Ý Nghĩa Của Mâm Cỗ Ngày Tết Cổ Truyền Tại Việt Nam / Top 14 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Apim.edu.vn

Ý Nghĩa Của Mâm Ngũ Quả Trong Ngày Tết Cổ Truyền Việt Nam

Ngày Tết Nguyên Đán của Việt Nam (Tết ), cho dù ở thành thị hay thôn quê, giàu sang hay nghèo khó, thì trên bàn thờ tổ tiên hoặc trên bàn tiếp khách, hầu như nhà nào cũng trưng một mâm ngũ quả, và cố thể hiện sao cho vừa đẹp mắt vừa hàm ý những điều ước nguyện của gia chủ.

Gọi là ngũ quả nhưng thật ra chẳng ai rõ quy định là những loại quả gì mà tùy từng địa phương với đặc trưng về khí hậu, sản vật và quan niệm riêng mà người ta chọn ra các loại quả khác nhau để bày mâm ngũ quả.

Tuy nhiên, dù là loại quả gì, mâm ngũ quả vẫn mang một ý nghĩa chung: dâng cúng tổ tiên thể hiện lòng hiếu thảo và ước mong những điều tốt lành trong gia sự. Mỗi loại quả đều có mùi vị, màu sắc riêng và cũng mang những ý nghĩa nhất định.

Ý nghĩa mâm ngũ quả

Ngũ quả – thể hiện cho 5 vị Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ, 5 yếu tố được cho là đã cấu thành nên vũ trũ trong quan niệm của Khổng giáo.

Ngoài ra số 5 cũng tượng trưng cho ngũ phúc. Đầu năm đón ngũ phúc vào nhà thì cả năm sẽ tốt đẹp. Có một số quan niệm khác nhau về ngũ phúc, chẳng hạn có người cho rằng ngũ phúc bao gồm 5 chữ: Phú (giàu có), Quý (địa vị sang trọng), Thọ (sống lâu), Khang (khỏe mạnh), Ninh (bình an).

Người Hoa thì diễn giải khác hơn khi cho rằng ngũ phúc bao gồm: Trường Thọ (không đoản mệnh), Phú Quý (có địa vị, giàu sang), Khang Ninh (khỏe mạnh, bình an), Hiếu đức (sống lương thiện, nhân hậu), Thiện chung (khi chết nhẹ nhàng, thanh thản, không tật bệnh…).

Cách lý giải ít nhiều khác nhau, song vẫn được nhấn mạnh ở 3 chữ đầu tiên là Phú, Quý, Thọ (cũng được xem là Phúc, Lộc, Thọ) bởi người ta cho rằng chữ “Khang”, “Ninh” cũng nằm trong chữ “Thọ”.Với quan niệm về ngũ phúc như thế, người ta bày mâm ngũ quả cũng với những ước mong ấy.

Nếu căn cứ theo màu sắc trong triết lý phương Đông thì mâm ngũ quả phải có 5 loại quả với 5 màu khác nhau:

Đầu tiên là chuối xanh – ứng với mùa Xuân (hành mộc). Nải chuối như bàn tay ngửa, hứng lấy những gì tinh túy nhất của mùa Xuân để đọng thành quả ngọt; nó còn có ý nghĩa che chở, bảo bọc.

Thứ hai là quả Phật thủ màu vàng – tượng trưng hành thổ nên được đặt ở giữa, trong lòng nải chuối. Phật thủ là loại quả có mười cánh múi chụm lên như 10 ngón tay nên dân gian gọi là tay Phật. Phật thủ được trưng lên bàn thờ với niềm cầu mong được bàn tay Phật trời ban phúc lộc. Nếu không tìm được Phật thủ, có thể thay bằng quả bưởi chín vàng, cũng mang ý nghĩa tương tự.

