Văn Tế Cúng Rằm Tháng 10 / Top 9 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Apim.edu.vn

Văn Cúng Rằm Tháng 10 Ngày Nào ? Ý Nghĩa Rằm Tháng 10

Rate this post

Cúng Rằm tháng Giêng 2021 ngày nào? Lễ cúng Rằm tháng Giêng thế nào cho chuẩn? Rằm tháng Giêng cần làm gì để cầu may, ước lành được như ý?

Cúng Rằm tháng Giêng 2021 ngày nào?

Lễ cúng Rằm tháng Giêng 2021đối với đa số người dân Việt Nam rất quan trọng. Người Việt có quan niệm “Lễ Phật quanh năm không bằng ngày Rằm tháng Giêng” để nói lên vị trí quan trọng của ngày lễ này trong đời sống. Thậm chí ngày xưa các cụ quan niệm như ăn Tết lần 2.

Đang xem: Cúng rằm tháng 10 ngày nào

Dân gian cho rằng đầu xuôi thì đuôi mới lọt nên việc tổ chức ngày Rằm đầu tiên trong năm mới rất được quan tâm. Nhiều người tin rằng đi lễ chùa, sửa soạn mâm cúng thịnh soạn trong ngày Rằm tháng Giêng thì cả năm sẽ được may mắn, phước lành.

Thông thường, lễ cúng Rằm tháng Giêng được các gia đình tiến hành vào chính Rằm, tức ngày 15 tháng Giêng âm lịch.

Theo phong tục xưa truyền lại, cúng Rằm tháng Giêng vào ngày chính Rằm (15 âm lịch) là tốt nhất. Bởi đây là thời điểm trăng sáng nhất đầu năm Tân Sửu 2021. Vào chính thời điểm trăng mọc này, Đức Phật giáng lâm, gia ân độ trì chúng sinh, thành tâm cầu khấn ắt sở cầu như nguyện, cả năm bình an, may mắn.

Nghi lễ cúng nên diễn ra vào buổi sáng sớm hoặc lúc chính Ngọ.

Nên cúng Rằm tháng Giêng 2021 vào ngày 14 hay 15 âm lịch?

Theo các chuyên gia tâm linh, cúng Rằm tháng Giêng vào ngày 14 hay 15 âm lịch đều được. Bởi không phải gia đình nào cũng có điều kiện thuận lợi để tiến hành cúng Rằm vào đúng ngày 15 âm lịch.

Có gia đình bận rộn, không sắp xếp được công việc để cúng vào giờ chính Ngọ ngày 15/1 âm lịch thì có thể cúng trước đó 1 ngày, tức 14 tháng Giêng.

Thời gian cúng có thể là từ sáng sớm ngày 14/1 âm lịch đến trước 19h ngày 15/1 âm lịch.

Tuy nhiên, ngoài 2 ngày này (14 và 15 âm lịch), gia chủ không nên cúng Rằm tháng Giêng vào ngày khác vì sẽ mất linh.

Có thể nói, mỗi gia đình lại tùy biến linh động cúng vào ngày, giờ khác nhau. Việc cúng Rằm tháng Giêng vào ngày giờ nào được nhiều người quan niệm khá cởi mở. Việc thờ cúng không ở mâm cao cỗ đầy mà cốt ở tấm lòng thành kính và biết ơn của con cháu đối với tổ tiên, ông bà và thần linh.

Cúng Rằm tháng Giêng 2021 giờ nào tốt?

Khung giờ tốt nhất: Giờ Ngọ (11h-13h), tốt hơn cả là chính Ngọ.

Lệ xưa cho rằng, cúng Rằm tháng Giêng vào ngày chính Rằm, giờ Ngọ (từ 11h trưa đến 1h chiều) là thời điểm tốt nhất. Mọi người tin rằng, đây là khung giờ thần Phật giáng thế, sẽ chứng nghiệm cho lòng thành của gia chủ.

Tuy nhiên, nếu không sắp xếp được thời gian trên, gia chủ có thể làm lễ cúng từ sáng ngày 14 tháng Giêng đến trước 19h ngày 15 tháng Giêng là được.

+ Ngày chính Rằm 15/1, giờ đẹp tiến hành cúng Rằm tháng Giêng 2021 gồm:

Giờ Thìn (7h-9h)

Giờ Ngọ (11h-13h)

Giờ Mùi (13h-15h)

Giờ Thìn (7h-9h)

Giờ Tỵ (9h-11h) Giờ Thân (15h-17h)

Giờ Dậu (17h-19h)

Mâm cỗ cúng Rằm tháng Giêng 2021 gồm những gì?

Mâm cỗ cúng Rằm tháng Giêng 2021 hầu như không thể thiếu thịt gà, xôi gấc/bánh chưng. Gà cúng là vật cúng tế linh thiêng nhất còn xôi gấc có màu đỏ sẽ mang đến may mắn cho gia đình trong năm mới.

Ngoài thịt gà, xôi gấc, bánh chưng và các món ăn khác như giò, chả, rau xào…, mâm cỗ mặn cúng gia tiên vào ngày rằm tháng Giêng còn có hương, hoa tưởi, vàng mã, đèn nến, trầu cau, rượu.

Mâm cúng rằm tháng Giêng năm Tân Sửu 2021 cần chuẩn bị đầy đủ

Ngoài ra, một số gia đình còn chuẩn bị mâm cỗ chay cúng Phật bao gồm hoa quả, chè xôi, bánh trôi nước, các món ăn chay.

Cúng rằm tháng Giêng không nhất thiết phải mâm cao cỗ đầy mà gia đình nên “tùy tiền biện lễ”, dựa vào kinh tế của gia chủ mà chuẩn bị sao cho phù hợp, chú trọng yếu tố thành tâm, nghiêm túc.

Cụ thể, một mâm lễ mặn cúng Rằm tháng Giêng 2021 gồm:

– Năm lạng thịt vai luộc

– Một bát canh măng

– Một đĩa xào thập cẩm

– Một đĩa nem

– Một đĩa rau xào

– Một đĩa giò

– Một đĩa xôi gấc

– Một đĩa hoa quả

Các vật phẩm khác như: Hương hoa vàng mã; đèn nến; trầu cau; rượu

Đặc biệt trong mâm lễ phải có bánh trôi (chè trôi nước). Ý nghĩa của việc ăn bánh trôi ngày Tết Nguyên Tiêu là mong muốn mọi việc quanh năm được hanh thông, trôi chảy. Ngoài ra còn có hương hoa, đèn nến, trầu cau, một ít vàng mã, rượu.

