Tụng Kinh Cúng Giỗ / Top 10 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 5/2023 # Top View | Apim.edu.vn

Nên Tụng Kinh Gì Vào Ngày Giỗ?

Ngày giỗ: Ý nghĩa tục lệ cổ xưa

Ngày giỗ còn gọi là húy nhật hay kỵ nhật, là ngày mất của một người tính theo âm lịch, là dịp để con cháu và người thân hàng năm tổ chức cúng cơm tưởng nhớ đến người đã khuất, đồng thời cùng nhau gặp mặt nhận họ nhận hàng và bàn bạc những công việc chung của gia đình, dòng họ.

Cúng giỗ tổ tiên, ông bà, cha mẹ, được coi là việc báo hiếu, là ngày con cháu tưởng nhớ đến công lao sinh thành, xây nền đắp móng của các bậc tổ tiên, và để cầu xin vong linh các bậc tiền bối phù hộ độ trì cho con cháu, cho gia đình, dòng họ.

3 ngày giỗ không thể quên dành cho các gia đình có người thân mới mất

Trong tục lệ cúng giỗ, căn cứ thời gian qua đời của người quá cố người ta lưu ý đến 3 ngày giỗ với những nghi thức khác nhau, đó là: Giỗ Đầu, Giỗ Hết và Giỗ Thường.

Ngày giỗ đầu:

Giỗ Đầu còn gọi là lễ Tiểu Tường, là ngày giỗ đầu tiên, tổ chức sau ngày người mất đúng một năm. Đây là thời gian còn nằm trong kỳ tang chế, nên ngày giỗ vẫn còn mang không khí buồn thảm, bi ai.

Trong ngày Giỗ Đầu, người ta thường tổ chức rất trang nghiêm. Con cháu vẫn mặc đồ tang phục (ngày nay đa số chỉ đeo băng tang trên ngực), một số gia đình lúc tế lễ và khấn gia tiên, thân nhân của người quá cố vẫn khóc than, tạo không khí nhớ thương buồn thảm. Khách đến ăn giỗ luôn ăn mặc chỉnh tề, giữ thái độ trang nghiêm, không cười đùa hoặc có những cử chỉ thiếu sự nghiêm túc.

Ngày giỗ hết

Giỗ Hết còn gọi là lễ Đại Tường, là ngày giỗ sau ngày người mất hai năm. Theo tục lệ thì thời gian này cũng vẫn nằm trong kỳ tang chế nên người ta vẫn tổ chức lễ giỗ với nghi thức trang nghiêm.

Ngày giỗ hết được cho là ngày giỗ quan trọng nhất trong tất cả những ngày giỗ đối với người qua đời, bởi nó đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đời của người còn sống cũng như đối với vong linh của người đã khuất. Chính vì vậy Giỗ hết thường được tổ chức long trọng, con cháu, người thân thường có mặt đông đủ, khách mời dự cũng được mở rộng.

Sau lễ Giỗ Hết ba tháng (tức sau 27 tháng để tang người mất), người nhà sẽ chọn một ngày tốt để làm lễ Đoạn tang (hết tang). Lễ Đoạn tang còn gọi là lễ Đàm tế hay lễ Trừ phục (bỏ hết mọi đồ tang phục). Trong lễ này người ta làm ba việc chính sau đây:

– Sửa sang, đắp điếm cho mộ phần to đẹp thêm.

– Đốt hủy các thứ thuộc phần tang lễ như: khăn áo, băng tang, gậy chống, rèm sô, câu đối, trướng điếu…, bỏ bàn thờ vong để rước linh vị vào bàn thờ gia tiên.

– Cáo yết tổ tiên để xin cho rước bát hương vào bàn thờ gia tiên.

Sau khi làm lễ, người nhà đưa linh vị, di ảnh và bát hương thờ vong linh người quá cố vào thờ chung ở bàn thờ gia tiên theo thế thứ sắp đặt. Người ta cũng có thể lấy 3 chân nhang ở bát hương người quá cố cắm chung vào bát hương hội đồng ở bàn thờ gia tiên thay cho việc chuyển cả bát hương lên.

Sau lễ này người đang sống sẽ trở lại cuộc sống thường nhật, có thể tham gia các tổ chức hội hè, đình đám, vui chơi; người vợ có chồng chết có thể đi bước nữa.

Trong cuộc sống hiện nay, nhiều người đã có những nhận thức mới, đa số đều thực hiện sau Giỗ Hết là bỏ tang chế. Đặc biệt, đối với những người chết được hỏa táng thì người ta cho rằng họ đã sớm được “sạch sẽ” nên lễ Đoạn tang sẽ tiến hành ngay sau Giỗ Hết chứ không phải chờ thêm 3 tháng nữa, thậm chí có gia đình ngay sau lễ Tốt Khốc (100 ngày) đã đưa di ảnh và chân hương lên thờ chung ở bàn thờ gia tiên.

Ngày giỗ thường

Giỗ Thường còn gọi là ngày Cát kỵ, là ngày giỗ sau ngày người mất từ ba năm trở đi. Cát kỵ nghĩa là Giỗ lành. Trong lễ giỗ này, con cháu mặc đồ thường phục, không còn mặc tang phục nữa.

Đây là dịp để con cháu sum họp vừa để tưởng nhớ người đã khuất, vừa vui vẻ nhận biết người thân, giới thiệu họ hàng, bàn những chuyện về gia đình, dòng họ. Thường thì ngày Cát kỵ được tổ chức nhỏ gọn hơn, chủ yếu trong phạm vi gia đình chứ không mời khách khứa rộng rãi như hai kỳ Giỗ Đầu và Giỗ Hết.

Ngày giỗ nên tụng kinh gì? Tụng như thế nào?

Đến ngày giỗ ông bà cha mẹ mà không đủ duyên hay không có điều kiện mời chư Tăng Ni tụng kinh siêu độ thì con cháu trong nhà nên tụng kinh để cầu nguyện, báo hiếu.

Thường thì vào đêm trước ngày giỗ, sau khi sắm lễ hương đèn hoa quả dâng cúng Phật và gia tiên, con cháu tập trung trước bàn thờ Phật tụng một biến kinh A Di Đà, theo như những chỉ dẫn của Nghi thức Cầu siêu trong kinh Nhật tụng. Bạn nên chọn kinh Nhật tụng tiếng Việt (tránh âm Hán-Việt) để vừa trì tụng và có thể hiểu nghĩa lý trong kinh.

Sang ngày hôm sau, đúng ngày giỗ, vào buổi trưa hoặc buổi tối, bạn sắm một mâm cỗ chay dâng cúng hương linh. Lễ phẩm thì tùy tâm, cốt là “lễ bạc mà lòng thành”, nên hạn chế đến thấp nhất rượu bia, vàng mã. Nếu không thuộc văn cúng, bạn có thể thành tâm khấn nguyện, rót nước, lễ lạy trước bàn thờ gia tiên thỉnh cầu chư hương linh thọ dụng, chứng minh cho sự hiếu thảo của con cháu là được.

Nếu các gia đình có thời gian thì trong ngày giỗ, tổ chức tụng kinh cầu siêu trước, kế đến cúng giỗ cùng trong một ngày lại càng hay.

Tamlinh.org (tổng hợp)

Ngày Mùng 1 Tụng Kinh Gì Và Tụng Kinh Thế Nào Cho Đúng?

Tụng kinh mùng 1 đầu tháng tại nhà là cách để cầu mong những điều tốt đẹp, may mắn đến với gia đình. Vậy ngày mùng 1 tụng kinh gì?

Cứ đến ngày rằm và mùng 1 đầu tháng, người Việt có phong tục đi lễ chùa để nghe kinh tụng và cầu an đến với người thân trong gia đình

Cứ đến ngày rằm và mùng 1 đầu tháng, người Việt có phong tục sắm lễ cúng tại nhà để cầu sức khỏe, bình an, vạn sự như ý. Đồng thời, mọi người còn đi lễ chùa để nghe kinh tụng và cầu an đến với người thân trong gia đình. Vậy ngày mùng 1 tụng kinh gì cho đúng với phong tục.

Tụng kinh là đọc một cách thành kính những lời dạy của đức Phật. Đây là cách để thấm nhuần những tư tưởng tốt đẹp, hướng thiện của Phật giáo và thực hành trong cuộc sống hàng ngày. Song song đó, đây là cách giúp chúng ta tịnh tâm, tạo phúc lành rất tốt.

Tụng kinh mùng 1 đầu tháng là cách để cầu mong những điều tốt đẹp, may mắn đến với gia đình

Việc tụng kinh được thực hiện ở chùa với không khí trang nghiêm và có các sư thầy chỉ bảo vẫn là tốt hơn cả. Tuy nhiên, nếu không có điều kiện thì chúng ta có thể tụng kinh ở nhà cũng rất tốt.

Tu tại gia sẽ giúp chúng ta có một đời sống nội tâm an tịnh và sâu sắc. Các Phật tử tự tu tập hàng ngày ở gia đình thường nương vào kinh Phật tụng để tu hành. Tu tại gia sẽ bao gồm các việc như đọc kinh Công phu khuya vào buổi sáng, buổi tối tụng đọc Nghi thức Tịnh độ, tụng kinh Nhật tụng, thực hành ăn chay, niệm Phật và duy trì đều đặn các thời khóa.

Ngày mùng 1 tụng kinh gì?

Theo giáo lý đạo Phật, nghi thức tụng kinh nhằm để cầu an và cầu siêu. Có thể hiểu đơn giản cầu an là cầu cho một người nào đó được khỏe mạnh, an lạc và hạnh phúc. Còn “cầu siêu” là nguyện vọng hay mong muốn người chết được siêu độ, siêu thoát hay được sanh về thế giới chư Phật.

Trong ngày mùng 1 và 15 âm lịch hàng tháng, nên tụng đọc kinh Phổ môn

Nhìn chung các bộ kinh đều có tác dụng phá trừ mê mờ, khai mở tâm trí. Do đó, có thể chọn tụng bộ kinh nào cũng được chỉ cần chúng ta chí thành đọc tụng.

Tuy nhiên, chúng ta nên lựa đọc những bộ kinh nào phù hợp với căn cơ và sở nguyện của mình. Những kinh thường được trì tụng ở nước ta từ xuất gia cho đến tại gia có thể kể đến như: Hồng Danh, Di Đà, Vu Lan, Phổ Môn, Dược Sư, Địa Tạng, Lăng Nghiêm, Kim Cang, Pháp hoa…

Với mỗi hoàn cảnh, mỗi trường hợp cần chọn một bộ kinh cho thích hợp để tụng như: cầu an thì tụng kinh Phổ Môn, Dược Sư,cầu siêu thì tụng kinh Di Đà, Vu Lan… cầu sám hối thì tụng kinh Lương Hoàng Sám, Thủy Sám…

Tụng kinh mùng 1 Tết có ý nghĩa là như một nghi thức đề cầu an cho năm

Tụng kinh ngày mùng 1 hàng tháng và tụng kinh mùng 1 hôm rằm là việc cần làm nhằm để cầu mong mọi chuyện suôn sẻ, thuận buồm xuôi gió. Trong ngày mùng 1 và 15 âm lịch hàng tháng, nên tụng đọc kinh Phổ môn. Trong ngày 14 và 30 âm lịch hàng tháng cần thực hiện lễ sám hối theo Nghi thức Sám hối .

Như vậy, kinh mùng 1 Tết là kinh cầu an và có ý nghĩa là như một nghi thức đề cầu an cho năm.

Trước khi tụng kinh mùng 1, phải tẩy trần sạch sẽ, ăn mặc chỉnh tề, tư thế ngồi đứng đoan chính, tụng vừa đủ nghe

Trước khi tụng kinh mùng 1, phải tẩy trần sạch sẽ, ăn mặc chỉnh tề, tư thế ngồi đứng đoan chính, tụng vừa đủ nghe.

Có 2 thời gian cố định chọn để tụng kinh đó là buổi khuya và buổi tối. Thời khuya, thường tụng chú Lăng Nghiêm và Đại bi thập chú. Còn buổi tối là tụng Kinh Di Đà. Trong mỗi quyển kinh đều có ghi rõ phần nghi thức tụng kinh ở phần đầu trước. Phật tử có thể tiến hành theo đó.

