Nghi Thức Cúng Cơm 49 Ngày / Top 12 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Apim.edu.vn

Nghi Thức Lễ Cầu Siêu Cho Thai Nhi (Còn Trong 49 Ngày)

Nghi thức lễ cầu siêu cho thai nhi (còn trong 49 ngày)

Cùng chúng tôi tìm hiểu về kinh Phật cũng như nghi thức lễ cầu siêu cho thai nhi bị hủy diệt còn trong 49 ngày

(Chư Phật tử nghiêm tịnh thân tâm, quỳ, chắp tay cung kính. Chủ lễ nguyện hương.)

Nguyện đem lòng thành kính,

Gởi theo đám mây hương.

Phưởng phất khắp mười phương.

Cúng dường ngôi Tam Bảo,

Thề trọn đời giữ đạo,

Theo tự tánh làm lành,

Cùng pháp giới chúng sinh,

Cầu Phật từ gia hộ,

Tâm Bồ Đề kiên cố,

Xa bể khổ nguồn mê,

Chóng quay về bờ Giác (1 lạy) o

Tư thời đệ tử chúng đẳng phúng tụng Kinh Chú, xưng tán Hồng Danh, tập thử Công Đức, nguyện Thập Phương thường trụ Tam Bảo, Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đức Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật, từ bi gia hộ cho đệ tử …….. Pháp Danh ………

Hôm nay đối trước Tôn tượng, một lòng chân thành tha thiết sám hối, ăn năn về việc làm thiếu suy nghĩ, thiếu sáng suốt của con.

Con đã không đắn đo khi sát hại đứa con còn trong trứng nước của con.

Con đã mê muội hành động theo dục tánh, thiếu sự tư duy.

Con đã vô tình tạo một oan trái lớn lao với thần thức của đứa con còn phôi thai của con.

Vì tâm trí lu mờ, con đã không biết được rằng con đã chặt đứt cơ hội làm NGƯỜI của thần thức, con đã gây tạo cho thần thức một niềm sân hận tột cùng. Con biết rằng, dù với bất cứ lý do nào con cũng vẫn đã hành động sai lầm, cũng tạo điều trắc trở cho thần thức trong việc thác sanh. Hôm nay tỏ rõ, con thật dạ ăn năn, sám hối.

Cúi lạy Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát, cúi xin Bồ Tát mở lòng từ bi giúp giùm cho thần thức của đứa con của con tìm được một nơi thác sanh an ổn.

Do sự thiếu hiểu biết, con đã gây tạo lỗi lầm khiến Bồ Tát đã phải cực nhọc rất nhiều. Cúi xin Bồ Tát minh chứng cho lòng chí thành sám hối của con. Để đền trả lại hành động sai trái của con, con xin nguyện đem công đức tu tập: Sám Hối, Trì Chú, Niệm Phật hồi hướng cho hương linh con của con, Tánh danh……., Pháp danh (nếu có) (1)……., đã bị hủy diệt thai noản vào ngày……., tháng……., năm……..

Cúi lạy chư Phật, chư Bồ Tát thùy từ gia hộ cho con được trọn lời khấn nguyện, xin giúp cho thần thức sáng suốt, cảm thông được lòng chân thành ăn năn sám hối của con.

(Riêng người Chủ Lễ khấn)

Hôm nay là ngày………, tháng………, năm………

Đệ tử chúng đẳng nhất tâm thành kính, dâng hương đăng, hiến cúng Thập Phương Chư Phật, Chư Đại Bồ Tát, Chư Hiền Thánh Tăng, U Minh Giáo Chủ Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, thọ trì Sám Hối, xưng dương Phật hiệu, chuyên vì cầu siêu, truy tiến quá cố hương linh tánh danh: ………, Pháp danh………, bị hủy diệt thai noãn vào ngày ………, tháng ………, năm ………. o

(Ðứng dậy cắm hương lên lư xong rồi chắp tay đứng thẳng và tất cả đồng tụng phần kế tiếp.)

Đấng Pháp Vương vô thượng

Ba cõi chẳng ai bằng.

Thầy dạy khắp trời người,

Cha lành chung bốn loài.

Quy y tròn một niệm,

Dứt sạch nghiệp ba kỳ,

Xưng dương cùng tán thán,

Ức kiếp không cùng tận. (xá) o

Phật chúng sanh tánh thường rỗng lặng.

Đạo cảm thông không thể bàn,

Lưới đế châu ví đạo tràng,

Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời

Trước bảo tọa thân con ảnh hiện.

Cúi đầu xin thệ nguyện quy y. o

Nam mô tận hư không, biến pháp giớo, quá hiện, vị lai Thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trú Tam Bảo. (1 lạy) o

Nam mô Ta Bà Giáo chủ, Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp chư tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. (1 lạy) o

Nam Mô Tây Phương Cực Lạc thế giới, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật, đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ tát. (1 lạy) o

Lư hương vừa bén chiên đàn,

Khói bay nghi ngút muôn vàn cõi xa,

Lòng con kính ngưỡng thiết tha,

Ngưỡng mong chư Phật thương mà chứng cho.

Nam Mô Hương Vân Cái Bồ tát. (3lần) o

Nam mô đại bi Hội Thượng Phật Bồ tát. (3lần) o

Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni.

Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô yết đế, thước bàng ra dạ, ta bà ha.

Án, tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ ta bà ha. (3lần) o

(Ghi chú: Khi lập bàn thờ vong, trên bài vị nên đề tên của thai nhi, đặt cho thai nhi một cái tên để dễ dàng kêu gọi.

Mẹ là ……….(đầy đủ tên họ)

Thai noãn bị hủy diệt vào ngày………, tháng………, năm………

Sau hết 49 ngày siêu độ thì đốt.)

