Văn Khấn Xin Xả Tang / Top 14 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Apim.edu.vn

Thời Gian Xả Tang, Xả Tang, Xa Tang,

Thời gian xả tang

✅Hiếu thảo hay không là ở nơi lòng người. Còn tang chế, cũng như các hình thức lễ nghi khác, tất cả chỉ là biểu lộ cho tấm lòng của con người .Quan trọng là việc hành xử của con người có theo đúng lễ giáo đạo đức hay không? Đó mới là điều quan trọng đáng nói. Do vậy xả tang có thể làm bất cứ lúc nào cũng được.

Lễ để tang là đang thi hành nhiệm vụ và bổn phận của sự buồn thương, nuối tiếc cũng là sự trả hiếu, trả ân nghĩa cho nhau trong một thời hạn cố định. Thời gian để tang và xả tang cũng tùy thuộc vào từng gia đình và phong tục mỗi nơi.  

Lễ xả tang

Lễ xa tang là thời hạn, nhiệm vụ và bổn phận để tang đã hoàn tất. Tùy theo sự liên hệ gần hay xa đối với người chết mà có sự ấn định thời hạn để tang

– Đại Tang: Là 3 năm (thực ra có 27 tháng ): Để Tang Tứ Thân Phụ Mẫu Và để Tang Vợ, Chồng – Tiểu Tang: Thì tính từng tháng cho đến tối đa là một năm như: Tang Anh Chị Em Ruột và Tang Họ Hàng Nội Ngoại

Đi vào chi tiết hơn về việc Để Tang, phải chăng khi đang Để Tang là đang tỏ lòng thương sót, đang đền bù, đang biết ơn, trả ơn, đang trả hiếu một cách vô cùng chân thành, nồng nhiệt.

- Của các con cháu hiếu hạnh đối với ông bà, cha mẹ, họ hang - Của những người vợ, người chồng có tình, có nghĩa - Của họ hàng, bạn bè tốt đối với người thân thương

Đồng thời cũng là:

- Của những người con, người cháu đã lỡ bất hiếu, bất mục, nay vì biến cố chết chóc này mà họ đang bắt đầu biết thương sót, biết ăn năn, hối hận đối với ông bà, cha mẹ, họ hàng… - Của những người vợ, người chồng đã lỡ bội bạc, xấu xa nay vì biến cố chết chóc này mà họ đã bắt đầu biết ăn năn, hối hận, sót thương nhau. – Và của tất cả những ai là người không tốt trong họ hàng, trong bạn bè v..v.. Nay vì biến cố chết chóc này họ cũng đã biết bắt đầu ân hận về cách cư xử không đẹp đối với người xấu số!   

Thời gian xả tang 

Xưa kia, con cháu phải để tang cho ông bà cha mẹ thời gian ít nhất là phải hai năm. Nghĩa là phải qua cái lễ giỗ đại tường, thì con cháu mới được xả tang. Và trong thời gian cư tang nầy, con cháu không được cưới hỏi, vì người ta cho rằng đó là điều không tốt. Cho nên, đối với người đang cư tang, họ kiêng cử đủ thứ.

Ngày nay, vì công việc làm ăn, học hành thi cử, hoặc cưới hỏi, hơn nữa phần lớn ảnh hưởng theo nếp sống của người Tây phương, nên vấn đề cư tang không trở nên gò bó theo tục lệ xưa. Phần nhiều là sau 49 ngày, tức xong cái lễ chung thất, thì người ta xin xả tang. Không có ai chịu cư tang cho qua cái lễ giỗ đầu. Có người còn xin xả tang liền, sau khi mai táng hoặc hỏa táng. Lý do là vì họ coi việc để tang là một việc không mấy may mắn trong những việc như: cưới hỏi, thi cử, khai trương cửa tiệm, hoặc đi xa v.v…  