Những đồ dùng gia đình như cốc, ly, chén, gương, bát được làm bằng thủy tinh nên thường rất dễ vỡ và dễ khiến gia chủ lo lắng. Vậy, Mùng 1 Tết làm vỡ bát hay gãy đũa là điềm gì? Cách hóa giải thế nào?

Tụng Kinh, Lạy Phật, Sám Hối

Trong quá trình tiến tu, Thái tử Sĩ Ðạt Ta ngồi thiền định dưới cội bồ đề trong 21 ngày là đạt quả vị Vô thượng Ðẳng giác. Còn chúng ta đầy phiền não, nên ngồi yên thì trần lao hiện ra. Chẳng những không thành Phật, mà tu một lúc chúng ta trở thành hung ác, phiền muộn. Ðó là vì chúng ta chất chứa toàn nghiệp trần lao, nên khi tu, tâm phiền não này có sẵn và tự động bộc phát. Trái lại tâm đức Phật có toàn hột giống thanh tịnh, nó tự nảy mầm, kết thành quả Bồ đề khi Ngài tư duy, thâm nhập thiền định. Có thể ví tâm nhơ bẩn của chúng sinh như đất có sẵn hột cỏ, gặp phân, nước, cỏ lên nhanh. Chúng ta tự xác định mình là chúng sanh với đầy đủ chúng sanh nghiệp, chúng sanh phiền não, nên không thể nào làm như Phật. Từ thân phận chúng sanh phàm phu ấy khởi tu, chúng ta cần nỗ lực chuyển nghiệp trước. Ðức Phật dạy rằng quá trình tu tập để chuyển nghiệp không đơn giản, phải trải qua 3 a-tăng-kỳ kiếp mới chuyển được tất cả nghiệp ác của chúng ta.

Mỗi a-tăng-kỳ kiếp là thời gian vô định, tùy thộc vào năng lực tu hành của từng người khác nhau. A-tăng-kỳ thứ nhất, chúng ta làm sao cho sạch nghiệp, đắc được quả vị A La Hán, mới coi như hoàn tất giai đoạn một. Bước qua a-tăng-kỳ thứ hai, chúng ta tu quán nhân duyên và phát sanh được trí huệ vô lậu, thấy được quá khứ cùng mối tương quan của ta và người. Và ở a-tăng-kỳ thứ ba, chúng ta phải tu Bồ Tát đạo cho viên mãn. Như vậy, một đời người không thể nào thực hiện trọn vẹn 3 việc: thanh tịnh hóa thân tâm, phát sanh trí tuệ và thực hiện đầy đủ công đức. Thành tựu 3 việc này rồi, mới ngồi Bồ Ðề đạo tràng 21 ngày, phá ma quân, thành Vô thượng Ðẳng giác.

Ý thức tinh thần Phật dạy như thế, chúng ta tự biết không thể tu chân thật môn để tiếp cận được chân lý. Từ đó, chúng ta phải trở lại tu phương tiện của đức Phật, tức tạo điều kiện để chúng ta thâm nhập Phật đạo. Phương tiện mà chúng ta thường tu là đọc tụng kinh điển, kết hợp với tu thiền quán. Vì có đọc kinh điển chúng ta mới tâm đắc và suy nghĩ về lời Phật dạy. Chúng ta đọc tụng và quán sát 12 bộ kinh là 12 vấn đề lớn của đức Phật dạy, đó là bước đầu quán sát giáo pháp Pháp thân. Vì chúng ta không thể thấy trực tiếp Pháp thân Phật, nên coi lời dạy của Phật là Pháp thân Ngài.

Trong thời gian này, chúng ta siêng năng đọc tụng kinh điển và ngồi yên quán sát lời dạy đó để ứng dụng trong cuộc sống. Lúc ấy chúng ta chỉ mới tu trong tâm. Phương tiện này giúp tâm ta thanh tịnh dễ dàng. Thật vậy trên bước đường tu, chúng ta tự làm cho tâm thanh tịnh không đơn giản. Ðiển hình như Kiều Trần Như hay Xá lợi Phất tu trải qua 60 kiếp cũng không đắc được A La Hán. Nhưng có đức Phật đắc đạo rồi, giống như có người phát minh ra chân lý, chúng ta chỉ cần nghiên cứu chân lý thì dễ hơn, còn tự tìm ra không nỗi. Chúng ta dễ đắc đạo nhờ nương theo giáo pháp Phật có sẵn, suy nghĩ, chứng nghiệm trong cuộc sống. Tu theo pháp Phật, quán sát pháp, phiền não chúng ta tự lắng yên.

Tôi tâm đắc pháp tu này, vì khi đọc tụng lời Phật, tôi tự cảm thấy an lành, tức lấy hình ảnh đẹp để xóa hình ảnh xấu trong lòng. Tu đúng pháp như vậy, mỗi niệm tâm, ta cảm thấy thăng hoa cuộc sống tâm linh, dần dần đẹp, khỏe, giàu, được kính trọng thêm; vì đã lấy Phật đức trang nghiêm thân tâm. Cách tu này có kết quả nhanh nhất. Thật vậy, ta là phàm phu, nhưng khoác áo Phật vào thân, đưa pháp Phật vào lời nói, lấy tâm Phật gắn vào tâm chúng ta, thì chúng ta trở thành biểu tượng của Phật.

Như vậy, chỉ mới quán pháp Phật, có giáo pháp Pháp thân thôi, mà chúng ta biến thành thường trú pháp thân Phật, vì lời nói, suy nghĩ, việc làm của chúng ta giống Phật, khiến người liên tưởng đến Phật. Không làm được như vậy, mà chúng ta tu mang hình thức tu, là phạm tội phá pháp. Suy nghĩ lời Phật dạy là Thiền và đọc tụng kinh điển là Giáo; kết hợp hai pháp phương tiện này lại để tu mới có kết quả tốt. Vì đọc kinh suông, không suy nghĩ, không hiểu nghĩa, cũng chẵng có tác dụng gì. Và không thiền thì làm sao phát sanh trí tuệ.

Trong quá trình tu đọc tụng kinh điển và thiền quán, mỗi ngày phiền não chúng ta lắng yên và tâm trí trở nên sáng suốt. Còn để nguyên phiền não mà đọc tụng kinh thì chúng ta quên lời Phật dạy, không áp dụng được trong cuộc sống lẫn lộn Phật và ma, tất nhiên đầu óc cũng u mê. Ngoài việc sử dụng pháp tụng kinh kèm với thiền quán, chúng ta còn có pháp phương tiện thứ hai là lạy Phật và thiền quán.

Người đọc tụng kinh điển, nhưng không đạt được kết quả tốt vì không kết hợp pháp đọc tụng kinh với thiền quán, tức miệng đọc mà tâm nghĩ sai trái, nên phước không sanh. Trong lúc đọc tụng kinh và nghĩ đến Phật thì phải hiện tướng bên ngoài tốt, dễ thương; vì Phật dạy tướng tùy tâm hiện. Căn cứ vào lời dạy ấy, nên chưa hiện hảo tướng là biết tâm chúng ta chưa tốt. Ngài Thiên Thai dạy chúng ta phải lạy Phật, sám hối cho đến thấy hảo tướng Phật và hảo tướng ta hiện ra. Thấy hảo tướng Phật, là Phật đã vào tâm ta và sẽ thể hiện ra hình tướng của ta, nên lúc ấy tâm ta mới là thiền, thân mới làm giống Phật. Tu ở giai đoạn hai, chúng ta vừa lạy Phật vừa quán tưởng với tất cả tâm thành. Lạy mà không quán tưởng thì lạy một cách máy móc, lạy hư không hay lạy khối xi măng, làm sao có phước được. Tệ hơn nữa, thân lạy Phật mà tâm khởi niệm ác, chắc chắn đọa.

Trên tinh thần quán tưởng mới là quan trọng, chúng ta phải thiền quán trước thì mới thấy thân ta ở trước Phật và có Phật để chúng ta lạy. Quán được một Phật hay nhiều Phật, hay nói khác nương được lực Phổ Hiền để “nhứt thân phục hiện sát trần thân”, tức đảnh lễ không sót một vị Phật nào, thể hiện tâm thành đạt đến đỉnh cao nhất. Lạy Phật suông không có thiền quán chẳng khác gì chúng ta làm một động tác thể thao, không đạt được lợi lạc nào cho đời sống tâm linh. Lạy kèm theo thiền quán thì lạy xong nét mặt chúng ta sáng ra, vui tươi, không mệt. Mỗi lần tu, chúng ta kiểm chứng việc lạy Phật đúng hay sai bằng cách căn cứ vào kết quả sau khi lạy. Lạy nhẹ nhàng, không tháo mồ hôi, không thấy mệt, tâm hồn thanh thản, an lạc là biết chúng đã nhập tâm, cảm được mười phương Phật, nên hành lễ đạt đến siêu tự nhiên, không biết nóng lạnh, vượt được sự chi phối của ngoại duyên, thâm nhập đạo. Còn lạy Phật đổ mồ hôi đầm đìa, thở không ra hơi, tim đập dồn dập, đến mức sợ không dám lạy nữa là chúng ta đã tu sai pháp.

Người tu đúng phải có kết quả tốt. Chúng ta nỗ lực huân tu Phật pháp, càng đem giáo pháp nhiều vào tâm càng tốt. Riêng tôi, nhờ siêng năng đọc tụng kinh điển, suy gẫm những việc làm cao quý của Phật và Bồ Tát càng thấy thích tu. Và sử dụng phương tiện lạy Phật song hành với thiền quán, nên thấy Phật, mới lạy được Phật, công đức mới sanh, được những điều bất tư nghì như sức khỏe lại tăng theo tuổi đời, tâm hồn an vui theo nghịch cảnh. Tu a-tăng-kỳ kiếp thứ nhất cho đến sạch nghiệp, tức đạt đến vị trí của Bồ Tát đệ bát địa, chuyển A lại da thức thành Bạch tịnh thức thì tâm không còn móng khởi điều gì nữa.

Ðến phương tiện thứ ba, chúng ta sám hối, nhưng cũng phải kèm thea gia công thiền quán. Chúng ta thường chọn ngày 15 và 30 làm lễ sám hối, Phật gọi là ngày trưởng tịnh. Ngày 15 trăng tỏ và 30 không có trăng là thời gian mà mặt trăng ảnh hưởng đến cơ thể chúng ta, tạo thành nhiều chuyển đổI, kể cả tâm lý cũng đổi theo. Ngày ấy chúng ta không tu thì nghiệp ác dễ sanh trưởng. Vì vậy, đức Phật chọn ngày này để tu, không cho làm, sợ sanh phiền não, không phải chọn đó là ngày tốt.

Chúng ta ngồi yên để kiểm điểm lại là vừa sám hối vừa tu tập thiền quán mới thực là sám hối. Có người nghĩ lạy Phật sẽ hết tội, nhưng Phật không bắt tội cũng không tha tội cho ta được. Ngài không đẩy ta vào địa ngục, cũng không đưa ta lên thiên đàng. Chúng ta không cầu xin Phật. Nhưng tại sao chúng ta lạy Phật? Lạy Phật và sám hối chính là mượn hình ảnh thánh thiện trọn lành của Phật để thay thế hình ảnh xấu ác, tội lỗi. Vì thế, tu sám hối, chúng ta phải quán được 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp của Ngài, 3.000 oai nghi, 80.000 tế hạnh, đem đức tướng ấy của Phật so với thân ô uế, tội lỗi, dễ ghét của chúng ta, để thấy rõ chúng ta phạm những sai lầm gì mà ra nông nỗi này và đức Phật tạo phước đức gì mà Ngài cao sang như vậy. Muốn biết tội đời trước, chúng ta nhìn thành quả đời này của mình. Ðời trước sát sanh hại mạng, gian tham nên đời này bệnh hoạn, yếu đuối, nghèo khó.

Chúng ta sám tiền khiên, hối hậu quá, nghĩa là nhận ra sai lầm quá khứ và ăn năn, không tái phạm. Chúng ta theo Phật, hiện tại cứ lo làm việc tốt thì hạt giống tốt tự lên, lâu ngày điều tốt này thay cho sai lầm xấu của quá khứ. Còn chúng ta cứ sống với xấu ác quá khứ thì một thời gian sau, xấu ấy sẽ bộc phát thành hiện tại. Nếu ác nghiệp cũ không khởi hiện hành thì nó cũng bị hư hoại luôn. Kiểm chứng kết quả tu thấy chúng ta không còn giận, không còn buồn là biết chúng ta đã tiêu hủy được hạt giống xấu. Muốn hạt giống ác mất, phải trồng hạt giống tốt, là trồng căn lành bằng cách lạy Phật, sám hối. Nghĩ về Phật, về Thánh hiền, tán thán công đức các Ngài thì những điều cao quý ấy trang nghiêm tâm ta, tội lần tiêu, lòng chúng ta tự thanh thản.

