Vỡ Mâm Chày Đầu Gối / Top 14 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Apim.edu.vn

Vỡ Xương Mâm Chày Ngay Gối Bao Lâu Đi Được

Em xin chào mọi người. Mong mọi người tư vấn giúp e

Em năm nay 30t. Em vừa bụ tai nạn giao thông ngày 17.9 vừa qua. Em cấp cứu vào bệnh viên 115 gần đó. Qua phim chụp Xquang chẩn đoán là vỡ xương mâm chày ngay gối. Lúc đó là t7 ko có BS làm việc. Nên chỉ nẹp cố định lại cho e vag cho thuốc giảm đau. Henn thứ 2 đi tái khám lại

Thứ 2 em đến 115 khoa chấn thương chỉnh hình tái khám lại. Chụp lại Xquang. BS khám thông báo có 2 phươmg án

1 là bó bột sẽ lâu lành và làm cứng khớp. Sau này tập vật lý trị liệu khó khăn do ảnh hưởng khớp gối

2 là mổ bắt vít sẽ mau lành. Khoảng 2 tháng là có thể đi lại đc. Nhưng chi phí cao. Kiu em thương lượng với người nhà. Lúc đó người nhà e ở xa chưa vào kịp. E chỉ có 1 mình nên cũng ko thể nhập viện mổ liền vì ko ai chăm sóc.

BS kiu 1 ngày sau vào nhập viện mổ vẫn đc

Qua hôm sau. Mẹ em đến. Mẹ e đưa e vào lại 115 khám lần nữa. Ý định la nhập viện mổ. Hôm này thì bác sĩ khác trực. Ko phải BS hôm qua.

Nên khám lại từ đầu. BS mới này bảo trường hợp của e nhẹ. Ko nên mổ. Vì mổ cunvz có nhìu nguy cơ ảnh hưởng khớp gối

Trường hợp e chỉ nên bó bột là đc rồi.

Gia đình em qua tư vấn của BS thfi quyết định bó bột thủy tinh

Ngay hôm đó về em bị đau lại ( trước đó đac bớt đau nhức rất nhìu). Ngón chân đến gót chân tê nóng rất nhìu. E rất sợ. E mọi cách kê chân cho thoải mái nhất.

Sáng hôm sau thì đỡ hơn. Ko còn nóng nhìu. Chỉ còn tê tê bàn chân.

Mọi người cjo e hỏi tình trạng vậy có sao ko ạ.

Và bó bột như e thì bao lâu sẽ lành. Bao lâu e mới tập co duỗi chân. Và tập như thế nào ạ

Em cảm ơn

Phục Hồi Chức Năng Khớp Gối Sau Phẫu Thuật Kết Xương Vỡ Mâm Chày

Khớp gối là khớp phức tạp bao gồm hai khớp: khớp giữa xương đùi và xương chày là khớp lồi cầu – ổ chảo, khớp giữa xương đùi và xương bánh chè là khớp phẳng.

– Lồi cầu xương đùi gồm lối cầu trong và lồi cầu ngoài, giữa hai lồi cầu là rãnh liên lồi cầu.

– Diện khớp trên của xương chày gọi là mâm chày, có mâm chày trong tiếp khớp với lồi cầu trong và mâm chày ngoài tiếp khớp với lồi cầu ngoài. Giữa mâm chày trong và mâm chày ngoài có gai mâm chày là các điểm bám của dây chằng chéo trước và dây chằng chéo sau.

– Sụn chêm: Sụn chêm trong hình chữ C nằm đệm giữa mâm chày trong và lồi cầu trong. Sụn chêm ngoài hình chữ O nằm đệm giữa mâm chày ngoài và lồi cầu ngoài. Sụn chêm trong gắn với bao khớp ở phía trong, sụn chêm ngoài gắn với bao khớp ở phía ngoài. Sụn chêm chia khoang khớp làm hai khoang, khoang trên sụn chêm và khoang dưới sụn chêm. Sụn chêm làm cho ổ chảo sâu thêm và sụn chêm trượt ra trước khi gấp gối và trượt ra sau khi duỗi gối.

– Dây chằng: Ngoài bao khớp, khớp gối được tăng cường bởi các dây chằng. Dây chằng bên trong (bên chày) và dây chằng bên ngoài (bên mác). Hai dây chằng chéo nằm ở giữa khớp, bắt chéo nhau hình chữ X là dây chằng chéo trước giữ cho mâm chày không bị trượt ra trước so với lồi cầu và dây chằng chéo sau giữ cho mâm chày không bị trượt ra sau so với lồi cầu. Phía trước có gân cơ bánh chè và các mạc phía trong và phía ngoài xương bánh chè. Phía sau có dây chằng khoeo chéo và dây chằng cung khoeo.