Mâm cỗ chay cúng Phật gồm:

– Hoa quả.

– Chè xôi.

– Các món đậu.

– Canh xào không thêm nhiều hương liệu.

– Bánh trôi nước.

Cỗ chay tùy loại có từ 10, 12 tới 25 món. Điểm đặc biệt trên mâm cỗ chay là sự hiện diện của những màu sắc tượng trưng cho ngũ hành. Ăn cơm chay là một cách hướng tới sự cân bằng, thanh thản trong tâm hồn.

Lưu ý khi cúng Rằm tháng GiêngKhông nên đốt quá nhiều vàng mã

Nhà nghiên cứu văn hóa Trịnh Sinh cho rằng, từ một ngày lễ có nguồn gốc từ Trung Hoa,Rằm tháng Giêngđã trở thành một ngày Tết mang bản sắc rất riêng của người Việt, gắn liền với đạo Phật.

Trọng tâm của lễ Rằm tháng Giêng tại các chùa là lễ cầu quốc thái dân an, cầu nguyện an lành, khỏe mạnh, no đủ, thịnh vượng. Người dân có thể tham dự những lễ cầu an này.

Tuy nhiên, đạo Phật không dạy phải đốt vàng mã cho người đã mất, cũng không cổ súy việc đốt vàng mã, vừa phí phạm lại ô nhiễm môi trường.

Vậy nên, người dân đi lễ nên bằng tấm lòng thành kính, chứ không phải cố sắm mâm cao cỗ đầy, hoặc đốt quá nhiều vàng mã gây lãng phí.

Dọn dẹp ban thờ

Vào ngàyRằm tháng Giêng, các gia đình thường lau dọn bàn thờ. Khi làm việc này lưu ý không xê dịch bát hương, trước khi lau dọn nên thắp 1 nén hương khấn xin Thần linh Thổ địa, tổ tiên về việc sẽ lau dọn ban thờ để chuẩn bị lễcúng Rằm tháng Giêng.

Mua sắm đồ cúng lễ

Nên mua hoa tươi để dâng trên ban thờ, không dùng hoa quả giả. Hoa để dâng ban thờ thường là hoa cúc vàng, cúc vạn thọ, huệ trắng.

Mâm cỗ cúng Rằm tháng Giêng. Ảnh: T.L

Ngày Rằm tháng Giêng, các gia đình người Việt thường sửa soạn mâm cỗ cúng gia tiên.Lễ cúng gia tiên có hương hoa, đèn nến, trầu cau, rượu và mâm cỗ mặn gồm nhiều món như thịt gà luộc, đĩa giò, đĩa xào, bát canh.

Nhiều gia đình có bàn thờ Phật còn sắm lễ cúng Phật. Đó là mâm lễ chay tinh khiết gồm hương, hoa, đèn, nến, hoa quả tươi.

Theo quan niệm dân gian, các đồ dùng để đựng các lễ cúng như bát, đĩa, đũa, thìa,… cần phải sử dụng những đồ mới, hoặc đồ riêng biệt. Không nên dùng chung đồ cúng với các việc khác trong gia đình. Bởi đồ thờ cúng cần phải sạch sẽ, không uế tạp.

Lưu ý khi thắp hương

GS-TS Nguyễn Chí Bền – nguyên Viện trưởng Viện Văn hoá Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam – lưu ý người dân khi thực hiện việc thắp hương tại bàn thờ gia tiên, cũng như đi lễ chùa.

Theo đó, khi thắp hương, người dân thường thắp theo số lẻ, bởi số lẻ tượng trưng cho phần âm. Chỉ nên thắp từ 1 đến 3 nén hương trên mỗi bát hương.

Chú ý khi thắp hương cần phải ăn mặc chỉnh tề, không mặc quần đùi, áo cộc hay ăn mặc luộm thuộm,… Đặc biệt khi khấn vái cần thành tâm, thể hiện sự tôn trọng với các vị phật, thần linh và tổ tiên.

Văn khấn cúng rằm tháng Giêng 2021 chuẩn, đúng nhất

Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.

Con kính lạy Hoàng thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.

Con kính lạy ngài Bản cảnh Thành Hoàng, ngài Bản xứ Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân cùng chư vị Tôn thần.

Con kính lạy Cao Tằng Tổ Khảo, Cao Tằng Tổ Tỷ, Thúc Bá Đệ Huynh, Cô Di, Tỷ Muội họ nội họ ngoại.

Tín chủ (chúng) con là: ……

Ngụ tại: ……..

Hôm nay là ngày Rằm tháng Giêng năm Tân Sửu, gặp tiết Nguyên tiêu, tín chủ con lòng thành, sửa sang hương đăng, sắm sanh lễ vật, dâng lên trước án.

Chúng con kính mời ngày Bản cảnh Thành hoàng chư vị Đại Vương, ngài Bản xứ Thần linh Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân, Ngũ phương, Long mạch, Tài thần. Cúi xin các ngài linh thiêng nghe thấu lời mời, giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành thụ hưởng lễ vật.

Chúng con kính mời các các cụ Tổ Khảo, Tổ Tỷ, chư vị Hương linh gia tiên nội ngoại họ…. nghe lời khẩn cầu, kính mời của con cháu, giáng về chứng giám tâm thành, thụ hưởng lễ vật.

Tín chủ con lại kính mời ông bà tiền chủ, hậu chủ tại gia về hưởng lễ vật, chứng giám lòng thành phù hộ độ trì cho gia chung chúng con được vạn sự tôn lành. Bốn mùa không hạn ách, tám tiết hưởng an bình.

Khấn xong, vái 3 vái.

Văn khấn cúng rằm tháng Giêng 2021 ở chùaDốc lòng kính lễ Phật Pháp Tăng thường ở khắp mười phương. (3 lần, mỗi lần lạy 1 lạy)

(Cầm 3 nén hương quỳ đọc tiếp)

Nguyện mây hương lành này,

Biến khắp mười phương giới,

Trong có vô biên Phật,

Vô lượng hương trang nghiêm,

Viên mãn đạo Bồ Tát,

Thành tựu hương Như Lai. (1 lạy, và cắm hương vào bát hương)

Dâng hương cúng dàng rồi, dốc lòng kính lễ Phật Pháp Tăng thường ở khắp mười phương. (1 lạy)

(Thành kính chấp tay thành búp sen đọc bài ca tụng công đức của Đức Phật)

Phật thân rực rỡ tựa kim san

Thanh tịnh không gì thể sánh ngang

Vô Thượng Chí Tôn công đức mãn

Cúi đầu con lạy Phật Sơn Vương.