Tóm lại, tụng kinh, lạy Phật, sám hối song hành với thiền quán, chúng ta quan sát xem Phật, Bồ Tát, Thánh hiền làm gì, chúng ta tập làm theo, để điều chỉnh thân tâm chúng ta lần cho giống các Ngài. Chuyển hóa được tâm thành thánh thiện, chắc chắn hoàn cảnh cũng tự chuyển đổi tốt đẹp theo ; vì Phật dạy y báo tùy thuộc chánh báo. Nương theo những chiếc phao phương tiện mà đức Phật để lại, chúng ta hành xử lợi lạc cho mình và người để Phật pháp còn mãi trên thế gian lợi lạc chúng hữu tình.

(Hòa Thượng Thích Trí Quảng)

Cách Lập Đàn Và Tụng Kinh Dược Sư

Đàn Dược Sư được thiết lập để kỳ an Gia đạo và Bổn mệnh. Cầu nguyện Phong điều Vũ thuận, Quốc Thái Dân An. Tùy theo tính chất và bổn nguyện mà Đàn tràng được thiết lập lớn nhỏ, thời gian dài ngắn. Vào dịp đầu năm, các Chùa thường tổ chức Đàn này. Cung thỉnh Các vị Chư Tôn Trưởng lão Chứng minh và luân phiên trì tụng Kinh Dược Sư Bổn Nguyện để cầu nguyện chung cho tất cả Phật tử. Ngoài ra. Khi tư gia có tai nạn hoặc người lâm bịnh nặng, ngoài việc chữa trị bằng Đông, Tây y thì cũng có thể kiến lập Đàn này để cầu nguyện.

Như vậy, ngoài ý nghĩa dùng Dược lực từ Đông, Tây y để chữa trị, Pháp lập đàn Dược Sư là phương pháp dùng Tín lực để chữa trị, cầu nguyện được sự gia trì của Chư Phật. Trong sự Tín lực này cũng có hai duyên:

_Nội duyên: Nghĩa là tự mình cầu Phật và niệm Phật,tin tưởng nơi đức Phật hộ trì, mặt khác niệm Phật thì tự tâm trong lặng, không khởi lên dục vọng thất tình, bệnh tất mau lành. _Ngoại duyên: Nghĩa là do những người trong gia đình tụng kinh, lễ bái giúp vào. Hoặc thỉnh chư Tăng, chư thiện hữu trợ duyên lễ Phật, tụng kinh để đem tâm tưởng tha lực phù trì, hiệp cùng tự lực, tất nhiên có được một năng động lực mạnh mẽ mà khiển bệnh tình chóng dứt. Muốn đạt được sự lý dùng sức tin tưởng trị liệu, người Phật tử cần phải biết rõ nghi thức tụng kinh Dược sư, tụng thường hay tụng hội.

1. NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ

Tụng thường: Nghiã là đối trước bàn Phật mà đem kinh Dược sư ra tụng, nhất tâm cầu nguyện hồi hướng công đức để cho người bệnh chóng được bình phục. Việc tụng này có thể tổ chức ngay tại trong gia đình hay cầu thỉnh một vị Tăng tụng cho ở chùa cũng được, điều cốt nhất là người cầu tụng cũng như người tụng đều phải chí thành. Gia chủ tín thành nhưng thầy tụng có tính cách là sự tụng thuê, miễn sao xong việc thì thôi, thì không có công hiệu. Ngược lại người tụng kinh chí thành mà người gia chủ coi là một sự bất đắc dĩ phải chiều ý mà tổ chức tụng chứ không thật tâm muốn tụng, hoặc cố tổ chức cho có tiếng vang đối với bạn bè, hàng xóm v.v…nghĩa là có tính cách cầu danh thì cũng không lợi lạc. Về cách trang biện lễ vật thì cứ tùy tâm biện lễ, cốt được thanh tịnh là hơn.

Tụng hội:Tức là tổ chức lễ đàn Dược sư có bảy vị ngồi tụng hoặc có bảy khu, mỗi khu có bảy vị gọi là đàn Dược sư thất khu. Việc tụng kinh Dược sư hội cần nên chú ý mấy điểm sau đây: 1. THIẾT LẬP ÐÀN TRÀNG_Ðàn Dược sư có thể thiết lập tại nhà cũng như tại chùa chia làm 7 khu có 7 hình tượng Phật, có tràng phan, bảo cái:

THẤT PHẬT TRỢ TUYÊN DƯƠNG _Nam mô Tỳ Bà Thi Phật _Nam mô Thi Khí Phật _Nam mô Tỳ Xá Phù Phật _Nam mô Câu Lưu Tôn Phật _Nam mô Câu Na Hàm mâu ni Phật _Nam mô Ca Diếp Phật _Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

BÁT ÐẠI BỒ TÁT GIÁNG CÁT TƯỜNG _Nam mô Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát _Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát _Nam mô Ðắc Ðại Thế Bồ Tát _Nam mô Vô Tận Ý Bồ Tát _Nam mô Bảo Ðàn Hoa Bồ Tát _Nam mô Dước Vương Bồ Tát _Nam mô Dược Thượng Bồ Tát _Nam mô Di Lặc Bồ Tát

THẬP NHỊ DƯỢC XOA ÐẠI TƯỚNG _Cung Tỳ La Ðại tướng _Phạt Triết La Ðại tướng _Mê Xí La Ðại tướng _An Ðể La Ðại tướng _Án Nể La Ðai tướng _San Ðề La Ðại tướng _Nhân Ðạt La Ðại tướng _Ba Di La Ðại tướng _Ma Hồ La Ðại tướng _Thân Ðạt La Ðại tướng _Chiêu Ðỗ La Ðại tướng _Tỳ Yết La Ðại tướng

Bảy khu được phân định ra: Trung Ương _ Thượng phương _ Hạ phương _ Ðông phương _ Nam phương _ Tây phương _ Bắc phương. Mỗi khu được đặt 1 cái bàn và 7 ghế ngồi, nếu là tụng 49 vị và mỗi bàn 1 ghế ngồi, nếu chỉ có 7 vị ngồi tụng. Về việc bày bàn nên xếp đặt theo 2 phương thức tùy theo vị trí chỗ thiết lập: _ Xếp ngang _ bày bàn cùng hướng lên một hướng song song ngang nhau, hoặc giữa 3 bàn và 4 bàn lui xuống một chút. _ Xếp theo phương hướng _ Trung Ương 3 bàn, rồi 4 bàn 4 phía đâu vào.( Nhìn thấy 5 bàn một hàng ngang , 3 bàn một hàng dọc ). Trung Ương đàn nên được bày biện nguy nga hơn hết và đó là chỗ vị Sám chủ ngồi tụng, nếu được ngoảnh mặt về phương Ðông thì tốt hơn hết.

2. VẬT PHẨM TRANG TRÍ _ Về thức vật bày biện phải có đủ mỗi bàn: a/ Ðầy đủ _Một tượng Phật _Một bát hương _Hai cây nến (đăng) _Hai bình hoa _Hai mâm quả( Năm thứ quả, có năm mầu ) _Trà _Thực( thực vật ăn được như oản khảo hay oản nếp hoặc xôi chè v.v… Về vật phẩm cúng dàng nên y theo lục cúng tức là ở món chay tịnh b/ Giản tiện _Một bát hương _Một cây nến _Một bình hoa

3. VIỆC THỈNH NGƯỜI TỤNG KINH _ Trong hội Dược sư ít nhất cũng nên có một vị Ðại Ðức Tăng chủ lễ, nếu được 7 vị Tăng hoắc Ni chia ra đứng chủ mỗi bàn thì càng quí hóa. Trường hợp không thỉnh được vị Tăng thì cũng có hàng cư sĩ có đức hạnh đáng tôn làm chủ lễ. Tất cả những vị trong đàn đều phải ăn mặc tề chỉnh (có áo tràng) và nếu có thể nên được chay tịnh ba ngày hay một ngày trước khi vào đàn. Những vị tham dự tụng kinh Dược sư hội nên giữ những điều cấm sau đây: _Không nên ăn trầu trong khi tụng kinh _Không nên hút thuốc _Không nên chuyện trò, cười nói trong lúc tụng kinh cũng như trước khi tụng kinh _Không nên vừa tụng kinh vừa quạt phì phà, phì phạch hoặc vặn mình nghiêng bên nọ, ngã bên kia.

Ðối với gia chủ phải giữ tuyệt đối những điều răng cấm sau đây: _Không sát sanh. _Không mời thầy bùa chú nguyện. _Không cầu ma đảo quỉ, tin thầy yêu nghiệt.

Phải thực tâm hồi hướng bằng cách làm các việc phúc đức: _Ấn tống kinh sách _Làm việc bố thí _Tổ chức phóng sanh Ðối với người đau,cũng phải luôn luôn niệm câu : “Nam mô Dược Sư Phật”.

Hoặc nếu tâm linh còn minh mẫn có thể chuyên tụng bài chú sau đây: “Nam mô Bạc già phạt đế bệ sái xã lũ rô, bệ lưu li, bát lạt bà, hắt ra xà giã, đát tha yết đa gia, a ra hắt đế. Tam diễu tam bột đà gia, đát điệt tha. Án, bệ sái thệ, bệ sái thệ, bệ sái xã, tam một yết đế tóa ha”. Càng nhiều càng có lợi lạc. Tuy nhiên, dù là tụng thường, dù là tụng hội, nên có ý niệm chân xác là phương pháp tụng kinh cốt ở ý thành, về lễ lạt càng giản dị càng tốt, trong hoàn cảnh nghèo chỉ cần một nén hương thơm, một chén nước trong cũng đủ.

Phát tâm hộ trì Chánh Pháp cữu trụ thế gian lợi ích hữu tình và muốn tu học những lời vàng ngọc của Ðức Phật dạy để chứng đắc và hóa sinh về cõi Phật An Lạc ngay trong đời này, thỉnh mời chư thiện hữu đến

KHÓA LỄ TRÌ TỤNG KINH DƯỢC SƯ

Trầm Hương Đốt

Trầm Hương Đốt, Xông Ngát Mười Phương Nguyện Nguyện Kính Đức Nghiêm Từ Vô Lượng Cầu Cầu Xin Chứng Tâm Thành Chúng Con Vầng Vầng Khói Kết Mây Lành Cúng Dường Đạo Nhiệm Mầu Đã Lan Truyền Nơi Cùng Nơi Nhờ Chân Lý Chúng Sanh Đều Thoát Luân Hồi Đồng Qui Kính, Quỳ Dưới Đài Sen Dâng Hoa Thơm Tinh Khiết Màu Thắm Tươi Cành Đài Quang Minh Sáng Huy Hoàng Trang Nghiêm Ơn Mười Phương Điều Ngự Hào Quang An Lành Nhìn Đạo Uyển Chuyển Soi Khắp Cùng Quần Sanh Phật Đạo Đồng Cùng Nhau Tu Tinh Tấn Mau Viên Thành

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Ngưỡng kính bạch Đức Thế Tôn, đệ tử chúng con ….

Nam Mô Chứng Minh Sư Bồ Tát Ma Ha Tát

Thân Phật thanh-tịnh tợ lưu-ly. Trí Phật sáng ngời như trăng sáng. Phật ở thế gian thường cứu khổ, Tâm Phật không đâu không từ bi.

Đại-từ Đại-bi thương chúng sinh, Đại-hỷ Đại-xả cứu muôn loài. Tướng tốt chói sáng tự trang nghiêm, Đệ-tử chúng con qui-y đảnh-lễ.

Nhất tâm đảnh-lễ: Nam-mô …….