Khớp gối có hai loại vận động: vận động bản lề gấp-duỗi và vận động xoay nhưng vận động xoay chỉ thực hiện khi khớp gối ở tư thế gấp.

Mâm chày là phần xương xốp có bề mặt sụn cấu tạo nên một phần khớp gối. Khi người ta đứng hoặc đi lồi cầu xương đùi đè lên mâm chày và trọng lượng của cơ thể dồn lên mâm chày để xuống cẳng chân. Như vậy mâm chày là phần xương chịu sức nặng của toàn bộ cơ thể.

Mâm chày là phần xương xốp nên khi gãy dễ liền xương nhưng vì là xương xốp nên khi gãy dễ bị lún mất xương. Mâm chày có mặt sụn khớp nên khi gãy sẽ làm mất phẳng sụn khớp, bề mặt sụn khớp sẽ bị khấp khểnh. Khi nắn chỉnh không chính xác sẽ gây hạn chế vận động khớp và làm nhanh thoái hóa khớp về sau.

Vì là xương xốp nên sau phẫu thuật kết xương bệnh nhân không được phép đi chống chân ngay sau phẫu thuật do mâm chày sẽ bị bung ra dưới sức nặng của cơ thể. Thời gian để xương liền khoảng ba tháng vì vậy sau ba tháng bệnh nhân mới được phép đi chống chân xuống đất và tăng lực chống chân dần dần cho đến khi chịu toàn bộ sức nặng của cơ thể mà không gây đau.

Tùy theo loại gãy xương, kiểu kết xương và trọng lượng bệnh nhân mà thời gian được phép đi chống chân có thể thay đổi nhưng không được dưới ba tháng. Thời gian bình phục để có thể đi lại bình thường, gấp duỗi gối bình thường thông thường khoảng 6 – 8 tháng.

Có nhiều cách phân loại gãy mâm chày của các tác giả khác nhau nhưng đều có những điểm chung là căn cứ vào loại gãy hình nêm, nén ép, hai bình diện.

– Hohl (1958) phân gãy mâm chày thành gãy có di lệch và gãy không di lệch. Gãy di lệch gồm nén ép khu trú, nén ép tách, lún hoàn toàn bình diện và gãy nát.

– Moore (1967) phân gãy mâm chày thành 5 loại:

+ Loại I: Gãy tách mâm chày trong theo mặt phẳng trán

+ Loại II: Gãy hoàn toàn một bình diện mà đường gãy bắt đầu ở khoang đối diện qua gai chày đến bình diện gãy.

+ Loại III: Gãy bong bờ chày (các loại gãy này thường có tỉ lệ cao kèm theo chấn thương mạch máu, thần kinh).

+ Loại IV: Chấn thương nén ép bờ chày kèm với tổn thương dây chằng đối bên.

+ Loại V: Gãy bốn phần mà gai chày bị tách ra từ bình diện và thân xương chày.

Phân loại của Moore đã tính đến hậu quả mất vững khớp gối.

– Schatzker (1979) phân ra 6 loại:

+ Loại I (gãy tách): Gãy chẻ hoàn toàn mâm chày ngoài tạo thành mảnh gãy hình chêm.

+ Loại II (lún-tách): Gãy chẻ mâm chày ngoài mà phần mặt khớp còn lại bị lún vào hành xương.

Loại I (gãy tách) mâm chày ngoài Loại I (gãy tách) mâm chày ngoài

Hình 3: Gãy mâm chày loại I và II (phân loại của Schatzker)

+ Loại III: Gãy lún hoàn toàn trung tâm của mâm chày ngoài mà bờ xương còn nguyên vẹn.

Loại III: Gãy lún trung tâm mâm chày ngoài Loại IV: Gãy mâm chày trong

Hình 4: Gãy mâm chày loại III và IV (phân loại của Schatzker)

+ Loại V: Gãy 2 diện mâm chày (trong và ngoài) mà đường gãy thường tạo thành chứ “Y” đảo ngược.

+ Loại VI: Gãy loại V có sự tách ra giữa hành xương và thân xương, có thể có độ nát khác nhau của một hay hai diện mâm chày và mặt khớp.

Loại V: Gãy hai diện mâm chày Loại VI: Gãy loại V có tách hành và thân xương

Hình 5: Gãy mâm chày loại V và VI (phân loại của Schatzker)

Phân loại của Schatzker hiện nay được sử dụng phổ biến vì nó tính đến phương pháp kết xương, hậu quả mất vững khớp. Honkonen và Jarvinen gần đây đã sửa loại VI trong phân loại của Schatzker thành hai loại nhỏ là nghiêng trong và nghiêng ngoài để tính đến kết quả chức năng khớp trong điều trị với di lệch gập góc còn lại.

