đến nay, chúng sinh mãi vùi đầu trong giấc ngủ say, lấy giả cho là thật, rồi cứ ôm ấp luyến tiếc. Rốt cuộc, cũng do tham luyến làm cho không an. Vì không an, nên mới ghi danh sách cúng thập tự, bá tự để CẦU AN, đến miếu môn cầu khấn ban cho những điều an. Đa số cúng kiến, vái van đều cầu cho gia đình tự thân được bình an, tai qua nạn khỏi.

Trở lại ý nghĩa cầu an trong tinh thần đạo Phật. Phật dạy: ” Thiểu dục vô vi thân tâm tự tại ” (bớt lòng tham muốn thì thân và tâm an lạc tự tại).

Như vậy, khi cầu an nên hiểu căn bản của năm thứ tham nêu trên; giảm bớt ít thì an ít, giảm bớt nhiều thì an nhiều. Nếu tham luyến không còn thì bình an vô sự, đó là tôn chỉ của đạo Phật, là chân lý cứu cánh của đạo Phật, chứ Phật không phải là người ban phước giáng họa. Giáo lý của đạo phật là phương thuốc hay, khi Ngài chẩn đoán được tâm bệnh của chúng sinh (nguyên nhân bất an), Ngài giúp cho toa thần dược để trị liệu.

Nếu người bệnh muốn hết bệnh thì nên ứng dụng toa lương dược mầu nhiệm này. Chứ còn cầm chén thuốc mà cứ nói: “Thuốc hay quá, thuốc hay quá” (vái van an bình) mà không chịu uống (không thực hiện năm điều tham luyến nêu trên) thì bệnh bất an vẫn hoàn bất an, uổng công vô ích, vô tình đưa đạo Phật vào con đường thần quyền mê tín.

Thích Nhật Quang (Chùa Long Phước, Lấp Vò, Đồng Tháp)

Thích Nhật Quang

Sự kiện nổi bật

Tìm kiếm

5. Ý Nghĩa Của Việc Cúng Nước

Đặc tính của nước là trong sạch, phẳng lặng, thuần khiết. Chính vì thế khi ta cúng nước lên Phật, liền nghĩ đến tâm của ta phải thanh tịnh, bình đẳng, trong sạch như nước. Trong cuộc sống chúng ta đối nhân xử thế, ứng xử giao tiếp người, sự, vật, tâm chúng ta không nên có sự phân biệt giàu-nghèo, sang-hèn, trí-ngu. Như vua Võ Tắc Thiên nói: “Con người lúc mới sinh ra đều giống nhau, đều bình đẳng. Khi trưởng thành khoác lên mình chiếc áo lông bào thì gọi là vua. Còn nếu khoác lên mình chiếc áo rách thì gọi là ăn mày “. Trong nhà Thiền cũng có một mẫu chuyện rất nổi tiếng, đó là: “Lục Tổ Huệ Năng đến huyện Huỳnh Mai yết kiến Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn để cầu pháp. Khi gặp, Ngũ Tổ hỏi: ” Ngươi từ đâu đến? Ðến đây cầu việc gì?”. Huệ Năng đáp: ” Con từ Lĩnh Nam đến. Ðến đây chỉ cầu làm Phật, không cầu việc gì khác“. Tổ tiếp: ” Ngươi là người xứ Lĩnh Nam lại là dân man rợ, thành Phật thế nào được!“. Huệ Năng đáp: ” Con người tuy có phân chia Nam Bắc, chớ Phật tánh vốn không có Nam Bắc. Cái thân man rợ này đối với hòa thượng tuy chẳng giống nhau, nhưng cái tánh Phật đâu có khác!”.

Qua kinh tạng Pàli, trở về thời Ấn- độ lúc bấy giờ. Đức Phật phủ nhận sự phân chia giai cấp xã hội và kỳ thị giới tính. Ngài dạy hành động (hay việc làm) nói lên giá trị của mỗi người là Bà La Môn, Sát Ðế Lợi, Phệ Xá hay Thủ Ðà La, mà không phải là dòng dõi hay chủng tộc. Càng hiểu rõ được cái giá trị tôn trọng quyền bình đẳng tột cùng của Đức Phật Thích Ca đã nói : “Không có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ, không có hận thù trong giọt nước mắt cùng mặn“.