Tiếp theo, ba loại quả khác có các màu đỏ (ứng với mùa Hạ – hành hỏa) như ớt sừng, cam-quýt chín, trứng gà, hồng…; màu trắng (ứng với mùa Thu – hành kim) như roi, đào; màu đen (ứng với mùa Đông – hành thủy) như mận, hồng xiêm…

Mâm ngũ quả làm cho quang cảnh Tết và không gian thờ cúng thêm ấm áp, rực rỡ mà hài hòa; thể hiện sinh động ý nghĩa triết học-tín ngưỡng-thẩm mỹ, đồng thời cũng chứa đựng ước vọng của con người. Mâm ngũ quả ngày Tết mang một ý nghĩa chung sâu sắc, thể hiện lòng hiếu thảo và ước mong những điều tốt lành cho một năm mới sắp tới. Mỗi loại quả được lựa chọn để sắp xếp trong mâm ngũ quả đều mang những ý nghĩa riêng nhất định, ví dụ:

Lê (hay mật phụ): vị ngọt thanh ngụ ý việc gì cũng trơn tru, suôn sẻ.

Đào: thể hiện sự thăng tiến.

Mai: hạnh phúc, không cô đơn.

Quả phật thủ: giống như bàn tay đức Phật, luôn chở che cho các số phận con người.

Táo: có nghĩa là phú quý.

Hồng, quýt: tượng trưng cho sự thành đạt.

Thanh long (rồng mây hội tụ) thể hiện sự phát tài phát lộc.

Bưởi, dưa hấu: căng tròn, mát lành, hứa hẹn sự ngọt ngào, may mắn.

Nải chuối xanh: như bàn tay ngửa: hứng lấy may mắn, bao bọc và chở che.

Quả trứng gà (hay Lê-ki-ma) như hình đào tiên: lộc trời.

Sung: gắn với biểu tượng sung mãn về sức khỏe và tiền bạc.

Đu đủ mang đến sự thịnh vượng đủ đầy.

Xoài: có âm na ná như “xài”, để cầu mong cho việc tiêu xài không thiếu thốn.

Gọi là ngũ quả nhưng thật ra, việc lựa chọn và bày biện những loại quả gì trên mâm tùy thuộc vào từng địa phương với những đặc thù về khí hậu, sản vật và quan niệm văn hóa riêng. Từ đó, người ta chọn ra những loại quả mang ý nghĩa tâm linh, tinh thần để “thiết kế” nên mâm ngũ quả.

Tuy mỗi miền mỗi khác, nhưng tựu trung, mâm ngũ quả trên bàn thờ ngày Tết vẫn là nơi hội tụ của hồn quả, hương cây, của nếp văn hóa dân tộc và của ý nguyện cầu hòa, an, đủ của người dân Việt.

Mâm ngũ quả miền Bắc

Ở miền Bắc, trên mâm ngũ quả thường có 5 loại quả: chuối, bưởi, đào, hồng, quýt. Cách trình bày truyền thống thường gặp là nải chuối được đặt ở dưới cùng, ở giữa để đỡ lấy toàn bộ các cây trái khác. Mâm ngũ quả đẹp là mâm ngũ quả có đủ màu sắc rực rỡ. Chính giữa nải chuối xanh thẫm là quả bưởi căng mọng hoặc quả phật thủ chin vàng nổi bật.

Những quả chin đỏ đặt xung quanh. Những chỗ khuyết đặt xen kẽ quýt vàng, táo màu xanh hoặc những trái ớt đỏ mọng, hoàn thiện những nét trang trí cuối cùng.

Mâm ngũ quả miền Trung

Nơi khúc ruột miền Trung nghèo khó, đất đai vốn cằn cỗi, ít hoa trái, lại thêm thời gian Tết thường rơi vào mùa đông khắc nghiệt, và cả những hậu quả thiên tai để lại từ trước đó chưa dứt nên cây trái đặc sản địa phương rất hiếm. Người dân quê không quá câu nệ hình thức ý nghĩa của mâm ngũ quả, mà chủ yếu có gì cúng nấy, thành tâm dâng kính tổ tiên.

