Thời gian chóng qua tuổi thơ nháy mắt đã già yếu nên con người khi tuổi còn trẻ cần đem bản văn này để mọi người trong gia đình cùng tham khảo, mọi ý muốn của mình trước và sau khi lâm chung phải dặn dò rõ ràng với con cháu đó là thượng sách. Đối với một số người trẻ tuổi với việc sống chết họ không chút để tâm, người lớn nếu không đem những chủ trương của mình dặn dò trước với con cháu thì đến lúc lâm chung trong tâm tuy còn minh mẫn nhưng miệng không thể nói được, con cháu nếu xử lý các việc không như ý tâm sẽ khởi phiền não, thần thức sẽ oan uổng chịu phải những sự khổ nạn.
Lâm chung niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh độ cần có đầy đủ nhân tự lực và duyên tha lực. Tự lực là chánh nhân để vãng sanh Tây phương, tha lực là trợ duyên để vãng sanh Tây phương. Nhân và duyên hòa hợp mới có sự cảm ứng thành tựu việc lớn vãng sanh.
Xét về phương diện tự lực, người nào khi bình thường có niềm tin về thế giới Cực lạc tin có Phật A Di Đà, ước nguyện được sanh về thế giới Cực lạc, ước nguyện được thấy Phật A Di Đà. Một lòng chí thành niệm Phật cầu sanh về Tịnh độ cầu thấy Phật A Di Đà. Câu câu chữ chữ từ tâm mà phát từ miệng mà khởi rồi vào trong tai, mỗi niệm mỗi niệm tương tục không có gián đoạn. Âm điệu hòa nhã nhu nhuyến tiếng niệm Phật khẩn thiết chí thành. Niệm niệm có đủ tâm mong cầu câu câu đều nguyện vãng sanh Tịnh độ, cầu Phật từ bi nhiếp thọ mong Phật thương xót duỗi tay cứu độ.
Đức Di Đà thương nhớ chúng sanh chẳng khác nào như mẹ nhớ con, chúng sanh nào có tâm tín nguyện trì danh nhớ Phật niệm Phật như con nhớ mẹ, hai đàng có sự thương nhớ sâu nặng không lúc nào ngăn cách tất có sự cảm ứng lẫn nhau người đó quyết sẽ được Phật nhiếp thọ. Không luận cảnh duyên thuận nghịch hay khổ vui ngay cảnh đó đều tuyệt hẳn ngoại duyên tâm không theo cảnh mà chuyển, ở trong mọi lúc mọi nơi đều chuyên cần trì danh niệm Phật thâu nhiếp cả sáu căn tịnh niệm nối nhau. Lâu ngày công phu sẽ thuần thục, đến khi lâm chung mới có thể buông bỏ mọi duyên đề khởi câu Phật hiệu. Lâm chung nếu chánh niệm hiện tiền tức sẽ được Phật tiếp dẫn, như trong khoảng khảy móng tay liền được vãng sanh về thế giới Cực lạc.
Người bệnh khi lâm chung người khác vì họ mà niệm Phật trợ niệm, một là có thể trợ giúp người bệnh đề khởi tâm niệm Phật, hai là có thể trợ giúp người bệnh sám hối nghiệp chướng. Nếu nghiệp chướng của họ tiêu trừ thì hoa sen báu và Thánh chúng tất cả mọi thắng cảnh Tịnh độ tự nhiên hiện tiền.
Người nào khi lâm chung có được tâm tín sâu nguyện thiết, có được tâm khẩn thiết chí thành niệm Phật như bình thường, người đó một niệm sau cùng là niệm Phật đó là nhân tự lực.
Người nào khi bình thường không có tâm tín sâu nguyện thiết chí thành niệm Phật, hoặc tuy có tâm tín sâu nguyện thiết chí thành niệm Phật nhưng công phu chưa được thuần thục, đến lúc lâm chung gặp được thiện tri thức khai thị mà sanh tâm hoan hỷ, sanh tâm chánh tín phát nguyện cầu sanh, tâm chí thành niệm Phật đó cũng là nhân tự lực.
