Văn Khấn Phật Khi Đi Chùa / Top 10 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Apim.edu.vn

Chi Tiết Bài Văn Khấn Khi Đi Chùa Ba Vàng – Văn Khấn Đi Chùa

Chùa (đền, miếu,..) là nơi sinh hoạt tín ngưỡng của cộng đồng người Việt từ rất lâu đời. Theo phong tục cổ truyền thì người Việt trong các ngày mùng 1, ngày rằm hay ngày lễ tết, hoặc những ngày trọng đại thường đến chùa cầu khấn. Nhờ vào nghiệp lực vô biên của Phật, Bồ Tát đại bi và Hiền Thánh mọi việc người trần cầu khấn đều có thể trở thành hiện thực.

Những điều trong văn khấn đi chùa của mọi người thường là cầu duyên, cầu may, cầu sức khỏe, cầu sống lâu, cầu tai qua nạn khỏi, cầu yên vui thân mệnh, cầu gia đình hạnh phúc hoặc cho thế giới mãi hòa bình,… Mọi ước vọng thể hiện trong các bài văn khấn sẽ có thể đến với người ở thế giới bên kia và mang đến những ý nghĩa tâm linh trong đời sống người đang sống.

Mỗi vị, mỗi ban là có cách khấn khác nhau. Chính vì thế nhiều người không khỏi băn khoăn cách khấn khi đi chùa như thế nào là chuẩn hay bài văn khấn khi đi chùa là gì? Để trả lời cho băn khoăn này thì bạn nên xác định những mong muốn, những điều muốn cầu xin và khấn theo văn khấn đi chùa với lòng thành tâm nhất.

Nội dung bài văn khấn đi chùa Ba Vàng

Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần, 3 lạy)

Kính lạy Đức Ông Tu Đạt Tôn Giả, Thập Bát Long Thần, Già Lam Chân Tể.

Hôm nay là ngày ….. tháng ….. năm …..

Tín chủ con là …………………………………………………………………………………….

Ngụ tại ………………………………………………………………………………………………

Cùng cả gia đình thân tới cửa chùa …………………………….

trước điện Đức Ông, thành tâm kính lễ, (nếu có đang lễ vật thì khấn thêm “hiến dâng phẩm vật, kim ngân tịnh tài”), chúng con tâu lên Ngài Tu Đạt Tôn Giả từ cảnh trời cao soi xét.

Chúng con kính tâu lên Ngài Già Lam Chân Tể cai quản trong nội tự cùng các Thánh Chúng trong cảnh chùa đây.

Thiết nghĩ chúng con sinh nơi trần tục, nhiều sự lỗi lầm, hôm nay tỏ lòng thành kính, cúi xin Đức Ông thể đức hiếu sinh, rủ lòng tế độ che chở cho chúng con, ba tháng hè chín tháng đông, tiêu trừ bệnh tật tai ương, vui hưởng lộc tài may mắn, cầu gì cũng được, nguyện gì cũng thành.

Chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin được phù hộ độ trì.

Nam mô A-di-đà Phật (3 lần, 3 lạy)

Cách sắm lễ khi đi chùa

– Khi đi dâng hương tại chùa chỉ sắm lễ chay.

Ví dụ như: hoa, quả, oản phẩm, xôi chè, hương,… không nên sắm đồ ăn mặn như thịt, giò, chả,…

Bởi quan niệm của người xưa cho rằng sắm đồ mặn sẽ chỉ được chấp nhận nếu khu vực của chùa có vị Thánh, Mẫu. Không dâng đồ ăn mặn ở khu vực Phật điện có nghĩa là những thờ tự chính ở các ngôi chùa.

– Không nên sắm tiền âm phủ hay đồ vàng mã để dâng lễ Phật ở chùa.

Nếu sắm những lễ vật này rồi thì bạn nên đặt ở bàn thờ Thánh Mẫu, Thần Linh hoặc bàn thờ Đức Ông. Tại ban thờ Phật, Bồ Tát (ở chính điện) kiêng tiền âm phủ, đồ hàng mã và ngay cả tiền thật. Tiền thật có thể cho vào hòm công đức của chùa.

– Loại hoa dâng lễ Phật là hoa huệ, hoa mẫu đơn, hoặc hoa sen,… không nên dùng hoa dại.