Mặt khác, người miền Trung do chịu sự giao thoa văn hóa 2 miền Bắc – Nam nên mâm ngũ quả vẫn bày biện đủ: chuối, mãng cầu, sung, dừa, đu đủ, xoài… Rất phong phú!

Mâm ngũ quả miền Nam

Nếu như ở miền Bắc, hầu như tất cả các loại quả đều có thể bày lên bàn thờ, kể cả quả ớt mang vị cay đắng, miễn sao mâm ngũ quả trông đẹp mắt là được; thì người miền Nam lại có sự kiêng cữ. Mâm ngũ quả của người miền Nam không bao giờ có chuối, vì loại quả này tên gọi có âm giống từ “chúi” thể hiện sự nguy khó. Quả cam cũng không được có mặt trong mâm ngũ quả ngày Tết, vì câu “quýt làm cam chịu.”

Mâm ngũ quả của người miền Nam thường có các loại trái: mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài, sung (theo câu: “Cầu sung vừa đủ xài”), thêm chân đế là 3 trái thơm (dứa), thể hiện sự vững vàng. Đặc biệt, mâm ngũ quả của người miền Nam không thể thiếu cặp dưa hấu ruột đỏ vỏ xanh, tượng trưng cho lòng trung nghĩa và trinh tiết của người phương Nam.

Do trái cây ngày càng nhiều, loại nào cũng ngon, bổ nên để thể hiện cao nhất lòng hiếu thảo đối với tổ tiên, đồng thời cũng nhằm thể hiển tính trình bày mỹ thuật trong con mắt thẩm mỹ độc đáo của nhân dân, nên mâm ngũ quả ngày càng phong phú hơn, và người ta cũng không câu kệ cứng nhắc “ngũ quả” nữa mà có thể là bát, cửu, thập quả. Nhiều hơn, nhưng người ta vẫn gọi là “mâm ngũ quả” và, dù đựng trong đĩa cũng vẫn gọi theo xưa là “mâm.” Bởi đó là một “sản phẩm văn hóa” đã xác lập trong quá trình lịch sử lâu dài, được khuôn đúc theo quan niệm về “bộ ngũ hoàn hảo.”

Chưng bày mâm ngũ quả trên bàn thờ của gia đình trong những ngày Tết mang ý nghĩa giữ gìn bản sắc văn hóa độc đáo của dân Việt. Chính vì vậy, người dân Việt dù ở phương trời nào, đến ngày Tết cổ truyền vẫn không bỏ qua tục lệ này, như một sự nhắc nhở, cho bản thân và cho con cháu, về cội nguồn của mình.

Những điều lưu ý trước khi bày mâm ngũ quả

Nhiều gia đình khi mua các loại quả về, thường rửa cẩn thận cho quả bóng, đẹp. Tuy nhiên, việc rửa sẽ làm quả sớm bị héo hoặc thối nếu có chỗ đọng nước. Do đó, chỉ cần dùng khăn giấy ẩm lau sạch quả là được.

Với những quả bưởi mà vỏ bị ố vàng hay mốc xanh, có thể hòa chút nước vôi sạch, thấm vào khăn lau đều sẽ cho vỏ bưởi vàng mà không lo đọng nước, héo bưởi.

Do bận công việc, nhiều gia đình có thể mua quả từ ngày 27 – 28 Tết, thậm chí sớm hơn. Do đó, nếu không tính đến việc mâm quả sẽ còn để từ 30 Tết đến vài ngày sau mà chọn mua những quả đã chín đẹp, vừa mắt thì khi bày, quả đã có thể bị chín quá, lá héo, mũm vỏ. Nên lựa những quả già nhưng chưa chín quá (tùy theo thời gian mua có sát ngày 30 Tết chưa). Chuối nhất định phải là chuối xanh. Các loại quả xoài, mãng cầu, đu đủ, hồng… nên mua quả ương về bày để không bị hư hỏng.