(Riêng người Chủ Lễ đọc)

Duy nguyện U Minh Giáo Chủ Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, xin phóng hào quang tiếp triệu quá cố hương linh tánh danh: ………, Pháp danh………, tử ngày………, tháng………, năm….hưởng thọ …… tuổi, lai đáo Pháp đàn, tiệm hình Pháp vị, thọ tài hưởng thực, thính Pháp, văn Kinh, siêu sinh Tịnh Độ. o

Nam mô Siêu Lạc Độ Bồ Tát Ma Ha Tát. (1 lạy) o

Hương linh…… nhất tâm quy y Phật. o

Hương linh…… nhất tâm quy y Pháp. o

Hương linh…… nhất tâm quy y Tăng. o

Quy y Phật, đức trí vẹn toàn.

Quy y Pháp, xa lìa tham ái.

Quy y Tăng, tự tâm thanh tịnh. o

Hương linh…… quy y Phật, bất đọa Địa ngục.

Hương linh…… quy y Pháp, bất đọa Ngạ quỷ.

Hương linh…… quy y Tăng, bất đọa Súc sanh. o

Hương linh quy y Phật rồi. o

Hương linh quy y Pháp rồi. o

Hương linh quy y Tăng rồi. o

Hương linh…… vốn tạo bao ác nghiệp,

Đều do vô thỉ tham, sân, si.

Từ thân, miệng, ý phát sinh ra,

Tất cả hôm nay nguyền sám hối. o

Nam mô Cầu Sám Hối Bồ Tát, tác đại chứng minh. (3 lần) o

Hương linh…… ,xin đem tất cả tâm thành đối trước chư Phật và Bồ Tát, dập đầu sám hối, ăn năn tất cả những nghiệp chướng mà hương linh ……. đã vô tình hay cố ý gây tạo nên.

Vì hương linh có Tâm xấu ác nên đã toan tính hại Người.

Vì hương linh có Ý không lành nên luôn mang đến cho Người nhiều đau khổ.

Vì hương linh mang nhiều Tánh xấu nên đã gây nhiều Sân Hận cho Người.

Ngày nay nhờ Phật, hương linh…… đã thấu rõ những Nghiệp tội mà hương linh đã gây nên từ vô thỉ kiếp cho đến kiếp vừa qua.

Cúi lạy Mười Phương Chư Phật, Chư Đại Bồ Tát, chứng minh cho lòng chí thành sám hối của hương linh…… và giúp cho tất cả tội chướng của hương linh…… đều được tiêu trừ.

Nam mô A Di Đà Phật tác đại chứng minh. (1 lạy) o

Từ bi trí huệ độ quần sanh,

Hỷ xả thần thông cứu hữu tình.

Tướng hảo quang minh dĩ tự nghiêm,

Chúng đẳng chí tâm quy mạng lễ:

1. Nam mô Đông Phương Giải Thoát, Chủ Thế Giới Hư Không Công Đức, Mục Tịnh Vô Cấu Vi Trần Đẳng, Đoan Chánh Công Đức Tướng, Quang Minh Hoa Ba Đầu Ma Diễm, Lưu Ly Quang Sắc, Bảo Thể Hương, Tối Thượng Hương, Diệu Cúng Dường, Chủng Chủng Diệu Thái Trang Nghiêm, Đảnh Kế Diệu Tướng, Vô Lượng Vô Biên, Nhựt Nguyệt Quang Minh, Nguyện Lực Trang Nghiêm, Biến Hóa Trang Nghiêm, Quảng Đại Trang Nghiêm, Pháp Giới Cao Thắng Vô Nhiễm Bảo Vương Như Lai. (1 lạy) o

2. Nam mô Hào Tướng Thù Thắng Như Nhựt Nguyệt Quang Minh Diệm, Bảo Liên Hoa Quang Sắc Thân, Kiên Như Kim Cang Tỳ Lô Giá Na Vô Chướng Ngại Nhãn, Viên Mãn Thập Phương, Phóng Quang Phổ Chiếu Nhứt Thiết Phật Sát Tướng Vương Như Lai. (1 lạy) o

3. Nam mô Nhứt Thiết Trang Nghiêm Vô Cấu Quang Như Lai. (1 lạy) o

4. Nam mô Nam Phương Thế Giới, Biện Tài Anh Lạc Tư Niệm Như Lai. (1 lạy) o

5. Nam mô Tây Phương Thế Giới Vô Cấu Nguyệt Tràng Tướng Vương Danh Xưng Như Lai. (1 lạy) o

6. Nam mô Bắc Phương Thế Giới, Hoa Trang Nghiêm Tác Quang Minh Như Lai. (1 lạy) o

7. Nam mô Đông Nam Phương Thế Giới, Tác Đăng Minh Như Lai. (1 lạy) o

8. Nam mô Tây Nam Phương Thế Giới, Bảo Thượng Tướng Danh Xưng Như Lai. (1 lạy) o

9. Nam mô Tây Bắc Phương Thế Giới, Vô Úy Quán Như Lai. (1 lạy) o

10. Nam mô Đông Bắc Phương Thế Giới, Vô Úy Vô Khiếp Mao Khổng Bất Thụ Danh Xưng Như Lai. (1 lạy) o

11. Nam mô Hạ Phương Thế Giới, Sư Tử Phấn Tấn Căn Như Lai. (1 lạy) o

12. Nam mô Thượng Phương Thế Giới, Kim Quang Oai Đức Tướng Vương Như Lai. (1 lạy) o

13. Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới đại từ đại bi, tiếp dẫn đạo sư pháp giới tạng thân A Di Đà Như Lai. (1 lạy) o

– Đức Phật bảo Di Lặc Bồ tát!

– Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào, phạm các tội Tứ trọng, Ngũ nghịch, Thập ác, phỉ báng Tam Bảo, hàng Tăng Ni phạm tội Tứ khí, bát khí, người ấy tội nặng, giả sử như đem cõi Diêm Phù Đề nầy, nghiền nát thành bụi nhỏ, mỗi hạt bụi là một kiếp tội, chỉ xưng lễ danh hiệu một vị Phật đầu tiên một lạy, thì bao nhiêu vi trần kiếp tội ấy đều được tiêu trừ. Huống chi ngày đêm đọc tụng, thọ trì nhớ niệm không quên, kẻ đó sẽ được công đức không thể nghĩ bàn.