Do đó, tục lệ cư tang tùy theo thời đại mà nó có sự thay đổi. Vì thế, tùy theo yêu cầu ý muốn của tang quyến mà chúng ta làm theo, thiết nghĩ, cũng không có gì là lỗi đạo sai trái. Vấn đề thời gian ngắn hay dài, lâu hay mau không thành vấn đề nữa. Thật ra hiếu thảo hay không là ở nơi lòng người. Còn tang chế, cũng như các hình thức lễ nghi khác, tất cả chỉ là biểu lộ cho tấm lòng của con người mà thôi. Điều quan trọng là việc hành xử của con người có theo đúng lễ giáo đạo đức hay không? Đó mới là điều quan trọng đáng nói. Có nhiều khi, ông bà cha mẹ mới chết, mà con cháu lại tranh chấp đấu đá tranh giành hơn thua với nhau, hoặc giả sát sanh hại vật cúng tế linh đình. Việc làm đó chỉ làm khổ cho người mới chết mà thôi, chứ không có ích lợi chi cả.  

Nếu là người Phật tử thì chúng ta nên cẩn thận việc làm nầy. Chúng ta phải hết lòng giúp cho hương linh của người mất chóng được siêu thoát. Việc cúng kiến ta nên hạn chế tối đa, chỉ làm theo lễ nghi đơn giản theo lời Phật dạy mà thôi. Nhất là không được sát sanh hại vật để cúng tế cho người mất. Vì như thế, người mất sẽ mang trọng tội khó mà siêu thoát. Tóm lại, chúng ta cứ làm theo ý muốn của họ, muốn xả tang lúc nào cũng được. Việc làm nầy không có gì chống trái hay có lỗi với người mất cả.

Nguồn : Sưu tầm  

Xả Tang Là Gì? Những Kiêng Kỵ Khi Chưa Xả Tang

Xả tang là gì?

Sau khi người thân trong gia đình vừa qua đời, người còn sống tổ chức tang lễ bày tỏ sự đau buồn, thương tiếc người đã mất. Thời điểm tổ chức tang lễ cho người vừa mất được gọi là phát tang.

Sau khi hoàn tất nghi lễ phát tang, người còn sống thực thi nhiệm vụ và bổn phận với người đã mất như thắp hương, thờ cúng,… Trong khoảng thời gian này được gọi là để tang. Sau khi hoàn thành các nhiệm vụ, bổn phận trong quá trình để tang thì tiến hành nghi lễ xả tang.

Lễ xả tang hay còn được gọi là lễ mãn tang, mục đích của nghi lễ này là thông báo với mọi người đã hết thời gian để tang người mất. Mong linh hồn của người mất sớm siêu thoát và phù hộ người còn sống được bình an và gặp nhiều may mắn.

Thời gian bao lâu có thể xả tang

Với cuộc sống hiện đại như ngày nay, số đông sẽ xả tang ngay sau khi hỏa tảng, chôn cất người mất. Hoặc xả tang sau khi cúng 49 ngày của người mất. Dù thời gian xả tang sớm hay trễ không phạm phải điều sai trái hay lỗi đạo. Bởi sự thành kính, lòng thành của người còn sống dành cho người mất là ở cái t âm. Theo một số quan niệm cho rằng, nghi thức để tang người mất ảnh hưởng rất nhiều đến công việc làm ăn kinh doanh.

Tùy theo mối quan hệ giữa người mất và người còn sống như thế nào mà thời gian để tang ấn định khác nhau. Thông thường theo tục lệ dân gian thì nghi lễ này được chia theo 2 hình thức cơ bản: đại tang và tiểu tang.

Đại tang là nghi lễ để tang lâu nhất, thường thời gian để tang người mất kéo dài đến 3 năm kể từ người thân qua đời. Dù tháng đủ hay tháng thiếu thì thời gian tính tròn ngày 3 năm kể từ ngày mất.

Tuy nhiên có một số gia đình lại chỉ để đại tang 27 tháng. Bởi họ cho rằng 1 năm ứng với 9 tháng (ứng với thời gian mang thai), 3 năm ứng với 27 tháng. Những người để tang thường có mối quan hệ gần gũi, huyết thống với người mất. Người thuộc diện để tang như con cái để tang cha mẹ ruột, cha mẹ nuôi, hoặc vợ để tang chồng,..