*Cách chọn các loại quả để bày trong ngày Tết:

– Hình dáng: Chuối tiêu cong cong như hình trăng lưỡi liềm, trên vỏ có năm sáu gờ, cuống ngắn; Chuối tây thì hai đầu thon nhỏ, phần giữa to, trên vỏ có 3 gờ, cuống dài.

– Màu sắc: Chuối tiêu chưa chín có màu xanh, khi đã chín trứng cuốc chuyển sang màu vàng có lốm đốm, bóc vỏ thì thấy thịt màu vàng nõn, cắt ngang thấy thiết diện nhát cắt hình tròn. Chuối tây có màu vàng hơi xam xám, khi đã chín trên vỏ không có điểm lốm đốm, bóc vỏ thì thấy phần thịt màu trắng nõn.

– Mùi vị: Chuối tiêu mùi rất thơm, cắn phần thịt có vị rất ngọt. Chuối tây tuy ngọt nhưng có nhiều vị chưa nữa.

Không nên chọn trái có màu vàng tươi đã rụng cuống, có thể màu vàng tươi đó là “chín háp” do sâu hại, ong chích, cây bị suy kiệt… khiến trái rụng trong vườn. Nên chọn trái cam, quýt có màu vàng mỡ gà (chiếm ít nhất 1/3 trái), da bóng láng, có đốm thâm lộ ra, vỏ mỏng… Với cam sành không nên chọn trái lớn có da sần sùi hay vàng chóe một bên (do nám nắng), trái cam như vậy vỏ dày, bị sượng khô, ít nước, không ngọt.

– Nhìn: Đầu tiên bạn hãy để mắt vào màu sắc và hình dạng quả dưa. Nếu trông hình dáng cân đối, vỏ cứng chắc và nhẵn nhụi, vân hoa sáng rõ, đường vằn sáng, phần dưới ngả màu vàng, phần trên và dưới cân đối với nhau, phần rốn lõm sâu vào trong, núm mọc giữa rốn có màu xám, thịt dưa đầy nở nang, khô mịn và dễ bổ thì đấy là dưa đã chín, ăn sẽ rất thơm ngon. Nhìn chung quả dưa tròn trĩnh, cân đối, có độ lớn vừa phải bao giờ cũng ngon hơn những quả dưa trông méo mó hoặc quá nhỏ. Loại méo mó, trông bề ngoài thô xấu, bì dầy thì mùi vị cũng sẽ nhạt.

– Gõ: Bạn hãy dùng một tay nâng quả dưa lên, tay kia gõ nhẹ. Nếu thấy bình bịch có vẻ nặng và cảm giác thấy bên trong có vẻ như rung rung thì đấy là dưa chín. Ngược lại, nếu nghe thấy tiếng kêu giòn, tay đỡ thấy tương đối nặng thì phần nhiều là dưa chưa chín hoặc chất lượng kém.

– Nắn, bóp: Bạn hãy nâng quả dưa lên để kề sát vào bên tai mình và dùng 2 ngón tay cái ấn vào phần đầu quả dưa, nếu nghe thấy tiếng ràn rạn thì đó là dưa tốt.Vì trong ruột quả dưa đã chín thì kết cấu không còn chặt nữa, cho nên ta sẽ nghe thấy tiến ràn rạn, nếu là dưa cát mỏng vỏ thì tiếng đó càng rõ hơn. Còn khi dưa còn xanh, kết cấu trong ruột còn chắc thì bạn sẽ không nghe thấy tiếng gì hết cả, hơn nữa khi ấy vỏ còn dầy, tiếng kêu nghe càng khó thấy.

Ý Nghĩa Của Mâm Ngũ Quả Trong Ngày Tết Cổ Truyền

Ngày Tết, cho dù ở thành thị hay thôn quê, giàu sang hay nghèo khó, trên bàn thờ tổ tiên hoặc trên bàn tiếp khách, hầu như nhà nào cũng trưng một mâm ngũ quả, và cố thể hiện sao cho vừa đẹp mắt vừa hàm ý những điều ước nguyện của gia chủ.