Đức A Di Đà thệ nguyện sâu rộng độ khắp các loài chúng sanh, thế giới Cực lạc thanh tịnh trang nghiêm đó là duyên tha lực.
Thiện tri thức khéo khai thị khiến người bệnh sanh tâm chánh tín, buông bỏ mọi duyên trần một lòng niệm Phật cầu sanh Tịnh độ. Gia đình và liên hữu vì người bệnh mà niệm Phật trợ niệm, từ khi chấm dứt hơi thở cho đến mười hay mười hai giờ đồng hồ, lại không chuyển dịch cơ thể không bi ai khóc lóc đó cũng là duyên tha lực.
Nếu người nào khi lâm chung nhân tự lực và duyên tha lực cả hai đều đầy đủ thì sẽ có sự cảm ứng lẫn nhau, người đó nhất định sẽ được Phật tiếp dẫn, niệm trước vừa lâm chung niệm sau đã có mặt ở Tịnh độ. Nếu ai có sự ứng hợp nhân và duyên như trên thì vạn người niệm Phật vạn người vãng sanh.
Người nào thường ngày tuy có tâm tín nguyện niệm Phật nhưng đến lúc lâm chung vì bệnh khổ bức bách khiến tâm niệm Phật không đề khởi được, để rồi khởi lòng tham luyến tình ái dục niệm thế gian cho đến vợ con tài sản, ý niệm tham luyến này buông không xuống, trường hợp này là không có nhân tự lực.
Người nào nếu lúc lâm chung chẳng có thiện tri thức đến khai thị cũng không có ngưới niệm Phật trợ niệm, lại gặp gia đình không biết mà chuyển dịch cơ thể bi ai khóc lóc phá hoại chánh niệm, trong tâm người chết vô cùng phiền muộn nhưng không thể mở miệng nói được, do đó sự thống khổ phiền muộn càng tăng, trường hợp này cũng là không đủ duyên tha lực.
Người nào khi lâm chung có đủ nhân tự lực nhưng thiếu duyên tha lực, hoặc khi công phu niệm Phật thuần thục không cần phải người khác niệm Phật trợ niệm nhưng vì gia đình không biết mà chuyển dịch cơ thể bi ai khóc lóc khiến phá hoại chánh niệm, trường hợp này là có nhân mà không có duyên cũng không thể vãng sanh.
Người nào nếu khi lâm chung chỉ nương vào duyên thiện tri thức khai thị gia đình niệm Phật trợ niệm, không bị chuyển dịch cơ thể không bi ai khóc lóc nhưng bản thân vì bệnh khổ bức bách , hoặc tâm bị trói buộc vào sự tham luyến tình ái dục niệm thế gian vợ con tài sản mà buông không xuống, vì thế tâm tín nguyện niệm Phật không đề khởi được, trường hợp này là có duyên mà không có nhân cũng không thể vãng sanh.
Đức A Di Đà thệ nguyện sâu rộng như vầng trăng sáng tỏ không chỗ nào mà ánh trăng không chiếu. Chúng sanh phát tâm niệm Phật như ao trong yên tĩnh không động. Nước ao trong lặng thì bóng trăng tỏ hiện, tâm chúng sanh thanh tịnh thì chư Phật hiển bày. Người niệm Phật với công phu thuần thục sẽ cảm thông với Phật, người đó khi lâm chung nương vào nguyện lực của Phật quyết định sẽ được vãng sanh thế giới Cực lạc.
Kết luận : Chết sự kiện quan trọng nhất đời người
Chúng ta từ vô thỉ đến nay bởi một niệm bất giác mà chạy theo ngoại cảnh phan với duyên trần. Bởi sức nhân duyên si vọng huân tập khiến trong tâm sanh diệt niệm khởi phát sanh các món điên đảo, cho đến toàn chân thành vọng che đậy chướng ngại bản tánh diệu minh. Do vì tâm sanh nên các pháp sanh do vì pháp sanh nên các tâm sanh, tâm cảnh níu kéo triển chuyển vô cùng. Bởi phiền não tham sân si phát từ thân miệng ý tạo thành hữu lậu khởi hoặc tạo nghiệp, nhân nghiệp mà cảm quả do quả mà nhân khởi, nhân và quả nối nhau không bao giờ có gián đoạn.
