Văn Khấn Miếu Bà / Top 18 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 9/2023 # Top Trend | Apim.edu.vn

Bài Văn Khấn Cúng Miếu Bà Chúa Xứ Châu Đốc

Xôi Chè Cô Hồng giới thiệu một bài viết đầy đủ nhất về miếu bà Chúa Xứ cùng với toàn bộ sự tích linh thiêng về địa danh nổi tiếng trên dốc núi Sam ở Châu Đốc. Cùng với bài văn khấn bà chúa Xứ để xin Lộc. Nào cùng bắt đầu hành trì đến với Châu Đốc.

Châu Đốc cách chúng tôi khoảng 250km, cách TP. Long Xuyên khoảng 55km, là một thị xã trực thuộc tỉnh An Giang, nằm bên ngã ba của sông Châu Đốc và sông Hậu sát biên giới Việt Nam với Campuchia. Thị xã Châu Đốc có chiều dài lịch sử gắn liền với những câu chuyện ly kỳ về Bà Chúa Xứ Núi Sam – nơi có Lễ hội Bà Chúa Xứ vào khoảng tháng Tư âm lịch hàng năm.

Trông từ xa, ngôi miếu như một bông sen xanh ngự uy nghi trên cao để người đời hướng về bái vọng. Lại gần, khách sẽ thấy ngỡ ngàng khi chiêm ngưỡng các hoa văn ở cổ lầu chính điện, thể hiện đậm nét nghệ thuật Ấn Độ. Phía trên cao, các tượng thần khỏe mạnh, đẹp đẽ giăng tay đỡ những đầu kèo. Các khung bao, cánh cửa đều được chạm trổ, khắc, lộng tinh xảo và nhiều liễn đối, hoành phi ở nơi đây cũng rực rỡ vàng son.

Bài văn khấn cúng miếu Bà Chúa Xứ núi Sam

“Hương tử con lễ bạc tâm thành, cúi đầu thành tâm kính lễ Bà Chúa Sứ.

Cúi xin được phù hộ độ trì. Hương tử con là: Ngụ tại:….

Ngày hôm nay là Ngày….. Tháng….. Năm.

Con sắm sửa kim ngân, hương hoa, lễ vật chí thiết một lòng thành tâm dâng lễ, sám hối cầu xin phù hộ cho hương tử con được: gia quyến bình an, cầu tài đắc tài, cầu lộc đắc lộc, bách sự cầu được như ý. ……. (Muốn gì cầu xin) Hương tử con lễ bạc tâm thành, cúi đầu thành tâm kính lễ Bà Chúa Sứ, cúi xin được phù hộ độ trì.”

-Hết-

“Ai đi cũng nên xin một BAO LÌ XÌ LỘC BÀ về cho may mắn nha…nói thẳng trong bao có khi là tiền, có khi là tấm áo Bà Mặc cắt ra làm lộc

Cách sử dụng lộc Bà như sau:

– Khi rước lộc về nhà, thỉnh lộc bà lên một cái dĩa, sau đó để 4 ly nước suối kế bên, cầm từng ly lên khấn cung nghinh bà về cư gia, cứ mỗi ly nước ta khấn xong ta chế 4 góc nhà.

– Sau đó trân trọng đặt lên bàn thờ ở Mẹ Quan Âm chứ không nên để chỗ thờ Ông Địa như các nhà thường làm. Sẽ khinh thường bà, mà ông địa ông thần tài năm đó cũng không về được khánh.

– Khi đặt lên thì trong 9 ngày phải thay nước và 3 ngày thay trầu cau 1 lần.

– Sau đó ta có thể bỏ bóp hay để bàn thờ nhưng ta nhớ thường xuyên khấn Bà xin độ cho chúng con. Nếu để bàn thờ thì nên đặt thêm quanh bao lộc đó 5 thứ ngũ cốc.

– Cuối năm ngày 23 âm lịch hóa bao lộc này.

Chính lễ của Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam diễn ra trong ba ngày, gồm: Lễ Phục hiện rước tượng Bà từ đỉnh Núi Sam xuống Lăng Miếu; Lễ tắm Bà; Lễ Túc yết và Xây Chầu; Lễ Chánh tế; Lễ Hồi sắc,… Trong đó quan trọng nhất là Lễ tắm Bà diễn ra vào khuya ngày 22-4 âm lịch.

Pho tượng đặt trên một bệ cao, kiên cố, được trang điểm bằng sơn dầu cho tăng thêm thần sắc. Do toàn thân có choàng áo rộng lộng lẫy phủ kín cả tay và chân nên rất ít người được mục kích kiểu thế ngồi của tượng.

Mắt tượng nhìn thẳng về hướng đông, uy nghiêm mà hiền ái, phúc hậu, như chan chứa cả một tấm lòng bao dung, tế độ.

Hiện nay tồn tại khá nhiều dị bản khác nhau về sự hình thành Miếu Bà Chúa Xứ núi Sam. Đây được xem là tổ miếu của dạng thức tín ngưỡng này, có qui mô lớn nhất vùng, không chỉ mang ý nghĩa phản ánh đời sống văn hóa tinh thần của cư dân địa phương, mà còn có ý nghĩa trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế thông qua hoạt động du lịch.

Sự tích bà Chúa Xứ Châu Đốc thứ nhất:

Trên núi Sam ngày xưa có một bệ tượng hình vuông bằng đá sa thạch. Vào những năm đầu thế kỷ XIX, giặc Xiêm thường sang khu vực này để quấy nhiễu. Trong một lần lên núi và bắt gặp tượng Bà, họ liền có ý định cậy tượng ra khỏi bệ đá để đem xuống núi. Nhưng kỳ lạ thay tượng trở nên nặng vô cùng, họ không cách nào khiêng được mặc dù có bao nhiêu lính tráng khỏe mạnh.

Trong lúc tức giận, một quân lính người Xiêm đã vớ một khúc gỗ phang vào tượng làm sứt một miếng ở cánh tay. Ngay lập tức người lính Xiêm này hộc máu chết tại chỗ. Sau đó, một hôm dân làng lên núi thấy tượng Bà bèn cùng nhau khiêng tượng về lập miếu thờ. Tuy nhiên, cũng như lần trước, tượng nặng vô cùng, bao nhiêu trai tráng trong làng góp sức nhưng cũng không khiến cho bức tượng xê dịch được.

Lúc đó, bỗng một phụ nữ lên đồng, tự xưng là Bà Chúa Xứ và phán rằng, muốn thỉnh Bà xuống thì cần phải có 40 cô gái đồng trinh tắm rửa sạch sẽ mới có thể khiêng Bà xuống. Dân làng tin lời và làm theo. Quả thật linh nghiệm; tuy nhiên, đến chân núi Sam thì tượng Bà lại trở nên nặng trịch, không thể khiêng tiếp được nữa. Hiểu được dụng ý của Bà, dân làng liền cho lập đền thờ ở khu vực này.