Tiểu tang có thời gian để tang ngắn hơn so với đại tang, tối đa là 1 năm. Với tiểu tang được chia thành 4 bậc, tùy theo hoàn cảnh mỗi gia đình mà chọn thời gian để và xả tang thích hợp.

– Cơ niên: Đây là nghi lễ để tang tròn 1 năm kể từ người thân qua đời. Xả tang sau 1 năm ngày mất của người thân nhằm tưởng nhớ người mất. Mong muốn linh hồn của người mất ra đi thanh thản và phù hộ người còn sống được bình an và gặp nhiều may mắn.

– Đại công: thời gian để tang ngắn hơn so với cơ niên, tầm 9 tháng kể từ người thân qua đời. Những người thuộc diện chịu tang 9 tháng như cha mẹ để tang cho con dâu thứ hoặc con gái đã lấy chồng. anh chị em họ hàng để tang cho nhau.

– Tiểu công: Nghi lễ này được tổ chức sau khi người thân qua đời được 5 tháng. Người thuộc diện chịu tang 5 tháng là con cái để tang mẹ ghẻ, cha dượng, chị em họ hàng đã lấy chồng để tang cho nhau.

– Ti ma: hình thức chịu tang ngắn nhất, chỉ có 3 tháng sau khi hoàn tất nghi thức phát tang cho người mất. Người chịu tang 3 tháng này thường là cha mẹ để tang cho con rể, con cô, cậu, dì, … để tang cho nhau.

Những điều kiêng kỵ khi chưa xả tang

– Không nên tiến hành cưới hỏi, hôn nhân đại sự. Vốn cưới hỏi là chuyện vui, đáng mừng. Tuy nhiên gia đình trong cảnh chịu tang thì tuyệt đối không tiến hành lễ cưới. Điều này ảnh hưởng đến hạnh phúc tương lai của đôi trẻ.

– Tránh khai trương, xây nhà. Khai trương cửa hàng mới vốn là tin mừng, đáng vui nhưng tiệc mừng này tổ chức trong thời gian để tang thì không hay chút nào. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến công việc làm ăn, kinh doanh. Nhẹ thì gia đạo bất hòa, tiền của vật chất tiêu pha. Nặng thì sức khỏe giảm sút, nguy hiểm đến tính mạng, cái chết.

– Tuyệt đối không mang thai, sinh con khi chưa xả tang. Điều này khiến con cái sinh ra hay quấy khóc, chậm lớn và kém thông minh. Thậm chí còn xảy ra nguy cơ sảy thai, sinh non hoặc yểu mệnh, chết sớm.

Qua bài viết bên trên, chắc hẳn bạn đã biết xả tang là gì rồi phải không? Đây là một nghi lễ bày tỏ lòng thành, sự thương nhớ về người thân đã mất. Mong linh hồn người mất sớm siêu thoát và phù hộ người còn sống gặp nhiều may mắn và bình an trong cuộc sống.

Xả Tang Là Gì? Thời Gian Để Tang Là Bao Lâu?

Để tang, xả tang hay các nghi lễ tang chế khác đều nhằm mục đích bày tỏ tấm lòng, thể hiện sự đau buồn, nhớ thương người đã mất. Ngoài việc để tang là nghi lễ vô cùng quan trọng, việc xả tang cũng có ý nghĩa quan trọng không kém. Xả tang là gì, bao lâu thì được xả tang, tất cả sẽ được lí giải tại bài viết sau đây.

Thời điểm mà một người qua đời, gia đình, anh em, họ hàng bày tỏ sự tiếc nuối được gọi là phát tang. Sau thời điểm đó là quãng thời gian gia đình người đã khuất tiến hành việc tổ chức tang lễ, thực thi nhiệm vụ và bổn phận của người còn sống dành cho người đã mất trong một thời gian cố định được gọi là để tang. Xả tang chính là thời điểm hoàn tất mọi nhiệm vụ và bổn phận để tang.