Qua ba mẫu chuyện trên ta thấy cách ứng nhân xử thế của người xưa thật đẹp, thật cao thượng. Ngày nay trong cuộc sống, trong công việc tuy có sự phân biệt giám đốc, nhân viên, người chủ, giúp việc, v.v…, nhưng nếu chúng ta biết ứng xử với nhau theo tinh thần ” bổn phận của người Phật tử tại gia ” thì cuộc sống sẽ tốt đẹp.

Bổn phận chủ đối với người giúp việc trong nhà, phải có đủ 5 điều:

– Chủ nhà trước khi sai khiến người giúp việc làm gì, trước phải biết họ đói, no, ấm, lạnh thế nào để họ có đủ sức khỏe và vui lòng làm lụng.

– Lúc nào người giúp việc bị bệnh hoạn, phải chăm non thuốc thang và để cho họ được nghỉ ngơi, để bồi bổ sức khỏe lại.

– Khi họ có phạm lỗi gì, phải xét coi họ cố ý hay vô tình. Nếu vô ý lầm lỡ, thì nên dung thứ. Nếu họ quyết lòng phá hại, thì phải làm nghiêm trách hẳn hoi, với lời lẽ thanh nhã, cho họ biết lỗi để chừa.

– Khi họ tiện tặn tích góp được số tiền riêng, không nên tìm cách thâu đoạt.

– Khi muốn thưởng công lao cho họ, phải giữ mực công bình, tùy công lao của mỗi người mà phân chia cho cân xứng.

Bổn phận người giúp việc đối với chủ nhà, cũng phải có đủ 5 điều kiện:

– Mỗi buổi sáng phải thức dậy trước chủ nhà, không đợi kêu.

– Phải biết phần việc nào của mỗi ngày, cứ y như thường lệ mà thi hành, không đợi chủ sai bảo.

– Khi làm việc phải thận trọng đồ dùng của chủ, không làm cẩu thả, hư hao.

– Phải hết lòng kính mến chủ nhà, lúc chủ ra đi, phải ân cần đưa tiễn; lúc chủ trở về, phải vui mừng tiếp đón.

– Không nên chỉ trích, nói xấu chủ với người ngoài.

Cúng nước đến Phật, Hòa thượng Tịnh Không khuyên chúng ta nên cúng ly nước bằng thủy tinh, trong suốt, có thể từ bên ngoài nhìn thấy nước bên trong. Nên cúng nước suối hoặc nước lạnh, không nên cúng nước đun sôi để nguội, nước trà hoặc các loại nước có màu. Nhìn thấy nước chúng ta phải liên tưởng đến tâm thanh tịnh, bình đẳng của chính mình. Ứng nhân xử thế giao tiếp phải dùng tâm bình đẳng. Ngài nói các vật cúng khác (bông, trái cây, nhang, đèn,….) có thể thiếu, không cần thiết, nhưng đặc biệt ly nước cúng Phật thì không thể thiếu. Do tâm thanh tịnh sanh ra công đức, tâm thanh tịnh sanh trí tuệ, tâm thanh tịnh vượt thoát luân hồi.

Ý Nghĩa Của Việc Cúng Đầy Tháng Cho Bé

Nghi lễ cúng đầy tháng hay còn gọi là cúng Mụ là một nghi thức đặc biệt quan trọng đánh dấu sự khởi đầu của một đứa trẻ khi vừa chào đời được một tháng. Đây là một trong những nghi lễ, tập tục gắn liền với cuộc đời của mỗi con người đồng thời nó là nét đẹp cần được trân trọng của dân tộc Việt ta. Có một số người tự đặt câu hỏi rằng không cúng đầy tháng có sao không?

Lễ cúng đầy tháng cũng chính là để tạ ơn.

1. Nguồn gốc của lễ cúng đầy tháng

Ý nghĩa của việc cúng đầy tháng đó là thông báo cho báo cho gia đình, dòng họ về sự có mặt của một thành viên mới trong gia đình. Bên cạnh đó, cúng đầy tháng còn là nghi lễ để tỏ lòng biết ơn và cầu mong cho các Bà Mụ, Đức Ông sẽ ban phước lành, may mắn cho đứa trẻ. Tuy vậy, việc xoay quanh lễ cúng này có rất nhiều thắc mắc khác nhau, bài viết này sẽ phần nào giúp các bạn giải đáp các vấn đề thường gặp trong số đó.