– Bấy giờ đức Thế tôn liền nói kệ rằng:

Nếu có thiện nam tử

Cùng với thiện nữ nhơn,

Xưng lễ hiệu Phật trên.

Trong đời đời kiếp kiếp

Sẽ được mọi người yêu kính.

Tùy chỗ sanh ngôi vị,

Cao quý hơn tất cả.

Ánh sáng oai lực lớn.

Thành tựu đạo Bồ đề. (1 lạy) o

(Lễ tụng xong quỳ đọc bài văn ngũ sám sau đây)

1. Quy mạng mười phương Phật.

Tôn Pháp, Hiền, Thánh, Tăng,

Tam thánh cõi Cực Lạc.

Bát bộ chư Hiền, Thánh.

Thảy đều thấy biết con.

Đời nầy và đời trước,

Con tạo các nghiệp ác.

Thân tâm xin phát lồ,

2. Mười phương chư Phật, Thánh

Hiện tại thành đạo quả.

Con thỉnh chuyển pháp luân,

An vui cho chúng sanh.

Mười phương chư Phật, Thánh,

Sắp muốn nhập Niết Bàn.

Nay con đầu mặt lễ,

3. Chư Phật trong ba đời,

Các Bồ tát Thanh Văn.

Bậc tu tập tam thừa,

Cho đến hàng Phàm phu,

Có bao nhiêu phước lành

Thí, Giới, Nhẫn, Tinh tấn,

Thiền định, Tịnh Trí huệ.

4. Nguyện cùng các chúng sanh,

Đều phát lòng Bồ đề.

Xa lìa các phiền não,

Trọn nên nhất thiết trí,

Lại nguyện nay con tu,

Thập nhị danh lễ sám.

Tất cả các tội chướng.

5. Xin đem công đức tu

Hạnh trì chú, niệm Phật.

Hồi hướng khắp chúng sanh,

Bốn ân cùng ba cõi

Đều xa lìa các khổ,

Thân tâm cùng thanh tịnh.

Sanh về cõi Cực Lạc,

Đồng tu Bồ tát hạnh

Thành tựu đại Bồ đề. (1 lạy) o

Thập Nhị Danh Như Lai Lễ Sám Diệt Tội Chơn Ngôn:

(Ngồi xuống bắt Ấn Chuẩn Đề)

Um! Sạt va pan ba tá, vis phô tá, na ha na va chi ra da, xóa ha. Um! A rô líc, xóa ha. Um! Pơ ra ma ni đa nin, xóa ha. Um! Kít ta ba va, sát tê ri đê ri hùm. Kít ta ri kít, xóa ha. Um! Sát ri da da, á ri a ra da, ma ha va ti tra da xóa ha. (7 lần) o

A Di Đà Phật Thập Cam Lộ Đà Ra Ni:

Na mô rát na tờ gia gia gia, na mắc a ri gia, a mi ta pha gia, ta tha ga ta gia, a rờ ha tê, sam giác sam bút đa gia, ta đi gia tha: om a mờ rật tê, a mờ rật tô đờ pha vê, a mờ rật ta sam pha vê, a mờ rật ta ga ri phê, a mờ rật ta sít đê, a mờ rật ta tê rê, a mờ rật ta vi hờ rim tê, a mờ rật ta vi hờ rim ta, ga mi nê, a mờ rật ta ga ga na, ki ti ka rê, a mờ rật ta đun đa phi sờ va rê, sạc va rờ tha sa đa nê, sạc va kác ma, ka lê sa, ka sa, giam ka lê sờ va ha. (7 hoặc 21 lần)

XIII. Cúng Cơm Cho Hương Linh

(Chủ lễ đến trước bàn thờ vong, châm trà và gấp thức ăn vào chén cơm của hương linh. Phần này chỉ dành cho hương linh còn trong 49 ngày mà thôi )

Xin nguyện hương linh………..

Về đây thọ hưởng đơn thành,

Nén hương, bát nước, cơm canh cúng dường.

Hương linh………..thọ hưởng,

Chứng tri lòng thành.

Khai Yết Hầu Chơn Ngôn

(Tay bắt Ấn Kiết Tường)

ÁN BỘ BỘ ĐẾ RỊ, GIÀ ĐA RỊ, ĐÁT ĐA NGA ĐA GIA. (7 lần)

Nam mô Đa Bảo Như Lai

Nam mô Bảo Thắng Như Lai

Nam mô Diệu Sắc Thân Như Lai

Nam mô Quảng Bác thân Như Lai

Nam mô Ly Bố Úy Như Lai

Nam mô Cam lồ Vương Như Lai

Nam mô A Di Đà Như Lai

Trì Chú Quang Minh Siêu Độ Cho Hương Linh:

(Kết Ấn Kim Cang Quyền trì chú Quang Minh)

(OṂ AMOGHA VAIROCANA MAHĀMUDRĀ MAṆIPADME JVĀLA PRAVARTTAYA HŪṂ)

Âm Hán: Ông, A ma ca, hoài lỗ giai noa, ma cáp mẫu đức lạt ma ni bát đức ma, cập phạp lạp, bát lạp phạp nhĩ đả nha, hồng”

(Quỳ chấp tay cung kính phát nguyện)

Đệ tử chúng con,

Nay vì hương linh ……….,

Sám hối ba nghiệp tội.

Phàm được bao phước thiện,

Con xin nguyện hồi hướng.

Nguyện cùng với hương linh,

Vãng sanh nước Cực Lạc.

Thấy Phật ngộ Pháp Tánh,

Phát tâm đại Bồ Đề.

Đoạn vô biên phiền não,

Tu vô lượng pháp môn.

Thệ nguyện độ chúng sanh,

Phật A Di Ðà thân sắc vàng

Tướng tốt quang minh không ai bằng

Hào quang trắng uyển chuyển như Tu Di

Mắt Phật xanh biếc như bốn biển

Trong quang minh có vô số hoá Phật

Hoá Bồ Tát cũng nhiều vô biên

Bốn mươi tám nguyện độ chúng sinh

Chín phẩm sen vàng lên bờ giác.