BÀI TÁN HƯƠNG (Mọi người cùng ngồi kết già cùng đọc)

Dương chi tịnh thủy Biến sái tam thiên Tánh không bát đức lợi nhơn thiên Pháp giới quảng tăng diên Diệt tội tiêu khiên Hỏa diệm hóa hồng liên Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát (3 lần)

CHƠN NGÔN TỊNH PHÁP GIỚI

Án Lam (7 lần)

CHƠN NGÔN TỊNH KHẨU NGHIỆP

Tu Rị Tu Rị, Ma Ha Tu Ri, Tu Tu Rị Ta Ba Ha (3 lần)

CHƠN NGÔN TỊNH TAM NGHIỆP

Án Sa Phạ, Bà Phạ Thuật Đà Sa Phạ, Đạt Ma Sa Phạ Bà Phạ Thuật Độ Hám (3 lần)

CHƠN NGÔN PHỔ CÚNG DƯỜNG

Án Nga Nga Nẵng, Tam Bà Phạ, Phiệt Nhựt Ra Hồng (3 lần)

CHƠN NGÔN AN THỔ ĐỊA

Nam Mô Tam Mãn Đa, Một Đà Nẫm, Án Độ Rô Độ Rô, Địa Vĩ Ta Ba Ha (3 lần)

ĐẠI BI CHÚ

NAM MÔ ĐẠI BI HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT (3 lần)

THIÊN THỦ THIÊN NHÃN VÔ NGẠI ĐẠI BI TÂM ĐÀ LA NI

Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni. Nam Mô Hắc Ra Đát Na Đa Ra Dạ Đa. Nam Mô A Ri Da, Bà Lô Yết Đế, Thước Bát Ra Da, Bồ đề Tát Đỏa Bà Da, Ma Ha Tát Tỏa Bà Da, Ma Ha Ca Lô Ni Ca Da. Án Tát Bàn Ra Phạt Duệ, Số Đát Na Đát Tỏa. Nam Mô Tất Kiết Lật Đỏa, Y Mông A Rị Da, Bà Lô Kiết Đế, Thất Phật Ra Lăng Đà Bà. (1 tiếng chuông).

Nam Mô Na Ra Cẩn Trì Hê Rị, Ma Ha Bàn Đa Sa Mế, Tát Bà A Tha Đậu Du Bằng, A Thệ Dựng, Tát Bà Tát Đa Na Ma Bà Già, Ma Phạt Đạt Đậu Đát Điệt Tha, Án A Bà Lô Hê, Lô Ca Đế, Ca Ra Đế, Di Hê Rị, Ma Ha Bồ Đề Tát Đỏa, Tát Bà Tát Bà, Ma Ra Ma Ra, Ma Hê Ma Hê, Rị Đà Dựng Câu Lô Câu Lô Kiết Mông, Độ Rô Độ Rô, Phạt Xà Da Đế, Ma Ha Phạt Xà Da Đế, Đà Ra Đà Ra, Địa Rị Ni, Thất Phật Ra Da, Dá Ra Dá Ra, Mạ Mạ Phạt Ma Ra, Mục Đế Lệ, Y Hê Di Hê, Thất Na Thất Na, A Ra Sâm Phật Ra Xá Lợi, Phạt Sa Phạt Sâm, Phạt Ra Xá Da, Hô Lô Hô Lô Ma Ra, Hô Lô Hô Lô Hê Rị, Ta Ra Ta Ra, Tất Rị Tất Ri, Tô Rô Tô Rô, Bồ Đề Dạ Bồ Đề Dạ, Bồ Đà Dạ Bồ Đà Dạ, Di Đế Rị Da, Na Ra Cẩn Trì Địa Rị Sắc Ni Na, Ba Dạ Ma Na Ta Bà Ha, Tất Đà Dạ Ta Bà Ha. Ma Ha Tất Đà Dạ Ta Bà Ha. Tất Đà Du Nghệ Thất Bàn Ra Dạ, Ta Bà Ha. Na Ra Cẩn Trì, Ta Bà Ha. Ma Ra Na Ra Ta Bà Ha. Tất Ra Tăng A Mục Khê Da Ta Bà Ha. Ta Bà Ma Ha, A Tất Đà Dạ, Ta Bà Ha. Giả Kiết Ra A Tất Đà Dạ, Ta Bà Ha. Ba Đà Ma Yết Tất Đà Dạ, Ta Bà Ha. Na Ra Cẩn Trì Bàn Đà Ra Dạ, Ta Bà Ha. Ma Bà Lị Thắng Yết Ra Dạ, Ta Bà Ha.

Nam Mô Hắt Ra Đát Na, Đa Ra Dạ Da. Nam Mô A Rị Da, Bà Lô Yết Đế, Thước Bàng Ra Dạ, Ta Bà Ha. Án Tất Điện Đô, Mạn Đa Ra, Bạt Đà Dạ, Ta Hà Ha (3 lần, 1 chuông)

PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ THẦN CHÚ

Khể Thủ Quy-Y Tô Tất Đế Đầu Diện Đảnh Lễ Thất Câu Chi Ngã Kim Xưng Tán Đại Chuẩn Đề Duy Nguyện Từ Bi Thùy Gia Hộ

Nam Mô Tát Đa Nẫm Tam Miệu Tam Bồ Đề, Câu Chi Nẫm, Đát Điệt Tha, Án Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề, Ta Bà Ha (3 hoặc 7 lần, 1 chuông)

Chuẩn Đề Công Đức Tụ Tịnh Tịch Tâm Thường Tụng Nhất Thiết Chư Đại Nạn Vô Năng Xâm Thị Nhơn Thiên Thượng Cập Nhơn Gian Thọ Phước Như Phật Đẳng

Nam Mô Thất Câu Chi Phật Mẫu Đại Chuẩn Đề Vương Bồ Tát

Bộ Lâm Án Lam Án Xỉ Lâm Án Ma Ni Bát Ni Hồng Án Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Ba Ha (3 lần, 5 lần hoặc 7 lần)

VĂN PHÁT NGUYỆN

Nam Mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo (3 lần)

Cúi Lạy Đấng Tam Giới Tôn Quy Mạng Cùng Mười Phương Phật Con Nay Phát Nguyện Rộng Thọ Trì Kinh Của Phật Trên Đền Bốn Ân Nặng Dưới Cứu Khổ Tam Đồ Nếu Có Kẻ Thấy Nghe Đều Phát Lòng Bồ Đề Hết Một Báo Thân Nầy Sanh Qua Cõi Cực Lạc

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)

LỜI KỆ KHAI KINH

Pháp Vi Diệu Rất Sâu Vô Lượng Trăm Nghìn Muôn Ức Kiếp Khó Gặp Con Nay Thấy Nghe Được Thọ Trì Nguyện Hiểu Nghĩa Chơn Thật Của Như-Lai

Nam Mô Dược Sư Hội Thượng Phật Bồ Tát (3 lần)

KINH NÓI VỀ CÔNG ĐỨC BẢN NGUYỆN CỦA

ĐỨC DƯỢC SƯ LƯU LY QUANG NHƯ LAI

Đúng thực như thế, chính tôi được nghe:

Một thời bấy giờ. Đức Bạc Già Phạm đi độ các nước, đến thành Quảng Nghiêm. Ngài dừng lại ở dưới cây âm nhạc, cùng với tám nghìn vị đại Bậc-sô, ba vạn sáu nghìn, vị đại Bồ-tát, và các quốc vương, các quan đại thần, các Bà-la-môn, các thầy cư sĩ, thiên, long, bát bộ, nhân với phi nhân, đông không xiết kể, thảy đều cung kính, vây kín xung quanh, Đức Phật thuyết pháp.

Con đấng Pháp vương, bấy giờ là Ngài Mạn Thù Sư Lợi, theo uy thần Phật, đương ngồi đứng dậy, hở một vai áo, đầu gối bên hữu, quỳ sát tận đất, nhìn Bạc Già Phạm, cúi mình, chắp tay, bạch rằng: Thế Tôn, xin Phật diễn thuyết, cũng giống như thế, diễn những danh hiệu, và những điều nguyện, căn bản lớn lao, công đức tuyệt vời, của các Đức Phật, cho những người nghe, tiêu hết nghiệp chướng, vì muốn lợi lạc, các loài hữu tình, khi tượng pháp chuyển.

Bấy giờ Thế Tôn tán thán Đồng tử, Mạn Thù Sư Lợi, Ngài khen ngợi rằng: “Hay lắm! Hay lắm! Mạn Thù Sư Lợi, lòng đại bi ông, khuyến thỉnh Ta nói, danh hiệu chư Phật, bản nguyện công đức, để bạt cho hết nghiệp chướng ràng buộc, các loài hữu tình, và để làm cho, lợi ích an lạc, các loài hữu tình, khi tượng pháp chuyển.

Ông hãy nghe kỹ, nghiền nghĩ thực khéo, Ta sẽ nói đây”.

Mạn Thù Sư Lợi, bạch rằng: Xin vâng, xin Thế Tôn nói, chúng con thích nghe.

Đức Phật bảo Ngài Mạn Thù Sư Lợi: Về phương Đông kia, cách đây xa nhiều vô số Phật độ, nhiều bằng mười số cát sông Găng-giờ, ở đấy có một thế giới gọi là cõi Tịnh Lưu Ly.

Đức Phật cõi ấy, hiệu là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng, Chính đẳng giác, Minh hành viên mãn, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật, Bạc Già Phạm.

Ông Mạn Thù ơi, khi Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai còn đương hành đạo Bồ-tát. Ngài đã phát ra, mười hai nguyện lớn, khiến cho hữu tình, cầu gì cũng được.

NGUYỆN LỚN THỨ NHẤT

Nguyện đời sau này, khi Ta đắc đạo, A nốc đa la tam diễu tam Bồ-đề, thì tự thân Ta, sáng trưng rực rỡ, soi suốt tất cả, vô số thế giới, vô lượng vô biên; dùng ba mươi hai, tướng đại trượng phu, tám mươi tùy hình, để trang nghiêm thân, khiến cho hết thảy, các loài hữu tình, đều được tất cả, như Ta không khác.

NGUYỆN LỚN THỨ HAI

Nguyện đời sau này, khi Ta đắc đạo, Vô thượng Bồ-đề, thì tự thân Ta, như ngọc lưu ly, trong ngoài sáng suốt, sạch không vết bẩn, quang minh rộng lớn, công đức cao vời, thân khéo ở yên, trong lưới tia sáng, trang nghiêm hơn cả, mặt trời, mặt trăng, chúng sinh tối tăm, đều được sáng bừng, đâu cũng làm được, mọi sự như ý.

NGUYỆN LỚN THỨ BA

Nguyện đời sau này, khi Ta đắc đạo, Vô thượng Bồ-đề, Ta dùng rất nhiều, trí tuệ phương tiện, vô lượng vô biên, khiến cho hữu tình, đều được mọi vật, thụ dụng vô cùng, chẳng để chúng sinh, có chỗ thiếu thốn.

NGUYỆN LỚN THỨ TƯ

Nguyện đời sau này, khi Ta đắc đạo, Vô thượng Bồ-đề, nếu có hữu tình, tu hành tà đạo, thì Ta khiến cho, đều được ở yên, trong đạo Bồ-đề; nếu ai hành đạo Thanh Văn, Độc Giác, thì Ta cũng đều, lấy đạo Đại thừa, mà dựng cho yên.

NGUYỆN LỚN THỨ NĂM

Nguyện đời sau này, khi Ta đắc đạo, Vô thượng Bồ-đề, nếu có vô lượng, vô biên hữu tình, tu hành phạm hạnh, trong pháp của Ta, thì hết thảy đều được giới chẳng thiếu, đủ giới tam tụ, nếu có ai mà, trót đã phạm giới, nghe tên Ta rồi, lại được tịnh giới, chẳng vào đường ác.

NGUYỆN LỚN THỨ SÁU

Nguyện đời sau này, khi Ta đắc đạo, Vô thượng Bồ-đề, nếu những hữu tình thân thể hèn kém, mọi căn chẳng đủ, xấu xa, ngu ngốc, mù, điếc, ngọng, câm, què quặt, còng lưng, hóa hủi, điên cuồng, bao nhiêu bệnh khổ, nghe tên Ta rồi, hết thảy đều được, đẹp đẽ sáng suốt, mọi căn hoàn toàn, không mọi tật khổ.

NGUYỆN LỚN THỨ BẢY

Nguyện đời sau này, khi Ta đắc đạo, Vô thượng Bồ-đề, nếu những hữu tình, mắc mọi bệnh khổ, không ai cứu chữa, không chỗ nương thân, không người thân thiết, không cửa không nhà, bần cùng khốn khổ, một khi tên Ta, nghe lọt vào tai, mọi bệnh đều hết, thân tâm yên vui, gia quyến tiền của, thảy đều phong túc, rồi tu đắc đạo, Vô thượng Bồ-đề.