Phật đức bao la như đại dương

Bảo châu tàng chứa đủ bên trong

Trí tuệ vô biên vô lượng đức

Đại định uy linh giác vẹn toàn.

Phật tại Chân Như pháp giới tàng

Không sắc không hình chẳng bụi mang

Chúng sinh bái vọng muôn hình Phật

Bỗng thấy tai nàn tận hóa tan.

Án phạ nhật ra hồng. (3 lần)

Chí tâm đỉnh lễ Nam mô Tận hư không biến pháp giới quá hiện vị lai thập phương chư Phật, tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng thường trụ Tam Bảo. (1 lạy)

Chí tâm đỉnh lễ Nam mô Sa Bà Giáo Chủ Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai Hạ Sinh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát (1 lạy)

Chí tâm đỉnh lễ Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới Đại từ Đại bi A Di Đà Phật, Đại bi Quán

Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (1 lạy)

Con nay đều vì bốn ân, ba cõi pháp giới chúng sinh, nguyện xin ba chướng tiêu trừ, dốc lòng sám hối. (1 lạy)

(Quỳ đọc) Chí tâm sám hối:

Xưa kia gây nên bao ác nghiệp

Đều vì ba độc: tham, sân, si

Bởi thân, miệng, ý phát sinh ra

Hết thảy con nay xin sám hối.

Như vậy tất thảy bao nghiệp chướng

Ắt hẳn tiêu diệt không tàn dư

Niệm niệm âm vang tận pháp giới

Độ khắp chúng sinh nhập Bất Thoái. (1 lạy)

Sám hối phát nguyện rồi, chúng con kính lễ Đức Phật Thích Ca, Phật A Di Đà và chư Phật ở khắp mười phương. (1 lạy).

Nên làm lễ cúng Rằm tháng Giêng 2021 ở nhà hay lên chùa?Rất nhiều người phân vân việc nên cúng lễ Rằm tháng Giêng ở nhà hay lên chùa. Người thì cho rằng cúng ở nhà là được rồi, người khác lại cho rằng phải lên chùa mới đúng, nhưng cũng có người cho rằng phải cúng cả ở nhà và trên chùa. Vậy, cúng Rằm tháng Giêng ở đâu mới đúng?

Vào ngày lễ Rằm tháng Giêng hàng năm, người Việt thường rất coi trọng việc cúng lễ, đa phần mọi người thường làm lễ mặn cúng gia tiên và lễ ngọt để cúng Phật. Tùy vào phong tục từng nơi cũng như điều kiện kinh tế gia đình nên đồ lễ cũng mỗi nhà không giống nhau, tuy nhiên, tất cả cùng thể hiện tinh thần “uống nước nhớ nguồn” của con cháu đối với ông bà, tổ tiên và tấm lòng thành kính đối với Phật thánh.

Ngày nay, có nhiều gia đình bên cạnh việc cúng Rằm tháng Giêng ở nhà còn làm một cái lễ ngọt lên chùa dâng lên Phật thánh, nhưng mục đích chung vẫn là cầu mong sức khỏe bình an cho gia đình, con cháu ngoan ngoãn, học hành tấn tới.

Vào ngày Rằm tháng Giêng, người Việt còn có một phong tục nữa là dâng sao giải hạn, việc này được thực hiện ở chùa, mỗi chùa có một nghi lễ cúng khác nhau, tụng kinh cũng khác nhau. Theo phong tục này thì nếu trong nhà năm đó có người bị “sao hạn” thì mọi người sẽ lên chùa để giải hạn, cầu mong tai qua nạn khỏi và việc chuẩn bị một cái lễ lên chùa để “dâng sao” là việc không thể thiếu.

Như vậy, vào ngày Rằm tháng Giêng, mọi người có thể làm lễ cúng ở nhà, nếu nhà thờ Phật thì làm lễ dâng Phật, có thể dâng lễ lên chùa hoặc không, nếu trong gia đình có người bị “sao hạn” thì cần lên chùa cúng dâng sao giải hạn.

Rằm Tháng 7 Nhớ ‘Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh’

(Thethaovanhoa.vn) – Có một lần, tôi đi công tác vào đúng dịp Rằm tháng 7. Nhiệm vụ thờ cúng tôi giao cho con gái khi đó đang là sinh viên đại học. Trước khi đi, tôi dặn dò con cẩn thận mâm cúng trong nhà, mâm cúng chúng sinh ngoài sân và đưa cuốn vở soạn những bài khấn từ tuần Rằm, mùng 1 đến Tết Táo quân… Con giở phần cúng rằm tháng 7 và thốt lên: “Mẹ ơi! Trong quyển sổ ghi bài khấn này có bài Văn tế thập loại chúng sinh của Nguyễn Du mà con đã học ở phổ thông…”.

Văn khấn Rằm tháng 7, văn khấn lễ Vu Lan và bài cúng lễ Xá tội vong nhân trong ngày lễ Vu Lan hay còn gọi báo hiếu và lễ Xá tội vong nhân hay còn gọi là cúng cô hồn “mở cửa địa ngục”. Đây là một trong những nét văn hóa truyền thống của người Á Đông.

Thật ra, việc đưa áng văn bất hủ này của đại thi hào Nguyễn Du vào văn khấn Rằm tháng 7 là điều tất nhiên vậy.

Từ lễ xá tội vong nhân, lễ Vu lan đến đạo Hiếu dân tộc

Ở Việt Nam, lễ xá tội vong nhân và lễ Vu lan báo hiếu diễn ra cùng trong ngày Rằm tháng 7 (Tết Trung nguyên). Tuy có chút khác nhau, nhưng do cùng chung nét đẹp đạo lý, nhân văn, nên một cách rất tự nhiên cả 2 lễ trên đã hòa chung làm 1.