Lễ xả tang thường hay được biết đến với tên gọi khác là cúng mãn tang. Đây là một buổi lễ được tiến hành với mục đích thông báo cho mọi người về việc hết thời gian để tang của gia đình đối với người đã mất. Ngoài ra, cúng mãn tang đôi khi còn được xem như một nghi thức tưởng niệm người đã khuất, cầu xin người thân đã mất phù hộ.

Hòa thượng Thích Phước Thái trong quyển 100 câu hỏi Phật Pháp đã chỉ ra rằng việc để tang, xả tang không phải là tục lệ của Phật giáo mà bắt nguồn từ Trung Quốc. Hơn 1000 năm Bắc Thuộc, văn hóa, tư tưởng Trung Hoa đã ảnh hưởng nhiều đến đời sống tinh thần của người Việt, hình thành một số phong tục tập quán lễ nghi khác nhau. Đặc biệt là trong thời kì ba nguồn văn hóa Nho, Phật, Lão được truyền bá vào nước ta.

Theo tư tưởng của Nho giáo cho rằng con người phải lấy hiếu thuận làm đầu và quan niệm “sự tử như sự sanh” – khi sống thế nào thì lúc chết cũng phải như thế ấy. Việc để tang và các lễ nghi tang chế khác đều nhằm mục đích bày tỏ lòng hiếu thảo của người còn sống dành cho người đã khuất. Tư tưởng này phù hợp với đời sống tinh thần của người Việt nên đã được duy trì trong suốt thời gian qua và trở thành một trong những phong tục tập quán lâu đời.

Gia đình để tang bao lâu thì có thể tiến hành nghi thức xả tang? Tùy vào mối quan hệ giữa người còn sống và người đã mất mà thời gian để tang sẽ được ấn định khác nhau. Thông thường theo tục lệ sẽ có hai hình thức là đại tang và tiểu tang, gồm tất cả 5 bậc còn được gọi là ngũ phục.

Đại tang có thời gian để tang khá lâu, thông thường sẽ là 3 năm trước khi tiến hành nghi thức cúng mãn tang. Thực tế hiện nay nhiều gia đình chỉ để đại tang trong thời gian 27 tháng, có thể lí giải vì họ lấy thời gian mang thai 9 tháng để tính 1 năm, 3 năm là 27 tháng. Tuy nhiên, điều này chưa có căn cứ rõ ràng, việc giải thích này cũng chỉ dựa trên sự truyền miệng của người Việt ta mà thôi.

Thông thường, đây là thời gian để tang của những người có mối quan hệ gần gũi nhất với người đã mất. Có thể kể đến những đối tượng như con cái để tang cha mẹ ruột, cha mẹ nuôi; dâu để tang cha mẹ chồng; cháu đích tôn thay cha (trong trường hợp người cha đã qua đời) để tang ông bà.

Vợ để tang chồng cũng được xếp vào loại đại tang do ảnh hưởng bởi tư tưởng “trọng nam khinh nữ” của lễ giáo phong kiến.

Tiểu tang có thời gian để tang ít hơn đại tang, tối đa là 1 năm và chia làm 4 bậc, chi tiết như sau:

Cơ niên là thời gian để tang 1 năm. Những đối tượng sau sẽ chịu tang 1 năm thường là cha mẹ để tang con trai, dâu trưởng, con gái chưa lấy chồng; con rể để tang cha mẹ vợ; anh chị em để tang cho nhau; con cháu để tang cho ông bà; chồng để tang vợ;…

Đại công: ít hơn thời gian để tang của cơ niên, những đối tượng xếp vào nhóm đại công chỉ để tang trong vòng 9 tháng. Cụ thể là cha mẹ để tang con dâu thứ, con gái đã lấy chồng; anh chị em họ hàng để tang cho nhau; chị em ruột đã lấy chồng để tang cho người đã mất.