Gọi là ngũ quả nhưng thật ra chẳng ai rõ quy định là những loại quả gì mà tùy từng địa phương với đặc trưng về khí hậu, sản vật và quan niệm riêng mà người ta chọn ra các loại quả khác nhau để bày mâm ngũ quả.

Tuy nhiên, dù là loại quả gì, mâm ngũ quả vẫn mang một ý nghĩa chung: dâng cúng tổ tiên thể hiện lòng hiếu thảo và ước mong những điều tốt lành trong gia sự. Mỗi loại quả đều có mùi vị, màu sắc riêng và cũng mang những ý nghĩa nhất định.

Nếu căn cứ theo màu sắc trong triết lý phương Đông thì mâm ngũ quả phải có 5 loại quả với 5 màu khác nhau:

Đầu tiên là chuối xanh – ứng với mùa Xuân (hành mộc). Nải chuối như bàn tay ngửa, hứng lấy những gì tinh túy nhất của mùa Xuân để đọng thành quả ngọt; nó còn có ý nghĩa che chở, bảo bọc.

Thứ hai là quả Phật thủ màu vàng – tượng trưng hành thổ nên được đặt ở giữa, trong lòng nải chuối. Phật thủ là loại quả có mười cánh múi chụm lên như 10 ngón tay nên dân gian gọi là tay Phật. Phật thủ được trưng lên bàn thờ với niềm cầu mong được bàn tay Phật trời ban phúc lộc. Nếu không tìm được Phật thủ, có thể thay bằng quả bưởi chín vàng, cũng mang ý nghĩa tương tự.

Tiếp theo, ba loại quả khác có các màu đỏ (ứng với mùa Hạ – hành hỏa) như ớt sừng, cam-quýt chín, trứng gà, hồng…; màu trắng (ứng với mùa Thu – hành kim) như roi, đào; màu đen (ứng với mùa Đông – hành thủy) như mận, hồng xiêm…

Mâm ngũ quả làm cho quang cảnh Tết và không gian thờ cúng thêm ấm áp, rực rỡ mà hài hòa; thể hiện sinh động ý nghĩa triết học-tín ngưỡng-thẩm mỹ, đồng thời cũng chứa đựng ước vọng của con người.

Tuy mỗi miền mỗi khác, nhưng tựu trung, mâm ngũ quả trên bàn thờ ngày Tết vẫn là nơi hội tụ của hồn quả, hương cây, của nếp văn hóa dân tộc và của ý nguyện cầu hòa, an, đủ của người dân Việt.

Nếu như ở miền Bắc, hầu như tất cả các loại quả đều có thể bày lên bàn thờ, kể cả quả ớt mang vị cay đắng, miễn sao mâm ngũ quả trông đẹp mắt là được; thì người miền Nam lại có sự kiêng cữ. Mâm ngũ quả của người miền Nam không bao giờ có chuối, vì loại quả này tên gọi có âm giống từ “chúi” thể hiện sự nguy khó. Quả cam cũng không được có mặt trong mâm ngũ quả ngày Tết, vì câu “quýt làm cam chịu.”

Do trái cây ngày càng nhiều, loại nào cũng ngon, bổ nên để thể hiện cao nhất lòng hiếu thảo đối với tổ tiên, đồng thời cũng nhằm thể hiển tính trình bày mỹ thuật trong con mắt thẩm mỹ độc đáo của nhân dân, nên mâm ngũ quả ngày càng phong phú hơn, và người ta cũng không câu kệ cứng nhắc “ngũ quả” nữa mà có thể là bát, cửu, thập quả. Nhiều hơn, nhưng người ta vẫn gọi là “mâm ngũ quả” và, dù đựng trong đĩa cũng vẫn gọi theo xưa là “mâm.” Bởi đó là một “sản phẩm văn hóa” đã xác lập trong quá trình lịch sử lâu dài, được khuôn đúc theo quan niệm về “bộ ngũ hoàn hảo.”