Nam Mô A Di Ðà Phật (Niệm từ 10 phút trở lên) o

Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát (10 Câu) o

Nam Mô Ðại Thế Chí Bồ Tát (10 Câu) o

Nam Mô Ðịa Tạng Vương Bồ Tát (10 Câu) o

Khi Quán Tự Tại Bồ-Tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều không và vượt qua hết thảy khổ ách.

Này Xá-lợi Tử! Sắc chẳng khác không; không chẳng khác sắc. Sắc tức là không; không tức là sắc. Thọ tưởng hành thức cũng đều như thế.

Này Xá-lợi Tử! Các pháp đều không tướng: không sanh không diệt, không dơ không sạch, không tăng không giảm. Cho nên trong không: không có sắc, không có thọ tưởng hành thức; không có mắt tai mũi lưỡi thân ý; không có sắc thanh hương vị xúc pháp; không có nhãn giới, cho đến không có ý thức giới; không có vô minh, cũng không có hết vô minh, cho đến không có già chết, cũng không có hết già chết. Không có khổ tập diệt đạo; không có trí tuệ và cũng không có chứng đắc.

Vì không có chỗ chứng đắc, nên Bồ-Tát y theo Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tâm không ngăn ngại. Do không ngăn ngại, nên không sợ hãi, xa hẳn điên đảo mộng tưởng, và đạt tới cứu cánh Niết-bàn.

Chư Phật ba đời đều y theo Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Phải biết Bát-nhã Ba-la-mật-đa là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú. Có thể diệt trừ hết thảy khổ, chân thật bất hư.

Cho nên chú Bát-nhã Ba-la-mật-đa đã tuyên nói . Chú thuyết như vầy:

Yết-đế yết-đế, ba-la-yết-đế, ba-la-tăng-yết-đế, bồ-đề tát-bà-ha. (3 lần)

Nam-mô a di đa bà dạ, đa tha dà đa dạ, đa điệt dạ tha. A di rị đô bà tỳ, a di rị đa, tất đam bà tỳ. A di rị đa, tì ca lan đế. A di rị đa, tì ca lan đa, dà di nị, dà dà na, chỉ đa ca lệ, ta bà ha.(3 lần).

Khi đến phần giảng pháp, người Mẹ sẽ giải bày tất cả những lý do mà Mẹ cho rằng chánh đáng, khiến Mẹ phải đi đến quyết định hủy diệt thai noãn hoặc thai nhi, tức là xua đuổi thần thức ra khỏi bụng mẹ. Mẹ phải nói làm sao, cầu xin làm sao cho thật là tha thiết, làm mủi lòng thần thức, để thần thức cảm thông được với Mẹ mà bỏ qua hành động sái quấy của Mẹ, làm nhẹ đi cái lỗi lầm lớn lao của Mẹ.

Sau khi người Mẹ tỏ dạ cầu xin sự tha thứ của thần thức, người chủ lễ sẽ tiếp lời để giảng pháp cho thần thức. Người chủ lễ sẽ xoay quanh rất nhiều ở sự sân hận, sự buông xả, cắt nghĩa về nghiệp lực và từ đó mới chuyển sang việc người Mẹ chân thành sám hối ăn năn, khuyên thần thức nên cảm thông mà tha thứ. Nếu có thể, chủ lễ nên hướng dẫn cho thần thức tu tập để thần thức về được một cảnh giới tốt đẹp như cõi Trời, cõi Phật, đừng thác sanh trở lại kiếp Người nữa.

Nếu hướng dẫn cho thần thức về được cõi Phật, xem như đã hóa giải được nghiệp chướng nặng nề giữa thần thức và người Mẹ.)

(HOẶC ĐẠI KHÁI NHƯ SAU:)

Do sự si mê lầm lạc đã dẫn dắt tôi vào con đường tối tăm, hành động thiếu suy nghĩ, thiếu đắn đo, đã gieo điều khổ hận cho thần thức, làm lở cơ hội thác sanh của thần thức. Ngày nay chợt hiểu ra thì oan trái đã buộc ràng.

Tôi vô cùng sám hối, ăn năn, tha thiết cầu xin thần thức giảm bớt lòng oán hận tôi và tha thứ điều sai trái tôi đã gây nên.

Tôi nguyện chăm lo tu tập để hồi hướng cho thần thức, đáp đền một phần nào sự lầm lỗi của mình. Tôi cũng xin nguyện luôn làm Hạnh Bố Thí hồi hướng cho thần thức để thần thức luôn có đủ đầy Phước Báu nơi chốn thác sanh.

Xin thần thức ghi nhận lòng chân thành thiết tha sám hối của tôi.

Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát Ma Ha Tát tác đại chứng minh.)

(Riêng người Chủ Lễ đọc)

Đệ tử tên là………, Pháp danh………, xin đem công đức Sám Hối, Trì Chú, Niệm Phật hồi hướng cho hương linh tánh danh………, Pháp danh………, bị hủy diệt thai noãn vào ngày………, tháng………, năm……

Ngưỡng mong chư Phật và Bồ Tát thùy từ gia hộ độ cho hương linh………, thần thức được nhẹ nhàng, trí huệ phát sáng để nhận chân ra điều sai lầm đã tạo tác, biết thành tâm ăn năn, sám hối về những nghiệp chướng đã gây tạo từ nhiều đời nhiều kiếp cho đến kiếp vừa qua.

Cúi lạy Đức Từ Phụ A Di Đà Phật, Đức Quán Thế Âm Bồ Tát từ bi cứu khổ, cùng Đức Đại Hùng Đại Lực Đại Thế Chí Bồ Tát, U Minh Giáo Chủ Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, rủ lòng thương xót, phóng quang tiếp dẫn thần thức của hương linh………, vãng sanh Cực Lạc Quốc.

Nguyện đem công đức này,

Trang nghiêm Phật Tịnh Độ

Hồi hướng cho Hương Linh………,

Cùng oán thân trái chủ

Trên đền bốn ơn nặng

Dưới cứu khổ tam đồ

Nếu có ai thấy nghe

Đều phát lòng Bồ Đề

Hết một báu thân này

Đồng sanh cõi Cực Lạc. o

(Ðứng dậy và tất cả đồng tụng phần kết thúc.)