Vì thế chúng sanh đời đời kiếp kiếp bỏ thân này lại thọ thân khác lưu chuyển không hạn kỳ, mãi mãi trôi lăn nơi biển nghiệp luân chuyển trong Tam giới. Nhân đây, huyễn hiện thăng trầm nơi sáu thú uổng thọ đại khổ của thân tâm, sự thống khổ bức bách vô cùng mà chúng sanh không hay không biết. Nên rõ, nhân vọng chấp mà có sanh vì sanh mà có diệt, sanh diệt gọi là vọng hết sanh diệt gọi là chân.
Bởi thấu tỏ được lý duyên sanh như huyễn vọng niệm vốn không mà siêng tu Giới định tuệ để có ngày thể nhập chân như Phật tánh, thấy rõ được bản thể Bất động chặt đứt được sóng lớn sanh tử. Cũng ngay đây dứt hẳn vọng tưởng sanh diệt huyễn hóa ngộ nhập thể tánh chân thật bình đẳng nhất như. Nhưng toàn nương vào sức tự lực để đoạn hoặc chứng chân phản bổn hoàn nguyên, ngõ hầu đạt mục đích xuất ly Tam giới liễu sanh thoát tử, trừ phi người nào đã trải qua nhiều kiếp tiệm tu túc thế đã lắm phen huân tập giống đạo, còn không thì tuy trải qua nhiều kiếp tu hành e rằng vẫn khó có thể chứng ngộ.
Duy có pháp môn Tịnh độ nương nhờ vào từ lực của Phật có thể đới nghiệp vãng sanh. Chỉ cần chúng sanh nào có tín sâu nguyện thiết chí thànhh niệm Phật cầu sanh Tịnh độ là đều có thể vượt tắt Tam giới không còn phải thọ thân đời sau. Cho nên lúc lâm chung niệm Phật cầu sanh thế giới Cực lạc đó là then chốt để siêu phàm nhập Thánh cũng là đường tắt mau chóng thành tựu Chánh giác, bỏ con đường tắt này thì không còn con đường nào an ổn hơn. Bởi tín nguyện trì danh là sanh lộ để liễu sanh thoát tử là phép mầu để thoát khỏi nghiệp chướng buộc ràng. Lại dùng tịnh duyên tăng thượng mà mau chứng Vô sanh, tiếp lấy trí lực nguyện lực nhập vào trần lao mà bạt tế quần mê sanh tử.
Xét qua hai môn tự lực và tha lực thì tự lực tu hành phải nghiệp tận tình không mới phá được vô minh chứng pháp tánh, tất nhiên người tu phải trải qua nhiều kiếp mới thành chánh giác, việc khó và dễ thành Phật của hai môn khác xa trời vực. Cổ đức nói: “Chỉ thấy được Di Đà còn lo gì tỏ ngộ”. Vì vậy, chúng ta chỉ cần được vãng sanh Tịnh độ quyết định sẽ thấy Phật nghe pháp mở bày Tri kiến Phật. Nếu chứng được Vô sanh pháp nhẫn được Phật thọ ký thì không khác gì được tăng cao Thánh vị. Từ đây tận cùng vị lai kiếp thường hưởng thọ pháp lạc, thường ra vào trong mười cõi tuyên dương Chánh pháp, gắng sức tu hành nỗ lực hóa độ chúng sanh thực hành đạo lớn Bồ đề. Do đây, trong thì chứng Thánh trí để thoát ly sanh tử ngoài thì diễn bày vạn hạnh để thể nhập vào biển nguyện. Nhập Niết bàn nhưng không rời bỏ đại bi thường hành phương tiện độ người nhưng chưa từng ra ngoài bản thể.