Chưng bày mâm ngũ quả trên bàn thờ của gia đình trong những ngày Tết mang ý nghĩa giữ gìn bản sắc văn hóa độc đáo của dân Việt. Chính vì vậy, người dân Việt dù ở phương trời nào, đến ngày Tết cổ truyền vẫn không bỏ qua tục lệ này, như một sự nhắc nhở, cho bản thân và cho con cháu, về cội nguồn của mình.

Ý nghĩa của một vài loại hoa quả thường được bày trên mâm ngũ quả:

– Lê (hay mật phụ), ngọt thanh ngụ ý việc gì cũng trơn tru, suôn sẻ – Lựu, nhiều hạt, tượng trưng cho con đàn cháu đống – Đào thể hiện sự thăng tiến – Mai, do điển phiếu mai, con gái phải có chồng, hạnh phúc, không cô đơn – Phật thủ giống như bàn tay của Phật, chở che cho con người – Táo (loại trái to màu đỏ tươi) có nghĩa là phú quý – Hồng, quýt rực lên màu sắc mạnh mẽ, tượng trưng cho sự thành đạt – Thanh long – ý rồng mây gặp hội – Bưởi, dưa hấu: căng tròn, mát lành, hứa hẹn sự ngọt ngào, may mắn – Nải chuối như bàn tay ngửa, hứng lấy nắng sương đọng thành quả ngọt và che chở, bảo bọc – Quả trứng gà có hình trái đào tiên – lộc trời – Dừa có âm tương tự như là “vừa,” có nghĩa là không thiếu – Sung gắn với biểu tượng sung mãn về sức khỏe hay tiền bạc – Đu đủ mang đến sự đầy đủ thịnh vượng – Xoài có âm na ná như là “xài”, để cầu mong cho tiêu xài không thiếu thốn./.

Mâm Cỗ Ngày Tết Cổ Truyền Của Người Việt Có Gì Đặc Biệt?

Mâm cỗ ngày Tết là bữa ăn có nhiều món ngon, đặc biệt mà trong những ngày thường ít có. Tết người Việt Nam nhất thiết phải có mâm cỗ, nếu không có thì không phải là Tết.

Mâm cỗ ngày Tết cổ truyền của Việt Nam ta bao giờ cũng thịnh soạn, với những bát đĩa cao, thấp, đầy, vơi khác nhau. Mâm cỗ Tết là sự hòa quyện giữa màu sắc của các món ăn, chẳng hạn như màu xanh của bánh chưng xen lẫn màu đỏ của xôi gấc, vàng của măng, trắng hồng của giò lụa… Mâm cỗ của mỗi nhà hàng năm có thể khác nhau nhưng không thể thiếu những món ăn nhất định phải có này.

MÂM CỖ TRUYỀN THỐNG NGÀY TẾT GỒM CÓ NHỮNG GÌ?

Một mâm cỗ Tết truyền thống thông thường gồm có 8 bát và 8 đĩa chính không kể những món xôi gấc, bánh chưng, dưa hành…

– Măng lưỡi lợn hầm chân giò – Bóng bì – Mực nấu – Nấm thả – Vây cá thủ – Chim hầm – Gà tần – Miến nấu lòng gà 8 đĩa gồm các món: – Thịt gà luộc – Giò lụa – Chả quế – Thịt đông – Bánh chưng – Giò thủ – Xôi gấc – Dưa hành nén

Mâm cỗ ngày Tết truyền thống của Việt Nam bao giờ cũng thịnh soạn và đầy đủ, với các bát đĩa cao thấp đầy vơi khác nhau. Đó là cỗ xưa, còn ngày nay mâm cỗ đã có sự thay đổi nhiều, không còn ranh giới giữa nông thôn hay thành thị nữa. Người ta còn mua cả đồ Tây như: xúc xích, lạp xưởng để về làm cỗ Tết.