Ngày Vu lan báo hiếu gắn với câu chuyện Mục Kiền Liên cứu mẹ trong ngày Tự tứ – ngày chư tăng mãn Hạ theo truyền thống đạo Phật. Theo Kinh Vu lan, đệ tử của Đức Phật là Mục Kiền Liên thương mẹ bị đọa đày ở kiếp ngạ quỷ (quỷ đói) đã thưa với Đức Phật cách giải cứu. Thấy tấm lòng hiếu nghĩa của đệ tử, Đức Phật dạy vào Rằm tháng 7 – ngày chúng tăng Tự tứ hãy dùng thức ăn ngon, ngũ quả quý cúng dường Phật tăng trong 10 phương thì mẹ sẽ được thoát khỏi kiếp khổ nạn. Mục Kiền Liên hiếu thảo đã làm theo và cứu được mẹ khỏi kiếp ngạ quỷ.

Từ tấm gương hiếu hạnh của Bồ tát Mục Kiền Liên, lễ Vu lan ra đời và trở thành ngày lễ lớn của Phật giáo ở Việt Nam và nhiều nước châu Á. Từ câu chuyện Bồ tát Mục Kiền Liên, người Việt Nam đã tiếp nhận ngày lễ Vu lan từ đạo Phật một cách cởi mở, linh hoạt, phù hợp với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Trải qua thời gian, cùng hướng đến cội nguồn đạo lý, giá trị nhân văn, ngày xá tội vong nhân đồng thời trở thành ngày lễ Vu lan, được tôn vinh và nâng cao trong cuộc sống hôm nay để trở thành đạo Hiếu của dân tộc. Với lòng từ bi, bác ái, đạo Phật đã bao trùm tất thảy tình yêu thương đến mọi chúng sinh. Lễ Vu lan đã trở thành truyền thống, nhắc nhở mỗi người bổn phận làm con:

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con

Nghi thức cúng cô hồn xuất hiện ở nước ta từ rất sớm, thể hiện nét đẹp văn hóa tâm linh của người Việt. Cúng thí thực là bố thí cho ngạ quỷ, hay còn gọi là cúng cô hồn. Theo Việt Nam Phật giáo sử luận (Nguyễn Lang), từ thời Trần đã có nghi thức cúng cô hồn và Huyền Quang đã từng đăng đàn chẩn tế. Sách Bảo Đỉnh hành trì (do Huyền Quang tổ sư soạn thảo) được lưu truyền trong các chùa Việt cho thấy nghi thức Phật giáo đã được thịnh hành.

Tượng chân dung đại thi hào Nguyễn Du

Vào ngày đó, mâm cúng chúng sinh thường có nồi cháo lẻ múc vào từng bồ đài bằng lá đa cắm bờ rào, ven đường: “Sống đã chịu một đời phiền não/ Thác lại nhờ hớp cháo lá đa”.

Cách thức tiến hành ngày Rằm tháng 7 đã được ghi chép trong sử sách. Theo Vân đài loại ngữ vào ngày Tết Trung nguyên “người ta để đồ mã và giấy ngũ sắc vào cái giường 3 chân, như cái đèn nổi, gọi là Vu lan bồn treo áo giấy, rồi lấy đóm đốt”.

Sách Đại Việt sử ký cho biết “Mùa Thu tháng 7, năm Giáp Dần, niên hiệu Thiệu Bình thứ 1 (1434); ngày 15 mở Hội Vu lan tha tù tội nhẹ 50 người…”.

Trong Văn minh Việt Nam, GS.TS Nguyễn Văn Huyên đã viết “Hội lễ dân gian của đạo Phật là ngày Rằm tháng 7. Đây là một kiểu ngày lễ của những người chết, trong ngày đó ở địa phủ, do lòng từ bi của chư Phật, một cuộc xá tội lớn được thực hiện, các ngục được mở và nhiều vong có tội được tỏa đi khắp thế gian. Các gia đình đi chùa cúng và tụng kinh để giải thoát cho hồn của thân nhân…”…

“Văn chiêu hồn” từng thấm hạt mưa rơi…

Văn tế thập loại chúng sinh (còn gọi là Văn chiêu hồn) là một trong số những tác phẩm làm nên sự nghiệp Nguyễn Du bên cạnh Truyện Kiều, Thanh Hiên thi tập, Nam Trung tạp ngâm…

Văn chiêu hồn là một bài văn khấn bằng chữ Nôm hòa quyện cùng tiếng mõ, lời kinh cúng các loại cô hồn theo nghi thức văn hóa Phật giáo vào ngày Rằm tháng 7 hằng năm với mục đích cho các cô hồn được ăn uống, siêu sinh lên cõi trời thanh tịnh, lạc đạo “Muôn nhờ Đức Phật từ bi/ Giải oan, cứu khổ, hồn về Tây phương”…

Văn tế thập loại chúng sinh của Nguyễn Du thể hiện tính dân tộc và nhân văn sâu sắc. Ông không sử dụng hình thức văn tế biền ngẫu mang tính chất quy phạm, ước lệ sáo mòn thường thấy; cũng không viết bằng văn xuôi như Lê Thánh Tông trong Thập giới cô hồn quốc ngữ văn… Nguyễn Du chọn viết Văn chiêu hồn bằng chữ Nôm theo thể thơ song thất lục bát dễ thuộc, dễ nhớ. Nhờ sử dụng thể thơ dân tộc có vần điệu uyển chuyển, linh hoạt, cùng giai điệu diết da, thê thiết, Văn chiêu hồn có sức truyền cảm rất lớn, phù hợp với dạng văn tế.

184 câu thơ viết bằng chữ Nôm được kết cấu thành 3 phần chặt chẽ, súc tích. Nội dung phần 1 mở đầu miêu tả khung cảnh dương thế chiều Thu tháng 7 sùi sụt mưa dầm cùng lòng người não nuột, buồn bã, cô đơn thương xót những chúng sinh bơ vơ, lạnh lẽo nơi âm giới:

“Tiết tháng Bảy mưa dầm sùi sụt Toát hơi may lạnh buốt xương khô Não người thay buổi chiều Thu Ngàn lau nhuốm bạc, lá ngô rụng vàng”…

Trong phần 2, từ dương gian, Nguyễn Du hướng về cõi âm. Có tên Văn tế thập loại chúng sinh nhưng thực tế tác giả đã nhắc tới hơn “thập loại”, đó là 13 loại chúng sinh: Vương giả, công nương, quan văn, quan võ, thương nhân, trí thức, ngư phủ, nông dân, binh lính, kỹ nữ, hành khất, tù nhân, tiểu nhi.