– Phân loại của hiệp hội chấn thương chỉnh hình (OTA) dựa trên phân loại của AO/ASIF: đầu trên xương chày được qui định là đoạn 41 và được chia thành 3 loại chính.

+ Loại A là gãy ngoài khớp chia ra A1, A2 và A3

Hình 6: Loại A (phân loại AO)

+ Loại B là gãy một phần mặt khớp, chia ra :

Hình 7: Loại B (phân loại AO)

+ Loại C là gãy hoàn toàn mặt khớp, chia ra:

C1: gãy đơn giản mặt khớp và hành xương.

C2: gãy đơn giản mặt khớp và gãy nhiều mảnh hành xương.

C3: gãy nhiều mảnh mặt khớp.

Hình 8: Loại c (phân loại AO)

– Giảm đau, giảm nề tại chỗ, tăng cường dinh dưỡng kích thích làm mau liền xương

– Duy trì trương lực cơ, phục hồi sức cơ đùi và cẳng chân bên tổn thương

– Phục hồi tầm vận động khớp gối trở lại bình thường.

2.2.1. Giai đoạn 1: giai đoạn chưa được chống tỳ sức nặng lên chân tổn thương (thường kéo dài 3 tháng đầu)

+ Duy trì sức cơ, trương lực cơ đùi và cẳng chân bên tổn thương.

+ Bất động tương đối khớp gối nhưng duy trì tầm vận động các khớp lân cận.

+ Đặt chân (cổ chân và gối) cao hơn mức tim (20 – 30cm trên mặt giường).

+ Chườm lạnh bằng túi nước đá hoặc túi nước lạnh lên vùng khớp gối cách lớp băng gạc và lớp khăn lót dày 1cm thời gian 10 – 15 phút/lần, 3 – 5 lần/ngày.

+ Tập gấp duỗi khớp cổ chân chủ động hết tầm 10 lần tăng dần lên 20 lần cho mỗi lần tập, tập 2 lần/ngày.

+ Tập co cơ tĩnh (co cơ đẳng trường) cơ đùi và cơ cẳng chân 10 lần tăng dần lên 20 lần cho mỗi lần tập, tập 2 lần/ngày.

+ Nâng chân lên khỏi mặt giường ở tư thế gối duỗi giữ càng lâu càng tốt sau đó hạ xuồng nghỉ 5 phút rồi nâng tiếp 10 lần, tăng dần lên 20 lần cho mỗi lần tập, tập 2 lần/ngày.

+ Khi đau giảm, khuyến khích bệnh nhân chủ động gấp và duỗi gối (loại trọng lực chi) bên tổn thương với biên độ càng rộng càng tốt trong phạm vi có thể chịu đựng được.

+ Giảm nề, tăng cường tuần hoàn dinh dưỡng để kích thích liền sẹo và can xương.

+ Duy trì trương lực cơ, tăng cường sức cơ đùi và cẳng chân bên tổn thương.

+ Điều trị nhiệt nóng vào khớp gối tổn thương bằng bức xạ hồng ngoại hoặc túi nhiệt 20 phút/lần, 2 – 3 lần/ngày.

+ Điều trị từ trường vào khớp gối cường độ 0,8 – 1,5 mT, 20 phút/lần, 2 lần/ngày để kích thích can xương.

+ Tiếp tục tập vận động khớp cổ chân, co cơ tĩnh và nâng chân khỏi mặt giường như trước.

+ Tập đi bằng nạng hoặc khung tập đi mà không tì sức nặng lên chân tổn thương.

+ Tập đi bằng nạng không tì lên chân tổn thương.

+ Tiếp tục điều trị nhiệt nóng và từ trường như trước.

+ Tiếp tục tập gấp duỗi khớp cổ chân, co cơ tĩnh và nâng chân lên khỏi mặt giường như trước.

+ Tập đi bằng nạng hoặc khung tập đi không tì lên chân tổn thương.

+ Chân tổn thương chịu sức nặng tăng dần lên 25% trọng lượng cơ thể.

+ Tiếp tục điều trị nhiệt nóng và từ trường như trước.

+ Tiếp tục tập gấp – duỗi khớp cổ chân, co cơ tĩnh và nâng chân lên khỏi mặt giường như trước.

+ Tập đi bằng nạng hoặc khung tập đi có tì chân tổn thương tăng dần sức nặng tới 25% trọng lượng cơ thể.

+ Tăng dần sức nặng lên chân tổn thương dần dần đạt tới 100% trong lượng cơ thể.

+ Tiếp tục điều trị nhiệt nóng và từ trường như trước.

+ Tiếp tục tập gấp – duỗi khớp cổ chân, co cơ tĩnh và nâng chân lên khỏi mặt giường như trước.