Người học Phật nên lập chí nguyện lớn phát tâm Vô thượng Bồ đề mong cầu chứng được quả vị Vô sanh, sau khi được Phật thọ ký hướng thẳng đạo lớn Bồ đề, dụng sức trí tuệ bi nguyện đi vào khắp biển khổ trần lao phiền não, khởi Vô duyên đại từ vận dụng Đồng thể đại bi bình đẳng làm lợi ích khắp tất cả chúng sanh, lấy Tứ nhiếp tịnh hóa chúng sanh sớm thoát khỏi Ta bà ngũ trược ác thế mau lên cữu phẩm nơi Cực lạc liên bang. Như thế, rộng độ khắp pháp giới chúng sanh trải qua cực vi trần số kiếp, viên tu vạn hạnh, viên mãn vạn đức bi trí song vận trí tuệ cụ túc mà chứng Vô thượng chánh giác, cũng ngay đó gọi là viên mãn Vô thượng đại Bồ đề. Đó là thành tựu mục tiêu cứu cánh “Thượng cầu Phật đạo hạ hóa chúng sanh”. Đó là thay thế đức Như lai đảm nhận trách nhiệm độ thoát chúng sanh lợi khắp các loài hàm thức. Đó là bậc đại trượng phu thực hành Bồ tát đạo. Đó là chân tinh thần phát huy rực rỡ Đại thừa Phật giáo.
Biên soạn bản văn này chẳng có tánh chất thời gian chẳng có tánh chất phương sở, chỉ vì tất cả con người ở hiện tại và tận cùng vị lai mà đề xướng các kiến thức cơ bản trước và sau khi lâm chung. Mong các vị hiền nhân văn sĩ phổ biến rộng rãi bản văn: “Sự kiện quan trọng nhất trong cuộc đời” này. Mong cầu ở hiện tại và tận cùng vị lai có bao nhiêu người khi lâm chung đều được tiêu trừ nghiệp chướng xa lìa phiền não, trở lại nguồn tịnh tâm đồng lên bờ giác, đều được vãng sanh thế giới Tây phương Cực lạc của đức Phật A Di Đà.
Hoan nghênh các vị hiền sĩ đã đề xướng ấn tống tặng bản văn này cho người đọc ngõ hầu rộng kết tịnh duyên, triển chuyển lưu truyền khiến mọi người trong hiện tại và vị lai được hưởng sự lợi ích, công đức này vô lượng phước đức này vô biên, tổ tiên sớm được siêu thăng con cháu thảy đều được nhân từ hiếu đạo.
Sự Kiện Quan Trọng Nhất Trong Cuộc Đời
Pháp sư Tịnh Không
I.-COI GIỜ LIỆM
a. GIỜ TRÙNG TANG LIÊN TÁNG (xấu, nên tránh). – Tuổi: Thân, Tý, Thìn chết nhằm: năm, tháng, ngày, giờ Tỵ là phạm trùng tang liên táng. – Tuổi: Dần, Ngọ, Tuất chết nhằm: năm, tháng, ngày, giờ Hợi là phạm trùng tang liên táng.
– Tuổi: Tỵ, Dậu, Sữu chết nhằm: năm, tháng, ngày, giờ Dần là phạm trùng tang liên táng. – Tuổi: Hợi, Mẹo, Mùi chết nhằm: năm, tháng, ngày, giờ Thân là phạm trùng tang liên táng. – Liệm, chôn cũng tránh mấy giờ đó mà cải táng (đào lên đem chôn chỗ khác) cũng phải tránh những ngày, giờ trùng tang liên táng.
b. LIỆM CHÔN KỴ NGƯỜI CÒN SỐNG Thí dụ: Trưởng nam tuổi Dần, dâu lớn tuổi Mẹo, cháu lớn tuổi Thìn thì kỵ ba giờ: Dần, Mẹo, Thìn, nên dùng: Ngọ, Mùi, Dậu thì tốt. Nếu người chết không con trai, dâu, cháu nội thì tránh tuổi anh lớn và tuổi cha mẹ của người chết. Cẩn thận, nên xem ngày đó kỵ tuổi nào, nhắc thân nhân có tuổi đó tránh mặt lúc tẩn. Lúc nào cũng phải tránh giờ: Dần, Thân, Tỵ, Hợi. Nên lựa giờ Nguyệt tiên mà những giờ tốt trong bài đó.