Tranh vẽ “Văn tế thập loại chúng sinh”. Tác giả: Phạm Trần Việt Nam

Như vậy, Văn tế thập loại chúng sinh là số phiếm chỉ cho tất cả các loại cô hồn trong “lục đạo”. Điều quan trọng Nguyễn Du đã xếp tất cả chúng sinh cùng chung trong “một kiếp người”, không theo trật tự lễ tân từ quan đến dân mà theo trật tự “nhân tâm”. Nghĩa là tác giả không phân biệt thành phần giai cấp, già trẻ, trai gái, lớn bé… Lúc thì gọi các cô hồn là đứa, người, kẻ: Đứa tiểu nhi tấm bé, người leo giếng đứt dây, kẻ mũ cao áo rộng, kẻ bài binh bố trận, kẻ tính đường trí phú, kẻ rắp cầu chữ quý, kẻ vào sông ra bể, kẻ đi về buôn bán, kẻ nhỡ nhàng một kiếp, kẻ nằm cầu gối đất, hành khất, kẻ mắc oan tù rạc…

Trong Văn tế thập loại chúng sinh Nguyễn Du thể hiện sự thương cảm cho tất cả những người yếu thế, dễ bị chèn ép, bị bóc lột… trong đó phụ nữ và trẻ em là 2 đối tượng được nhận sự quan tâm nhất.

Trong Văn chiêu hồn Nguyễn Du có thể không khai thác đến tận cùng những bi kịch thân phận như Đoạn trường tân thanh, nhưng trong văn tế, ông viết về thân phận đàn bà bằng trái tim đồng cảm. Đó là người phụ nữ khuê các sống trong nhung lụa, nhưng gặp phải thời cuộc đổi thay: “Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu”. Đó là người kỹ nữ – một “thập loại chúng sinh” hiện lên đầy xót đau: “Cũng có kẻ nhỡ nhàng một kiếp/ Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa”. Bằng sự cảm thương sâu sắc,nhà thơ dự cảm thân phận người kỹ nữ ngay thời xuân sắc đã hé mở một tương lai cô độc, hẩm hiu “Ngẩn ngơ khi trở về già/ Ai chồng con tá, biết là cậy ai”. Có ai như Nguyễn Du luôn cảm thương cho cuộc đời kỹ nữ “Sống làm vợ khắp người ta/ Hại thay thác xuống làm ma không chồng” (Truyện Kiều). Tiếng khóc thương của tác giả khái quát chung từ văn tế: “Đau đớn thay, phận đàn bà/ Kiếp sinh ra thế, biết là tại đâu?”. Đến Truyện Kiều “Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”…

Cùng với cảm thương thân phận người phụ nữ, ông còn thương xót những hài nhi xấu số: “Kìa những kẻ tiểu nhi tấm bé/ Lỗi giờ sinh, lìa mẹ lìa cha/ Lấy ai bồng bế vào ra/ U ơ tiếng khóc, thiết tha nỗi lòng”. Từ tiếng khóc u ơ của con trẻ do “lỗi giờ sinh” nhà thơ muốn truyền gửi thông điệp cho thế hệ sau là con người với quyền lớn nhất là quyền được sống.

Trong phần 3, Nguyễn Du thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc với đất nước, con người. Tư tưởng nhân đạo có cội nguồn từ nhân sinh quan của tác giả đặt trong trong thế giới quan Phật giáo. Lòng nhân ái, bao dung khiến ngòi bút của ông bình đẳng với mọi cô hồn:

“Mười loài là những loài nào Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh Kiếp phù sinh như hình bào ảnh Có chữ rằng: Vạn cảnh giai không”.

Viết về cõi âm, nhưng hình như tác giả ngầm định nói về cõi dương. Những cô hồn ấy “sống vô gia cư, chết vô địa táng” đang hiện hữu trên cõi đời, cõi người ở trong chính môi trường ngột ngạt, tăm tối. Nguyễn Du động lòng trắc ẩn với những kiếp người xiêu dạt khắp nơi. Điệp từ “hoặc” nối dài nỗi đau khổ triền miên: “Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi/ Hoặc là nương ngọn suối chân mây/ Hoặc là điếm cỏ bóng cây/ Hoặc là quán nọ cầu này bơ vơ/ Hoặc là nương Thần từ, Phật tự/ Hoặc là nhờ đầu chợ cuối sông/ Hoặc là trong quãng đồng không/ Hoặc nơi gò đống, hoặc vùng lau tre”.

Nhà thơ Xuân Diệu đánh giá cao tác phẩm Văn Chiêu hồn độc đáo, duy nhất trong nền thơ Việt Nam ta từ trước đến nay “nói đến người chết, nói đến cái chết dưới trăm tình thế, chưa có bài thơ nào mà tập trung nói đến những hồn người chết như vậyvà thực chất lại là sự ôm trùm rộng rãi những người sống…”…

Không chỉ đề cập đến hiện thực đau khổ của “thập loại chúng sinh”, Nguyễn Du còn mở ra con đường cứu giúp cô hồn thoát khỏi kiếp đời khổ hạnh. Ông cầu xin phép Phật nhiệm màu cứu giúp những cô hồn được giải thoát: “Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ/ Phóng hào quang cứu khổ độ u” (157-158). Với tấm lòng cảm thương mọi thân phận, Nguyễn Du mượn một đàn tràng của nhà Phật để mong “siêu sinh tịnh độ”, hướng con người đến với Phật pháp, để thoát khỏi cảnh tai ương khổ ai của kiếp nhân quả luân hồi để được siêu thoát khỏi mọi kiếp đời khổ đau:

Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo Của có chi bát cháo nén nhang Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên. Ai đến đây dưới trên ngồi lại Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu Phép thiêng biến ít thành nhiều Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sinh Phật hữu tình từ bi phổ độ Chớ ngại rằng có có không không Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài

Xung quanh thời điểm sáng tác Văn tế thập loại chúng sinh có nhiều ý kiến khác nhau. Có nhà nghiên cứu nói tác giả soạn bài văn tế này vào đầu thế kỷ 19. Cũng có ý kiến cho rằng Nguyễn Du viết bài văn tế sau một đợt dịch khủng khiếp cướp đi mạng sống của hàng triệu người. Lại có ý kiến cho rằng, ông viết văn tế khi đang làm cai bạ ở Quảng Bình, trước Truyện Kiều…

Việc xác định thời điểm với các nhà nghiên cứu là cần. Nhưng tôi lại quan tâm nhiều hơn cái tâm của Nguyễn Du động lòng trắc ẩn trước mọi kiếp nạn. Sinh ra trong gia đình quan lại thuộc tầng lớp trên, từng sống trong cảnh nhung lụa, phú quý, nhưng do được sống gần dân, đã từng nếm trải cuộc sống “thập tải phong trần”, trái tim từng nhói buốt trước “Những điều trông thấy” ở xứ mình, xứ người, nên sáng tác của ông thấm đẫm sự đồng cảm, thương yêu sâu sắc với mọi kiếp đời, kiếp người.