+ Tập đi bằng nạng hoặc khung tập đi có tì chân tổn thương tăng dần sức nặng để đạt tới 100% trọng lượng cơ thể vào cuối tháng thứ 6.

+ Tập hòa nhập gồm tự phục vụ và trở lại công việc.

+ Tập dáng đi bình thường, cân đối không nạng.

+ Tập lên xuống cầu thang và đi trên các địa hình phức tạp.

+ Tập tự phục vụ và trở lại công việc

+ Tập đi bộ nhanh hoặc chạy bộ nhẹ nhàng.

Mức độ đau được đánh giá theo thang điểm VAS. Dùng một thước chia các khoảng cách đều nhau từ 1 – 10 cho người lớn và các hình vẽ các vẻ mặt cho trẻ em. Hướng dẫn để bệnh nhân tự đánh giá có sự hỗ trợ của người đánh giá.

Hình 9: Thang điểm đánh giá mức độ đau VAS

Bảng 1: Đánh giá mức độ đau theo thang điểm VAS

Đo vòng chi so sánh với bên lành.

Sử dụng thước đo góc hai cành, đo và đánh giá kết quả theo phương pháp zero.

Lượng giá theo thang điểm Lysholm (Lysholm Knee Scale 1985), tổng 100 điểm, trong đó dáng đi 5 điểm, đau 25 điểm, chống đỡ xuống chân tổn thương 5 điểm, sưng nề 10 điểm, kẹt khớp 15 điểm, lên xuống cầu thang 10 điểm, tính ổn định của khớp 25 điểm, ngồi xổm 5 điểm:

hang điểm Lysholm (Lysholm Knee Scale 1985)

Nguồn: Hà Hoàng Kiệm (2015). Vật l‎ trị liệu và Phục hồi chức năng. Giáo trình dùng cho đại học. Bộ môn VLTL – PHCN HVQY. NXB QĐND.

CHIA SẺ BÀI VIẾT

Vỡ Mâm Chày Theo Phân Loại Schatzker

Vỡ mâm chày là gãy xương khó, phức tạp. Khó vì gãy nhiều hình thái, nhiều mức độ và mỗi mức độ vỡ xương dù độ thấp đều có vấn khó khăn rất riêng trong phẫu thuật. Phức tạp vì ngoài tổn thương xương còn kèm theo tổn thương phần mềm kèm theo, hay gặp nhất là: rách sụn chêm, bong điểm bám hoặc đứt dây chằng chéo, nổi phỏng nước ở da do sưng nề, loạn dưỡng… Phân loại Schatzker được báo cáo năm 1979 và hiện vẫn được dùng phổ biến nhất.

Nguyên thủy đầu tiên thì Schatzker dựa vào hình ảnh Xquang để chỉ ra tổn thương xương chày. Tuy nhiên trong vỡ mâm chày thì nếu chỉ sửa chữa tổn thương xương thì không đủ vì còn tổn thương phần mềm (dây chằng, sụn chêm…) đặt biệt là gãy Schatzker độ cao. Có tới 60-100% tổn thương phần mềm nếu gãy trật mâm chày. Do đó nếu được phân tích, hiểu về cách phân loại thì khi nói đến độ tổn thương mâm chày Schatzker thì phẫu thuật viên sẽ tiên đoán được tổn thương phần mềm kèm theo.

Schatzker phân loại dựa trên (1) lực chấn thương (mạnh, nhẹ), (2) tổn thương giải phẫu bệnh (mâm chày trong nặng hơn mâm chày ngoài: vì thường khớp chày đùi trong chịu 60% trọng lực khớp gối, khớp chày đùi ngoài là 40%, lún hay không lún mảnh vỡ). Khi độ Schatzker tăng dần thì mức độ nặng của gãy xương tăng dần từ đó tiên lượng hồi phục chức năng khớp gối kém dần. Hình ảnh Xquang là 2 chiều nên khi đánh giá phân loại Schatzker sẽ không chính xác do đó nên chụp CT và MRI để đánh giá chính xác hơn, để từ đó đưa ra chiến lược điều trị và tiên lượng.

Schatzker phân làm 6 độ

Độ I: Vỡ mâm chày ngoài, di lệch ít < 4mm, không lún

Độ II: Vỡ mâm chày ngoài có lún

Độ III: Vỡ gây lún mâm chày ngoài

IIIa: Lún “phía ngoài” mâm chày ngoài

IIIb: Lún phần trung tâm mâm chày ngoài

Độ IV: Vỡ mâm chày trong, mảnh vỡ xô ra ngoài hoặc lún

Độ V: Vỡ mâm chày trong và mâm chày ngoài (2 mâm chày)

Độ VI: Gẫy đầu trên xương chày lan vào mâm chày (vỡ mâm chày thân xương)

Một tổn thương khác trong vỡ mâm chày đó là vỡ mâm chày gây trật khớp, mà gọi tắt là vỡ trật mâm chày. Đây là tổn thương nặng vì xương gãy phức tạp, còn phần mềm thì thường đứt dây chằng kèm theo. Do đó trong mổ, sau khi đặt lại xương cần khám đánh giá dây chằng. Nếu có tổn thương dây chằng bên nên khâu phục hồi 1 thì. Chú ý phải đánh giá tổn thương mạch kheo và thần kinh mác chung kèm theo “trật khớp”.