Tự quy y Phật:

Xin nguyện chúng sanh,

Thể theo Đạo cả,

Tự quy y Pháp :

Xin nguyện chúng sanh,

Thấu rõ Kinh Tạng,

Tự quy y Tăng :

Xin nguyện chúng sanh,

Thống Lý đại chúng,

Hết thảy không ngại. (1 lạy) o

Tụng kinh niệm Phật là để thức tỉnh tâm linh Công Năng và Oai Lực của Địa Tạng Bồ Tát Phật giáo – Nghi thức tụng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát

31. Nghi Thức Tâm Linh Giúp Vong Linh Siêu Thoát Trong 49 Ngày

Giai đoạn Bardo trung ấm thường diễn ra trong vòng 49 ngày sau khi một người vừa qua đời. Trong giai đoạn này, họ sẽ phải trải qua vô số trải nghiệm hãi hùng khác nhau và tiếp xúc với rất nhiều Bản tôn. Nhưng do thiếu công phu tu tập thực hành quán tưởng chư Phật để nhận ra chư Phật hay tự tính tâm thanh tịnh của mình, nên mặc dù có rất nhiều chư Phật An bình và Uy mãnh thị hiện để dẫn dắt giải thoát, vì quá sợ hãi, họ lại thường chạy trốn. Hầu hết mọi người cho tới ngày thứ 49 đều tái sinh vào Sáu đạo luân hồi. Vì lý do đó, tiếp tục hộ niệm, thực hành nghi thức tâm linh đúng pháp và miên mật cho người chết trong giai đoạn này là vô cùng quan trọng.

1. Các nghi thức bên ngoài

Như chúng tôi đã giới thiệu ở các bài đã đăng trước, cần phải hộ niệm cho người chết một cách hết sức cẩn thận bằng cách không làm phiền và đụng chạm đến thân thể họ tốt nhất là trong vòng 3 ngày, để đảm bảo tiến trình tan rã được hoàn tất trong sự an bình nhất.

Sau một ngày rưỡi đến ba ngày, có thể tắm rửa cho người chết bằng nước thơm. Sau khi tắm xong, dùng mật ong bôi vào luân xa tim và dán khăn Mandala gia trì Bách tôn lên luân xa tim. Mật ong là chất liệu đem lại năng lượng tích cực và an bình, nên được dùng để dán Mandala cho người chết có thể đem lại lợi lạc cho họ. Sau đó, đặt các Mandala Ngữ giác ngộ của chư Phật Bản tôn lên tim người chết, rồi đắp lên người quá cố “Y phục Giải thoát”, phủ lên mặt họ khăn chúc phúc, cho ngậm thuốc và đeo dây gia trì.

Đức Bản tôn Kim Cương Tát Đỏa

Sau khoảng thời gian hộ niệm nhất định, cần thỉnh mời chư Tăng, Ni làm lễ quy y, cúng cơm vong và làm lễ Nhập liệm cho người chết. Trước hết cần làm lễ sái tịnh, gia trì áo quan bằng cách trì chân ngôn Trăm âm, chân ngôn tịnh hóa chướng ngại, chân ngôn tính không hoặc Đại bi Thập chú, rồi tụng bài “Tán Dương Chi”, trong lúc đó sái tịnh áo quan bằng cách rải cát Mandala, đất thánh địa, nước gia trì, các đồ hương liệu như mô tả ở phần trên, hoặc nếu không có các hương liệu này thì ướp hoa nhài, chè buồm,… để chống chảy nước và khử mùi hôi.

Tiếp theo là lễ Thành phục, gia chủ nhận khăn tang từ chư Tăng Ni và xin bố thí các khóa lễ Thí thân pháp Ba La Mật, Thí thực, Phóng sinh,… việc chôn cất hay thiêu tùy theo tâm nguyện của người chết. Thông thường có bốn hình thức mai táng là Địa táng (chôn vào đất), Thủy táng (thả trôi sông biển), Hỏa táng (thiêu xác), Thiên táng (hay Điểu táng, hình thức để an táng để lộ thiên cho thân xác tự tiêu hủy). Theo truyền thống Việt Nam chỉ có Địa táng và Hỏa táng. Tuy nhiên, cần lưu ý chỉ Hỏa táng khi đã hoàn thành chuyển di tâm thức ra khỏi thân xác. Nếu không, thần thức chịu sự thống khổ dẫn đến đọa lạc.

Đức Bản tôn A Di Đà

Nếu chôn cất cần làm thêm một số thủ tục như tụng Chú Đại Bi và chân ngôn Một Trăm âm, rải cát và nước gia trì xuống đáy áo quan, nên viết ba chữ chủng tử: OM AH HUNG trên nắp phía trong quan tài, tụng các chân ngôn và gia trì vào huyệt theo cách tác pháp như gia trì áo quan ở trên, thỉnh ảnh của Đức Phật A Di Đà ra mộ, đến nghĩa trang nếu đủ duyên tụng thêm Mông Sơn Thí Thực (đốt các thực phẩm) hoặc pháp cúng dàng Hỏa tịnh sẽ rất lợi lạc cho vong linh mới mất và các vong linh chưa siêu thoát đang vất vưởng ở khắp nghĩa trang.

Sau khi chôn cất xong, gia quyến cũng nên thỉnh cầu các bậc Thầy cử hành khóa cầu siêu quán đỉnh Jangwa, thực hành các nghi quỹ hộ niệm Thí thân Pháp Ba la mật, Di Đà, Cho và Nhận Tonglen, Phổ Ba Kim Cương (với những trường hợp chết bất đắc kỳ tử và tự sát) cùng các pháp tu, thực hành thiện hạnh và cầu nguyện hồi hướng cho người chết cho tới khi kết thúc giai đoạn thân Trung ấm. Hoặc nhờ chư Tăng Ni chùa gần nơi mình ở làm lễ quy y vong hay còn gọi là đưa vong lên chùa, càng sớm càng tốt trong vòng 49 ngày.