Sự tích bà Chúa Xứ núi Sam thứ hai:

Kể lại rằng cách đây gần 200 năm, có một cô gái trong làng Vĩnh Tế bỗng lên đồng, tự xưng là Bà Chúa Xứ về núi Sam để cứu dân độ thế. Bà còn nói thêm là hiện nay, tượng Bà đang ngự trên núi, yêu cầu dân làng lên núi thỉnh về để thờ phụng. Dân làng liền phái 40 chàng thanh niên lực lưỡng lên núi để khiêng tượng, nhưng cũng không thể xê dịch bức tượng. Lúc đó, cô gái lại lên đồng và cho dân làng biết chỉ cần 9 cô gái đồng trinh là có thể khiêng được. Quả thật linh nghiệm; đến chân núi Sam, dây khiêng tượng bị đứt, thế là dân làng hiểu ý Bà mà cho lập miếu thờ Bà ở đây.

Thì cho rằng, dưới thời Thoại Ngọc Hầu trấn thủ Châu Đốc, đeo ấn bảo hộ Cao Miên, vợ ông (tức là bà Châu Thị Tế) ở nhà thường cầu nguyện cho ông bình an trở về, nếu được thì sẽ lập chùa thờ Phật để báo ân phù hộ. Sau khi Thoại Ngọc Hầu trở về, ông vì cảm kích trước tấm lòng của vợ mình nên đã cho quân lính sang tây Trấn Thành chở cốt Phật về lập chùa để thờ, đặt tên là chùa Tây An. Chùa xây xong, ông lo ngại tin đồn ác ý rằng xây chùa để thờ Phật của giặc nên đưa pho tượng ra ngoài chùa, lập miếu thờ để tránh phiền phức.

Sự tích bà Chúa Xứ núi Sam Châu Đốc thứ tư:

Thì kể về việc một thiếu phụ Cao Miên đi tìm chồng, đến chân núi vì quá mệt mỏi nên đã ngồi nghỉ, sau đó bà đã hóa đá ở chân núi này. Sau đó, linh hồn người phụ nữ này nhập vào cốt đồng để nói về quá khứ và tương lai để giúp đỡ những người hiền và trừng phạt những người xấu. Dân làng liền lập miếu thờ và gọi bà là Bà Chúa Xứ.

Lễ hội bà chúa Xứ núi Sam An Giang

Lễ bà Chúa Xứ có thời gian diễn ra lễ hội là từ đêm ngày 23 đến ngày 27 tháng 4 Âm lịch hằng năm. Có hai giả thuyết giải thích lý do tại sao chọn những ngày này làm lễ vía Bà. Hai giả thuyết này khác nhau phụ thuộc vào vấn đề sự ra đời của miếu Bà.

Lễ hội vía Bà Chúa Xứ núi Sam Châu Đốc tự bản thân nó là một lễ hội hoàn chỉnh với phần lễ (thể hiện tính chất lễ nghi, tôn nghiêm sùng bái đối tượng chính là Bà Chúa Xứ) và phần hội (phần văn nghệ quần chúng, vui chơi, giải trí của cộng đồng). Tuy nhiên, tùy theo tính chất của lễ hội mà có lễ hội nặng về phần lễ hoặc có lễ hội nặng về phần hội. Theo chúng tôi, lễ hội vía Bà Chúa Xứ núi Sam Châu Đốc nặng về phần lễ nghi hơn. Lễ hội vía Bà Chúa Xứ núi Sam Châu Đốc là sự kết hợp của văn hóa nông nghiệp và triết lý âm dương của người Việt. Triết lý âm dương của người Việt thể hiện qua huyền thoại về việc di dời tượng bà từ đỉnh núi Sam Châu Đốc bằng 9 cô gái đồng trinh[2]. Cốt tượng Bà là một người đàn ông mập, lùn, tay chống nẹ ở tư thế ăn quá no [Nguyễn Minh San: 1994]. Không ai thấy khuôn mặt thật của bà trừ những người đầu tiên được cử ra trang điểm cho bà và những người chứng kiến cảnh khiêng tượng bà từ đỉnh núi Sam xuống vị trí điện thờ ngày nay, và không ai trong số họ mô tả lại khuôn mặt thật của tượng bà.

Tổ chức vào lúc 24 giờ đêm ngày 23, rạng ngày 24 tháng 4 âm lịch.

Nói là tượng tắm Bà nhưng thực chất là lau bụi bặm bám trên cốt tượng Bà bằng nước thơm được nấu và pha trộn nhiều nước hoa tốt do các tín thí dâng cúng. Lau bụi bặm xong, tượng Bà được thay xiêm y mới, hài mới, mão mới trong một không gian chật hẹp là chánh điện được quây lại và chỉ có những người được Ban quản trị lựa chọn mới được tham gia.

Nước tắm Bà là một loại nước thơm nấu bằng nước mưa hứng ngoài trời với nhiều loại hoa thơm và có thêm nước hoa hàng hiệu thơm ngát. Sau khi đã tiến hành “tắm Bà” xong, một bộ quần áo đẹp nhất dâng cúng trong kỳ lễ hội được khoác lên tượng, thắt dây đai áo và các bộ phận khác, và cuối cùng là đội mão lên đầu tượng Bà.

Toàn bộ “lễ tắm Bà” kéo dài trong khoảng một giờ; sau đó, mọi người được tự do chiêm bái. Cũng cần nói thêm rằng, toàn bộ quá trình mộc dục cho Bà đều được thực hiện sau bức màn che, nhưng có đến hàng nghìn người chen chúc nhau đến để đứng ngoài vòng rào chính điện để xem.

Lễ thỉnh sắc Thoại Ngọc Hầu về miếu Bà

Lễ này thường được thực hiện vào khoảng 15h00 ngày 24 tháng 4 âm lịch. Các bô lão trong làng được cử ra cùng với Ban quản trị miếu Bà bận trang phục chỉnh tề, nghiêm trang sang thỉnh sắc ở lăng Thoại Ngọc Hầu. Đoàn thỉnh sắc phong có đội múa lân của miếu Bà đi trước, kế đến là ông chánh bái, hai vị bô lão và những chức sắc khác rồi theo sau là học trò lễ với tay cầm cờ phướng. Tới trước điện thờ Thoại Ngọc Hầu, mọi người dâng hoa, niệm hương, tế lễ. Sau đó, họ thỉnh bốn bài vị lên long đình về miếu Bà. Bốn bài vị đó là: bài vị của ông Thoại Ngọc Hầu, bài vị của bà chánh phẩm Châu Thị Tế, bài vị của bà nhị phẩm Trương Thị Miệt và bài vị Hội đồng.

Lễ này được tổ chức vào 0 giờ ngày 25 và rạng ngày 26 tháng 4 âm lịch. Tất cả các bô lão trong làng và Ban quản trị miếu với lễ phục chỉnh tề, đứng xếp thành hai bên, trước chánh điện. Phía sau các vị ấy là bốn học trò lễ và bốn đào thày. Đứng chính diện với tượng Bà là ông Chánh bái. Lễ vật cúng được chuẩn bị từ trước đó không lâu rất kỹ lưỡng gồm: một con heo trắng đã cạo lông, mổ bụng sạch sẽ, chưa nấu chính; một đĩa đựng ít lông và máu của con heo (ế mao huyết); một mâm xôi, một mâm trái cây, một mâm trầu cau, một đĩa gạo muối.