NGUYỆN LỚN THỨ TÁM

Nguyện đời sau này, khi Ta đắc đạo, Vô thượng Bồ-đề, nếu có thân gái, thấy trăm nỗi xấu, bức bách khổ não, sinh lòng chán ngán, muốn bỏ thân gái, nghe tên Ta rồi, thảy đều chuyển được, thân gái thành trai, đủ tướng trượng phu, rồi tu đắc đạo, Vô thượng Bồ-đề.

NGUYỆN LỚN THỨ CHÍN

Nguyện đời sau này, khi Ta đắc đạo, Vô thượng Bồ-đề, khiến những hữu tình, thoát chài lưới ma, thoát được hết thảy, ngoại đạo ràng buộc; nếu lạc vào các, rừng rậm ác kiến, Ta sẽ dắt dẫn, lên đường chính kiến, rồi tu tập dần, mọi hạnh Bồ-tát; chóng chứng được đạo, Vô thượng Bồ-đề.

NGUYỆN LỚN THỨ MƯỜI

Nguyện đời sau này, khi Ta đắc đạo, Vô thượng Bồ-đề, nếu những hữu tình, bị pháp luật bắt, trói buộc đánh đập, giam cầm lao ngục, hoặc bị tử hình, và còn rất nhiều, tai nạn khác nữa, lấn hiếp nhục nhã, lo sầu nung nấu, thân tâm chịu khổ, nếu mà được nghe, danh hiệu của Ta, vì sức oai thần, phúc đức của Ta, đều được giải thoát hết thảy lo khổ.

NGUYỆN LỚN THỨ MƯỜI MỘT

Nguyện đời sau này, khi Ta đắc đạo, Vô thượng Bồ-đề, nếu những hữu tình, bị đói khát khổ, vì kiếm ăn mà, tạo mọi nghiệp ác, khi nghe tên Ta, chuyên tâm trì niệm, thì Ta hãy cho, ăn uống rất ngon, để no thân đã, rồi sau Ta mới, cho ăn Pháp vị, để lập thành người, rốt ráo yên vui.

NGUYỆN LỚN THỨ MƯỜI HAI

Nguyện đời sau này, khi Ta đắc đạo, Vô thượng Bồ-đề, nếu những hữu tình, nghèo không áo mặc, ruồi muỗi, bức rét, khổ suốt đêm ngày, khi nghe tên Ta, chuyên tâm trì niệm, thì tâm muốn gì, liền được đủ thứ, áo mặc thật đẹp, được cả đồ dùng, quý báu trang nghiêm, đeo hoa ướp hương, âm nhạc múa hát, tùy tâm thích gì, đều được đầy đủ.

Ông Mạn Thù ơi, thế là mười hai, nguyện rất nhiệm mầu, của Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng, Chính đẳng giác, khi Ngài còn đương hành đạo Bồ-tát, Ngài đã phát ra.

Còn nữa, này ông Mạn Thù Sư Lợi, là những nguyện lớn, của Thế Tôn Dược Sư Quang Như Lai, Ngài đã phát ra, khi Ngài còn đương, hành đạo Bồ-tát, và những công đức, trang nghiêm ở bên, cõi nước của Ngài, nếu Ta nói ra, đến hết một kiếp, hay hơn một kiếp, cũng không hết được.

Nhưng có một điều: Ở nước Phật kia, một màu thanh tịnh, không có nữ nhân, không có ác thú, và những tiếng khổ; mặt đất thuần là, ngọc phệ lưu ly; những thừng bằng vàng, giăng bên đường đi, thành khuyết, cung, các, hiên, cửa, mạng lưới, đều bằng thất bảo, cũng như thế giới, Cực lạc phương Tây, công đức trang nghiêm, giống nhau không khác.

Trong nước có hai, vị đại Bồ-tát: Một vị gọi là, Nhật Quang Biến Chiếu. Một vị gọi là: Nguyệt Quang Biến Chiếu, đứng đầu tất cả, vô số vô lượng, các vị Bồ-tát. Hai ngài lần lượt, sẽ lên ngôi Phật, đều giữ vững được, kho báu chính pháp, của Đức Thế Tôn, Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai.

Ông Mạn Thù ơi, bởi thế cho nên, những thiện nam tử, và thiện nữ nhân, có tín tâm rồi, thời nên phát nguyện, sinh sang thế giới, của đức Phật kia.

Bấy giờ Thế Tôn, lại bảo Đồng tử, Mạn Thù Sư Lợi: Này ông Mạn Thù, có những chúng sinh, chẳng biết thiện ác, chỉ ôm cái lòng, tham lam keo bẩn, chẳng biết bố thí, và những quả báo, về hạnh bố thí, ngu si không trí, thiếu mất tín căn, chứa nhiều của báu, cầu giữ lấy mãi, thấy kẻ xin đến, tâm họ chẳng mừng, khi bất đắc dĩ, họ phải bố thí, thì họ coi như, cắt miếng thịt họ, rất là đau tiếc. Lại có lắm kẻ, tham lam keo sẻn, tích trữ tiền của, đến ngay thân họ, còn chẳng tiêu dùng, huống lại dám cho, cha mẹ vợ con, tôi đòi sai khiến và kẻ đến xin. Những hữu tình ấy đến lúc mệnh chung, sinh làm ngạ quỷ, hoặc làm bàng sinh, nhưng vì thuở xưa, ở đời từng được, tạm nghe danh hiệu, của Đức Thế Tôn, Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, nên đương khi ở, trong vòng ác thú, được tạm nhớ đến, danh hiệu của Ngài, ngay trong phút nghĩ, liền ra khỏi vòng, lại được làm người, nhớ được túc mệnh, sợ khổ ác thú, chẳng ham dục lạc, thích làm bố thí, và khen những người, hay làm bố thí; mình có những gì, đều không tham tiếc, dần dà đem cả, đầu mắt chân tay, máu thịt của mình, cho kẻ đến xin, huống còn tiếc gì, đến tài vật khác.

Còn nữa này ông Mạn Thù Sư Lợi; nếu những hữu tình, tùy theo Như Lai, nhận các chỗ học, mà phá thi la, lại có kẻ tuy chẳng phá thi la mà phá quỹ tắc, kẻ giữ được cả thi la quỹ tắc, lại hủy chính kiến; lại có kẻ tuy chẳng hủy chính kiến, mà bỏ đa văn, chẳng thể hiểu rõ, nghĩa sâu trong kinh của Phật đã nói. Có kẻ đa văn, lại tăng thượng mạn, vì tăng thượng mạn, che lấp tâm rồi, khen mình chê người, phỉ báng chính pháp, làm bạn với ma, người ngu như thế, tự mình đi vào, con đường tà kiến, lại còn làm cho, vô lượng ức triệu, hữu tình cùng theo, xuống hố hiểm sâu. Những hữu tình này, trôi quanh mãi mãi, trong vòng địa ngục, bàng sinh, quỷ thú, nếu mà được nghe, danh hiệu Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, liền bỏ ác hạnh, tu mọi thiện pháp, chẳng đọa ác thú, dù có kẻ nào, chẳng thể bỏ được, hết mọi ác hạnh, mà tu thiện pháp, phải đọa ác thú, vì nhờ sức thần, bản nguyện của Phật, khiến họ hiện tiền, đã được tạm nghe, danh hiệu của Phật, họ sẽ thoát thân, nơi ác thú kia, lại được làm người, chính kiến tinh tiến, khéo điều hòa được, tâm ý yên vui, liền bỏ được nhà, đến chốn không nhà, chịu theo chỗ học, trong pháp Như Lai, không hề hủy phạm, chính kiến đa văn, hiểu nghĩa rất sâu, bỏ tăng thượng mạn, chẳng báng chính pháp, chẳng bạn với ma, dần dần tu hành, những hạnh Bồ-tát, chóng được vẹn tròn.

Còn nữa này ông, Mạn Thù Sư Lợi, nếu những hữu tình, sẻn tham ghen ghét, khen mình chê người, sẽ phải đọa vào, trong ba đường ác, mấy mươi nghìn năm, chịu mọi cực khổ, chịu cực khổ rồi, ở đấy mãn hạn, lại lên nhân gian, làm thân trâu ngựa, lừa và lạc đà, thường bị đòn đánh, đói khát khổ não, lại thường mang nặng, theo đường mà đi, hoặc được làm người, ở nơi hạ tiện, làm kẻ tôi đòi, bị người sai khiến, chẳng được tự tại, nếu xưa làm người, đã từng được nghe, danh hiệu Thế Tôn, Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, bởi nhân lành ấy, nay lại nhớ đến, dốc lòng quy y, nhờ thần lực Phật, giải thoát mọi khổ, mọi căn thông lợi, trí tuệ đa văn, thường cầu thắng pháp, thường gặp bạn hiền, dứt hẳn lưới ma, đập vỡ cái xác, vô minh bưng tối, gạn ròng phiền não, giải thoát hết thảy, sinh già bệnh chết, lo sầu khổ não.

Còn nữa này ông, Mạn Thù Sư Lợi, nếu những hữu tình, thích gây ngang ngược, đánh nhau kiện nhau, làm cho não loạn, cả mình và người, đem thân, miệng, ý, tạo thêm mãi ra, bao nhiêu nghiệp ác, lần lượt thường làm, sự chẳng lợi ích, mưu hại lẫn nhau, đi gọi các thần, ở rừng ở núi, ở cây ở mả, rồi giết chúng sinh, lấy máu lấy thịt, cúng tế bọn quỷ, Dược xoa, La sát, viết tên kẻ thù, làm hình kẻ thù, làm bùa chú ác để mà nguyền rủa; yểm bùa thành mị, nuôi trùng thành cổ, hô quỷ nhập vào, thây chết đứng dậy, sai đi giết hại, thân mệnh người ta; những hữu tình ấy, nếu mà được nghe, danh hiệu Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thì ác sự kia, đều chẳng hại được; lần lượt hết thảy, đều khởi từ tâm, lợi ích yên vui, không còn có ý não hại hiềm thù, ai cũng vui mừng; mọi vật thụ dụng, tự cho là đủ, chẳng lấn của nhau, mà là cùng làm lợi ích cho nhau.

Còn nữa này ông, Mạn Thù Sư Lợi, nếu có bốn chúng, Bật-sô, Bật-sô-ni, Ô-ba-sách-ca, Ô-ba-tư-ca, và những tịnh tín, thiện nam thiện nữ, ai chịu giữ được tám phần trai giới, hoặc suốt một năm, hoặc trong ba tháng, chịu theo chỗ học, để làm thiện căn, nguyện được sinh sang, thế giới Cực lạc, ở bên phương Tây, đến chỗ Đức Phật Vô Lượng Thọ Quang, cầu nghe chính pháp, nhưng chưa quyết định, mà nếu được nghe, danh hiệu Thế Tôn, Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thời khi lâm chung, sẽ có tám vị, đại Bồ-tát là: Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát, Quán Thế Âm Bồ-tát, Đắc Đại Thế Bồ-tát, Vô Tận Ý Bồ-tát, Bảo Đàn Hoa Bồ-tát, Dược Vương Bồ-tát, Dược Thượng Bồ-tát, Di Lặc Bồ-Tát, tám vị ấy sẽ, đi ở trên không, lại mà chỉ đường, tự nhiên thấy mình, hóa sinh ngay ở, bên thế giới kia, trong đám hoa báu, nhiều màu sắc đẹp.

Hoặc là nhân thế, được sinh lên trời, tuy sinh lên trời, mà căn lành cũ, cũng vẫn chưa hết, chẳng phải sinh vào, ác thú nào khác; trên trời tận số, thì xuống nhân gian, hoặc làm Luân vương, coi cả bốn châu, uy đức tự tại, giữ yên vô lượng, trăm nghìn hữu tình, ở trong thập thiện, hoặc sinh vào những, dòng Sát-đế-li, dòng Bà-la-môn, cư sĩ đại gia, rất nhiều của báu, kho tàng đầy nất, hình tướng tốt đẹp, quyến thuộc đông đủ, thông minh trí tuệ, dũng kiện uy hùng, như đại lực sĩ.

Nếu là nữ nhân, được nghe danh hiệu, Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, dốc lòng trì niệm; thì sau chẳng phải, làm thân gái nữa.