Về Văn chiêu hồn, các nhà nghiên cứu đều cùng chung nhận định: Nguyễn Du là người có trái tim lớn, chứa được bấy nhiêu tình thương nhân loại và xã hội Lê mạt chính là nguồn nung nấu để hình thành nên tác phẩm.

Chủ nghĩa nhân văn là thông điệp lớn lao mà suốt một đời Nguyễn Du khắc khoải, theo đuổi, kiếm tìm và đặt cược cuộc đời mình trong đó. Cùng với “Truyện Kiều”, “Văn tế thập loại chúng sinh” là một áng văn Nôm bất hủ – một kiệt tác văn tế mẫu mực được kết tinh bởi những giá trị nhân văn sâu sắc nhất, tiến bộ nhất. Tự thân tác phẩm đã đưa Nguyễn Du trên văn đàn thế giới và ông được tôn vinh trở thành Đại thi hào dân tộc.

* Văn tế thập loại chúng sinh là số phiếm chỉ cho tất cả các loại cô hồn trong “lục đạo”. Điều quan trọng Nguyễn Du đã xếp tất cả chúng sinh cùng chung trong “một kiếp người”, không theo trật tự lễ tân từ quan đến dân mà theo trật tự.

Văn Khấn Cúng Mùng 1, Ngày Rằm Tháng 10 Âm Lịch

Tháng 10 âm lịch: Tháng Hợi

Tháng 1- – tháng của dây dưa. Tháng của vương vấn. Tháng của chuyển tiếp. Tháng của tương giao. Tháng của những gì kết thúc và bắt đầu. Tháng của những luyến tiếc cho những gì sắp qua và tháng của những gì ngỡ ngàng sắp đến.

Tháng 10 âm lịch là tháng Hợi, tức là tháng con Heo.

Những người sinh vào tháng 10 là người can đảm, bướng bỉnh và khá cố chấp. Đây có thể vừa là nhược điểm nhưng cũng là ưu điểm của họ.

Một khi họ đã quyết định một điều gì đó thì có long trời lở đất họ cũng không bao giờ đổi ý. Ngoài ra, những người này trời sinh đã được hưởng nhiều phước lành hơn người khác, trong cuộc đời thường nhận được nhiều may mắn bất ngờ.

SẮM LỄ CÚNG MÙNG 1, NGÀY RẰM THÁNG 10 ÂM LỊCH

Lễ cúng vào ngày mùng Một (lễ Sóc) và lễ cúng vào chiều tối ngày Rằm (lễ Vọng) thường là lễ chay: Hương, hoa, trầu cau, quả, tiền vàng. Ngoài lễ chay, các gia đình cũng có thể cúng thêm lễ mặn vào ngày này gồm: Rượu, thịt gà luộc, các món mặn.

Sắm lễ ngày mùng Một và ngày Rằm tháng Mười âm lịch chủ yếu là thành tâm kính lễ, cầu xin lễ vật có thể rất giản dị:

VĂN KHẤN MÙNG 1 THÁNG 10 ÂM LỊCH

Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần) Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư phật mười phương Kính lạy ngài Hoàng Thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần Con kính lạy ngài Đông Trù Tư mệnh Táo phủ Thần quân Con kính lạy ngài Bản gia thổ địa Long Mạch Con kính lạy các ngài Ngũ phương Ngũ thổ, Phúc đức chính Thần Con kính lạy ngài tiền hậu địa chủ tài thần Con kính lạy các ngài Tôn thần cai quản trong xứ này Hôm nay là ngày…….. tháng….. năm ……. Tín chủ con là ………………………………………………

Ngụ tại…………………… cùng toàn gia quyến thành tâm sửa biện hương hoa, lễ vật, kim ngân trà quả đốt nén hương thơm dâng lên trước án.

Chúng con thành tâm kính mời: Ngài Kim Niên đương cai Thái Tuế chí đức Tôn thần, ngài Bản cảnh Thành hoàng Chư vị Đại Vương, ngài Đông trù Tư mệnh Táo phủ Thần quân, ngài Bản gia Thổ Địa, Long Mạch, Tôn thần, các ngài Ngũ Phương, Ngũ Thổ, Phúc đức chính thần, các vị Tôn thần cai quản trong xứ này. Cúi xin các Ngài giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật, phù trì tín chủ chúng con toàn gia bình an, công việc hanh thông, lộc tài thăng tiến, tâm đạo mở mang, sở cầu tất ứng, sở nguyện tòng tâm. Giãi tấm lòng thành cúi xin được phù hộ độ trì và chứng giám. Nam Mô A Di Đà Phật! Nam Mô A Di Đà Phật! Nam Mô A Di Đà Phật!

VĂN KHẤN NGÀY RẰM THÁNG 10 ÂM LỊCH

– Con kính lạy Hoàng thiên hậu Thổ chư vị Tôn thần. – Con kính lạy ngài Bản cảnh Thành hoàng, ngài Bản xứ Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân cùng chư vị Tôn thần. – Con kính lạy Cao Tằng Tổ khảo, Cao Tằng Tổ Tỷ, Thúc Bá, Đệ Huynh, Cô Di, Tỷ Muội họ nội họ ngoại Tín chủ (chúng) con là:………………………………….Tuổi:……………… Ngụ tại:…………………………………………………………………………………. Hôm nay là ngày Rằm tháng 9, tín chủ chúng con thành tâm sắm lễ, hương hoa trà quả, thắp nén tâm hương dâng lên trước án. Chúng con kính mời ngài Bản cảnh Thành hoàng Chư vị Đại Vương, ngài Bản xứ Thần linh Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân, Ngũ phương, Long Mạch, Tài Thần. Cúi xin các ngài giáng lâm trước án chứng giám lòng thành thụ hưởng lễ vật. Chúng con kính mời các cụ Tổ Khảo, Tổ Tỷ, chư vị Hương linh gia tiên nội ngoại họ………………, cúi xin thương xót con cháu linh thiêng hiện về, chứng giám tâm thành, thụ hưởng lễ vật. Tín chủ con lại kính mời các vị Tiền chủ, Hậu chủ ngụ tại nhà này, đất này đồng lâm án tiền, đồng lai hâm hưởng. Xin các ngài độ cho chúng con thân cung khang thái, bản mệnh bình an. Bốn mùa không hạn ách, tám tiết hưởng vinh quang thịnh vượng. Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì. Phục duy cẩn cáo!