Khi cúng, ông Chánh bái và các vị bô lão đến niệm hương trước bàn thờ. Sau khi đánh ba hồi trống gõ và ba hồi chiêng trống, nhạc lễ bắt đầu trỗi lên là lễ dâng hương, chúc tửu và hiến trà. Từng diễn biến của buỗi lễ được hai người xướng lễ (một xướng nội, một xướng ngoại) xướng to lên. Ông Chánh bái đi trước, bốn học trò lễ và bốn đào thày đi theo sau, hướng về phía bàn thờ tổ. Tại đây, ông Chánh bái tự tay rót rượu để học trò lễ đem dâng cúng.

Sau khi dâng hoa và dâng ba lần rượu gọi là chúc tửu, ba lần trà gọi là hiến trà, theo lệnh của người xướng lễ, văn bản tế được mang đến trước bàn thờ và một người trong ban quản trị miếu đọc văn tế. Dứt bài văn tế, ông Chánh bái đốt bài văn tế này, heo cúng sống trên bàn được lật ngửa ra trước khi khiêng đi chế biến.

Sau lễ túc yết là lễ xây chầu. Lễ này, có mặt hầu như ở tất cả các lễ hội cúng đình ở làng Nam Bộ.

Vào lễ, người xướng nội hô to: “Ca công tựu vị”, tức thì ông Chánh bái ca công liền bước tới bàn thờ đặt giữa võ ca, tay cầm hai dùi trống nâng lên ngang trán, miệng khấn vái râm rang. Trên bàn thờ có chuẩn bị sẵn một tô nước và một nhành dương liễu. Sau khi khấn vái, tô nước được xem là nước thiêng, nước thánh của. Ông Chánh bái ca công cầm nhành dương nhúng vào tô nước rồi vảy xung quanh với động tác ma thuật tựa như mưa rơi với ý nghĩa ban phát năng lượng thiêng xuống cõi trần cầu cho vạn vật sinh sôi nảy nở, mùa màng bội thu. Vừa làm những động tác ấy, ông vừa xướng to:

“Nhất xái thiên thanh (một rảy cho trời xanh).

Nhị xái địa linh (hai rảy cho đất tốt lành).

Tam xái nhân trường (ba rảy cho con người trường thọ).

Tứ xái quỷ diệt hình (bốn rảy cho ma quỷ tiêu tan)”.

Đọc xong, ông Chánh ca công đặt tô nước và cành dương liễu trở lại bàn thờ, ông đánh ba hồi trống và xướng “ca công tiếp giá”, lập tức đoàn hát bội nổi chiêng trống rộ lên và chương trình hát bội bắt đầu. Các tuồng hát chuẩn bị sẵn bắt đầu nhảy vào cuộc, trước là phục vụ, mua vui cho Bà, sau là phục vụ cho bà con tham dự lễ hội thưởng thức. Phần hội thực sự bắt đầu.

Bắt đầu lúc 4 giờ sáng ngày 26 tháng 4 âm lịch. Nghi thức cũng tương tự như lễ cúng túc yết, chỉ khác là thêm một phần nội dung văn tế và có thêm phần “ẩm phước” với ý nghĩa là phần thưởng của Bà ban cho nhân dân mà vị Chánh tế đứng ra nhận lãnh thay. Theo nhà văn Sơn Nam, nghi lễ “thụ tộ” hoặc “ẩm tộ” hưởng tượng trưng lộc của thần, dùng chén rượu đã cúng mà uống, thay cho dân làng: ” ‘ẩm phước’, uống phần rượu trên bàn thờ, cúng nãy giờ, đem xuống cho Chánh tế, Bồi tế uống tượng trưng, rồi “thụ tộ” ăn phần thịt đã cúng, tượng trưng, thường là ăn trái cây (nho, nhãn), ăn và uống thay mặt cho dân làng, như là lộc của thần thánh” [Sơn Nam 2005: tr.359].

Đến 14 giờ chiều ngày 27 tháng 4 lâm lịch, Ban quản trị làm lễ hồi sắc, tức đưa bốn bài vị của ông Thoại Ngọc Hầu, bà Châu Thị Tế, bà Trương Thị Miệt và bài vị Ban hội đồng về lại lăng ông Thoại Ngọc Hầu, chính thức kết thúc lễ hội.

Sau lễ mộc dục chính là lễ thỉnh sắc Thoại Ngọc Hầu về miếu Bà. Lễ này được tiến hành vào lúc 15 giờ ngày 24; tại miếu Bà, tất cả các bô lão của làng Vĩnh Tế cùng Ban Quản trị lăng miếu lễ phục chỉnh tề (áo dài khăn đóng – lễ phục cổ truyền) tập trung đông đủ và xếp thành hai hàng hai bên tượng Bà để chuẩn bị sang lăng Thoại Ngọc Hầu dự lễ thỉnh sắc.

Dẫn đầu đoàn thỉnh sắc là đội múa lân, theo sau là ông Hương lễ bưng khay trầu rượu, học trò lễ đi hai bên, rồi đến hai ông Chánh tế, ba ông Bồi tế, ba ông Chấp kích cùng các bô lão và đại diện dân làng Vĩnh Tế tiếp nối đi theo phía sau. Khi đoàn đến trước lăng Thoại Ngọc Hầu thì các bô lão lần lượt vào dâng hương và xin phép thỉnh bài vị.

Sau đó, đoàn thỉnh bốn sắc (bài vị) lên long đình để về miếu Bà. Bốn bài vị đó bao gồm: Bài vị của Nguyễn Văn Thoại, bài vị của bà Chánh phẩm Châu Thị Tế, bài vị của bà Nhị phẩm Trương Thị Miệt và bài vị của Hội đồng. Khi các bài vị được thỉnh về và an vị trong ngôi chính điện,

Ban Quản trị của miếu Bà dâng hương thỉnh an và phần lễ thỉnh sắc kết thúc. Tuy kết thúc nhưng hàng nghìn người dân từ khắp nơi kéo về dự lễ liên tục cho đến tận đêm khuya và thậm chí là kéo dài cho đến sáng ngày hôm sau. Do vậy, ngày 25 được xem là đông vui nhất trong lễ hội vía Bà – ngày lễ chính của cả mùa lễ hội.

Lễ túc yết được bắt đầu vào lúc 0 giờ ngày 25, rạng sáng ngày 26 tháng 4 Âm lịch. Tất cả các bô lão và Ban Quản trị khu lăng miếu lễ phục chỉnh tề, đứng xếp hàng hai bên tượng Bà. Vật cúng gồm có: Một con heo trắng đã được cạo lông sạch sẽ, chưa nấu chín; một đĩa đựng một ít huyết có chút lông (mao huyết); một mâm xôi; một mâm trái cây, một mâm trầu cau và một đĩa gạo muối.

Toàn bộ lễ vật được bày trên bàn trước tượng Bà. “Vào lễ cúng, ông chánh bái và các vị bô lão đến niệm hương trước bàn thờ. Kế đến là các phần khởi cỗ. Sau khi đánh ba hồi trống và ba hồi chiêng, nhạc lễ bắt đầu nổi lên là lễ dâng hương, chúc tửu, hiến trà… Một người trong Ban quản trị lăng miếu đọc văn tế. Dứt bài văn tế, ông chánh bái đốt văn bản này và một ít giấy vàng bạc; heo cúng trên bàn thờ được lật ngửa ra trước và khiêng đi, phần cúng túc yết đã xong”.