Ngoài ra trước khi dâng hương lễ Phật ở Chùa cần chay tịnh như kiêng giới, làm việc thiện, ăn chay,…

Lễ vật khi đi chùa trong các ngày cầu siêu cho ông bà, cha mẹ thậm chí là cô hồn vào rằm tháng 7 tại chùa thì sắm những đồ đặc trưng như: đồ hàng mã mũ, áo, xe,… nhưng tuyệt đối không sắm hình nhân thế mạng. Cúng chúng sinh không thể thiếu cháo lá đa, bánh đa, khoai,… Những lễ vật này đều dâng lên bàn thờ Đức Thánh chứ không dâng Phật. Còn nếu gia đình muốn cầu siêu thì nên hỏi qua chỉ dẫn của các vị tăng trụ của chùa.

Trình tự thực hiện khi đi lễ chùa chuẩn xác nhất

Bước : Đặt lễ vật đã sắm lên bàn thờ Đức Ông

Sắm sửa lễ vật đúng theo quy định, thắp hương và làm lễ tại ban thờ Đức Ông trước.

Bước 2: Đặt lễ lên hương án của chính điện

Sau khi hoàn tất việc đặt lễ ở ban Đức Chúa xong, đặt lễ lên hương án của chính điện. Tại đây thắp đèn nhang, thỉnh theo 3 hồi chuông rồi làm lễ chư Phật, Bồ Tát.

Bước 3: Thắp hương ở tất cả các ban thờ khác

Tiếp đó đi thắp hương ở tất cả các ban thờ khác của nhà Bái Đường. Lưu ý khi thắp hương đều có 3 hoặc 5 lễ. Trong trường hợp điện thờ Mẫu, Tứ Phủ thì đặt lễ, dâng hương tại đó và cầu những ý nguyện thành tâm.

Bước 4: Lễ nhà thờ tổ hay còn được gọi là nhà Hậu

Bước 5: Tạ lễ

Bài Văn Khấn Khi Đi Chùa Đầu Năm

Cách sắm sửa lễ đi chùa đầu năm

Việc sửa soạn, sắm lễ vật để đi lễ chùa đầu năm đều có những quy định mà người hành lễ phải tuân thủ là:

Đến dâng hương tại các chùa chỉ được sắm lễ chay: hương, hoa tươi, quả chín, oản phẩm, xôi chè… Không được sắm sửa lễ mặn chư cỗ tam sinh trâu, dê, lợn, thịt mồi, gà, giò, chả…

Việc sắm sửa lễ mặn chỉ có thể được chấp nhận nếu như trong khu vực chùa có thờ tự các vị Thánh, Mẫu và chỉ dâng ở đó mà thôi. Tuyệt đối không được dâng đặt lễ mặn ở khu vực Phật điện chính điện, tức là nơi thờ tự chính của ngôi chùa.

Không nên sắm sửa vàng mã, tiền âm phủ để dâng cúng, lễ Phật tại chùa. Nếu có sửa lễ này thì chủ đặt ở bàn thờ thần linh, Thánh Mẫu hay ở bàn thờ Đức Ông.

Tiền giấy âm phủ hay hàng mã kiêng đặt ở ban thờ Phật, Bồ tát và tiền thật cũng không nên đặt lên hương án của chính điện. Tiền, vàng công đức nên để vào hòm công đức đặt tại chùa.

Hoa tươi lễ phật là: Hoa sen, hoa huệ, hoa mẫu đơn, hoa ngâu, hoa cúc… không nên dùng các loại hoa tạp, hoa dại.

Trước ngày dâng hương lễ Phật ở chùa cần chay tịnh trong đời sống sinh hoạt ngày thường: ăn chay, kiêng giới, làm việc thiện.

Cách bày lễ ở các ban

Ở chùa thì ban to nhất bao giờ cũng ở chính giữa. Nhà chính là ban Tam Bảo thờ phật, khi đặt lễ ở ban này để cúng dường chư phật thì đầy đủ nhất phải gòm 5 món: hương – nến – hoa – quả – nước.

Trong trường hợp không chuẩn bị được hết như vậy thì cũng không sao, cúng dường chư phật bằng tấm lòng thành chân thật. Tuyệt đối không để tiền, vàng, bao gồm cả tiền thật lên ban Tam Bảo.