Tuy có những sự thay đổi, có sự pha lẫn với những món ăn nước ngoài nhưng những món ăn truyền thống vẫn xuất hiện và giữ lại được nét đẹp đặc trưng của ngày Tết như: Bánh chưng, dưa hành, thịt đông…

MÂM CỖ NGÀY TẾT Ở 3 MIỀN CÓ GÌ KHÁC NHAU? 1. Mâm cỗ ngày Tết miền Bắc

Mâm cỗ miền Bắc trong những ngày Tết ngoài những món ăn chung và truyền thống của cả nước ra còn có những món ăn đặc trưng như: Chè kho, thịt bò kho quế, canh măng lưỡi lợn… Cụ thể sẽ có những món:

– Bánh chưng – Gà luộc – Chè kho – Canh miến nấu măng – Thịt bò kho quế – Giò lụa, giò thủ – Canh măng lưỡi lợn – Nem rán – Rau nộm – Dưa hành – Xôi gấc – Thịt đông

Miền Nam có mâm cỗ Tết gồm những món đặc trưng như: Canh khổ qua, bánh tráng cuốn, củ kiệu tôm khô… Chi tiết sẽ có các món như:

– Canh khổ qua – Gỏi cuốn – Bánh tráng cuốn – Xôi vò – Củ kiệu tôm khô – Chả giò – Bánh tét – Bánh gai – Thịt kho nước dừa – Củ cải ngâm chua ngọt 3. Mâm cỗ tết miền Trung

Mâm cỗ miền Trung có sự khác biệt hơn so với miền Bắc và miền Nam là có nhiều món cay hơn.

– Tôm chua – Bánh tét – Nem chua – Bò kho mật mía – Dưa món – Bánh tổ – Thịt lợn ngâm mắm – Dưa củ kiệu – Giò bò tiêu sọ – Nem chua 4. Mâm cỗ hiện đại có những món ăn phương Tây

Mâm cỗ ngoài món truyền thống còn có món Tây là thịt giăm bông

Ngoài ra còn có cả xúc xích

MỘT SỐ MÂM CỖ NGÀY TẾT NGON VÀ ĐẸP MẮT

Mâm nào cũng ngon và hấp dẫn

Mâm Cỗ Tết Truyền Thống Việt Nam

Người Việt từ xưa đã có câu cửa miệng là “ăn Tết”, Vậy nên bữa cơm ngày Tết thường gọi là “cỗ Tết”. Cỗ Tết nhiều món, nhiều màu sắc, nhưng đều có chung nguyên lý âm dương ngũ hành, để nhiều mà không ngán, ăn món nọ có món kia hỗ trợ giúp tiêu hóa tốt hơn. Có thể nói, cỗ Tết Việt phong phú, đa dạng và khoa học…Và ở mâm cỗ ngày Tết mỗi vùng miền, dân tộc lại có sự khác nhau, nhưng trong cái chung thống nhất. Tết này chúng tôi xin giới thiệu mâm cỗ Tết truyền thống ở 3 miền Việt Nam. Mâm cỗ Tết miền Bắc

Mâm cỗ miền Bắc thường khá nghiêm ngặt, ít nhất phải có 4 đĩa, 4 bát không kể xôi và nước chấm. Gia đình khá giả, có điều kiện thì còn chuẩn bị 8 đĩa, 8 bát. Món ăn bày trên đĩa, cơ bản là có thịt gà, thịt heo, nem thính, giò lụa. Cũng có thể thêm giò thủ, thịt đông, chả đẫy, nộm su hào, nộm rau cần và các món xào. Bát thì gồm bát ninh, bát hầm, bát miến, bát mọc, ngoài ra còn có các món tần. Các món bày trên đĩa được dùng trước, thường là để nhắm với rượu và ăn chung với xôi. Các món bày trong ở bát như món măng hầm giò heo, miến gà, mọc, canh bóng thả…. Đó là những món ăn không thể thiếu trong mâm cỗ truyền thống miền Bắc. Bên cạnh những món trên, tùy từng gia đình, có những nơi còn có các món cá chép, cá trắm kho riềng,… Món tráng miệng ngoài các loại mứt như mứt sen, quất, gừng, hồng khô, ô mai mơ, gừng còn có món chè kho cũng rất được ưa chuộng vì vừa thơm ngon, lại có tính giải độc và dã rượu do được chế biến từ nguyên liệu chính là đậu xanh.