Tóm lại: Vỡ mâm chày là tổn thương khó. Theo phân loại Schatzker thì có thể tóm tắt như sau:

Vỡ càng cao, càng nặng

Độ I, III, III thường tổn thương sụn chêm

Độ IV, VI thường bong điểm bám dây chằng

Vỡ lún kiểu độ II nhiều khi nâng xương rất khó

Vỡ trật mâm chày cần đánh giá tổn thương mạch, thần kinh

Campbell’s Orthopeadics

Gai Mâm Chày Khớp Gối: Cách Nhận Biết Và Điều Trị

Gai mâm chày khớp gối là hiện tượng bất thường xuất hiện ở bề mặt mâm chày. Tình trạng này xuất hiện khi lớp sụn bên ngoài mâm chày bị bào mòn dẫn đến hình thành các gai xương, gây đau nhức và khó chịu.

Gai mâm chày khớp gối là bệnh gì?

Dựa vào cấu tạo giải phẫu khớp gối, mâm chày là phần xương xốp nằm đầu trên xương chày, được bao bọc bởi lớp sụn khớp gối. Bộ phận này đóng vai trò quan trọng trong việc chịu tải trọng của cơ thể. Đồng thời giúp khớp gối hoạt động trơn tru và linh hoạt hơn khi thực hiện các động tác co duỗi, gập gối hoặc đi lại.

Tuy nhiên, việc thường xuyên lặp hoạt động ở khớp gối có thể là nguyên nhân khiến mâm chày dễ bị tổn thương. Nếu không phát hiện và khắc phục kịp thời, có thể khiến phần sụn bao bọc bên ngoài bị ảnh hưởng.

Lâu dần, xương sụn bị bào mòn bắt buộc phải mang canxi từ bên ngoài đến bù đắp. Phần canxi không được chuyển hóa hết sẽ lắng đọng và hình thành gai xương trên bề mặt mâm chày ở khớp gối. Khi đó, bệnh gây đau nhức và xuất hiện tiếng kêu lục cục, lạo xạo tại khớp gối mỗi khi người bệnh cử động hoặc đi lại.

Triệu chứng bệnh gai mâm chày khớp gối

Khi gặp phải các biểu hiện sau đây, bệnh nhân có thể mắc phải bệnh gai mâm chày khớp gối, cần thăm khám sớm.

Đau nhức ở khớp gối hoặc xung quanh gối: Khi các mấu xương hình thành ở mâm chày, người bệnh thường có cảm giác đau nhức ở khớp gối. Cơn đau có thể lan rộng sang vùng xung quanh khớp gối gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng đứng hoặc đi lại. Thông thường, đau có dấu hiệu thuyên giảm khi bệnh nhân nghỉ ngơi và tăng dần lên mỗi khi người bệnh di chuyển hoặc vận động. Đặc biệt, đau nhức dữ dội khi bệnh nhân leo cầu thang hoặc tham gia các môn thể thao yêu cầu vận động mạnh.

Sưng khớp gối: Gai xương hình thành có thể đâm hoặc chèn ép và rễ dây thần kinh và các cơ quan quanh khớp gối dẫn đến tình trạng sưng tấy. Hiện tượng này nếu khôn g được kiểm soát và khắc phục kịp thời có thể chuyển thành viêm.

Phát ra tiếng kêu lạo xạo, lục cục ở khớp gối khi hoạt động: Thông thường, triệu chứng khớp gối phát ra tiếng kêu mỗi khi hoạt động thường gặp ở bệnh nhân bị thoái hóa khớp gối. Tuy nhiên, người bị gai mâm chày khớp gối cũng có thể gặp phải hiện tượng này. Nguyên nhân dẫn đến vấn đề này chủ yếu là do gai xương mọc trên mâm chày cọ sát vào các khớp xương tạo thành.

Co cứng khớp gối: Ngoài các triệu chứng nêu trên, người bị gai mâm chày khớp gối thường gặp phải biểu hiện co cứng ở khớp gối, gây khó khăn trong việc đi lại và thực hiện các động tác gập, duỗi. Triệu chứng co cứng khớp thường diễn ra vào buổi sáng, sau khi người bệnh thức dậy. Biểu hiện này thường thuyên giảm sau khi người bệnh xoa bóp hoặc vận động nhẹ.