c. TÙY NGÀY LỰA GIỜ TỐT ĐỂ TẨN LIỆM Ngày Tý nên dùng giờ Giáp, Canh. Ngày Sửu nên dùng giờ Ât, Tân. Ngày Dần nên dùng giờ Đinh, Quý. Ngày Mẹo nên dùng giờ Bính, Nhâm. Ngày Thìn nên dùng giờ Giáp, Đinh. Ngày Tỵ nên dùng giờ Ât, Canh. Ngày Ngọ nên dùng giờ Đinh, Quý. Ngày Mùi nên dùng giờ Ât, Tân. Ngày Thân nên dùng giờ Giáp, Quý. Ngày Dậu nên dùng giờ Đinh, Nhâm. Ngày Tuất nên dùng giờ Canh, Nhâm. Ngày Hợi nên dùng giờ Ât, Tân.
1. Giáp, Kỷ: khởi Giáp Tý (1) 2. Ất, Canh: Bính tác sơ (2) 3. Bính, Tân: Mậu Tý khởi 4. Đinh, Nhâm: Canh Tý cư 5. Mậu, Quý: hà phương mích? (3) Nhâm Tý khởi vi đầu.
CHÚ THÍCH: (1) Ngày Giáp, ngày Kỷ thì giờ Tý ngày đó tính là giờ Giáp Tý, kế là Ất Sửu, Bính Dần … (2) Ngày Ất, ngày Canh thì giờ Tý của những ngày đó là Bính Tý … cho đến … (3) Ngày Mậu, ngày Quý thì giờ Tý của các ngày đó là giờ Nhâm Tý, rồi đến Quý Sửu vân vân … tính tới …
d. TÍNH NGÀY NGUYỆT TIÊN
(1) Tý, Ngọ gia Tý, Mẹo, Dậu gia Ngọ, Thìn, Tuất gia Thân, Sửu, Mùi gia Dần, Dần, Thân gia Thìn, Tỵ, Hợi gia Tuất. (thuộc lòng)
(2) NGUYỆT TIÊN, THIÊN ĐỨC, Thiên sát, THIÊN KHAI, Tòa thần, Thiên nhạc, NHỰT TIÊN, Địa sát, THIÊN QUÝ, MINH CHUYỂN, Thiên hình, Thiên tụng. (thuộc lòng)
Giờ tốt thì chữ IN HOA. Thí dụ: Ngày Tý hoặc ngày Ngọ mà ta muốn dùng giờ Mẹo, coi giờ Nguyệt tiên tốt xấu. Ta thấy ở (1) có câu “Tý, Ngọ gia Tý”, vậy ngày Tý hoặc ngày Ngọ khởi hô Nguyệt tiên tại cung Tý trên bàn tay, thuận hành đến cung Mẹo (cũng là giờ Mẹo) nhằm THIÊN KHAI, giờ Mẹo gặp Thiên khai là giờ tốt. Hay: ngày Thân giờ Tuất, ta thấy ở (1) có câu :”Dần, Thân gia Thìn”, vậy ngày Thân khởi tại cung Thìn, ta theo (2) hô Nguyệt tiên tại cung Thìn, thuận hành đến cung Tuất nhằm NHỰT TIÊN, giờ Tuất gặp Nhựt tiên là giờ tốt.
II. LỰA NGÀY GIỜ AN TÁNG (CHÔN) Tùy theo tháng mà chọn ngày tốt, lại phải tránh thêm những ngày: Trùng tang, Trùng phục, Tam tang, Thọ tử, Sát chủ, Sát chủ âm, Nguyệt phá, Thiên tặc, Thiên can, Hà khôi, Âm thố, Dương thố, Thố cấm.