Sau đó, ông bước ra đặt roi chầu lên khay; sau đó là đến các lễ dâng hương, dâng rượu và trà. Phía bên trái bàn thờ có một tô nước và một cành dương liễu. Ông Chánh tế ca công cầm cành dương liễu đưa ngang trán và khấn vái rồi cầm cành dương liễu nhúng vô tô nước và vẩy nước ra xung quanh; vừa vẩy vừa đọc to câu thần chú:

“Nhất xái thiên thanh” (Thứ nhất, vẩy nước lên trời mong cho trời luôn thanh bình, mưa thuạn gió hòa);

“Nhị xái địa ninh” (Thứ hai, vẩy nước xuống đất, cầu cho đất thêm tươi tốt, mùa màng bội thu);

“Tam xái nhơn trường” (Thứ ba, vẩy nước cho loài người sống trường thọ);

“Tứ xái quỷ diệt hình” (Thứ tư, vẩy nước vào loài quỷ dữ cho chúng bị tiêu diệt).

Đọc xong câu thần chú, ông Chánh bái ca công đặt tô nước, cành dương liễu về lại bàn thờ; sau đó đánh ba hồi trống và xướng “Ca công tiếp giá”, đoàn hát bội “Dạ” một tiếng thật to. Ngay lập tức, đoàn ca công hát bội nổi chiêng trống và chương trình hát bội bắt đầu. “… Tất cả các vở tuồng hát đều là tuồng hay, có ý nghĩa sâu xa, nhưng trong năm buổi diễn bắt buộc phải có vở Thứ ba San Hậu, đào kép phải hát đúng nguyên bản không được tùy tiện sửa đổi

Tiếp theo là lễ chính tế. Lễ được tổ chức trọng thể vào lúc 4 giờ sáng ngày 27 tháng 4 Âm lịch. Chương trình tế lễ này tương tự như nghi lễ cúng túc yết. Sau khi tế lễ chính xong thì có phần lễ tạ Mẫu và các vị thần linh; sau đó chuẩn bị cử hành lễ hồi sắc.

Lễ hồi sắc được cử hành vào buổi chiều ngày 27 (15 giờ). “Ban Quản trị lại tề tựu đông đủ, áo dài khăn đóng (mặc lễ phục cổ truyền) chỉnh tề làm lễ Tôn Vương. Khi đó, ông Chánh tế ca công nhận hàm ấn và gươm lệnh của Hoàng tử trong vở hát bội Thứ ba San Hậu dâng lên bàn thờ bà Chúa Xứ. Sau đó, ông đốt văn xây chầu và chấm dứt phần hát bộ.

Đến khi làm lễ hồi sắc thì chủ lễ thỉnh bài vị Thoại Ngọc Hầu, bài vị hai vị phu nhân và bài vị Hội đồng đưa lên long đình. Rồi đoàn đưa sắc dàn đội hình rước sắc hồi lăng Thoại Ngọc Hầu theo thứ tự giống như rước sắc về miếu hôm mở hội… Nghi lễ hồi sắc là nghi lễ cuối cùng kết thúc lễ hội vía bà Chúa Xứ núi Sam”

– Lễ vật: Lễ vật cúng bà được đông đảo người đi hành hương là heo quay, từ đó xảy ra dịch vụ cho thuê heo quay mướn. Du khách đến đây, có thể thuê heo quay được tính bằng Kg, sau khi cúng vái xong thì chú heo quay ấy sẽ trở về vòng quay cho thuê người tiếp theo…liệu như thế bạn chứng tỏ lòng thành của mình hay chỉ là góp phần cho nạn cò heo quay lộng hành??. Do vậy, nếu bạn không thể mang heo quay từ nhà thì tốt nhất là không mua hoặc thuê heo quay tại chùa.

Nếu không mua trên đường đi thì nên vào các cửa hàng lớn xung quanh chùa và hỏi kỹ giá cả trước khi mua. Không nên mua nhang đèn từ những người bán lẻ đi theo mời mọc vì ngoài giá đắt hơn. Sau khi mua bạn còn phải tiếp tục “chịu đựng” những người đi theo chèo kéo mua vé số, xin tiền, gửi lộc…

– Ăn xin: Tình trạng ăn xin diễn ra rầm rộ khi ngày lễ diễn ra, đừng nên cho tiền ăn xin vào ngày này nếu như bạn muốn bị hàng chục người ăn xin khác vây bạn như thể bạn là một “ngôi sao”. Mặc khác, tình trạng giả bệnh, giả cụt chân, tay…được biến hóa một cách rất tài tình…lợi dụng tình trạng này mà móc túi, giật đồ diễn ra mà bạn không hay biết.

– Lộc “trời cho”: Bạn đang thẩn thần thành tâm viếng chùa, bỗng một người lạ đến đưa bạn một túi nhỏ trong đó đủ thứ những vật cúng hoặc một tờ giấy 500 đồng được xếp theo đủ kiểu dúi vào tay, túi áo…cho bạn, ngay lập tức hãy trả lại hoặc bỏ mà đi vào chùa nếu như bạn không muốn bị dính vào cảnh người dúi túi lộc đó cho bạn đi theo xin tiền “trả lễ”. Tuy là nói tùy hỷ, nhưng nếu bạn trả lộc ít thì bạn sẽ nhận lại ngay những lời lẽ thô tục.

– Giữ chặt ví tiền: Tháng giêng, miếu Bà Chúa Xứ lúc nào cũng đông khách hành hương. Khi vào khu vực chính điện của miếu, bạn phải hết sức cẩn thận với ví tiền của mình. Khi đi chùa, không nên mang theo nhiều tiền mặt, nếu để trong túi xách thì phải cài chặt và quay túi xách ra phía trước để tránh bị mất cắp.

– Chen lấn: Không thể tránh khỏi khi mà hàng trăm ngàn người đổ về chùa bà cùng lúc. Đây là cơ hội của bọn móc túi rinh tiền, điện thoại, nữ trang của bạn, do đó khi đã viếng bà những ngày này tuyệt đối không nên mang nữ trang trên người, điện thoại và ví tiền nên bỏ vào tùi quần có dây kéo cẩn thận và khó luồng tay vào được.

Văn Khấn Bà Chúa Xứ Châu Đốc Và Cách Đi Lễ Miếu Bà Chúa Xứ

Bài văn khấn bà chúa Xứ Châu Đốc và cách đi lễ, xin xăm miếu bà chúa Xứ núi Sam, Châu Đốc chuẩn xác nhất.

Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam tọa lạc nơi chân núi Sam, trước thuộc xã Vĩnh Tế, nay thuộc phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang, Việt Nam. Đây là một di tích kiến trúc và tâm linh quan trọng của tỉnh và của khu vực. Trong bài viết này Nhà Đất Mới xin được chia sẻ với các bạn bài văn khấn bà chúa xứ Châu Đốc và cách đi lễ, xin xăm bà chúa núi Sam để các bạn cùng tham khảo.