Trong khi bên ngoài gia quyến tiến hành sắp xếp các nghi lễ, tang sự thì những người hộ niệm vẫn cần ở bên người chết và miên mật trách nhiệm của mình.

Trong suốt 49 ngày, nên tiếp tục tụng đọc những giáo pháp khai thị cho người chết như giáo pháp về Bardo, “Tử Thư Tây Tạng”, bài Kệ khai thị Bardo, những phần cúng dàng đèn và trì chân ngôn niệm Phật. Những khai thị trong giai đoạn trung ấm giống như tấm bản đồ hướng dẫn thần thức hướng đi đúng đắn sau khi rời xác thân vật lý và đang trôi dạt một cách vô định sợ hãi trong giai đoạn trung gian. Tất cả đều giúp cho thần thức người chết không bám chấp vào xác thân đã mất và những sở hữu khác của đời sống vừa qua như người thân, tài sản, danh vọng. Đồng thời, thần thức có thể nhận ra bản chất của mọi cảnh giới trong Bardo chết và tái sinh đều do tâm tạo, từ đó có thể giảm bớt hoang mang, sợ hãi mà sáng suốt tránh xa các cạm bẫy của đọa lạc, và thực hành quy y cầu nguyện vãng sinh Tịnh độ.

Gia đình người chết nên thỉnh cầu Thượng sư, chư Tăng Ni hoặc đạo hữu Kim cương thực hiện khai thị cho thần thức người chết. Ngài có thể thực hành nghi lễ cầu siêu quán đỉnh Jangwa, pháp chuyển di tâm thức Phowa, hay những pháp thực hành đặc biệt khác như Thí thân pháp Ba la mật, cúng dàng Ganachakra, cúng dàng Hỏa tịnh, nhưng không chỉ giới hạn sự cúng dàng tới hương linh cụ thể mà hồi hướng cúng dàng tới toàn thể pháp giới vũ trụ và hồi hướng trọn vẹn công đức. Nếu đạo hữu Kim cương hay người đọc khai thị có quan hệ gần gũi với người chết, có cùng một Bậc Thầy, cùng giới nguyện và sống hòa hợp với người chết thì lợi ích sẽ rất lớn. Ngược lại, nếu người chết cảm thấy khó chịu với người đọc thì những khai thị này sẽ không có tác dụng.

Ngoài ra, có thể thực hiện kết hợp đồng thời nhiều phương pháp để lợi ích cho vong linh người chết, chẳng hạn như: Treo Mandala Bách tôn Trung ấm hoặc tranh Thangka hộ trì của Đức Văn Thù trong nhà. Chúng ta nên lưu ý, những vật này cần được sự gia trì của Kim cương Thượng sư trước khi treo thì mới có lợi ích.

Cúng dàng Hỏa tịnh

Hàng ngày cúng cơm cho vong linh ít nhất một lần vào buổi trưa, tốt nhất là cúng cơm chay. Thần thức người đã chết không ăn uống như người thường mà ăn bằng hương thơm. Vì vậy, trong khóa lễ cúng cơm vong, nên chuẩn bị một bát bột gồm có các loại bột ngũ cốc, bánh các loại, bơ, sữa, bột hương, quế, hồi, đinh hương, thảo quả,… Khi đọc bài cúng cơm đến phần “Biến thực chân ngôn” thì đem bát bột này cùng với một số thức ăn trên mâm cúng ra ngoài đốt nhưng không đốt lên lửa mà chỉ đốt bằng than để tạo ra khói thơm. Thần thức người chết sẽ thụ hưởng khói thơm này mà được no đủ.

Trì tụng chân ngôn Bản tôn

Thực hành trì tụng miên mật chân ngôn của các Bản tôn như Đức Phật A Di Đà, Đức Quan Thế Âm, Đức Liên Hoa Sinh, Phật Kim Cương Tát đỏa. Người thân gia đình có thể phát nguyện trì tụng một hoặc nhiều Tạng chân ngôn của vị Phật Bản tôn. Tụng thêm các bài Cầu Vãng sinh Tịnh độ để hồi hướng cho hương linh vào cuối mỗi thời khóa.

Cúng dàng đèn tức là cúng dàng ánh sáng, phẩm vật cúng dàng này tiêu biểu cho trí tuệ. Pháp môn này nếu được thực hành với tâm thanh tịnh vì lợi ích của chúng sinh, là một phương tiện thiện xảo để xua tan màn vô minh. Chúng ta đặc biệt cúng dàng đèn với mục đích đem công đức hồi hướng cho người chết, để dẫn dắt họ đi trong Bardo với ánh sáng của trí tuệ. Ánh sáng này sẽ soi đường cho toàn thể chúng sinh trong sáu cõi, đặc biệt các chúng sinh đang trôi lăn trong thân trung ấm, giúp tịnh hóa mọi ám chướng, phiền não, đánh thức tuệ giác chân thật nơi mỗi người! Trong suốt giai đoạn Thân trung ấm, mỗi tuần cho đến hết bảy tuần, người chết chắc chắn sẽ phải trải qua sự hồi tưởng, phóng chiếu về cái chết của mình bị lặp lại, giống như người đó chết thêm nhiều lần nữa.

Đối với một người phạm phải ác trọng nghiệp là tự kết liễu sinh mạng của chính mình thì trải nghiệm chết lại này càng khủng khiếp gấp bội, chính vì vậy sự hộ niệm lại càng vô cùng cần thiết. Vì vậy, hàng tuần, gia đình, pháp hữu cần thực hành cúng Đại đàn Thí Thực và phóng sinh càng nhiều càng tốt và hồi hướng công đức này tới người chết. Bởi vậy, nếu có điều kiện thì mỗi tuần thất gia đình người chết nên tới các chùa cúng dàng trai Tăng, cùng với quý Thầy tụng các bộ kinh Lương Hoàng Sám, Địa Tạng, Thủy Sám,… điều này càng lợi lạc cho vong linh và cửu huyền thất tổ đã khuất.