Còn nữa nầy ông, Mạn Thù Sư Lợi, khi Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, đắc đạo Bồ-đề, do sức bản nguyện, mà Ngài soi thấy, các loài hữu tình, mắc nhiều bệnh khổ, như là những bệnh, gầy còm, co quắp, khô héo, sốt vàng, hoặc bị trúng độc, ma mị trùng cổ, hoặc bị chết non, hoặc khi chết uổng. Ngài muốn khiến cho, những bệnh khổ ấy, đều được tiêu trừ, và có cầu gì, cũng được mãn nguyện, thời Ngài liền vào, cảnh Xa-ma-đề, gọi là cảnh Định, diệt hết khổ não, cho các chúng sinh.

Đã vào Định rồi, ở trong nhục kế, phóng đại quang minh, trong đại quang minh, diễn nói thần chú, Đại Đà-la-ni: “Nam mô Bạc già phạt đế bệ sái xã lũ rô, bệ lưu li, bát lạt bà, hắt ra xà giã, đát tha yết đa gia, a ra hắt đế. Tam diễu tam bột đà gia, đát điệt tha. Án, bệ sái thệ, bệ sái thệ, bệ sái xã, tam một yết đế tóa ha”.

Khi trong quang minh, nói thần chú rồi, trái đất rúng động, phóng đại quang minh, hết thảy chúng sinh, bệnh khổ đều trừ, được vui yên ổn.

Ông Mạn Thù này! Thấy ai nam, nữ, nếu có bệnh khổ, thì nên nhất tâm, vì người bệnh ấy, tắm gội, súc miệng, sạch rồi tụng chú, một trăm tám lượt, vào một thức ăn, hoặc vào vị thuốc, hoặc vào nước lọc, không có vi trùng, rồi đem cho uống, thì bệnh khổ gì, cũng đều tiêu hết. Nếu có cầu gì, dốc lòng tụng niệm, cũng đều được cả; và lại còn được, sống lâu vô bệnh; sau khi mệnh chung, sinh sang cõi kia, được ngôi Bất thoái, cho đến tận khi, đắc đạo Bồ-đề. Bởi thế cho nên, ông Mạn Thù ơi, nếu có nam tử, nữ nhân nào mà dốc lòng tôn trọng, cung kính cúng dàng, Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, nên thường trì chú, chớ để lãng quên.

Còn nữa này ông, Mạn Thù Sư Lợi, nếu có nam tử, nữ nhân tịnh tín, được nghe tất cả, danh hiệu của Ngài, Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng, Chính đẳng giác, nghe rồi tụng trì; sáng sớm trở dậy, xỉa răng, tắm, gội, súc miệng thanh sạch, dâng các hoa thơm, hương đốt, hương bôi, và các âm nhạc, cúng dàng tượng Phật, đem kinh này ra, hoặc mình tự viết, hoặc bảo người viết, nhất tâm chịu nghe, chịu nhớ lấy nghĩa, đối với Pháp sư, phải sắm hết thảy, các món cúng dàng, đủ để nuôi thân, thảy đều cấp cho, đừng để thiếu thốn; như thế liền được, chư Phật hộ niệm, cầu gì cũng được, và được cả đến, đạo quả Bồ-đề…

Bấy giờ Đồng tử, Mạn Thù Sư Lợi, bạch Đức Phật rằng: Lạy Đức Thế Tôn, con thề đến khi, đời tượng pháp chuyển, con đem rất nhiều, các phép phương tiện, khiến người tịnh tín, thiện nam thiện nữ, được nghe danh hiệu, Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, cả trong khi ngủ, cũng đem hiệu Phật, giác ngộ vào tai. Bạch Đức Thế Tôn, nếu ai thụ trì, đọc tụng kinh này, hoặc là diễn thuyết, khai thị cho người, hoặc tự mình viết, hoặc bảo người viết, hoặc là tôn trọng, cung kính kinh này, đem nhiều các thức, hương hoa, hương bột, hương đốt, hương bôi, tràng hoa, anh lạc, phướn lọng, âm nhạc, để mà cúng dàng; lấy sợi ngũ sắc làm túi đựng kinh, quét rửa chỗ sạch, thiết lập tòa cao, làm chỗ để kinh, bấy giờ sẽ có, bốn Đại Thiên vương, cùng với quyến thuộc, và Thiên chúng khác, mấy mươi trăm nghìn, đều đến chỗ ấy, gìn giữ cúng dàng. Bạch Đức Thế Tôn: Nếu chỗ nào phát, kinh báu này ra, có người thụ trì, và nhờ công đức, bản nguyện của Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, được nghe danh hiệu, nên biết chỗ ấy, không còn có người, bị chết dữ dội, chẳng ai còn bị, bọn thần quỷ ác, đoạt mất tinh khí; ai bị đoạt rồi, lại được thân tâm, yên vui như cũ.

Đức Phật bảo Ngài, Mạn Thù Sư Lợi: Đúng thực như thế, đúng thực như thế! Ông nói đúng lắm! Ông Mạn Thù ơi, nếu có thiện nam, thiện nữ tịnh tín, mà muốn cúng dàng, Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, trước hết phải tạo, hình tượng của Ngài, lập tòa thanh tịnh, mà rước tượng lên, rắc các thứ hoa, đốt các thứ hương, dùng nhiều tràng phan, trang nghiêm chỗ ấy, bảy ngày, bảy đêm; chịu giữ được đủ, tám phần trai giới, ăn uống thanh tịnh, tắm gội sạch thơm, mặc áo thanh tịnh, tâm phải thanh tịnh, không chút vẩn đục, không chút giận dữ, não hại đến ai; đối với hết thảy, các loài hữu tình, phải khởi ra tâm, lợi ích yên vui, từ, bi, hỷ, xả, bình đẳng như nhau; đàn hát tán thán, nhiễu quanh tượng Phật, về bên tay hữu, lại phải nghĩ nhớ, công đức bản nguyện, của Đức Phật kia, đọc tụng kinh này, suy nghĩ nghĩa kinh, rồi đem diễn thuyết, khai thị cho người.

Thế rồi tùy muốn, cầu gì cũng được: cầu sống lâu, được sống lâu, cầu giàu có được giàu có, cầu quan chức, được quan chức, cầu con cái, được con cái.

Hoặc có người nào, bỗng thấy mộng ác, những hình tướng ác, hoặc chim quái ác, ở đâu đến đậu, hoặc có lắm sự quái ác hiện ra, ở ngay chỗ ở, người ấy nếu đem, các thức nhiệm mầu, cung kính cúng dàng, Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thời những mộng ác, những hình tướng ác, những điềm chẳng lành, đều biến mất hết, chẳng làm hại được.

Hoặc có sợ hãi, tai nạn thủy hỏa, binh đao độc ác, cheo leo hiểm nghèo; voi dữ, sư tử, hùm, sói, gấu bi, rắn, rết, độc ác, sâu, bọ, muỗi, ruồi, nếu hay dốc lòng, niệm Đức Phật kia, cung kính cúng dàng, thời sợ hãi ấy, thảy đều giải thoát.

Nếu có nước khác, xâm lấn quấy rối, giặc cướp phản loạn, thì người cung kính, niệm Đức Phật kia, cũng đều giải thoát.

Còn nữa này ông, Mạn Thù Sư Lợi, nếu có những người, thiện nam thiện nữ, lòng tin chân tịnh, cho đến hết đời, chẳng thờ thần khác, chỉ dốc một lòng, quy Phật Pháp Tăng, chịu giữ cấm giới: hoặc năm giới, mười giới, bốn trăm giới Bồ-tát, hai trăm năm mươi giới Bật-sô, năm trăm giới Bật-sô-ni, nhưng hoặc ở trong, những chỗ thụ giới, có ai hủy phạm, sợ đọa ác thú, mà hay chuyên niệm, danh hiệu Phật kia, cung kính cúng dàng, thì quyết chẳng sinh, vào ba đường ác.

Hoặc có đàn bà, tới khi sinh nở, chịu rất đau khổ, mà hay dốc lòng, niệm danh hiệu Phật, lễ bái tán thán, cung kính cúng dàng, thì mọi đau khổ, đều trừ diệt hết; đứa con sinh ra, thân phận đầy đủ, hình sắc tốt đẹp, ai thấy cũng mừng, nhanh nhẹn thông minh, yên ổn ít bệnh, không bị phi nhân, đoạt mất tinh khí.

Bấy giờ Thế Tôn, bảo Át Nan rằng: Như Ta khen ngợi, công đức của đấng Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, đó là những chỗ, hành vi rất sâu, của các Đức Phật, khó hiểu suốt lắm, ông có tin không? Át Nan bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn, con đối với kinh, của Phật đã nói, chẳng dám nghi hoặc, là vì lẽ sao? Vì rằng ba nghiệp: Thân, ngữ, ý của hết thảy chư Phật, đều thanh tịnh cả. Lạy Đức Thế Tôn, vừng nhật, nguyệt kia, làm rơi xuống được, núi Diệu Cao vương, làm nghiêng đổ được, lời chư Phật nói, không có khác được.

Bạch Đức Thế Tôn, có những chúng sinh, tín căn chẳng đủ, nghe nói những chỗ, hành vi rất sâu, của các Đức Phật, mà nghĩ ra rằng: Làm gì chỉ niệm, một danh hiệu Phật, của Ngài Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, mà được ngay những, thắng lợi công đức, nhiều đến như thế? Vì chẳng tin thế, sinh ra phỉ báng, người đó ở chỗ, đêm dài tối mịt, mất hết lợi lạc, đọa các đường ác, chuyển mãi không cùng.

Phật bảo Át Nan: Những hữu tình ấy, nếu nghe danh hiệu, Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, dốc lòng trì niệm, chẳng sinh nghi hoặc, thì không khi nào, phải đọa ác thú.

Ông Át Nan ơi, đó là những chỗ, hành vi rất sâu, của các Đức Phật, rất khó tin lắm, rất khó hiểu lắm, mà nay ông chịu, tin được như thế, thời nên biết là, đều nhờ uy lực, của Phật Như Lai. Này ông Át Nan, hết thảy các bậc, Thanh Văn, Độc Giác và các Bồ-tát, còn chưa đăng địa, đều chẳng tin hiểu, được đúng như thực, chỉ trừ một hạng, các vị Bồ-tát, Nhất sinh sở hệ. Ông Át Nan ơi, làm được thân người, đã là khó lắm; được biết kính tin, tôn trọng Tam Bảo, cũng là khó lắm; được nghe danh hiệu, Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thời lại khó hơn.

Ông Át Nan ơi, những hạnh Bồ-tát, những phép phương tiện, những nguyện lớn lao, của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai; nếu ta nói ra, suốt trong một kiếp, hay hơn một kiếp, thì kiếp mau hết, mà những hạnh nguyện, phương tiện của Ngài, vẫn không thấy hết.

Trong chúng bấy giờ, có đại Bồ-tát, tên là Cứu Thoát, liền từ chỗ ngồi, đứng dậy kéo áo, hở vai bên hữu, quỳ gối bên hữu, sát xuống tận đất, cúi mình chắp tay, mà bạch Phật rằng: Đại đức Thế Tôn, khi tượng pháp chuyển, có những chúng sinh, bị nhiều hoạn nạn, làm cho khốn khổ, ốm lâu gầy mòn, chẳng ăn uống được, cổ ráo môi khô, thấy các phương tối, tướng chết hiện ra; cha mẹ thân thuộc, bạn bè quen biết, xúm quanh than khóc; thân người ốm kia, vẫn nằm nguyên đấy, mà thấy sứ giả, của vua Diêm ma, dẫn thần thức mình, đến trước cửa tòa, Pháp vương Diêm ma; những loài hữu tình, người nào cũng có một Thần Câu sinh, người ấy làm gì, tội hay là phúc, Thần đều chép đủ, rồi đem trình hết, cho vua Diêm ma; bấy giờ vua liền, xét hỏi người ấy, tính toán mọi việc, người ấy đã làm, theo chỗ tội phúc, ấy mà xử đoán. Lúc đó những người, thân thuộc quen biết, của người ốm ấy, nếu hay quy y, Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, cho người ốm ấy, thỉnh các chúng Tăng, chuyên đọc kinh này, đốt đèn bảy từng, treo lá phướn thần, năm sắc nối mệnh, thần thức người ấy, hoặc có chỗ đó, mà được trở về, tự thấy rõ ràng, như trong giấc mộng; hoặc quá bảy ngày, hoặc hăm mốt ngày, hoặc băm nhăm ngày, hoặc bốn chín ngày, thần thức người ấy, khi được trở về, như chiêm bao tỉnh, tự mình nhớ biết được các quả báo, của các nghiệp thiện, và nghiệp bất thiện; vì tự chúng lấy, quả báo của nghiệp, nên chừa cho đến, khi mắc nạn chết, cũng chẳng dám làm, những nghiệp ác nữa. Vì thế cho nên, những người tịnh tín, thiện nam thiện nữ, đều nên trì niệm, danh hiệu Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, tùy sức mình mà, cung kính cúng dàng.