I. Bà chúa Xứ là ai? Miếu bà chúa Xứ ở đâu?

Hiện nay tồn tại khá nhiều dị bản khác nhau về sự hình thành Miếu Bà Chúa Xứ núi Sam. Đây được xem là tổ miếu của dạng thức tín ngưỡng này, có qui mô lớn nhất vùng, không chỉ mang ý nghĩa phản ánh đời sống văn hóa tinh thần của cư dân địa phương, mà còn có ý nghĩa trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế thông qua hoạt động du lịch.

Theo sự tích bà Chúa Xứ núi Sam kể lại rằng cách đây gần 200 năm, có một cô gái trong làng Vĩnh Tế bỗng lên đồng, tự xưng là Bà Chúa Xứ về núi Sam để cứu dân độ thế. Bà còn nói thêm là hiện nay, tượng Bà đang ngự trên núi, yêu cầu dân làng lên núi thỉnh về để thờ phụng. Dân làng liền phái 40 chàng thanh niên lực lưỡng lên núi để khiêng tượng, nhưng cũng không thể xê dịch bức tượng. Lúc đó, cô gái lại lên đồng và cho dân làng biết chỉ cần 9 cô gái đồng trinh là có thể khiêng được. Quả thật linh nghiệm; đến chân núi Sam, dây khiêng tượng bị đứt, thế là dân làng hiểu ý Bà mà cho lập miếu thờ Bà ở đây.

Bài văn khấn bà chúa Xứ Châu Đốc và cách đi lễ, xin xăm miếu bà chúa Xứ núi Sam

Miếu bà chúa Xứ có vị trí nằm trên núi Sam, lưng miếu được xây dựng tựa vào vách núi và chính điện hướng về phía những cánh đồng. Kiến trúc thiết kế của miếu bà chúa Xứ độc đáo với hình chữ “Quốc” và có dạng hình khối tháp giống hình bông hoa sen đang nở. Đồng thời, miếu bà chúa Xứ còn mang nét độc đáo khi được thiết kế theo kiểu tam cấp ba tầng với ngói lợp màu xanh và góc mái cao vút lên giống như mũi thuyền.

Châu Đốc là một thị xã nằm ở tỉnh An Giang thuộc ngã ba sông Hậu và Châu Đốc. Thị xã này có vị trí cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng 250km. Vì được gắn liền với những câu chuyện truyền lại về Bà Chúa Xứ Núi Sam nên Châu Đốc từ lâu đã trở thành điểm dừng chân lý tưởng để người dân lui tới trẩy hội, hành hương. Từ đó, lễ hội bà chúa xứ Châu Đốc được hình thành và được tổ chức vào tháng 4 âm lịch hàng năm.

Bài văn khấn bà chúa Xứ núi Sam Châu Đốc có nội dung như sau:

Hương tử con lễ bạc tâm thành, cúi đầu thành tâm kính lễ Bà Chúa Sứ.

Cúi xin được phù hộ độ trì. Hương tử con là: Ngụ tại:….

Ngày hôm nay là Ngày….. Tháng….. Năm.

Con sắm sửa kim ngân, hương hoa, lễ vật chí thiết một lòng thành tâm dâng lễ, sám hối cầu xin phù hộ cho hương tử con được: gia quyến bình an, cầu tài đắc tài, cầu lộc đắc lộc, bách sự cầu được như ý. ……. (Muốn gì cầu xin) Hương tử con lễ bạc tâm thành, cúi đầu thành tâm kính lễ Bà Chúa Sứ, cúi xin được phù hộ độ trì.

III. Cách sắm lễ miếu bà chúa Xứ núi Sam

Để cúng khấn bà chúa xứ núi Sam, gia chủ cần chuẩn bị một số đồ lễ vật. Theo đó, những đồ lễ vật này cụ thể như sau:

Mâm trái cây ngũ quả

Hương, hoa tươi

Đèn cầy

Hũ gạo, hũ muối

Trà, rượu trắng

Bánh kẹo, trầu cau tươi

Xôi chè, bánh bao

Heo quay nguyên con (1 con)

Trong số tất cả các đồ lễ cúng khấn bà chúa xứ núi Sam này thì lễ vật trang trọng nhất đó chính là heo quay nguyên con. Bên cạnh đó, theo như quan niệm trong thờ cúng cũng như phong tục tập quán ở nhiều nơi thì heo quay dùng để cúng phải được cắm một con dao nhỏ ở ngay sống lưng.

IV. Cách xin lộc, xin xăm miếu bà chúa Xứ Châu Đốc

Gần như bất cứ ai lên bà chúa xứ Châu Đốc đều xin về một bao lì xì về và đó được xem là bao lì xì lộc, mang lại nhiều may mắn cho chủ nhân sở hữu. Theo đó, các bạn sẽ sử dụng lộc này của bà chúa xứ Châu Đốc đúng cách như sau:

Khi rước lộc về nhà, gia chủ cần phải thực hiện bước thỉnh lộc bà chúa xứ lên một cái đĩa. Tiếp đó, để 4 ly nước suối kế bên và lần lượt cầm lên từng ly để cầu khấn với mục đích để cung nghinh bà về cư gia. Với cách thỉnh lộc này, sau mỗi ly nước khấn xong, gia chủ sẽ đem đổ ra 1 góc nhà, 4 ly tương đương với 4 góc nhà.

Sau đó gia chủ sẽ đặt lộc này của bà chúa xứ lên bàn thờ ở Mẹ Quan Âm và lưu ý không nên đặt ở bàn thờ Ông địa như các gia đình thường làm. Bởi trong quan niệm thờ cúng, tâm linh, điều này có ý nghĩa khinh thường, thiếu tôn trọng đối với bà chúa xứ Châu Đốc.

Đặc biệt, khi đã đặt lộc lên bàn thờ Quan Âm, gia chủ phải thực hiện đúng theo phong tục 9 ngày thay nước và 3 ngày thay trầu cau tươi 1 lần, không được để quá số ngày theo quy định này.

Cùng với đó, gia chủ cần thường xuyên khấn bá bà chúa xứ để cầu xin sự phù hộ độ trì, che chở cho chính gia chủ cũng như các thành viên trong gia đình.

Nếu muốn hóa lộc của bà chúa xứ Châu Đốc, gia chủ nên chọn hóa vào ngày 23 âm lịch.

Ngoài cung cấp văn khấn bà chúa Xứ Châu Đốc chuẩn nhất, chúng tôi còn là trang mua bán nhà đất uy tín hàng đầu hiện nay. Nếu bạn có nhu cầu mua bất động sản, hãy ĐĂNG KÝ NHẬN TIN ngày để được tự động gửi về những sản phẩm phù hợp hoàn toàn miễn phí.

Miếu Bà Ở Phước Tân

Ngày cúng vía Bà 24.4 âm lịch (15.6)

Lạ là bởi, miền đất này trước kia còn thuộc xã Ninh Điền – vùng chiến tranh quyết liệt giữa quân dân cách mạng Châu Thành với các thế lực ngoại xâm. Từ kháng chiến chống Pháp đến kháng chiến chống Mỹ, rồi qua chiến tranh biên giới Tây Nam, vậy mà ngay cả một ngôi miếu nhỏ cũng ngoan cường tồn tại. Miếu đã bao lần bị đạn bom huỷ hoại, nhưng vẫn hồi sinh trên đống hoang tàn gạch nát nhà tan.