Tiểu công: sau khi để tang người đã mất được 5 tháng có thể tiến hành nghi thức cúng mãn tang, thường dành cho các mối quan hệ như con để tang cha mẹ ghẻ, anh chị em họ hàng đã đi lấy chồng để tang cho nhau,…

Ti ma là hình thức để tang ít nhất, chỉ có 3 tháng sau tang lễ. Thường thấy là cha mẹ để tang con rể; con cô, cậu, dì để tang cho nhau,…

Hiện nay, cuộc sống ngày một hiện đại hơn, việc để tang, xả tang và các vấn đề khác cũng không còn được giữ đúng như thuở ông bà ta. Ngày xưa, con cháu trong gia đình phải qua lễ giỗ đại tường, tức qua 2 năm mới được mãn tang. Nhưng ngày nay vì nhiều lí do khách quan khác nhau, sau khi cúng 49 ngày hoặc sau khi hỏa táng có người đã xin cúng xả tang.

Nhưng đây cũng không phải điều sai trái, lỗi đạo, tùy theo yêu cầu của gia quyến mà có chịu tang ngắn hoặc dài. Suy cho cùng vấn đề hiếu thảo là nằm ở tâm, ở tấm lòng của con người. Lễ nghi cũng chỉ là một trong những hình thức thể hiện tấm lòng đó mà thôi.

Nhiều người cho rằng tang lễ là việc không may mắn cho nên khi chưa đến hạn xả tang, cần chú ý những vấn đề sau.

Cưới hỏi, hỉ sự là một trong những chuyện vui của đời người. Tuy nhiên, khi chưa hết thời gian để tang, gia đình thân quyến người đã mất tránh việc tổ chức đám cưới đám hỏi.

Việc tổ chức đám cưới trong thời gian này được xem là không may mắn và bị đánh giá là không có sự tôn trọng, thành kính, tiếc nuối đối với sự ra đi của người thân. Nếu vì lí do khách quan phải tổ chức đám cưới thì cần chú ý không được tổ chức quá lớn, quá náo nhiệt.

Việc tổ chức đám cưới trong thời gian này được xem là không may mắn và bị đánh giá là không có sự tôn trọng, thành kính, tiếc nuối đối với sự ra đi của người thân. Nếu vì lí ado khách quan phải tổ chức đám cưới thì cần chú ý không được tổ chức quá lớn, quá náo nhiệt.

Ngoài ra, người đang phải chịu tang người thân cũng không nên tổ chức khai trương. Tuy nhiên vì công việc và cuộc sống, nhiều người không thể đợi hết thời gian chịu tang được. Trong trường hợp này có thể mời thầy về cúng xả tang sau 49 ngày của người đã mất.

Vấn Đề Xả Tang Theo Ý Muốn?

Hỏi: Kính thưa thầy, chúng con thường đi hộ niệm thấy có nhiều trường hợp con cháu của người mất, sau khi chôn cất hoặc hỏa táng xong, thì họ muốn xả tang ngay. Vì họ cho rằng để tang sẽ không được may mắn. Như vậy, thì mình có nên xả tang theo ý muốn của họ hay không?

Đáp: Theo tôi, nếu họ muốn xả tang ngay thì mình cứ xả tang cho họ không có gì trở ngại. Thật ra vấn đề cư tang, phải nói rõ, đây không phải là tục lệ của Phật giáo bày ra. Tục lệ nầy bắt nguồn từ người Trung Hoa. Vì người Trung Hoa đã có mặt lâu đời trên đất nước Việt Nam. Căn cứ theo sử liệu cho biết, thì họ đã xâm chiếm và cai trị đất nước Việt Nam ta trải dài có cả một ngàn năm. Thường người ta hay gọi là một ngàn năm Bắc thuộc. Do đó, nên những phong tục tập quán lễ nghi của họ, tất nhiên, là người mình đã chịu ảnh hưởng rất sâu đậm. Hơn nữa, trong thời kỳ Tam giáo đồng nguyên: Nho, Phật và Lão, cả ba nguồn văn hóa nầy đều có sự sinh hoạt trộn lẫn hòa quyện với nhau một cách rất chặt chẽ khắng khít.