Tiền thật nên để trực tiếp vào hòm công đức coi như đó là tiền cúng dường. Tuyệt đối không cúng đồ lễ mặn trong chùa, kể cả để ở ban Đức Ông.

Về thắp hương thì có thể thắp 3 nén nhưng thường giờ không cho thắp bên trong chùa vì lí do an toàn, nên cứ thắp chung ở lư hương to đặt trước cửa chùa, rồi sau đó đi từng ban khấn.

Cũng không quá quan trọng thắp nhiều hương hay ít hương, nhiều khi kể cả 1 nén cũng không sao cả. Chỉ cần chú ý ban Tam Bảo thờ phật bao giờ cũng là to nhất nên nếu có chuẩn bị nhiều đồ lễ để bày các ban thì nên ưu tiên sắp sửa cho ban Tam Bảo đẹp và trang trọng nhất.

Thậm chí nếu không muốn cầu kỳ chỉ cần sắp một đĩa hương hoa quả để duy nhất ở ban Tam Bảo.

Văn khấn thì khi đi lễ chùa đầu năm

Phật tử nên sử dụng các bài văn khấn để hồi hướng cho người thân, người mất được siêu sinh Tây phương cực lạc, người sống được mạnh khỏe, an lạc, biết đến phật pháp tăng, tin sâu Phật pháp như sau:

Văn khấn Đức Ông – Đức Chúa Ông (Tôn giả Tu-đạt):

Văn Khấn Đức Ông Khi Đi Chùa Chuẩn Nhất

Vào các dịp lên chùa dâng lễ, đầu tiên các Phật tử phải tới đặt lễ vật và thắp hương tại ban thờ Đức Ông. Vậy Đức Ông là ai và đọc văn khấn Đức Ông như nào cho đúng?

Đức Ông

Đức Ông là hình tượng được thờ phụng tại tất cả các chùa viện Phật giáo ở Việt Nam. Đức Ông hiệu là Cấp-Cô-Độc (Anathapindika) nghĩa là “người chu cấp hết thảy cho những kẻ cô đơn, nghèo khổ, bệnh tật”, vì vậy mà ông được các Phật tử sùng bái, thường cầu nguyện để xin công danh, tài lộc và con cái.

Truyền thuyết kể rằng, Đức Ông từng là một Phật tử mộ đạo, một doanh nhân vô cùng giàu có, đồng thời là một con người có trái tim nhân hậu, tấm lòng vị tha nổi tiếng khắp vùng. Ông từng dùng vàng bạc và châu báu rải khắp vườn thái tử Kỳ Đà để xin thái tử nhượng lại mảnh đất cho nhà Phật xây chùa. Vì vậy mà công đức của ông đối với Phật pháp là vô cùng lớn lao. Về mặt trí huệ, ông có thể nhìn thấu vạn vật trên thế gian để thấy được tài bảo, kho báu, rồi lại dùng tài sản đó để cúng dường Tam bảo, bố thí cho kẻ khốn cùng.

Khi đi vào chùa, ban thờ Đức Ông luôn được đặt ở bên trái, chúng ta luôn đi bên trái trước để tới ban Đức Ông làm lễ, thắp hương cảm tạ công lao của ông đã đóng góp xây chùa, tạc tượng. Người túng thiếu, nghèo khổ cũng có thể tới ban Đức Ông khấn cầu, ông cũng tùy duyên mà toại nguyện cho chúng sinh.

Văn khấn Đức Ông

Nam mô A Di Đà Phật!

Nam mô A Di Đà Phật!

Nam mô A Di Đà Phật!

Kính lạy Đức Ông Tu Đạt Tôn Giả, Thập Bát Long Thần, Già Lam Chân Tể.

Hôm nay là ngày ….. tháng ….. năm …..

Tín chủ con là …………………………………

Ngụ tại …………………………………………..

Cùng cả gia đình thân tới cửa Chùa …..trước Ban Đức Ông, thành tâm kính lễ, hiến dâng phẩm vật, kim ngân tịnh tài. Chúng con tâu lên Ngài Tu Đạt Tôn Giả từ cảnh trời cao soi xét.

Chúng con kính tâu lên Ngài Già Lam Chân Tể cai quản trong nội tự cùng các Thánh Chúng trong cảnh nhà Chùa.