Kể đến Ninh Điền, cũng nên nhắc lại, miền đất này được triều Nguyễn thiết lập từ năm Thiệu Trị thứ nhất (1841), thuộc tổng Giai Hoá (Từ điển địa danh hành chính Nam bộ – Nguyễn Đình Tư, NXB Chính trị Quốc gia).

Như vậy, thuở ban đầu, Ninh Điền (trong đó có Thành Long) là “người anh em” gần gũi với các xã nay thuộc huyện Bến Cầu. Cho đến tháng 5.1955, chính quyền Sài Gòn mới tách Ninh Điền về tổng Hoà Ninh, tổng chủ yếu để trở thành huyện Châu Thành trong hiện tại.

Trở lại với miếu Bà, ông Nguyễn Văn Cam là cháu nội của người có công tạo lập miếu cho hay, miếu đã có ít ra là từ bảy, tám mươi năm trước. Thoạt tiên là đời ông nội, sau đó tới đời cha là ông Năm Me (đã mất).

Nếu ông Năm còn thì nay đã tuổi 83. Chính ông Năm là người đã trồng những cây cổ thụ bao bọc ngôi miếu Bà. Đấy là hai cây bã đậu có đường kính gốc hơn 1 mét, cùng nhiều cây bạch đàn, xà cừ nay rợp bóng mát như một cụm rừng nho nhỏ.

Xung quanh, đất trời Thành Long còn trống thoáng, trải đến mênh mông, xa tắp màu xanh tươi cây trái của rẫy vườn. Xa xa về phía Nam là màu xanh mát rượi của nông trường mía Thành Long.

Vậy là miền đất này cũng đã được cha, ông mở mang khai phá từ rất sớm với quan niệm của dân gian: Bà Chúa Xứ là bà chúa của ruộng đồng (theo Trương Ngọc Tường- Đình Nam bộ- xưa và nay). Việc lập miếu thờ Bà luôn là công việc đầu tiên của những người đi khai phá miền đất mới.

Giữa một vùng chỉ có vườn cây, ruộng rẫy, dân cư còn thưa thớt, vậy mà miếu Bà ở Phước Tân vẫn được người dân (thường từ nơi khác đến) chăm lo nhang khói mỗi ngày.

Ông Nguyễn Văn Cam chính là người quản lý miếu, có nhà ở gần bên cho biết chẳng mấy khi mình phải lo toan, vì thường xuyên có bà con bán buôn dưới chợ Hoà Bình lên, lúc lại là chị bán vé số ngoài cửa khẩu ghé vào quét dọn và chăm lo nhang đèn, bông trái.

Ông chỉ còn phải lo mỗi một việc lớn thôi, là chuyện tu bổ, sửa sang ngôi miếu. Lần gần đây nhất vào tháng 4.2023, giữa lúc đại dịch Covid-19 hoành hành; trước nữa là lần xây lại miếu sau khi kết thúc chiến tranh biên giới Tây Nam.

Năm ấy, miếu đã bị đốt phá tan hoang, không gì còn sót lại. Khi xây lại, miếu cũng được quay về hướng núi Bà Đen. May mắn là các chiến sĩ Biên phòng cũng tìm lại được một cái lư hương, di vật của người xưa được đẽo tạo sơ sài bằng đá núi.

Nay miếu cũng đã đàng hoàng như nhiều ngôi thờ Bà ở các miền quê khác. Kích thước mặt bằng là 6m x 7,5m, chỉ có một gian và một vách ngăn chia làm hai nhịp trước, sau.

Nhịp trước là bàn thờ chính với bên phải đặt tượng thờ Bà Chúa Xứ Nguyên Nhung, bên trái đặt tượng Mẹ Địa Mẫu và năm vị Ngũ Hành nương nương theo quan niệm dân gian truyền thống. Đấy chính là tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt có ở khắp nơi trong nước.

Năm 2023, UNESCO đã công nhận di sản “thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu tam phủ của người Việt”. Tín ngưỡng này cũng đã được các tôn giáo tiếp thu trong giáo lý, lễ nghi để thu hút tín đồ. Chung quanh ngôi miếu chính còn có các ngôi miếu nhỏ thờ các ông Tà, binh gia tướng, Địa tạng vương và chiến sĩ…

Gian phía sau miếu chính có các bàn thờ tiền tổ, hậu tổ và cửu huyền thất tổ. Dường như không thiếu một vị nào trong tập hợp các thánh thần được tích hợp thờ trong các ngôi đình miếu miền Nam.

Lễ cúng lớn nhất ở miếu Bà Phước Tân là vào ngày 23 và 24 tháng 4 âm lịch, trùng với ngày lễ hội vía Bà ở núi Sam Châu Đốc, An Giang. May sao, năm Canh Tý 2023 có đến hai tháng 4 do nhuận, nên đến 24 tháng 4 nhuận, tức ngày 15.6, miếu lại tưng bừng lễ vía Bà.

Có lẽ đây cũng là lễ hội đầu tiên trên vùng Bắc Tây Ninh kể từ khi xảy ra dịch bệnh Covid-19. Cũng vì thế lễ hội miếu ở Phước Tân, dù chưa được như mọi năm nhưng đã trở lại trong trạng thái bình thường mới, với đủ các màu sắc, âm thanh làm nô nức lòng người.

Trên sân miếu bày la liệt các mâm vàng, hương và những toà tháp bằng giấy trang kim vàng chói; lại có những bàn bày quả phẩm, lễ vật, nhang đèn cùng với xôi, chè, chén hoa cúc vàng ươm nghi ngút hương hoa. Trên các ban thờ đầy ắp các vật phẩm cúng với trầu cau, bông, trái… Tuy là cúng chay, nhưng cũng có một mâm “tam sên” với đủ hột vịt, thịt heo, tôm khô cùng một con gà luộc. Mâm cúng này sau đó được dâng vào miếu thờ chiến sĩ.

Điều đặc biệt trong lễ vía Bà ở Phước Tân chính là nghi thức cúng lễ. Nghi lễ có cả màn hát chầu mời do các nghệ nhân lão thành thực hiện rất đậm màu lễ nghi truyền thống xa xưa.

Sau nữa là trống và lân do các toán trai tráng biểu diễn thật rầm rộ, tưng bừng. Song, điều người ta chờ đợi nhiều nhất vẫn là các màn múa mâm vàng, hát bóng. Khi ấy, các vật phẩm cúng gồm nhang đèn, hoa cúc, mâm vàng… được dâng lên ban thờ chính bằng những màn múa điệu nghệ và đẹp mắt. Ngoài các nghệ nhân tuổi cao, còn có cả “nam thanh, nữ tú” phô diễn những điệu múa biến ảo linh hoạt mà vẫn thành kính trang nghiêm… Trong khi ấy, dòng người vẫn đổ về miếu Bà.

Họ tiếp tục dâng lên những hoa thơm và trái ngọt của khắp miền quê kiểng Thành Long. Hớn hở, vui tươi nhưng từ tốn và trật tự. Một mùa bình thường mới đã trở về trong ngày đầu tiên cúng miếu Phước Tân. Ai cũng cầu mong cho “Phong điều vũ thuận, Quốc thái dân an”, để quê hương thật sự trở lại bình thường sau mấy tháng gian nan chống dịch.