3. Những điều thân nhân cần lưu ý

Như đã giải thích, khoảng thời gian trong thân trung ấm là thời điểm vong linh rất hoang mang sợ hãi và luôn trông mong sự hỗ trợ tinh thần từ những người thân của mình. Kinh điển dạy rằng, trong trạng thái trung gian của cái chết, khi không còn sự ngăn ngại của xác thân tứ đại, thần thức trở nên vô cùng tinh nhạy, có thể “thông minh hơn chín lần” khi họ còn sống. Thần thức có rất nhiều năng lực thần thông như có thể đọc được tâm của người khác, có thể biết được tình cảm gia đình quyến thuộc thực sự dành cho họ lúc này ra sao. Vì thần thức quá linh thông, họ càng đau khổ hơn khi biết rằng những người thân không thực sự quan tâm đến cảnh khổ của họ.

Vì vậy, nếu người thân thực hành tu tập, làm các thiện hạnh và hồi hướng mọi công đức cho vong linh cũng như chúng sinh khắp mười phương pháp giới, vong linh sẽ cảm thấy an tâm vì có nơi che chở nương tựa. Ngược lại vong linh sẽ vô cùng đau khổ và tức giận nếu thân nhân của họ không tạo phúc lành, mà còn sát sinh hại vật, tạo tác ác nghiệp, hay mải lo chuyện tranh giành tài sản, anh em bất hòa… Điều này khiến họ tuyệt vọng và có thể đọa ngay xuống địa ngục chịu khổ hành hình, hoặc làm quỷ đói ngàn năm không thể siêu thoát.

Trong thời gian 49 ngày này, thân nhân người chết nên cố gắng ăn chay, niệm Phật, phóng sinh, tụng kinh cầu nguyện và làm các công đức thiện hạnh bố thí, cúng dàng đèn, giữ trai giới thanh tịnh, tránh tạo ác nghiệp, hồi hướng mọi công đức cho vong linh cũng như chúng sinh khắp mười phương pháp giới. Gia đình tuyệt đối không sát sinh vì đó là hành động tội lỗi nhất gây thêm ác nghiệp cho người chết và khiến người đó nhanh chóng bị đọa lạc. Xã hội thường có phong tục làm cơm cúng cho người chết, làm cỗ cho khách tới viếng đám ma hoặc làm cỗ giỗ. Trong những dịp này, việc sát sinh được thực hiện hàng loạt, dù trực tiếp hay gián tiếp. Như vậy sẽ là một nghiệp duyên vô cùng bất lợi với người chết. Cách tốt nhất là thay thế bằng những món ăn chay, cỗ chay để tránh đoạt mạng chúng sinh.

Là Phật tử, chúng ta cũng nên có chính kiến, không nên mời thầy cúng thực hành nghi lễ không đúng pháp vì đó là việc làm tà kiến, chẳng những không đem lại lợi ích cho người chết mà thậm chí còn khiến họ không thể siêu thoát hoặc bị đọa xuống các cõi thấp.

Những người thân cũng nên lưu ý cư xử hết sức thận trọng trong 49 ngày này vì lợi ích của người đã mất. Trong giai đoạn này, vong linh người mới mất thường quanh quẩn ở nhà hoặc bên người thân và những nơi mà họ hay lui tới khi còn sống. Họ có thể chứng kiến tất cả những gì người sống đang làm cũng như thấu hiểu những gì người sống đang nghĩ. Chẳng hạn, nếu người vợ đi với một người đàn ông khác hay người chồng đi với một cô gái khác, những xử sự như thế sẽ làm linh hồn người chết rất đau đớn, đặc biệt nếu đây là vấn đề mà họ đã lo nghĩ ám ảnh suốt cả cuộc đời. Tập khí này rất mạnh, vì thế họ sẽ cảm thấy vô cùng khổ sở. Bởi vậy, nếu bạn có tình cảm với ai đó khác trước khi người thân của bạn mất thì bạn cũng nên tạm thời gạt bỏ mối quan hệ ấy trong vòng ít nhất 49 ngày.

Chúng ta cũng nên xử sự tương tự đối với các vấn đề về tài sản và những việc khác. Chẳng hạn, chúng ta không nên quá tham lam và vội vàng kiểm tra tài khoản ngân hàng, lấy đi mọi thứ như giấy tờ, di chúc, hay nói và nghĩ đến nó, hay chia nhau của cải, tài bảo của người chết,… Việc hành xử thận trọng và đúng đắn trong những vấn đề này cũng là cách hộ niệm cần thiết và quan trọng đối với người chết trong giai đoạn 49 ngày. Ngoài ra, nếu người mất lúc sinh thời là Phật tử có tâm xả ly hoặc trước khi chết có mong nguyện thì có thể đem tài bảo, vật dụng, tiền mọi người phúng viếng đám tang người đó để cúng dàng Tam Bảo, bố thí người nghèo khó, kẻ bất hạnh để tích lũy thêm công đức cho người chết.

Cũng nên lưu ý rằng thực hành hộ niệm sớm trong giai đoạn đầu của thân trung ấm, trước khi thần thức luân chuyển sang giai đoạn quá xa của tiến trình tái sinh là tối ưu, bởi nếu sau một thời gian nhất định, thường là sau 21 ngày, người chết sẽ có khuynh hướng quên đi mọi chuyện trong đời quá khứ và bắt đầu bị những xu hướng nghiệp đẩy tới trạng thái tái sinh kế tiếp. Khi ấy, những nỗ lực thực hành hộ niệm của bạn sẽ không còn nhiều tác dụng. Trong giai đoạn đầu của Bardo trung ấm thân, mặc dù đang ở trong trạng thái vô cùng hoang mang bối rối, nhưng thần thức người chết vẫn đang còn nhiều ký ức và những mối liên hệ của kiếp sống vừa qua, nên vẫn có thể đón nhận được “tín hiệu” từ phía chúng ta. Bởi vậy sự thực hành khai thị hộ niệm cho họ lúc này có tác dụng nhất định.