******************************

Các ngày lễ quan trọng trong tháng 10 âm lịch

Tháng 10 âm lịch ngoài cúng mùng một (1/10) và rằm (15/10) thì theo phong tục tập quán truyền thống sẽ có thêm ngày lễ hay Tết Trùng Thập (10/10) và lễ Hạ Nguyên (15/10) theo Phật Giáo thường được người dân tổ chức cúng lễ.

Về nguồn gốc xa xưa thì trong tháng 10 sẽ gồm có:

– Ngày Tết Trùng thập bao gồm: Tết Cơm mới và Tết Thầy thuốc tháng 10 tổ chức cúng lễ vào ngày 10/10.

– Ngày Lễ hay Tết Hạ Nguyên ngày lễ tháng 10 của Phật Giáo và theo phong tục diễn ra vào ngày 15/10 âm lịch hàng năm với mục đích răn dạy các phật tử làm điều thiện, tu tâm dưỡng tính.

Tết Trùng Thập, Hạ Nguyên là các ngày lễ tháng 10 âm âm lịch trọng đại

Do đó, các ngày lễ tháng 10 âm lịch có 3 ngày tết diễn ra trong hai ngày 10 hoặc 15 tháng 10 hàng năm. Tuy nhiên, các ngày lễ tháng 10 âm lịch ngày tương đối gần nhau và vì thế nhà nhiều người vẫn gộp ngày trùng thập vào ngày tết Hạ Nguyên. Hay nói cách khác có sự đồng nhất 2 ngày lễ lớn trong tháng 10 âm và thường hiểu Tết Thập (Tết Song Lập) là tết Hạ Nguyên, Tết cúng cơm mới, Tết các thầy thuốc. Vì thế mà có quan niệm có thể tổ chức các ngày lễ lớn trong tháng 10 âm này vào ngày 10 hoặc 15/10 hàng tháng mà không nhất thiết phải tổ chức vào đúng ngày theo nguồn gốc.

Các lễ hội đặc sắc trong tháng 10 âm lịch

Tháng 10 đang đến, mời du khách cùng tham gia một số Lễ hội đặc sắc như:

Lễ hội cúng trăng (Ook Oom Book)

Lễ hội có truyền thống lâu đời của bà con người dân tộc Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long, diễn ra trong đêm rằm tháng 10 ÂL hằng năm; cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng ruộng vườn được sinh sôi nẩy nở. Lễ cúng trăng được thực hiện trước sân nhà, trong khuôn viên chùa, hay một nơi rộng rãi trong phum sóc, không có bóng cây che khuất. Lễ vật là các loại sản vật trong mùa vụ tự sản xuất được, đặc biệt không thể thiếu là cốm dẹp.

Lễ vía bà Phi Yến

Vào trung tuần tháng 10 ÂL, nhân dân huyện Côn Đảo (tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu) lại long trọng tổ chức lễ giỗ bà Phi Yến – là vợ thứ của Vua Nguyễn Ánh. Lễ hội bắt đầu từ đêm 17/10; Ban tổ chức bày cúng các loại hoa quả, xôi, chè và đãi khách thập phương. Người dân cũng thành tâm cầu xin những điều tốt lành, sau đó tham gia các hoạt động văn nghệ, vui chơi được tổ chức ở đây.

Ngày 18/10, lễ giỗ chính thức bắt đầu. Lễ vật là hương hoa, bánh và ngũ quả được xếp thành từng mâm đẹp mắt. Sau phần tế lễ, nhân dân dự lễ và du khách sẽ được thưởng thức những món chay do nhân dân các khu dân cư quyên góp và thực hiện; cũng là để tưởng nhớ Bà đã bỏ mình trong một dịp lễ đàng chay tại làng An Hải.

Lễ giỗ bà Phi Yến mang ý nghĩa đặc biệt về văn hóa tinh thần của nhiều người dân Côn Đảo. Đây là một hoạt động văn hóa gắn với di tích, để những giá trị văn hóa của di tích An Sơn miếu cũng như những truyền thống tốt đẹp trong dân gian được lưu truyền mãi mãi.

Hội làng Nhị Khê

Hội diễn ra tại làng Nhị Khê, xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Nội; nhằm tưởng nhớ tới công ơn ông tổ nghề tiện gỗ thế kỷ 16 Doãn Văn Tài.

Vào ngày hội, thợ tiện ở các tỉnh kéo về rất đông. Tương truyền, dưới thời Vua Lê Chúa Trịnh, có một người tên là Đoàn Tài, từ nơi khác đến truyền nghề tiện cho dân làng. Từ đó dân chúng suy tôn cụ là tổ nghề tiện Nhị Khê và lấy ngày 25/10 ÂL hằng năm – ngày mất của cụ để tổ chức hội làng. Trong ngày hội, dân làng tổ chức tế tổ, cúng tế, dâng lễ vật lên tổ sư, đánh cờ, hát chèo.

Lễ hội đền Nguyễn Trung Trực

Lễ hội mở ngày 18-19 tháng 10 ÂL hằng năm ở xã Long Kiên, huyện Chợ Mới (An Giang) để tưởng niệm và ghi nhớ công lao của anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực.