Thiết nghĩ: Chúng con sinh nơi trần tục, nhiều sự lỗi lầm, hôm nay tỏ lòng thành kính, cúi xin Đức Ông thể đức hiếu sinh, rủ lòng tế độ che chở cho chúng con, tiêu trừ bệnh tật tai ương, vui hưởng lộc tài may mắn, cầu gì cũng được, nguyện gì cũng thành.

Dãi tấm lòng thành, cúi xin bái thỉnh.

Nam mô A Di Đà Phật!

Nam mô A Di Đà Phật!

Nam mô A Di Đà Phật!

Nguồn: Văn khấn cổ truyền – NXB Văn Hóa Thông Tin.

Cách Khấn Vái Khi Đi Chùa Chùa Đúng Cách

Vái: Vái lạy thường được áp dụng ở thế đứng, nhất là trong dịp lễ ở ngoài trời. Ở Chùa nhiều nơi cấm khách thập phương châm hương trong chùa, mà chỉ cho thắp ở vạc hoặc lư hương to để ở ngoài cửa.

Vái thay thế cho lạy trong trường hợp này. Vái là chắp hai bàn tay lại để trước ngực rồi đưa lên ngang đầu, hơi cúi đầu và khom lưng xuống rồi sau đó ngẩng lên, đưa hai bàn tay xuống lên theo nhịp lúc cúi xuống khi ngẩng lên. Số lượng lần vái thường là lẻ, phổ biến nhất là 3 vái hay 5 vái.

Lạy: Lạy là hành động bày tỏ lòng tôn kính chân thành với tất cả tâm hồn và thể xác. Có hai thế lạy: thế lạy của đàn ông và thế lạy của đàn bà. Có bốn trường hợp lạy: 2 lạy, 3 lạy, 4 lạy, và 5 lạy. Mỗi trường hợp đều mang ý nghĩa khác nhau. Việc lạy được thực hiện trước Tam bảo.

Cách lạy như sau:

Đứng thẳng theo thế nghiêm, chắp hai tay trước ngực và giơ cao lên ngang trán, cúi mình xuống, đưa hai bàn tay đang chắp xuông gần tới mặt chiếu hay mặt đất thì xòe hai bàn tay ra đặt nằm úp xuống (hoặc ngửa), đồng thời quì gối bên trái rồi gối bên phải xuống đất (tùy có thể phải hoặc trái theo thói quen của mỗi người), và cúi rạp đầu xuống gần hai bàn tay theo thế phủ phục.

Sau đó cất người lên bằng cách đưa hai bàn tay chắp lại để lên đầu gối trái lúc bấy giờ đã co lên và đưa về phía trước ngang vối đầu gốỉ chân phải đang quì để lấy đà đứng dậy, chân phải đang quì cũng theo đà đứng lên để cùng với chân trái đứng ở thế nghiêm như lúc đầu. Số lần lạy là số lẻ: 3,5,7,9. Khi lạy xong thì vái ba vái rồi lui ra. Về việc xòe bàn tay úp hay ngửa là tùy người lạy, cũng chưa có một tiền lệ nào “bắt buộc” phải úp hay ngửa lòng bàn tay.

Cách lạy nêu trên hiện nay chỉ có các bậc cao niên áp dụng thường trong dịp lễ, vì khá cầu kỳ.

Cách lạy khác (thế phủ phục) thường được các nhà sư thực hiện: đưa hai tay chống xuống ngay mặt đất, đồng thòi quì hai đầu gối xuống luôn; khi đứng dậy đẩy hai bàn tay lấy thế đứng hẳn lên mà không cần phải để tay tỳ lên đầu gối.

Với phụ nữ hoặc với người bị đau đầu gối thì có cách phổ biến như sau: ngồi bệt xuống đất để hai cẳng chân vắt chéo về phía trái, bàn chân phải ngửa lên để ở phía dưới đùi chân trái. Nếu mặc áo dài thì kéo tà áo trước trải ngay ngắn về phía trước và kéo vạt áo sau về phía sau để che mông cho đẹp mắt. Sau đó, chắp hai bàn tay lại để ở trước ngực rồi đưa cao lên ngang vói tầm trán, giữ tay ở thế chắp đó mà cúi đầu xuống. Khi đầu gần chạm mặt đất thì đưa hai bàn tay đang chắp đặt nằm úp xuống đất và để đầu lên hai bàn tay. Giữ ở thế đó độ một hai giây, rồi dùng hai bàn tay đẩy để lấy thế ngồi thẳng lên đồng thời chắp hai bàn tay lại đưa lên ngang trán như lần đầu. Cứ theo thế đó mà lạy tiếp cho đủ số lạy cần thiết. Lạy xong thì đứng lên và vái ba vái rồi lui ra là hoàn tất thế lạy.