TRẦN VŨ

Lễ Hội Miếu Bà Ngũ Hành

Lễ hội Miếu Bà Ngũ Hành Cùng với lăng ông Nam Hải và đình thần Thắng Tam, miếu Bà Ngũ Hành tạo thành một quần thể kiến trúc di tích và lễ hội tập trung tại khu đình thần Thắng Tam.  Miếu Bà Ngũ Hành được sáng lập và xây dựng vào năm Nhâm Thìn 1832, được vua Thiệu Trị tặng cấp 04 đạo sắc Thiên Y A Na Diễn Ngọc Phi Thượng Đẳng Thần vào năm 1845-1846. Vua Tự Đức tặng cấp 02 đạo sắc Thiên Y A Na Thần Nữ Thượng Đẳng Thần và Thủy Long Thần Nữ thượng đẳng thần vào năm 1850. Tên miếu được nhân dân gọi theo đối tượng thờ cúng chính trong miếu, được ghi rõ trên bức hoành treo trước cửa chính điện: “Ngũ Hành miếu”. Nhiều người gọi miếu Ngũ Hành là miếu Bà ngũ hành, còn ngư dân địa phương thường gọi là miếu Bà (các đối tượng thờ trong miếu đều là bà).

Lễ hội Miếu bà Ngũ hành được tổ chức hàng năm trong ba ngày, từ 16 đến 18 tháng 10 âm lịch.Thông thường từ 6 giờ sáng ngày 16 tháng 10, người ta tổ chức lễ nghinh Bà. Đám rước gồm có chủ lễ, học trò lễ, dân làng với kiệu, bàn thờ bài trí ngũ sự, trầu cau, hoa quả, rượu trà, cờ ngũ hành, chiêng trống, đoàn múa lân… Ra miếu hòn Bà – bãi Sau nghinh Bà về Miếu Ngũ Hành cúng lễ.

Điều đặc biệt của lễ nghinh Bà ngũ hành khác với nghinh Ông là đám rước đi bộ trên đất liền, không dùng ghe, kể cả khi hòn Bà (nằm cách bờ biển chừng 50 mét, vì vậy người ta thường chọn khi thủy triều xuống mới ra nghinh Bà). Từ hòn Bà, đám rước theo đường Thùy Vân, qua đường phan Chu Trinh ra đường Hoàng Hoa Thám về khu đình thắng chúng tôi khi nghinh Bà về đến miếu, khoảng 8 giờ – 8 giờ 30 tổ chức nghi cúng giỗ tiền hiền – hậu hiền.Trước khi cúng chính lễ, khoảng 11 giờ tổ chức Bóng rỗi, chầu mời, với ý nghĩa mời Bà về dự lễ và múa dâng mâm vàng, mâm bạc cho bà.

Đúng 12 giờ trưa bắt đầu nghi lễ cúng ngũ hành. Đây là chính lễ, vừa cúng nghinh vừa cúng tạ thần. Bắt đầu vào lễ cúng, người ta đánh ba hồi chiêng trống ( một chấp sự đánh chiêng, một chấp sự đánh trống). 8 học trò lễ và 6 đào thài thực hiện những nghi thức truyền thống. Trước bàn thờ ngũ hành bốn phụ nữ quỳ chuẩn bị tế lễ: gồm 1 chánh tế, 1 bồi tế, hai bên là đông hiếu và tây hiếu. Tiếp theo là 4 người trang phục lính hầu, tay cầm mác. Chủ lễ cúng thần dâng một tuần hương, ba tuần rượu, một tuần trà. Người ta chuẩn bị một Bà cốt, chủ tế cúng nguyện và bà nhập vào bà cốt. Thông qua bà cốt, thần sẽ chuyển tải những điều cần mách bảo cho dân làng. Sau cùng chủ lễ hóa văn tế (gọi là sớ). Những người tham dự cúng lễ lần lượt lạy tạ Bà và bày tỏ những ước nguyện của mình và gia đình, cầu mong Bà độ trì và giúp đỡ.

Bên cạnh việc tổ chức nghi lễ, thường là hát bội: diễn các vở Phan Thế Ngọc đả lôi đài, Sở Văn cứu giá, mai trắng xe duyên, xử án phi giao, lễ tôn soái Dương Kim Huệ … Ngay trong buổi chiều của ngày cúng lễ đầu tiên, ban quý tế đã tổ chức lễ đại bội và đến khoảng 3 giờ chiều diễn sơ cổ kịch bản. Dân làng Thắng Tam thường gọi là lễ trình tuồng. Sau đó là bóng rỗi, múa mâm vàng, mâm bạc dâng Bà.

Di tích, lễ hội miếu Bà Ngũ Hành có chiều hướng thu hút đông đảo người tham dự, không chỉ cộng đồng dân cư thành phố Vũng Tàu mà còn nhiều cộng đồng dân cư khác trong Tỉnh và cả nhiều du khách thập phương trở thành phong tục tốt đẹp của địa phương, của lễ hội. Di tích có những đặc điểm riêng gắn liền với lịch sử, tín ngưỡng, phong tục tập quán của cư dân Vũng Tàu là điểm tựa tinh thần, nơi vui chơi giải trí, giao lưu cộng cảm và trao truyền đạo lý.

TTTTXTDL

Văn Khấn Tại Miếu Làng

Văn khấn tại miếu làng

Trước tiên ta cần tìm hiểu về Đình, Đền, Miếu được dùng để thờ phụng ai?

Từ bao đời nay, Đình Làng đã là nơi gắn bó với tâm hồn của bao người con đất Việt. Đình Làng là nơi chứng kiến bao nhiêu hình ảnh sinh hoạt trong đời sống xã hội của mỗi vùng miền quê Việt

Nam. Nhưng có một điều mãi không thay đổi là những giá trị về tâm linh mà ngôi đình bao đời nay luôn thờ cúng.

1 – Đình

Đình là một dạng công trình kiến trúc cổ truyền thường gắn liền với làng quê con người Việt Nam. Đình là nơi tụ họp, hội hè của người dân cũng là nơi thờ cúng đức thánh Thành Hoàng của một

làng quê hay một vùng miền

Về xuất phát ban đầu, Đình là nơi dừng trạm để nghỉ của các làng mạc Việt Nam. Đến thời nhà Trần, vua Trần Nhân Tông cho đắp các tượng Phật ở các đình quán. Sau đó, vào thời Lê sơ – khoảng

thế kỉ XV, các đình làng bắt đầu là nơi thờ Thành Hoàng làng và là nơi hội họp của dân chúng.

Đình làng đồng kỵ

Đình làng xưa kia thường được đặt ở vị trí ngay cổng làng hay khu đất cao nhất trong làng, là trung tâm làng xã, địa điểm thoáng đãng nhìn ra sông nước. Trong tiềm thức văn hóa người Việt Nam, Đình làng gắn liền với

hình ảnh cây đa, giếng nước, là địa điểm sinh hoạt chung và hồn vía của làng xã.