Nguyên nhân hình thành gai mâm chày khớp gối

Theo các chuyên gia khoa xương khớp, gai mâm chày khớp gối nói riêng hay gai khớp gối nói chung hình thành chủ yếu là do thoái hóa khớp theo thời gian gây nên. Khi sụn bị thoái hóa, các bề mặt của nắp đầu gối (xương bánh chè), xương ống chân (xương chày) và xương đùi va chạm gây áp lực lên nhau. Lúc này, một loạt phản ứng của tế bào sụn khớp xảy ra khiến bề mặt sụn ở xương mâm chày bị tổn thương và hao mòn dần.

Theo cơ chế tự bù đắp, một lượng canxi sẽ được trích ra và chuyển đến tại vị trí này để tạo ra sụn mới và giúp chữa lành tổn thương ở khớp gối. Tuy nhiên, trong quá trình đối phó sự mất ổn định của khớp, nếu canxi không chuyển hóa hết mà lắng đọng tại khớp xương có thể gây hình thành các mấu gai.

Ngoài nguyên nhân trên, gai mâm chày khớp gối xảy ra cũng có thể do chấn thương ở khớp gối gây ảnh hưởng đến xương bánh chè. Thông thường, xương bánh chày bị vỡ có thể khiến bề mặt mâm chày bị tổn thương. Về cơ cơ chế hình thành, quá trình xuất hiện gai xương do chấn thương tương tự như bệnh thoái hóa khớp gối.

Yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh gai mâm chày khớp gối

Các yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh như:

Yếu tố di truyền: Theo một số nghiên cứu, những đối tượng gia đình có tiền sử mắc bệnh gai xương thường có khả năng mắc bệnh cao hơn những người khác.

Tuổi tác: Hầu hết mọi người đều có thể mắc bệnh gai xương. Tuy nhiên, tuổi tác càng lớn, khả năng mắc bệnh càng cao

Thừa cân, béo phì: Chỉ số khối cơ thể (BMI) tăng cao chính là nguyên nhân làm tăng áp lực lên lên khớp gối khiến khớp gối dễ bị tổn thương và hình thành gai xương

Thói quen sống và sinh hoạt: Thường xuyên quỳ hoặc ngồi xổm góp phần làm tăng khả năng bào mòn sụn ở khớp gối, gây hình thành gai xương.

Thiếu hụt chất dinh dưỡng: Một số bằng chứng cho thấy, việc thiếu hụt chất dinh dưỡng do chế độ ăn không đảm bảo có thể là yếu tố nguy cơ thúc đẩy hình thành gai xương ở mâm chày đầu gối.

Biến chứng gai mâm chày khớp gối

Theo các chuyên gia, khi phần sụn trong khớp gối tiếp tục bị bào mòn theo thời gian, số lượng và kích thước của các gai xương sẽ phát triển và tăng dần lên. Nếu tình trạng này không được kiểm soát tốt, bệnh có thể gây đau nhức dữ dội và làm giảm đáng kể khả năng vận động của khớp gối.

Bên cạnh đó, gai xương còn làm tăng nguy cơ mắc bệnh viêm khớp. Ở những đối tượng mắc bệnh nặng, bệnh thường làm mất sức mạnh ở cơ đùi (cơ tứ đầu và gân kheo) và gây rối loạn chức năng khớp gối. Lâu dần, người bệnh có thể rơi vào tình trạng mất khả năng vận động, nghiêm trọng hơn là bại liệt, tàn phế vĩnh viễn.

Làm thế nào được chẩn đoán gai mâm chày khớp gối?

Gai mâm chày khớp gối thường có triệu chứng giống các bệnh lý xương khớp khác. Vì vậy, để chẩn đoán bệnh chính xác, ngoài việc đánh giá triệu chứng sưng tấy và đau, bác sĩ còn yêu cầu bệnh nhân thực hiện một số thủ thật khác.

Chụp X – quang là một trong biện pháp chẩn đoán gai xương khớp được sử dụng phổ biến hiện nay. Thủ thuật chẩn đoán hình ảnh này giúp bác sĩ kiểm tra cấu trúc khớp gối. Bên cạnh đó, dựa vào hình ảnh X – quang, nhân viên y tế có thể đánh giá mức độ tổn thương ở sụn khớp và xác định mức độ mà các gai xương đã hình thành trên bề mặt khớp.

Điều trị gai mâm chày khớp gối bằng cách nào?

Hầu hết các trường hợp bị gai xương ở mâm chày khớp gối đều cảm thấy khó khăn trong việc di chuyển và vận động. Vì vậy, để khắc phục tình trạng đau và khó chịu này, người bệnh cần phát hiện và điều trị sớm.