Phật giáo Việt Nam thường lạy theo phương cách ngũ thể đầu địa (hai tay, hai chân và cái đầu đụng mặt đất). Đây là một phương cách lạy tôn kính nhất trong tất cả các cung cách lễ lạy, thể hiện lòng biết ơn và niềm tôn kính với Tam Bảo

Vái lạy bao nhiêu lần là đủ

Khi đi lễ Phật, ta lạy 3 lạy.

Theo giáo lý của đạo Phật thì ba cái lạy chính là lễ lạy ba ngôi Tam Bảo: Phật, Pháp và Tăng, có năng lực dẫn dắt con người thoát khỏi mọi phiền não và ra khỏi sinh tử luân hồi.

Đức Phật là người đã giác ngộ và giải thoát hoàn toàn. Ngài là một bậc đạo sư, một người chỉ lối dẫn đường cho mọi chúng sinh thoát khỏi sinh tử luân hồi. Vì thế người Phật tử lạy cái lạy đầu tiên là để tỏ lòng thành kính, ngưỡng mộ và nhớ ơn Phật đồng thời là thề nguyện sẽ theo gương Ngài mà tu hành để về bến giác.

Pháp là những lời Phật dạy các đệ tử, sau đó được ghi bằng chữ, gọi là Kinh và Luật. Vì thế người Phật tử lạy cái lạy thứ hai là lạy Pháp Bảo nhằm bày tỏ lòng thành kính, biết ơn và tưởng nhớ đến những lời dạy của Phật. Nếu những người con Phật thực hành theo lời dạy của Phật thì sẽ có công năng qua khỏi bể khổ, đến bến bờ giải thoát.

Tăng là một đoàn thể sống chung với nhau ít nhất là bốn người, bỏ nhà xuất gia đi tu, giữ đầy đủ giới luật của Phật đặt ra, với mục đích tu hành giải thoát cho mình và cho tất cả chúng sinh. Vì thế cái lạy thứ ba là lạy Tăng Bảo, từ các vị Thánh Tăng xuất thế đến các vị Tỳ Kheo trụ thế tu hành chân chính, đạo đức trong sạch và giới luật trang nghiêm.

Ngoài ý nghĩa lễ lạy Phật, Pháp và Tăng nêu trên, ba lạy cũng còn mang ý nghĩa lễ lạy ba ngôi báu bên trong chúng ta và trong mỗi chúng sinh.

Vì chúng sinh cùng chư Phật đồng một thể tính sáng suốt (Phật tính), đồng một pháp tính từ bi và bình đẳng (Pháp tính) và đồng một đức tính thanh tịnh, hòa hợp (Thanh tịnh tính).

Khi lạy phải tuân theo lời Phật dạy không được suy nghĩ gì cả. Chỉ theo dõi hành động và hơi thở của mình. Tâm phải ở trạng thái thanh tịnh, không tạp nhiễm.

Đồng thời phải quán chiếu được việc mình đang làm, lễ xuống thì chỉ biết là lễ xuống, đứng lên thì chỉ biết là đứng lên, chắp tay thì chỉ biết là chắp tay. Tuyệt đối không nghĩ đến bất cứ ai hay tưởng nhớ đến bất cứ cái gì. Như thế mới thể hiện lòng tôn kính với ba ngôi báu Tam Bảo.

Phật ở đây là giác, tức là giác ngộ, sáng suốt, thông hiểu mọi lẽ. Pháp là chánh, tức là điều chánh đáng, trái với tà ngụy. Tăng là tịnh, tức là trong sạch, thanh tịnh, không bơn nhơ. Đây là nói về nguyên tắc phải theo. Tuy nhiên, còn tùy mỗi chùa, mỗi nơi, và thói quen, người ta lễ Phật có khi 4 hay 5 lạy. Trong trường hợp cúng Phật, khi ta mặc âu phục, nêu cảm thấy khó khăn trong khi lạy, ta đứng nghiêm và vái ba vái trước bàn thờ Phật.

Tổng kết