Tháng giêng: 5 Dậu (5 Can=Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý : Dậu). Ất, Tân, Đinh, Quý: Mẹo. Bính,Nhâm: Ngọ. Tháng hai: Giáp, Bính, Canh, Nhâm: Dần. Đinh, Kỷ, Quý: Mùi. Giáp, Bính, Canh, Nhâm: Thân. Tháng ba: Bính, Canh, Nhâm: Tý. Giáp, Bính, Canh, Nhâm: Ngọ. Giáp, Bính, Canh, Nhâm: Thân. Ất, Đinh, Quý, Tân: Dậu. Tháng tư: 5 Sửu, 5 Dậu. Giáp, Mậu, Canh: Ngọ. Tháng năm: 5 Dần. Giáp, Bính, Canh, Nhâm: Thân. Tháng sáu: Giáp, Canh, Nhâm:Ngọ. Giáp, Bính, Canh: Thân. Kỷ, Đinh, Tân, Quý:Dậu. Ất, Tân, Quý: Mẹo. Tháng bảy: Bính, Nhâm: Tý. Nhâm Thìn. Bính, Mậu, Nhâm: Thân. 5 Dậu. Tháng tám: Đinh, Quý: Sửu. 5 Dần. Nhâm Thìn. Giáp, Bính, Canh, Nhâm: Thân. Đinh, Kỷ, Quý:Dậu. Tháng chín: Giáp, Bính, Canh, Nhâm: Dần, Ngọ. Kỷ, Đinh, Tân, Quý: Dậu. Tháng mười: Giáp Thìn, Canh Tý. Giáp, Mậu, Canh: Ngọ. Kỷ, Tân, Quý: Mùi. 5 Mẹo. Tháng mười một: 5 Dậu, 5 Thân. Giáp, Mậu, Canh, Nhâm: Thìn. Nhâm Tý. Tháng mười hai: Giáp, Bính, Canh, Nhâm: Dần, Thân, Ngọ. Ất, Đinh, Canh, Quý: Dậu.
– Ngày chôn tốt (an táng kiết nhựt):
Nhâm Thân, Quý Dậu, Nhâm Ngọ, Giáp Thân, Ất Dậu, Bính Thân, Đinh Dậu, Nhâm Dần, Bính Ngọ, Kỷ Dậu, Canh Thân, Tân Dậu (là rất tốt). Canh Ngọ, Nhâm Thìn, Giáp Thìn, Ất Tỵ, Giáp Dần, Bính Thìn, Canh Dần (là tốt vừa). Cẩn thận, nên xem ngày đó kỵ tuổi nào, nhắc thân nhân có tuổi đó tránh mặt lúc hạ huyệt. – Nên chọn những ngày, giờ tốt trong bài Huỳnh đạo mà an táng, nên nhớ tránh giờ Tỵ, Hợi và tuổi của tang chủ như đã nói ở phần “COI GIỜ LIỆM”, còn những tuổi bị THÁI TUẾ ÁP TẾ CHỦ thì khi hạ huyệt mới dặn mấy người tuổi đó tránh đi chỗ khác (ở trong lịch Tàu mỗi năm có ghi sẵn 6 tuổi Thái tuế áp tế chủ, tức là những tuổi phạm Thái Tuế, xung Thái Tuế , bàng Thái Tuế v.v…).
*CÁCH CHIẾM GIỜ HOÀNG ĐẠO ĐẠI KIẾT Ta nên thuộc hai câu sau đây:
Bao giờ gặp CHUỘT đuổi TRÂU THỔ NGŨ KÊ HẦU trăm việc đều nên .
Hai câu trên là nói 6 giờ đại kiết: CHUỘT là giờ Tý, TRÂU là giờ Sửu, THỐ là giờ Mẹo, NGŨ là giờ Ngọ, KÊ là giờ Dậu, HẦU là giờ Thân. Trong 12 giờ coi gặp 6 giờ này là giờ ĐẠI KIẾT. CÁCH COI: Ngày đầu khởi giờ đó, ngày cách tiết nghịch hành, giờ liên tiết thuận hành. Khởi ngày Tý tại cung Tý trên bàn tay.
Thí dụ: Ngày Mẹo, giờ nào đại kiết?
Khởi ngay ngày Tý tại cung Tý nghịch hành lùi lại bỏ một cung: Sửu tại cung Tuất, Dần tại cung Thân, ngày Mẹo tại cung Ngọ. Ngày Mẹo tại Ngọ, ta khởi giờ Tý tại Ngọ thuận hành liên tiết, giờ Sửu tại Mùi, giờ Dần tại Thân, giờ Mẹo tại Dậu, giờ Thìn tại Tuất, giờ Tỵ tại Hợi, giờ Ngọ tại Tý, giờ Mùi tại Sửu, giờ Thân tại Dần, giờ Dậu tại Mẹo, giờ Tuất tại Thìn, giờ Hợi tại Tỵ. Ta nhận thấy 6 giờ: Ngọ, Mùi, Dậu, Tý, Dần, Mẹo đứng trên 6 cung: Tý, Sửu, Mẹo, Ngọ, Thân, Dậu là giờ ĐẠI KIẾT.