2. Vậy 12 bà Mụ (Mẹ sanh) bao gồm những ai?

3. Cách tính ngày để cúng đầy tháng

Cúng đầy tháng được tính theo lịch âm.

Nếu là bé gái thì tính từ ngày sinh đến 1 tháng sau, nghi lễ được tổ chức trước 1 ngày. Nếu là bé trai thì tính từ ngày sinh đến 1 tháng sau, nghi lễ được tổ chức lùi 2 ngày. Ví dụ: Sinh ngày 16/8 âm lịch thì bé trai sẽ cúng đầy tháng ngày 18/9, bé gái sẽ cúng vào ngày 15/9 âm lịch.

Mâm lễ cúng đầy tháng bé trai đầy đủ và ý nghĩa

Để cúng đầy tháng cho bé trai trước hết bạn phải chuẩn bị những đồ lễ cúng đầy tháng cho mâm cúng đầy tháng. Đồ cúng đầy tháng (do cung day thang) cho bé các bạn có thể tự nấu xôi chè cúng đầy tháng, làm cơm cúng đầy tháng

lễ vật cúng đầy tháng cho con trai bao gồm (le vat cung day thang gom nhung gi): 12 chén chè đậu trắng bằng nhau cho bé trai và một tô chè lớn, 13 đĩa xôi, 1 con gà luộc hoặc 1 con vịt luộc, bộ tam sên (bao gồm thịt heo luộc, trứng luộc, tôm hay cua luộc), mâm ngũ quả, hoa tươi, nhang đèn, trà, rượu, 1 bộ đồ hình thế (dùng để ghi tên và ngày tháng năm sinh của bé, cúng xong sẽ đốt đi để giải hạn cho bé), 13 miếng trầu cánh phượng, 13 đôi hài, 13 bộ váy áo đẹp, 13 nén vàng. Cách nấu chè đậu trắng cúng đầy tháng cho bé trai là đậu khi chưa nấu phải còn cứng, hạt tròn dài đều. Khi chín đậu phải dẻo, ngọt vị cốt dừa.

Cách sắp đồ cúng lên bàn: Sắp lên 2 bàn: 1 bàn nhỏ ở phía trên sẽ bày đồ cúng cho Đức ông, 1 bàn lớn phía dưới bày lễ cúng 12 bà Mụ. Trong đó, bàn trên được đặt cách bàn dưới một khoảng 10 cm. Nguyên tắc khi sắp mâm cúng đó là “Đông bình Tây quả” tức là phía Tây bạn đặt lễ vật còn phía Đông đặt bình bông. Lưu ý là các mâm được bài trí một cách cân đối và đầy đủ các lễ vật đã nêu ở trên.

Trước khi tiến hành lễ cúng đầy tháng cho bé gái bạn thắc mắc phải chuẩn các lễ vật cúng đầy tháng như thế nào, mâm cúng đầy tháng gồm những gì? Đối với lễ vật cúng 12 bà Mụ bạn cần chuẩn bị 12 chén chè nhỏ, 12 đĩa xôi nhỏ, 12 chén cháo nhỏ, 2 dĩa bánh dành cho trẻ con, 12 ly rượu nhỏ ( có thể thay bằng 12 ly nước nhỏ) và 12 trứng vịt.

Mâm cúng đầy tháng bé gái đơn giản và đầy đủ nhất

Còn đối với lễ vật cúng Đức Ông đó là: 1 con gà, 3 đĩa xôi lớn, 1 tô cháo, 1 tô chè lớn, 1 mâm ngũ quả, 1 miếng thịt quay, thêm vào đó là trầu cau, rượu và giấy tiền hãng mã.

6. Tục làm phép kết thúc thời gian ở cữ

Nguồn: https://phongtucvanhoavn.com/

2. Ý Nghĩa Của Việc Cúng Quả (Trái Cây)

Cúng quả tượng trưng cho kết quả, quả báo từ việc tu hoa Lục độ mà thành. Phật tử thường thực hành hạnh bố thí đến mọi người, mọi loài thì quả báo đối với bản thân là phát tài, thông minh, mạnh khỏe, sống thọ. Đối với mọi người xung quanh là việc đem lại niềm vui, niềm hạnh phúc.