Bấy giờ Át Nan, hỏi ngài Cứu Thoát: Bạch Thiện nam tử, cung kính cúng dàng, Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, phải nên thế nào, đèn phướn nối mệnh, nên làm thế nào? Ngài Cứu Thoát nói: Bạch Đại đức, nếu có người ốm, muốn thoát bệnh khổ, nên vì người ấy, bảy ngày, bảy đêm, chịu giữ cho đủ, tám phần trai giới; nên tùy lực sắm, các thức ăn uống, và các đồ dùng, cúng Bật-sô Tăng; đêm ngày sáu buổi, lễ bái hành đạo, cung kính cúng dàng, Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, tụng đọc kinh này, bốn mươi chín lượt, thắp bốn chín đèn, tạo bảy pho tượng, Đức Như Lai kia; trước mỗi vị tượng, để bảy ngọn đèn, mỗi một đèn sáng, to bằng bánh xe, suốt bốn chín ngày, không lúc nào tắt; làm một lá phướn, ngũ sắc và dài, bốn chín gang tay; phải đem phóng sinh, các loài cho đủ, bốn mươi chín thứ, thời có thể qua, tai nạn nguy ách, chẳng bị chết uổng, quỷ ác hãm hại.

Này ông Át Nan, lại còn như khi, các vua Quán đỉnh, và Sát-đế-lị, tai nạn khởi lên, như là những nạn, nhân dân tật dịch, nước khác lấn bức, trong nước phản nghịch, sao lạ mọc ra, nhật thực nguyệt thực, mưa gió trái mùa, đến mùa chẳng mưa, các vua Quán đỉnh, và Sát-đế-lị, bấy giờ đối với hết thảy hữu tình, khởi tâm từ bi, tha những tù tội, theo phép cúng dàng, trước đã nói kia, cung kính cúng dàng, Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, nhờ thiện căn ấy, và sức bản nguyện, của Như Lai kia, khiến cho cả nước, liền được yên ổn, mưa gió thuận thời, lúa cấy được mùa, hết thảy hữu tình, vô bệnh mừng vui, ở trong nước ấy, không có những thần, bạo ác Dược Xoa, não hại hữu tình, những hình tướng ác, thảy đều biến mất; các vua Quán đỉnh, và Sát-đế-lị, sống lâu mạnh khỏe, vô bệnh tự tại, lợi ích đều tăng.

Này ông Át Nan, nếu các hoàng hậu, hoàng phi, công chúa, thái tử, vương tử, đại thần, tể tướng, thế nữ trong cung, các quan và dân, có mắc bệnh khổ, và ách nạn gì, cũng nên dựng cây phướn thần năm sắc, thắp đèn tiếp sáng, phóng sinh các loại, rắc các thứ hoa, đốt các hương thơm, bệnh được khỏi hết, nạn đều giải thoát.

Bấy giờ Át Nan, hỏi ngài Cứu Thoát:

– Bạch thiện nam tử, tại làm sao mà, mạng người đã hết, có thể tăng thêm?

Ngài Cứu Thoát nói:

– Bạch Đại đức, ngài há chẳng nghe, Như Lai nói có, chín thứ chết uổng? Bởi vậy khuyên làm, đèn phướn nối mệnh, tu mọi phúc đức; vì tu phúc nên, hết đời thọ mệnh, chẳng mắc nạn khổ.

Át Nan hỏi rằng:

– Chín thứ chết uổng, ấy là những gì?

Ngài Cứu Thoát nói:

– Nếu những hữu tình, bệnh tuy nhẹ mà, không thầy không thuốc, không người chăm nom, hay có gặp thầy, lại cho trái thuốc, thực chẳng đáng chết, mà phải chết uổng, lại tin các thầy, tà ma ngoại đạo, yêu nghiệt thế gian, nói nhảm họa phúc, sinh ra sợ hãi, tâm chẳng được yên, xem bói thấy xấu, giết nhiều chúng sinh, khẩn vái thần thánh, phụ ma quỷ lên, ban cho hạnh phúc, muốn mong sống thêm, vẫn chẳng thể được; ngu si mê hoặc, mê tín tà kiến, thành ra chết uổng, đọa vào địa ngục, không có ngày ra, như thế gọi là, một thứ chết uổng. Hai là kẻ bị, vương pháp xử tử. Ba là những kẻ, săn bắn chơi bời, say đắm tửu sắc, rông rỡ quá độ, bị loài phi nhân, đoạt mất tinh khí, thành ra chết uổng. Bốn là chết cháy. Năm là chết đuối. Sáu là chết vì, các loài ác thú, cắn chết ăn thịt. Bảy là chết vì, ngã xuống sườn núi. Tám là chết vì, trúng phải thuốc độc, bùa chú nguyền rủa, thây ma đứng dậy, các thứ sát hại. Chín là bị đói, bị khát khốn khổ, chẳng được ăn uống, mà phải chết uổng. Đấy là Như Lai, nói qua chín thứ, chết uổng như thế, còn nhiều vô số, các thứ chết uổng, nói sao cho xiết.

Lại còn đây nữa, này ông Át Nan, vua Diêm ma kia, chủ lĩnh giữ sổ, ghi tên thế gian, nếu những hữu tình, phạm những tội như: bất hiếu ngũ nghịch, phá nhục Tam Bảo, hoại pháp vua quan, hủy cả tín giới, thì vua Diêm la, tùy tội nặng nhẹ, xét mà xử phạt.

Vì thế ta nay, khuyên những hữu tình, thắp đèn treo phướn, phóng sinh tu phúc, cho thoát khổ ách, chẳng gặp tai nạn. Bấy giờ trong chúng, có mười hai vị Đại tướng Dược Xoa, đều ngồi ở hội, ấy là các vị: Đại tướng Cung Tỳ La, Đại tướng Phạt Chiết La, Đại tướng Mê Si La, Đại tướng An Đễ La, Đại tướng Át Nễ La, Đại tướng San Để La, Đại tướng Nhân Đạt La, Đại tướng Ba Di La, Đại tướng Ma Hổ La, Đại tướng Chân Đạt La, Đại tướng Chiêu Đổ La, Đại tướng Tỳ Yết La. Mười hai vị này, Đại tướng Dược Xoa, mỗi vị đều có bảy nghìn Dược Xoa, để làm quyến thuộc, đồng thời lên tiếng, mà bạch Phật rằng: Lạy Đức Thế Tôn, chúng con ngày nay, nhờ uy lực Phật, được nghe danh hiệu, Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, chẳng còn có sợ, những nơi ác thú, chúng con bảo nhau, đều cùng một lòng, quy Phật, Pháp, Tăng, cho đến hết đời, thề xin gánh vác, hết thảy hữu tình, làm việc nghĩa lợi, nhiêu ích yên vui; bất cứ chỗ nào: trong các thôn quê, thành thị làng nước, rừng cây vẳng lặng, mà có kinh này, ban phát đến nơi, rồi có người nào, thụ trì danh hiệu, Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, cung kính cúng dàng, quyến thuộc chúng con, hộ vệ người ấy, khiến cho giải thoát, hết thảy khổ nạn, có cầu nguyện gì, đều được đủ cả; hoặc có ai cầu, thoát khỏi bệnh tật, ách nạn cũng nên, đọc tụng kinh này, lấy chỉ ngũ sắc, mà kết thành chữ, tên của chúng con, được như nguyện rồi, sau hãy cởi ra.

Bấy giờ Thế Tôn, khen ngợi các vị, Đại tướng Dược Xoa. Ngài liền nói rằng: Hay lắm! Hay lắm! Tướng Đại Dược Xoa, trong đoàn các ông, vì nhớ báo ân, Đức Thế Tôn Dược Sư Quang Như Lai, thường nên cứ làm, như thế cho được, lợi ích yên vui, hết thảy hữu tình.

Bấy giờ Át Nan, bạch Đức Phật rằng: Lạy Đức Thế Tôn, pháp môn này nên, đặt tên là gì, và chúng con phải, phụng trì thế nào? Phật bảo Át Nan: Pháp môn này gọi, là pháp nói những, công đức bản nguyện, của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, cũng gọi là pháp, nói những thần chú, kết nguyện của mười hai vị Thần tướng, lợi ích hữu tình; cũng gọi là pháp, bạt trừ hết thảy, mọi thứ nghiệp chướng; nên phụng trì đúng, những nghĩa như thế.

Khi Bạt Già Phạm, nói lời ấy rồi, các đại Bồ-tát, và đại Thanh Văn, quốc vương, đại thần, Bà-la-môn, cư sĩ, Thiên, Long, Dược xoa, Kiền thát phạ, A tố lạc, Yết lộ trà, Khẩn nại lạc, Mạc hô lạc già, nhân và phi nhân, hết thảy đại chúng, nghe lời Phật nói, đều cả vui mừng, tin chịu vâng làm.

KINH DƯỢC SƯ LƯU LY QUANG NHƯ LAI BẢN NGUYỆN CÔNG ĐỨC (xong)

BÀI TÁN NHIỄU ĐÀN

Mười hai Đại tướng Dược Xoa, giúp Phật tuyên truyền, chỉ ngũ sắc kết thành tên, cầu nguyện được chu viên, rửa sạch oan khiên, phúc thọ khang vẹn tuyền.

Nam mô Bạt già phạt đế bệ sái xã lũ rô, bệ lưu li, bát lạt bà, hắt ra xà giã, đát tha yết đa gia, a ra hắt đế, tam diễu tam bột đà gia, đát diệt tha. Án, bệ sái thệ, bệ sái thệ, bệ sái xã, tam một yết đế sa ha.

Giải kết, giải kết, giải oan kết, Nghiệp chướng bao đời đều giải hết Rửa sạch lòng trần phát tâm thành kính, Đối trước Phật đài cầu giải kết. Dược Sư Phật, Dược Sư Phật. Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật, Tùy tâm mãn nguyện Dược Sư Phật. Nam mô Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật. (3 lần)

MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH

Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhật thiết khổ ách. Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc; thụ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị. Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm, thị cố không trung vô sắc, vô thụ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới; vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận. Vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí, diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố. Bồ-đề-tát-đỏa y Bát-nhã Ba La Mật Đa cố, tâm vô quải ngại, vô quải ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu kính Niết Bàn. Tam thế chư Phật y Bát-nhã Ba La Mật Đa cố, đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu-tam-bồ-đề. Cố tri Bát-nhã Ba La Mật Đa thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư. Cố thuyết Bát-nhã Ba La Mật Đa chú, tức thuyết chú viết:

“Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.” Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa (3 lần)

BẠT NHẤT THẾ NGHIỆP CHƯỚNG CĂN BẢN ĐẮC SANH TỊNH ĐỘ ĐÀ-LA-NI (1 tiếng chuông) Nam-mô a-di-đa-bà-dạ,  Đa-tha-dà-đa-dạ,  Đa-địa-dạ-tha. A-di-rị-đô-bà-tỳ. A-di-rị-đá, Tất-đam-bà-tỳ. A-di-rị-đá, Tì-ca-lan-đế. A-di-rị-đá, Tì-ca-lan-đá. Già-di-nị, Già-già-na, Chỉ-đa-ca-lệ, Sa-bà-ha  (3 lần, 1 tiếng chuông)

BÀI TÁN CHUNG

Hải hội Dược Sư, sáng rực thần quang, tám vị Bồ-tát giáng cát tường, bảy vị Phật tuyên dương, nhật nguyệt hồi quang, ban phúc thọ an khang.

Dược Sư Phật, Dược Sư Phật Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật.

BÀI TÁN KINH Sa bà chẳng ở được lâu dài, Sớm liệu tụng Kinh cửa Phật đài, Hai sáu nguyện vương tiêu tội hết, Ba nghìn Hóa Phật dũ lòng soi: Hoa sen Tây Trúc đầy thơm ngát, Quả phúc Nam Diêm được tốt tươi, Giải kết, tiêu tai, thêm tuổi thọ, Vững vàng bản mệnh, được yên vui.