III. COI NGÀY XẢ TANG Nên chọn những ngày: Nhâm, Giáp, Bính, Canh, Mậu=Thân Bính, Canh, Nhâm=Tý Tân, Ất=Mẹo Bính, Mậu=Ngọ. Kỷ Dậu, Tân Dậu, Kỷ Mùi, Ất Mùi, Mậu Dần, Quý Sửu và những ngày trực Trừ.
Nên tránh những ngày: Thọ tử, Sát chủ, Trùng tang, trực Kiến, trực Phá. Chú ý: tháng hai trực Trừ gặp Thọ tứ, tháng ba trực Trừ gặp Trùng tang, tháng năm, tháng tám trực Trừ gặp Tam tang, trong 4 tháng vừa kể trên gặp trực Trừ không dùng được.
*CHÚ Ý LỜI DẶN: 1. Khi dở lịch ra chọn ngày tốt, được Tam hạp, Lục hạp và tương sanh (hay tỳ hòa), ta lại phải dò trong “Đổng Công Tuyển Trạch Nhựt Yếu Lãm” (chữ LÃM có người đọc lầm ra chữ GIÁC) coi ngày ấy có tốt không? Nếu như trong lịch và trong Đổng Công đều tốt cả thì dùng được đại kiết, còn trong lịch bình thường mà trong Đổng Công nói tốt thì dùng cũng được tốt, còn trong lịch nói tốt mà trong Đổng Công chê xấu thì chẳng nên dùng. 2. Tuy hai chỗ bảo tốt, nhưng phải dò lại trong bảng Tuyển nhựt coi có phạm Sát chủ, Thọ tử hay những ngày cấm kỵ nào khác không, nếu có thì cũng phải chừa (coi bảng Tuyển nhựt trích yếu ngoạt trung tuyển nhựt )
BẢNG TRA GIỜ ÂM LỊCH (Theo múi giờ 7)
Tháng 11:đầu giờ Tý từ 23 giờ 10 phút đến 1 giờ 9 phút đầu giờ Ngọ từ 11 giờ 10 phút đến 13 giờ 9 phút.
Tháng 12,10:đầu giờ Tý từ 23 giờ 20 phút đến 1 giờ 19 phút đầu giờ Ngọ từ 11 giờ 20 phút đến 13 giờ 19 phút.
Tháng 1, 9:đầu giờ Tý từ 23 giờ 30 phút đến 1 giờ 29 phút đầu giờ Ngọ từ 11 giờ 30 phút đến 13 giờ 29 phút.
Tháng 2, 8:đầu giờ Tý từ 23 giờ 40 phút đến 1 giờ 39 phút đầu giờ Ngọ từ 11 giờ 40 phút đến 13 giờ 39 phút.
Tháng 3, 7:đầu giờ Tý từ 23 giờ 50 phút đến 1 giờ 49 phút đầu giờ Ngọ từ 11 giờ 50 phút đến 13 giờ 49 phút.
Tháng 4, 6:đầu giờ Tý từ 0 giờ 00 phút đến 1 giờ 59 phút đầu giờ Ngọ từ 12 giờ 00 phút đến 13 giờ 59 phút.
Tháng 5: đầu giờ Tý từ 0 giờ 10 phút đến 2 giờ 09 phút đầu giờ Ngọ từ 12 giờ 10 phút đến 14 giờ 09 phút.