Kiểm soát triệu chứng gai mâm chày khớp gối bằng thuốc

Người bệnh có thể sử dụng loại thuốc sau đây để kiểm soát triệu chứng bệnh:

Thuốc giảm đau: Diclofenac, Efferangan Codein và Aspirin. Các loại thuốc này được sử dụng trong trường hợp đau cấp tính.

Thuốc kháng viêm không chứa steroid: Có tác dụng chống viêm và giảm đau, sưng ở khớp gối

Lưu ý: Thuốc có tác dụng cải thiện triệu chứng bệnh trong thời gian ngắn. Tuy nhiên, người bệnh không nên lạm dụng. Tốt nhất nên tham khảo ý kiến bác sĩ hoặc dược sĩ trước khi dùng tránh tác dụng phụ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe.

Cải thiện gai mâm chày khớp gối bằng vật lý trị liệu

Bên cạng dùng thuốc giảm đau và kháng viêm, bệnh nhân cũng có thể kết hợp song song phương pháp vật lý trị nhằm giúp giảm đau và co cứng khớp. Từ đó giúp duy trì khả năng vận động của khớp gối.

Chườm nóng: Cách làm này giúp thúc đẩy tuần hoàn, tăng cường lưu thông máu đến các khớp xương. Từ đó giúp cung cấp dưỡng chất nuôi dưỡng và chữa lành tổn thương ở các khớp. Hơn nữa, chườm nóng còn giúp giảm đau và sưng ở khớp gối.

Chiếu tia hồng quang: Phương pháp chiếu tia hồng quang được xem là một trong những cách giúp làm giảm đáng kể triệu chứng bệnh gai mâm chày khớp gối. Biện pháp này giúp kháng khuẩn và tăng cường tuần hoàn máu nhờ sức nóng phát ra từ tia hồng quang. Khi đó, người bệnh sẽ cảm giác dễ chịu, hiện tượng đau nhức và co cứng thuyên giảm nhiều.

Sóng vi ba: Là một trong những phương pháp vật lý sử dụng bức xạ có tần số cao nhằm giúp lưu thông máu, giảm đau và tiêu viêm. Không những thế, sóng vi ba còn trực tiếp tác động đến phần xương và sụn bị tổn thương. Từ đó giúp chữa lành và thúc đẩy tốc độ bình phục bệnh.

Bài tập thể dục: Tập thể dục cũng được xem là một trong những biện pháp vật lý trị liệu an toàn giúp hỗ trợ điều trị bệnh. Tùy thuộc vào mức độ triệu chứng ở mỗi người, nhân viên y tế có thể chỉ định một số động tác, bài tập thích hợp. Bệnh nhân có thể áp dụng các bài tập đơn giản như gập hoặc duỗi chân ngay tại giường sẽ giúp khớp gối hoạt động linh hoạt hơn, giảm tình trạng co cứng.

Chữa gai mâm chày khớp gối bằng phẫu thuật

Ở một số trường hợp gai xương mọc dài, tăng dần số lượng hoặc bệnh chuyển nặng và có nguy cơ gây biến chứng, bác sĩ sẽ chỉ định bệnh nhân thực hiện phẫu thuật.

Phẫu thuật gai xương thường được chia thành hai loại sau:

Cắt bỏ gai khớp: Phẫu thuật cắt bỏ gai xương thường được chỉ định trong các tình huống cụ thể, thực hiện bằng kỹ thuật nội soi xâm lấn tối thiểu. Bác sĩ sẽ rạch một vết nhỏ ở khớp gối. Sau đó đưa dụng cụ y tế khác nhau vào và thực hiện cắt hoặc nạo bỏ phần gai xương dư thừa. Biện pháp phẫu thuật này giúp cải thiện triệu chứng bệnh. Tuy nhiên, phẫu thuật cắt bỏ gai xương chỉ có tác dụng tạm thời. Bởi gai xương có thể mọc trở lại nếu người bệnh không biết cách chăm sóc tốt.

Thay một phần hoặc toàn bộ khớp gối: Trong trường hợp bệnh chuyển nặng, gai xương lan rộng trên khớp gối khiến khớp xương mất dần chức năng vận động, bác sĩ sẽ yêu cầu phẫu thuật thay khớp gối. Tùy mức độ bệnh mà nhân viên y tế sẽ chỉ định thay một phần hoặc toàn bộ khớp gối. Biện pháp này giúp khôi phục chức năng khớp gối. Thế nhưng thời gian phục bệnh thường khá lâu, có thể kéo dài hơn 1 năm.