2 – Đền

Đền là một dạng công trình kiến trúc tâm linh được xây dựng để thờ cúng một vị thần hoặc một danh nhân quá cố. Ở Việt Nam thì các đền thờ thường được xây dựng để ghi nhớ công ơn của các vị

anh hùng có công với đất nước hay công đức của một cá nhân với địa phương được dựng lên theo truyền thuyết dân gian (ví dụ như ông Tổ của các làng nghề,…)

Thông thường, Đền và Đình của một ngôi làng cùng dùng để thờ cúng một vị hoặc cả vợ chồng vị thánh bảo hộ của ngôi làng. Theo quan niệm dân gian Việt Nam, Đền là nơi ở, nơi nghỉ của Đức

Thánh vào ngày thường, còn Đình là nơi đức ngài làm việc, ghi nhận đức tin của người dân trong làng.

Đền Làng Kho – Ninh Bình

3 – Miếu

Miếu là một dạng di tích văn hóa trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam, có quy mô nhỏ hơn đền ( Miếu thờ nhỏ ). Miếu thường được đặt ở xa làng xã, là nơi yên tĩnh, thiêng liêng và thờ các vị Thánh

Thần. Khi miếu phối hợp với thờ Phật thì được gọi là Am, ở Nam Bộ còn gọi là Miễu.

Miếu ( Miễu ) và Đền về kiểu mẫu thì giống nhau, chỉ khác nhau về quy mô lớn nhỏ. Các miếu thờ nhỏ như miếu thổ thần, thủy thần, sơn thần, miếu cô, miếu cậu, miếu thần linh,…

Ngày nay, theo nếp xưa của người Việt Nam ở khắp mọi miền làng quê đất nước hàng năm vẫn đi lễ, đi trẩy Hội ở các Đình, Đền, Miếu vào các ngày lễ, tết, tuần tiết, sóc, vọng và ngày Hội, để tỏ

lòng tôn kinh, ngưỡng mộ biết ơn các bậc Tôn thần đã có công với đất nước.

Đình, Đền, Miếu cùng với sự lưu truyền lịch sử Linh – Diệu của các thánh thần trong nhiều trường hợp đã đi vào trang sử oai hùng của dân tộc Việt Nam góp phần không nhỏ vào việc duy trì tình

cảm yêu nước.

Nơi thờ tự Đình, Đền, Miếu còn là những nơi sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng tôn giáo mà con người hy vọng rằng bằng những hành vi tín ngưỡng, có thể cầu viện đấng Thần linh phù hộ cho bản

thân, cùng gia đình, cộng đồng được an khang, thành đạt và thịnh vượng, yên bình, biến hung thành cát, giải trừ tội lỗi,…

Miếu An Sơn – ở Côn Đảo

Việc sắm đồ lễ kĩ càng một phần tỏ tường lòng thành kính của người đi lễ với bậc Thánh Thần. Có như vậy mới mong điều ước sớm tới tai bề trên, được ngài soi xét, phù trợ

– Lễ Chay: Gồm hương hoa, trà, quả, phẩm oản…,

– Lễ Mặn: Gồm xôi, gà, lợn, giò, chả… được làm cẩn thận, nấu chín.

– Lễ đồ sống: Gồm trứng, gạo, muối hoặc thịt mồi (một miếng thịt lợn khoảng vài lạng)

– Lễ vàng mã: tiền, vàng, nón, hia…

Văn khấn tại miếu làng, Đình, Đền, Miếu

– Con lạy chín phương trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.

– Con kính lạy Hoàng Thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.

– Con xin kính lạy ngài Kim Niên Đương cai Thái tuế chí đức Tôn thần.

– Con kính lạy ngài Bản cảnh Thành Hoàng chư vị Đại Vương.

Hưởng tử con là …………………………………………………… Tuổi ………………………….

Ngụ tại…………………………………………………………………………………………………….

Hôm nay là ngày…… tháng……năm…..( âm lịch)

Hương tử con đến nơi ………………………………………….. (Đình hoặc Đền hoặc Miếu) thành tâm kính nghĩ: Đức Đại Vương nhận mệnh Thiên đình giáng lâm ở nước Việt Nam làm Bản cảnh Thành Hoàng

chủ tể một phương bấy nay ban phúc lành che chở cho dân. Nay hương tử chúng con thành tâm sắm sửa dâng lên lễ bạc hương, hoa, lễ vật, kim ngân, trà quả, bầy ra trước án. Đốt nén hương thơm, trình cáo

Cầu mong đức Bản cảnh Thành hoàng chư vị Đại Vương chứng giám, rủ lòng thương xót, phù hộ che chở cho chúng con sức khoẻ dồi dào, mọi sự tốt lành, lắm tài nhiều lộc, an khang thịnh vượng,

sở cầu như ý, sở nguyện tòng tâm. Hương tử con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.

Phục duy cẩn cáo!

Cách hạ lễ ở Đình, Đền, Miếu khi cúng xong

Sau khi kết thúc bài văn khấn, lễ ở các ban thờ, thì trong khi đợi hết một tuần nhang có thể viếng thăm phong cảnh nơi thừa tự, thờ tự.

Khi thắp hết một tuần nhang có thể thắp thêm một tuần nhang nữa. Thắp nhang xong, vái 3 vái trước mỗi ban thờ rồi hạ tiền, vàng… (đồ mã) đem ra nơi hoá vàng để hoá. Khi hoá tiền, vàng… cần hoá từng lễ một, từ lễ của ban thờ chính cho tới cuối cùng là lễ tiền vàng… ở ban thờ Cô thờ cậu.

Hoá tiền vàng xong mới hạ lễ dâng cúng khác. Khi hạ lễ thì hạ từ ban ngoài cùng vào đến ban chính.

Riêng các đồ lễ ở bàn thờ Cô, thờ Cậu như gương, lược… thì để nguyên trên bàn thờ hoặc giả nơi đặt bàn thờ này có nơi để riêng thì nên gom vào đó mà không đem về

Hy vọng qua bài viết này sẽ giúp ích cho bạn đọc và người thân mỗi dịp sửa lễ dâng lên đức Thành Hoàng.

Xin cảm ơn!

Hình ảnh các mẫu miếu thờ nhỏ, Am thờ chế tác bằng đá tại Ninh Bình

Miếu thờ thần linh

Miếu thành hoàng bằng đá tự nhiên đẹp giá rẻ 55

Miếu quan âm trang thờ phật đẹp bằng đá tại

Miếu sơn thần miếu thờ thần linh đẹp tại công ty

Mẫu miếu ông hổ miếu thờ sơn thần

Mẫu miếu quan âm ngoài trời bằng đá đẹp

Miếu thành hoàng bằng đá tự nhiên

Mẫu am thờ ngoài trời thờ quan âm bồ tát bằng đá khối đẹp

Am thờ bằng đá thờ thần linh ngoài trời

Miếu thờ thần linh thổ thần bằng đá đẹp

Miếu ông hổ miếu thờ sơn thần đẹp

Miếu nhỏ thờ thần linh bằng đá vàng tại nhà

Miếu nhỏ thờ thần linh thổ thần bằng đá trắng

Mẫu miếu nhỏ thờ ngoài trời bằng đá đẹp

Miếu nhỏ thờ thần linh ngoài trời bằng đá vàng đẹp

Miếu nhỏ thờ thần linh ngoài trời bằng đá vàng đẹp

Mẫu miếu nhỏ thần linh bằng đá đẹp nhất

Mẫu miếu nhỏ thờ ngoài trời thờ thần linh bằng đá