NHỮNG VIỆC CẦN LÀM CHO NGƯỜI MỚI MẤT
ĐẠI SƯ ẤN QUANG KHAI THỊ BA ĐIỀU THIẾT YẾU LÚC LÂM CHUNG
Điều thứ nhất: Phải khéo khai thị an ủi, khiến cho bệnh nhân sắp mất sanh lòng chánh tín. Tha thiết khuyên bệnh nhân, buông bỏ tất cả, nhất tâm niệm Phật, nếu có dặn dò việc gì, bảo họ mau dặn dò, dặn dò xong, bảo họ không nên lo nghĩ chuyện khác, chỉ nghĩ đến ta sắp theo Phật sanh về cõi Cực Lạc, nhất tâm chí thành Niệm Phật, Ngài đích thân đến tiếp dẫn, liền được vãng sanh.
Điều thứ hai: Mọi người luân phiên niệm Phật, để hộ trì tịnh niệm cho bệnh nhân. Tâm lực của bệnh nhân yếu ớt, không thể liên tục niệm lâu dài, ngay trong lúc này phải nhờ người khác hộ niệm, mới được đắc lực. Nên biết rằng: Những người chịu giúp bệnh nhân tịnh niệm vãng sanh, cũng được quả báo người khác hộ niệm cho mình, đừng nói là chỉ vì cha mẹ mới hộ niệm như vậy, cho dù là người không quen biết cũng phải giúp họ hộ niệm, cũng là bồi dưỡng phước điền của mình, giúp cho một người thành tựu vãng sanh Tịnh Độ, tức là giúp cho một người thành tựu làm Phật, hộ niệm nên chia thành từng nhóm luân phiên niệm Phật, pháp khí chỉ nên dùng một cái Khánh, niệm Phật không mau nên chậm, từng chữ rõ ràng.
Điều thứ ba: Tuyệt đối không nên dời động hay khóc lóc, e sợ làm hỏng việc. Bệnh nhân lúc sắp phân chia: Phàm, Thánh, Người, Quỷ, lúc đó chỉ niệm Phật cho thần thức của họ, không nên lau mình, thay quần áo, dời động, khóc lóc, để cho họ tự nhiên ngồi nằm, vì vậy có thuyết rằng: Đỉnh nóng sanh cõi Phật, nơi mắt sanh cõi trời, ngực nóng sanh cõi người, bụng nóng sanh ngã quỷ, đầu gối đọa súc sanh, bàn chân xuống địa ngục. Lúc này mọi người nên khẩn thiết mà niệm Phật, không nên thăm dò hơi nóng của người lúc lâm chung, họ quyết định đới nghiệp vãng sanh.
Ta thấy người khác chết, tâm ta nóng như lửa,
Không phải nóng người khác, sẽ đến lượt ta đây.
Cố gắng thực hành để giúp đỡ thân nhân mình như sau:
1/ Khi người bệnh ra đi, tất cả các thành viên còn lại tập trung Niệm Phật, thay phiên nhau hướng về người mất mà niệm Phật, tối thiểu cũng phải được 8-12g.
2/ Quạt máy không được quạt thẳng vào thân thể của người lâm chung.
3/ Không được coi ngày, giờ tẩn niệm, không được gọi nhà quan ,đặt áo quan, dựng rạp, kê bàn ghế vv… khi chưa chấm dứt thời gian niệm Phật.
4/ Không nên thông báo cho người thân, bà con, bạn bè biết vội,để chánh gây động tâm đến người ra đi , động tâm đến người đang trợ niệm .
5/ Tuyệt đối không được khóc lóc, ôm, rửa , thay y phục, đụng chạm, di chuyển, người lâm chung.
6/ Không được bỏ (đặt) bất cứ vật gì vào miệng vào tay,vào túi áo, túi quần người lâm chung .
7/ Không được đặt nải chuối nên bụng người mất.
8/ Không được để cơm, trứng trên đầu giường theo tục lệ cũ.
9/ Không được nấu nướng , chiên, xào, có mùi cá, thịt, hành, tỏi ,hẹ … (Ngũ tân).
10/ Trong suốt 49 ngày, gia đình nên ăn chay, hồi hướng công đức cho người lâm chung là tốt nhất .
Điều QUAN TRỌNG và DUY NHẤT gia đình cần phải làm trong lúc này là : Giữ tâm thanh tịnh , tập trung niệm Phật cầu xin Đức Phật A Di Dà phóng quang tiếp dẫn người thân được vãng sanh Tây Phương Cực Lạc.
CƯ SĨ MINH PHÚC