NIỆM PHẬT và NHIỂU ĐÀN DƯỢC SƯ

Mười hai nguyện lớn, Giáo chủ Đông phương. Bốn chín đèn soi sáng đàn trường. Bảy bảy đức chân thường, lễ bái tán dương. Hết tai nạn được thọ trường. Nam mô Dược Sư Hải Hội Phật Bồ-tát Ma ha tát.

Nam mô Tiên Tai Diên Thọ Dược Sư Phật. (1 tràng) Nam mô Nhật Quang Biến Chiếu Bồ-tát (10 lần) Nam mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ-tát (10 lần) Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ-tát (10 lần)

TÁN PHẬT và LỄ PHẬT

1. Nhất tâm kính lễ: Phật Thiện Danh Xưng, Cát Tường Vương ở cõi Quang Thắng phương Đông, cùng chư Phật ở khắp Pháp giới. (1 lễ) 2. Nhất tâm kính lễ: Phật Bảo Nguyệt Trí Nghiêm Quang Âm Tự Tại Vương ở cõi Diệu Bảo phương Đông, cùng chư Phật ở khắp Pháp giới. (1 lễ) 3. Nhất tâm kính lễ: Phật Kim Sắc Bảo Quang Diệu Hạnh Thành Tựu ở cõi Viên Mãn Hương Tích phương Đông, cùng chư Phật ở khắp Pháp giới. (1 lễ) 4. Nhất tâm kính lễ: Phật Vô Ưu Tối Thắng Cát Tường ở cõi Vô Ưu phương Đông, cùng chư Phật ở khắp Pháp giới. (1 lễ) 5. Nhất tâm kính lễ: Phật Pháp Hải Lôi Âm ở cõi Pháp Tràng phương Đông, cùng chư Phật ở khắp Pháp giới. (1 lễ) 6. Nhất tâm kính lễ: Phật Pháp Hải Thắng Tuệ Du Hý Thần Thông ở cõi Thiện Trụ Bảo Hải phương Đông, cùng chư Phật ở khắp Pháp giới. (1 lễ) 7. Nhất tâm kính lễ: Phật Dược Sư Lưu Ly Quang ở cõi Tịnh Lưu Ly phương Đông, cùng chư Phật ở khắp Pháp giới. (1 lễ) 8. Nhất tâm kính lễ: Kinh Bản Nguyện Công Đức của Phật Dược Sư và chú Quán Đỉnh cùng Tôn Pháp ở khắp Pháp giới. (1 lễ) 9. Nhất tâm kính lễ: Bồ-tát Nhật Quang Biến Chiếu ở cõi Tịnh Lưu Ly phương Đông, cùng chư Bồ-tát ở khắp Pháp giới. (1 lễ) 10. Nhất tâm kính lễ: Bồ-tát Nguyệt Quang Biến Chiếu ở cõi Tịnh Lưu Ly phương Đông cùng chư Bồ-tát ở khắp Pháp giới. (1 lễ) 11. Nhất tâm kính lễ: Thánh chúng trong Hải hội Thanh tịnh ở cõi Tịnh Lưu Ly phương Đông, cùng Thánh chúng ở khắp Pháp giới. (1 lễ) 12. Con nay quy mệnh, sám hối thề nguyện đoạn trừ tất cả ba chướng cho pháp giới chúng sinh và tứ ân, tam hữu. (1 lễ)

CA DƯƠNG XƯNG TÁN PHẬT

(Điệu nhạc cõi Đông Phương)

Kính Lễ Xưng Tán Cúng Dường Đức Phật Dược Sư

Nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật

Một nén hương thơm con xin dâng lên Người – Đức Phật Dược Sư

Mười hai nguyện lớn của Người đem đến cho đời bằng niềm vui

Nhân gian bước qua bao la bể khổ

Cho con bước qua bao bến mê đời

Nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật

Người đã xua tan bao nhiêu nỗi ưu phiền khổ lụy đời con

Tìm lên cõi phúc trong đời

Quỳ dưới chân Ngài nguyện thành tâm

Con xin phát nguyện nương thân cửa Phật, trăm năm sống vui trọn kiếp con người

ĐK: Phật Dược Sư – hào quang sáng ngời, hào quang sáng ngời

Soi đường chúng con, vượt qua tăm tối

Phật Dược Sư – bàn tay nhiệm mầu xoa dịu nỗi đau

Nỗi đau tật bịnh, xua tàn lo buồn trầm luân thế gian

Nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật

Người đã khai tâm con – tu thân tu đời tu Đạo từ bi

Trầm hương tỏa ngát đất trời, quỳ dưới chân Ngài Phật Dược Sư

Con xin chấp tay, con xin khấn nguyện, cho con sống vui trọn kiếp con người …

(Bài nhạc Đạo Ca tuyệt vời này được Đại chúng thành kính thường hát cúng dường sau khi nhiễu và lễ Phật tại Tu Viện Hộ Pháp)

CÁT TƯỜNG NGUYỆN KỆ KINH

HỒI HƯỚNG

Trì kinh công đức, hạnh nhiệm mầu, Thắng phước bao nhiêu con nguyện cầu, Tất cả chúng sanh trong pháp giới, Hướng về Phật Pháp tỏ Đạo mầu. (1 tiếng chuông) -Nguyện cho ba chướng tiêu tan, Phiền não dứt sạch, tuệ căn sáng ngời, Cầu cho con được đời đời, Hành Bồ-Tát Đạo, cứu đời lầm than. (1 tiếng chuông) -Nguyện sanh Tây-Phương, cõi Lạc Bang Chín phẩm hoa sen, nơi hóa sanh. Hoa nở thấy Phật, quả viên thành, Bồ-Tát bạn lành với chúng con. (1 tiếng chuông) -Nguyện đem công đức này, Hướng về khắp tất cả, Đệ tử và chúng-sinh, Đều trọn thành Phật-đạo. (2 tiếng chuông)

PHỤC NGUYỆN (Tùy nghi thêm hoặc giảm theo tâm nguyện) (Lễ bái Tam Bảo và niệm Phật trì kinh xong xin quý vị phát một lời chí tâm Phục Nguyện)

Nam mô A-Di-Đà Phật phục nguyện: Tam-Bảo chứng-minh, oai thần hộ niệm, Bồ-Tát, Thanh-Văn, Phạm-vương, Đế-thích, Tứ Thiên-vương, Chúng Thiên-long Bát-bộ, Hộ-Pháp, Thần-vương, tất cả thiện-thần tại Tu Viện Hộ Pháp đồng thùy chứng giám.

Hôm nay, đệ-tử/Tỳ kheo ………. cùng chư thiện nam tín nữ Phật tử chúng con vâng lời Phật dạy thọ trì đọc tụng Đại-thừa kinh chú, niệm Phật, lễ Phật công-đức chỉ vì muốn hồi hướng trang nghiêm Tây Phương Tịnh-độ. Trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ tam-đồ, nếu người nào hôm nay thấy nghe, đều phát lòng niệm Phật, đồng cầu sanh về thế giới Tây-Phương Cực- Lạc, đồng viên thành Phật-đạo.

Nguyện cho Phật Pháp mỗi ngày tăng huy, Pháp-luân thường chuyển, mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc, người Việt-Nam ngày tự do đoàn tụ sớm được thành tựu.

Duy nguyện đồng nhờ oai thần Phật lực, Pháp lực, Hiền Thánh Tăng lực gia trì hiện tiền đệ-tử……… chúng con, đàn na thí chủ, nam nữ Phật tử Hộ Trì Ngôi Tam Bảo Tu Viện Hộ Pháp, phương danh Phật tử cúng Đại Đàn Dược Sư, và dâng sớ kỳ an, đảo bệnh tại Tu Viện Hộ Pháp, thân tâm thường an lạc, tứ đại điều hòa, tai qua nạn khỏi, bệnh tật tiêu trừ, thường được kiết tường, viễn ly khổ ách. Đạo tâm kiên cố, đạo hạnh tinh chuyên, nội ma bất khởi, ngoại chướng vô xâm, sở nguyện tùy tâm cát-tường như ý. Nghiệp chướng, báo chướng, phiền não sở tri chướng, vô minh trần lao, vi tế tội hoặc, đều được tiêu diệt, sớm thành Đạo quả.

Lại nguyện, đời đời sanh ra chánh tín dốc lòng hộ trì ba ngôi Tam-Bảo, kiến dựng Đạo-tràng khắp nơi khắp xứ, phá lưới mê lớp lớp trùng trùng, hàng phục chúng ma, thiệu long Tam-Bảo, thừa hành Phật-sự Mười Phương Chư Phật không biết mỏi mệt, tu học hết thảy các Pháp môn sớm được thông đạt, rộng tu phước huệ, rộng độ chúng sanh đồng thành Phật đạo.

Nguyện đem công đức này hồi hướng kỳ siêu cho Cửu-huyền Thất-tổ, cha mẹ nhiều đời bà con nhiều kiếp, thí chủ đàn na, sư trưởng lương bằng, oán đối cựu thù đồng được nhờ ân đức Tam-Bảo, đồng được siêu sanh Tịnh Độ.

Cầu nguyện Tu Viện Hộ Pháp chư vị hữu công, tiền hậu công đức, quy-y ký tự, quá cố chư hương linh liệt vị. Chú nguyện Tu Viện Hộ Pháp nội ngoại khuôn viên mê linh khô cốt, thổ mộc tà tinh, ly mỵ vọng lượng, trệ phách cô hồn, oan hồn uổng tử, chư linh liệt vị.

Đồng nguyện Thế giới đương thời, tiền hậu chiến tranh, thiên tai bão lụt, động đất sóng thần, chiến sĩ trận vong, nam phụ lão ấu, thủy lục không hành, hà sa nam nữ, vô tự âm linh cô hồn. Cầu cho Đồng-bào Việt Nam tỵ nạn ly hương biệt xứ, bất tri danh tánh, bất tường địa phương, tử nạn hải trung, hải tặc, phiêu trầm thất lạc, tán mạng chung thân, ôn hoàn yểu thệ, tự vận tự ải, trúng than trúng dược, chư nhơn bất hạnh đương thời, trục thai phá noãn, sản nạn chi lưu, hữu danh vô vị, hữu vị vô danh, huyệt sào tảo thương, sa lạc bất tường, vong biên thất ký, thất tích mộ phần, trung trung đẳng đẳng chư hương linh liệt vị, cập chư hương linh ký tự thờ phượng tại Tu Viện Hộ Pháp, và hiện tiền quá vãng hương linh …. Pháp danh:….. đều nhờ Phật lực, đến ngay Đạo-tràng, nghe kinh thính Pháp, phát tâm Bồ-đề, quy-y Tam-Bảo, tinh chuyên niệm Phật, sớm giác tỉnh lẽ đời sinh diệt vô thường, cầu siêu sanh về cõi an vui Tịnh-độ.

Chúng con kính ngưỡng nguyện Hồng Ân Tam Bảo từ bi thương xót chúng sanh và chúng con mà chứng minh nhiếp thọ, và gia trì cho những lời nguyện trên sớm được thành tựu.

Phổ nguyện, âm siêu, dương thới, pháp-giới chúng sanh, hữu tình cùng vô-tình đồng thành …. (nhịp dồi nhiều tiếng mõ) …Phật……đạo. 

* Đại chúng đồng thanh hòa:  Nam-Mô A-Di-Đà Phật. (gióng 2 tiếng chuông)

TAM QUI-Y

* Tự Qui-y Phật, xin nguyện chúng-sinh Thể theo Đạo cả, phát lòng vô-thượng. (gióng 1 tiếng chuông, 1 lạy) * Tự qui-y Pháp, xin nguyện chúng sinh Thấu rõ Kinh tạng, trí tuệ như biển. (gióng 1 tiếng chuông, 1 lạy) * Tự qui-y Tăng, xin nguyện chúng sinh, Thống lý Đại-chúng, hết thảy không ngại.  (1 tiếng chuông, 1 lạy)

Tứ Hoằng Thệ Nguyện Chúng sanh vô biên, thệ nguyện độ. Phiền não vô tận, thệ nguyện đọan. Pháp môn vô lượng, thệ nguyện học. Phật-đạo vô-thượng, thệ nguyện thành.

Hòa… Nam… Thánh… Chúng…

(4 tiếng chuông, dứt hết)