Phần lễ cơ bản có các nghi thức cổ truyền bao gồm: lễ tế đàn cả, lễ tế cụ Nguyễn, lễ dâng hương… Phần hội với sự tham gia của các đoàn nghệ thuật với những tiết mục biểu diễn góp phần làm không khí lễ hội trở nên sôi động. Ngoài ra còn có các trò chơi dân gian, biểu diễn võ thuật, chơi cờ người, thi múa lân sư rồng, thi cộ hoa, thả hoa đăng trên dòng sông Kiên…

Kể từ năm 2003 trở đi, lễ hội đền Nguyễn Trung Trực được xem là một trong những sự kiện văn hóa lớn mang tầm cỡ quốc gia với nhiều hoạt động vui chơi giải trí đặc sắc, thu hút đông đảo du khách đến tham gia. Trước hội khoảng một tuần, hàng trăm người từ các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long đã kéo về đền cùng nhau sửa sang, lau chùi lại đền thờ, dựng trại, đắp lò nấu cơm… thành tâm như con cháu lo cúng giỗ cho ông bà.

Tổng hợp

Văn Tế Cúng Các Bác

Bài Cúng Cô Hồn, Bài Cúng Giỗ ông, Bài Cúng Giỗ Đầu, Bài Cúng Giỗ Bố, Bài Cúng Giỗ, Bài Cúng Phủ Tây Hồ, Bài Cúng Đổ Mái, Cung ứng Séc, Cúng Cầu Yên, Bài Cúng Gọi Hồn, Bài Cúng Hay, Cúng Đất Đầu Năm, Bài Cúng Xe Mới, Bài Cúng ông Nội, Bài Cúng ông Táo, Bài Cúng ông Thần Tài, Bài Cúng Phá Nhà Cũ, Thủ Tục Cúng 30 Tết, Bài Cúng Hết Khó, Van Cung Đau Nam, Cung Và Nửa Cung Đấu Hóa, Bài Cúng Dỗ, Cung-ey, Cung-eym-hoc-t, Bài Cúng Xin Lộc, Bài Cúng Xin Bán Nhà, Mẫu Cung ứng Sec, Cung-eym-hoc-tv, Bài Cúng Cơm, Bài Cúng Dỡ Nhà, Bài Cúng Dời Bếp, Thể Lệ ước Mơ Cùng Yan, Cúng Xóm, Bài Cúng Đầy Năm Cho Bé Gái, Bài Cúng Đầu Năm, Bài Cúng Yên Đầu Năm, Cung-e, Bài Cúng Đất, Bài Cúng Dọn Về Nhà Mới, Bài Cúng Ong Dia, Sáh Cung, Văn Tế Cúng ông Bà, Văn Tế Cúng ông Táo, Văn Tế Cúng Rằm, Bài Cúng ở Đền Mẫu, Văn Tế Cúng Xe, Mo U Xo Cu Cung, Văn Tế Cúng Xóm, Bài Cúng ở Mộ, Văn Tế Cúng Các Bác, Bài Cúng O Den, Văn Tế Cúng Đất Đầu Năm, Bài Văn Tế Cúng Đất, Văn Tế Cúng Đất, Văn Tế Cúng Đầu Năm, Cung Của Gạo, Văn Cúng Tạ Mộ, Cung Gạo, Văn Tế Cúng Cô Hồn Đầu Năm, Bài Cúng Mụ, Vai Trò Cung Cấp Dầu Mỏ Của Tây Nam á, Cúng, Bài Cúng Lễ Cất Nóc, Bài Cúng Lễ ăn Hỏi, Bài Cúng Lập Bàn Thờ Thần Tài, Bài Cúng Làm Nhà, Bài Cúng Làm ăn, Bài Cúng Kỵ Yên Đầu Năm, Thủ Tục Cúng 49, Bài Cúng Lễ Đầu Năm, Bài Cúng Lễ Đổ Mái Nhà, Bài Cúng Mời Về ăn Tết, Bài Cúng ở Nhà Thờ Họ, Bài Cúng ở Phủ Tây Hồ, Bài Cúng Ong Ba, Bài Cúng Mẫu, Văn Tế Cúng Xóm Đầu Năm, Thủ Tục Cúng ông Táo, Bài Cúng Lễ Tạ Đất, Bài Văn Cung Xom Dau Năm, Bài Cúng 12 Bà Mụ, Bài Cúng Vào Bếp Mới, Bài Cúng 30 Tết, Bài Cúng Xây Nhà, Bài Cúng 10/3, Bài Cúng Sao Mộc Đức, Bài Cúng 1 Tết, Bài Cúng Xe, Bài Cúng Sao, Bài Cúng Xe 16, Bài Cúng 01 Tết, Lễ Cúng 49, Bài Cúng Rẫy, Tóm Tắt Em Sẽ Đến Cùng Cơn Mưa, Bài Cúng Thần Tài, Mở 2 Văn Bản Cùng Lúc, Bài Cúng 49, Đề Tài Ung Thư Cổ Tử Cung, Sớ Cúng Đất, Bài Cúng Tam Tai,

Bài Cúng Cô Hồn, Bài Cúng Giỗ ông, Bài Cúng Giỗ Đầu, Bài Cúng Giỗ Bố, Bài Cúng Giỗ, Bài Cúng Phủ Tây Hồ, Bài Cúng Đổ Mái, Cung ứng Séc, Cúng Cầu Yên, Bài Cúng Gọi Hồn, Bài Cúng Hay, Cúng Đất Đầu Năm, Bài Cúng Xe Mới, Bài Cúng ông Nội, Bài Cúng ông Táo, Bài Cúng ông Thần Tài, Bài Cúng Phá Nhà Cũ, Thủ Tục Cúng 30 Tết, Bài Cúng Hết Khó, Van Cung Đau Nam, Cung Và Nửa Cung Đấu Hóa, Bài Cúng Dỗ, Cung-ey, Cung-eym-hoc-t, Bài Cúng Xin Lộc, Bài Cúng Xin Bán Nhà, Mẫu Cung ứng Sec, Cung-eym-hoc-tv, Bài Cúng Cơm, Bài Cúng Dỡ Nhà, Bài Cúng Dời Bếp, Thể Lệ ước Mơ Cùng Yan, Cúng Xóm, Bài Cúng Đầy Năm Cho Bé Gái, Bài Cúng Đầu Năm, Bài Cúng Yên Đầu Năm, Cung-e, Bài Cúng Đất, Bài Cúng Dọn Về Nhà Mới, Bài Cúng Ong Dia, Sáh Cung, Văn Tế Cúng ông Bà, Văn Tế Cúng ông Táo, Văn Tế Cúng Rằm, Bài Cúng ở Đền Mẫu, Văn Tế Cúng Xe, Mo U Xo Cu Cung, Văn Tế Cúng Xóm, Bài Cúng ở Mộ, Văn Tế Cúng Các Bác,