Giữ được hạnh trì giới, thì thân – khẩu – ý được thanh tịnh, an lạc, ngăn ngừa được các hạnh nghiệp xấu ác, được mọi người xung quanh hoan hỷ tin tưởng, kính trọng. Phật dạy: “Bệnh từ miệng vào, họa từ miệng ra“. Hiện nay, ngoài xã hội có rất nhiều loại bệnh kỳ lạ, những cuộc xảy bất hòa, chiến tranh đều do bởi cửa miệng mà ra.

Không có gì giá trị, lớn lao và quý báu hơn công đức nhẫn nhục. Không có gì nguy hiểm, tai hại hơn sự nóng giận, cộc cằn. Chúng phá hủy hết mọi công đức của chúng ta trên đường tu tập. Trong kinh, Phật dạy: “Tham lam, quả báo đọa ngạ quỉ; nóng giận quả báo đọa địa ngục; ngu si quả báo đọa súc sanh “. Người có tính hay nóng giận thường bị mọi người xa lánh.

Tục ngữ Việt Nam có câu: “Có công mài sắt, có ngày nên kim” hay một nhà bác học nói rằng: “Thiên tài: 1% là bẩm sinh, còn 95% là khổ luyện, cần cù, siêng năng“. Ngạn ngữ Trung Quốc cũng có câu: “Cầu học như nghịch thủy hành châu, bất tấn tắc thoái” (Cầu học như chèo thuyền ngược nước, chẳng tiến ắt lùi). Do đó chúng ta biết rằng sự nghiệp ở thế gian, hay trong Phật pháp muốn đạt thành tựu, điều không thể thiếu yếu tố quan trọng là sự siêng năng, cần cù, tinh tấn đối trị lại với giải đại, phóng dật. Bồ tát thành Phật sớm hay muộn đều quyết định ở sự tinh tấn. Tinh tấn được ví như xăng dầu làm cho chiếc xe hơi chạy. Ðộng cơ dù tốt, người lái dù giỏi, con đường dù bằng phẳng, mục đích dù gần, mà không dầu xăng thì chiếc xe vẫn ở nguyên một chỗ.

Tập trung tâm ý vào một công việc, một đối tượng, cộng với sự siêng năng, tinh tấn giúp chúng ta hoàn thành công việc một cách tốt đẹp và nhanh chóng, đó là thiền định. Tất cả pháp môn trong Phật pháp đều không rời yếu tố thiền định. Hành giả tu học có sự thiền định sẽ không bị đắm nhiễm bởi cảnh duyên danh văn, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần.

Đạo Phật có câu: “Lấy từ bi làm lẽ sống. Lấy trí tuệ làm sự nghiệp “. Vô minh là nguồn gốc của khổ đau, của sanh tử luân hồi. Do đó trên bước đường học Phật giải thoát cần có gươm trí tuệ để chặt phá vỏ vô minh, tát cạn sông phiền não. Trong ứng xử giao tiếp với mọi người, chúng ta phải có đủ sự sáng suốt để phân biệt đúng-sai, tốt-xấu, phải-trái, v.v… để tránh những chuyện không tốt xảy ra cho bản thân, gia đình, xã hội.

Thế gian hay Phật pháp đều không rời lý nhân quả. Nhân quả là nền tảng căn bản thiết thực của chân lý vũ trụ. Chúng ta muốn ăn trái mít thì phải trồng cây mít. Nhìn thấy hoa phải tu nhân thiện thì quả báo sẽ hưởng là thiện quả. Đó là ý nghĩa của việc cúng hoa, trái cây cho Phật.

Hiện nay, trong xã hội nhiều người quan niệm rằng có một số loài hoa, trái cây không thể dùng cúng dường Phật, vì họ nghĩ rằng sẽ đem đến những điều không tốt, không may mắn cho bản thân, gia đình. Đây là một quan niệm sai lầm, không đúng. Truyện kể rằng: Thời Phật còn tại thế, một hôm có đứa bé cúng dường đến Phật một nắm cát, Phật liền thọ nhận và thọ ký cho đứa bé sau này sẽ trở thành vị vua (tức là vị vua A-dục). Hoặc trong một câu chuyện khác, một hôm đức Thế Tôn đi vào thành khất thực, có anh chàng Ba-lia nghèo khổ đã không ngần ngại đem nửa chén cơm và nửa bát canh thừa của mình cúng dường lên đức Phật, Ngài liền thọ nhận. Do đó, chúng ta thấy rằng cúng dường đến Phật là cúng bằng tấm lòng, sự chân thành, tâm cung kính, chứ không phải bằng hình tướng vật thể bên ngoài.