Vì thế, nên việc cư tang đây là theo tập tục văn hóa của Nho giáo. Theo Nho giáo chủ trương, thì con người phải lấy việc hiếu thảo làm đầu. “Thiên kinh vạn quyển hiếu nghĩa vi tiên”. Nghĩa là ngàn quyển kinh hay vạn quyển sách đều phải lấy việc hiếu nghĩa làm trước. Cho nên, người ta cư tang với mục đích là để bày tỏ nỗi lòng hiếu thảo của những người còn sống đối với người đã chết. Vì họ quan niệm “sự tử như sự sanh”. Nghĩa là lúc còn sống đối xử với nhau như thế nào, thì khi chết cũng phải đối xử như thế ấy. Xét thấy, việc chủ trương lấy đạo hiếu làm nền xây dựng đạo đức nhân bản, nó rất phù hợp với nền văn hóa của dân ta. Nên từ đó, người mình mới bắt chước làm theo. Và cũng từ đó, nó trở thành một phong tục tập quán lâu đời và truyền mãi cho đến hôm nay. Phải nói, vấn đề cư tang, với thâm ý là người ta muốn biểu lộ tấm lòng chân thành của người còn sống, hằng nhớ đến thâm ân của người đã khuất. Nhưng việc cư tang nầy, hiện nay, người ta không còn giữ đúng như tục lệ ngày xưa nữa.

Xưa kia, con cháu phải để tang cho ông bà cha mẹ thời gian ít nhất là phải hai năm. Nghĩa là phải qua cái lễ giỗ đại tường, thì con cháu mới được xả tang. Và trong thời gian cư tang nầy, con cháu không được cưới hỏi, vì người ta cho rằng đó là điều không tốt. Cho nên, đối với người đang cư tang, họ kiêng cử đủ thứ. Ngày nay, vì công việc làm ăn, học hành thi cử, hoặc cưới hỏi, hơn nữa phần lớn ảnh hưởng theo nếp sống của người Tây phương, nên vấn đề cư tang không trở nên gò bó theo tục lệ xưa. Phần nhiều là sau 49 ngày, tức xong cái lễ chung thất, thì người ta xin xả tang. Không có ai chịu cư tang cho qua cái lễ giỗ đầu. Có người còn xin xả tang liền, sau khi mai táng hoặc hỏa táng xong. Lý do là vì họ coi việc để tang là một việc không mấy may mắn trong những việc như: cưới hỏi, thi cử, khai trương cửa tiệm, hoặc đi làm ăn ở phương xa v.v…

Do đó, tục lệ cư tang tùy theo thời đại mà nó có sự thay đổi. Vì thế, tùy theo yêu cầu ý muốn của tang quyến mà chúng ta làm theo, thiết nghĩ, cũng không có gì là lỗi đạo sai trái. Vấn đề thời gian ngắn hay dài, lâu hay mau không thành vấn đề nữa. Thật ra hiếu thảo hay không là ở nơi lòng người. Còn tang chế, cũng như các hình thức lễ nghi khác, tất cả chỉ là biểu lộ cho tấm lòng của con người mà thôi. Điều quan trọng là việc hành xử của con người có theo đúng lễ giáo đạo đức hay không. Đó mới là điều quan trọng đáng nói. Có nhiều khi, ông bà cha mẹ mới chết, mà con cháu lại tranh chấp đấu đá tranh giành hơn thua với nhau, hoặc giả sát sanh hại vật cúng tế linh đình. Việc làm đó chỉ làm khổ cho người mới chết mà thôi, chớ không có ích lợi chi cả!

Nếu là người Phật tử thì chúng ta nên cẩn thận việc làm nầy. Chúng ta phải hết lòng giúp cho hương linh của người mất chóng được siêu thoát. Việc cúng kiến ta nên hạn chế tối đa, chỉ làm theo lễ nghi đơn giản theo lời Phật dạy mà thôi. Nhất là không được sát sanh hại vật để cúng tế linh đình cho người mất. Vì như thế, người mất sẽ mang trọng tội khó mà siêu thoát vậy.

Tóm lại, chúng ta cứ làm theo ý muốn của họ, muốn xả tang lúc nào cũng được. Theo tôi, việc làm nầy không có gì là chống trái hay có lỗi với người quá cố cả.