Biện pháp phòng ngừa gai mâm chày khớp gối

Để phòng ngừa và ngăn chặn gai mâm chày khớp gối tái phát trở lại, bệnh nhân nên tuân thủ đúng theo các gợi ý sau đây:

Xây dựng chế độ dinh dưỡng đầy đủ: Người bệnh nên có chế độ ăn hợp lý và khoa học nhằm cung cấp đủ dưỡng chất cần thiết cho cơ thể và hệ xương khớp. Tốt nhất nên sử dụng những loại thực phẩm giàu canxi, chất khoáng, chất chống oxy hóa và vitamin D. Đồng thời, tránh xa các loại đồ ăn chứa nhiều chất béo động vật hoặc chất cay, chất kích thích,… Bên cạnh đó, bệnh nhân cũng nên kiêng uống rượu và hạn chế hút thuốc lá.

Thay đổi tư thế sinh hoạt: Tránh các tư thế gây tổn thương khớp gối như ngồi xổm hoặc ngồi bắt chéo chân. Ngoài ra, tránh ngồi hoặc đứng quá lâu, làm tăng áp lực lên khớp gối. Bên cạnh đó, nên tránh các công việc khuân vác nặng.

Kiểm soát cân nặng ở mức ổn định: Thừa cân có thể gây áp lực lên khớp khi di chuyển. Nếu tình trạng này tiếp diễn trong thời gian dài có thể khiến khớp gối bị tổn thương, bào mòn sụn và hình thành. Vì vậy, để khớp gối khỏe mạnh và ngăn ngừa bệnh gai xương tái phát, người bệnh nên giữ cân nặng ỏ mức độ ổn định.

Tập thể dục: Thường xuyên tập thể dục thể thao không chỉ giúp giảm nhanh triệu chứng bệnh mà còn là biện pháp phòng ngừa bệnh hiệu quả. Để khớp gối trở nên linh hoạt, giảm đau và giảm co cứng, bệnh nên tập luyện các bài tập đơn giản như đi bộ, bơi lội, yoga hoặc đi xe đạp. Tránh các bộ môn thể thao đòi hỏi tính đối kháng cao và vận động với cường độ mạnh như đá bóng, nhảy aerobic, chạy,…

Bổ sung vitamin D cho cơ thể: Vitamin D đóng vai trò quan trọng trong việc tổng hợp và hấp thụ canxi. Vì vây, chúng rất cần thiết đối với sức khỏe hệ xương khớp. Bên cạnh đó, vitamin D cũng có tác dụng chống viêm, hỗ trợ giảm viêm và đau. Người bệnh có thể bổ sung vitamin D cho cơ thể thông qua thực phẩm hoặc chất bổ sung. Ngoài ra, bệnh nhân cũng có thể cung cấp vitamin D cho cơ thể bằng cách tắm nắng mặt trời.

Tăng cường canxi cho hệ xương khớp: Canxi giúp hệ khung xương trở nên chắc khỏe, ngăn ngừa tình trạng loãng xương hoặc xương bị giòn, yếu. Để thúc đẩy, tăng tốc độ phục hồi sụn và giảm nguy cơ gãy xương, người bệnh nên bổ sung đầy đủ canxi cho cơ thể.

Uống nhiều nước: Uống đủ nước sẽ giúp bổ sung lượng nước thiếu ở các khe hở của khớp xương. Từ đó giúp làm giảm nguy cơ chấn thương và tăng khả năng bôi trơn, giúp khớp vận động linh hoạt hơn. Bên cạnh đó, tăng lượng nước uống mỗi ngày có thể giúp hỗ trợ điều trị đau khớp. Ngoài ra, nước còn giúp duy trì tuần hoàn máu và đào thải chất độc ra khỏi xương khớp, giúp giảm viêm. Vì vậy, bệnh nhân nên uống ít nhất 8 ly nước mỗi ngày.

Giữ tinh thần thoải mái: Tâm lý ổn định, không bị stress hoặc căng thẳng thần kinh thường giúp bệnh mau chóng bình phục. Vì vậy, để giữ tinh thần luôn vui vẻ và thoải mái, bệnh nhân nên cân bằng thời gian làm và nghỉ ngơi, tránh tạo áp lực cho bản thân. Bên cạnh đó, người bệnh cũng có thể tham gia lớp thiền định, tâm lý trị liệu hoặc nghe nhạc tĩnh tâm để cân bằng cảm xúc.

Gai mâm chày khớp gối cần được điều trị sớm nhằm ngăn chặn bệnh phát triển theo hướng xấu và gây biến chứng. Tuy nhiên, để có biện pháp điều trị bệnh phù hợp, loại bỏ dứt điểm các mấu gai xương, người bệnh cần thăm khám và thực hiện theo đúng chỉ định từ bác sĩ chuyên khoa.