Mâm cỗ Tết miền Trung

Những món ăn ngày Tết của người miền Trung thường chú trọng nhiều đến yếu tố lưu trữ, là các món bánh tét gói chặt, ít đậu thịt; các món dưa được làm từ đu đủ, củ cải trắng và cà rốt phơi khô, ngâm với nước mắm; thịt bò, thịt heo ngâm nước mắm, món tré, chả, nem. Mâm cỗ Tết miền Trung có món bánh tráng, rau sống cuốn với các món thịt kho, thịt phay, thịt ngâm nước mắm, nem chua, chả, tré, thịt bò nướng sả. Và các món gỏi như gà trộn rau răm, quả vả trộn, măng trộn, mít trộn…

Với Huế, mâm cỗ Tết chú ý nhiều đến các loại bánh, mứt… Cũng có món vả trộn, gà trộn rau răm, gỏi thập cẩm… là một món ăn thể hiện sự cầu kỳ, khéo léo thường được làm vào dịp đầu năm vì có màu sắc đẹp, nguyên liệu phong phú, đa dạng. Sau đĩa gỏi, cỗ Tết ở Huế còn có các món dùng với cơm bò nấu thưng, bò ngâm nước mắm, cá chiên, chả ram và các món canh giò heo hầm, canh thập cẩm. Bữa cỗ cũng không thể thiếu các món nem, chả, tré là đặc trưng trong ẩm thực Huế. Đặc biệt mâm cỗ Tết ở Huế còn thường thấy một chén nhỏ mắm tôm chua, một nét riêng hiếm thấy ở cỗ Tết các nơi. Cuối cùng, trong bữa cỗ Huế, các món bánh, mứt mới là món thể hiện được hết sự khéo léo của người phụ nữ Huế. Có thể kể món bánh đậu xanh, các món mứt quất làm nguyên quả và mứt gừng xăm, gừng khô, mứt sen…

Mâm cỗ Tết miền Nam

Mâm cỗ Tết của miền Nam có phần phong phú, không gò bó về nghi thức. Món khai vị cũng có chả, nem, gỏi gà xé phay, kiệu chua, tai heo ngâm giấm. Các món dự trữ thì có lạp xưởng, bao tử nhồi,…Tết đến nhà nào ở miền Nam cũng có nồi thịt kho nước dừa ăn với dưa giá, dưa món, củ kiệu. Có củ kiệu thì còn phải chuẩn bị tôm khô. Và một nồi khổ qua hầm. Đây cũng là một món ăn có tính mát, giúp tiêu thực và giải độc, phù hợp cho những ngày đầu năm. Bánh tét miền Nam thì rất đa dạng từ nhân bánh, vỏ bánh cho đến cách tạo hình và chủng loại, màu sắc. Phần nếp bên ngoài có khi được trộn lẫn với dừa nạo, có khi với đậu đen, hoặc là hạt điều, lá cẩm, lá dứa tạo ra nhiều màu sắc khác nhau. Ngoài ra người miền Nam còn dùng nước cốt dừa để làm cho bánh béo, thơm và nhân cũng được dùng với chuối chín, nhân thập cẩm, nhân đậu xanh trứng muối… Một số nơi còn tạo hình trong lòng bánh hoa mai, chữ thọ, chữ phúc, khi cắt ra trông rất đẹp đầy nghệ thuật. Song, trong truyền thống dân dã, bánh tét nhân đậu xanh với thịt mỡ và lòng đỏ trứng muối được làm nhiều nhất… n