* Hỏa tịnh là đại cúng dàng qua phương pháp đốt thực phẩm vì người quá cố chỉ có thể hưởng thụ thức ăn qua hương vị. Đây là pháp tu vô cùng thù thắng của Kim cương thừa, giúp tịnh hóa vô số chướng ngại với cả người sống và người quá cố.

* Thông thường khi cúng dàng đèn chúng ta cúng 25 ngọn nến hoặc 108 ngọn nến bơ, hoặc cúng càng nhiều đèn càng tốt. Chúng ta cũng có thể thỉnh cầu chư Tăng ni, các bậc Xuất gia thanh tịnh cúng dàng đèn để hồi hướng cho hương linh người đã khuất. Chi tiết về ý nghĩa lợi ích và thực hành pháp tu này, xem Phần cúng dàng đèn trang 348.

* Tuần thất có nghĩa là trong chu kỳ 49 ngày, cứ vào đúng 7 ngày sau ngày chết chúng ta gọi là một tuần thất. Quan kiến Phật giáo cho rằng cứ hết mỗi 7 ngày này là thần thức lại trải nghiệm lại cái chết. Chính vì thế, gia đình người thân rất cần tu tập tạo phúc, thực hành thiện hạnh vào những dịp này. Số 7 này cũng là con sô tâm linh, tương ứng với tổng số của không gian (bốn phương chính) và thời gian (ba chiều quá khứ – hiện tại – vị lai).

Nghi Thức Cúng Quá Đường (Ăn Cơm Trong Chánh Niệm)

Bài TỲ-KHEO NGUYÊN TẠNG

Sau khi hành giả vào trong trai đường, nghe thầy Chứng Minh nhịp ba tiếng chuông, chấp tay xá một xá và ngồi xuống, khi nghe một tiếng khánh, mở nắp bình bát ra, cắm chiếc muỗng quay ra phía ngoài vào cơm trong bình bát, sau đó nghe chuông hành giả tay trái nâng bát đưa lên ngang trán, tay phải kiết ấn cam lồ ngang miệng bình bát hay bát cơm để tụng bài cúng dường:

Cúng dường Thanh Tịnh Pháp Thân Tì Lô Giá Na Phật,Viên Mãn Báo Thân Lô Xá Na Phật,Thiên Bá Ức Hóa Thân Thích Ca Mâu Ni Phật,Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật,Cực Lạc Thế Giới A Di Đà Phật,Thập Phương Tam Thế Nhất Thiết Chư Phật,Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát,Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát,Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát,Chư Tôn Bồ Tát Ma Ha Tát,Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật.

Tam đức lục vị, cúng Phật cập Tăng, pháp giới hữu tình, phổ đồng cúng dường, nhược phạn thực thời, đương nguyện chúng sanh, Thiền duyệt vi thực, pháp hỷ sung mãn.

Dâng cơm lên trán và bắt ấn cúng dường để biểu tỏ lòng tôn kính ba ngôi Tam Bảo. Cúng dường xong để bát xuống, liền xoay hướng muỗng vào bên trong, với ý nghĩa, phần cơm dành cho mình, còn trước khi cúng, quay muỗng ra ngoài là để dâng cúng mười phương Tam Bảo.

Tay phải kiết ấn cam lồ biểu trưng cho lòng từ bi, như hình ảnh của Bồ Tát Quán Thế Âm, tay cầm bình cam lồ, tay bắt ấn để ban rải lòng từ bi để cứu khổ chúng sanh. Tay trái kết ấn Tam Sơn biểu trưng cho Giới Định Tuệ, là ba môn vô lậu học, một môn học có thể đưa hành giả đi vào đường giác ngộ.

Ta thấy trong nghi cách dâng bát cơm cúng dường này đã gói gọn ý nghĩa từ bi và trí tuệ, là hai yếu tố quyết định quan trọng trong đời mình, hạnh phúc hay đau khổ cũng chính từ đây mà có. Từ bi là lòng thương không có điều kiện, và trí tuệ là trí hiểu biết không nhiễm ô, đây là mục đích tối hậu của mọi hành giả, ai thành tựu được pháp hành này, người ấy luôn sống an lạc tự tại dung thông ngay trong hiện tại và mai sau, tất nhiên, con đường dẫn đến giải thoát sinh tử luân hồi đã ngắn dần ở phía trước.

Tiếp đó, thầy Chứng Minh để một cái chung nhỏ trong lòng bàn tay trái, tay mặt gắp 7 hạt cơm để vào chung, kiết ấn cam lồ và mặc niệm:

Pháp lực bất tư nghì.Từ bi vô chướng ngại.Thất liệp biến thập phương.Phổ thí châu sa giới.Án độ lợi ích tá ha (3 lần)

Sau đó đại chúng đồng tụng bài biến thực biến thủy chơn ngôn:

– Nẳng mồ tát phạ đát tha, nga đa phạ lồ chỉ đế. Án tam bạt ra tam bạt ra hồng (3 lần).

– Nẳng mồ tô rô bà da, đát tha nga đa da, đát điệt tha. Án tô rô, tô rô, bát ra tô rô, bát ra tô rô ta bà ha. (3 lần).

– Án Nga nga nẵng Tam Bà Phạ Phiệt Nhựt Ra Hồng (3 lần).

Thầy Chứng Minh thầm nguyện:

Nhữ đẳng quỉ thần chúng.Ngã kim thí nhữ cúng.Thử thực biến thập phương.Nhất thiết quỉ thần cộng.Án mục lăng tá bà ha. (3 lần).

Theo sau là Thị Giả tống thực, đem chung nhỏ ra trước bàn ngoài sân để cúng Đại Bàng bằng cách hô to:

Chim đại bằng cánh vàng, chúng quỉ thần nơi đồng rộng, mẹ con quỉ la sát, cam lồ được no đủ. Án mục đế tóa ha. (7 lần)

Tiếp theo, Thầy Chứng Minh xướng Tăng Bạt:

Phật dạy đại chúng, ăn xét năm điều, nghĩ sai nói chuyện, tín thí khó tiêu, đại chúng nghe tiếng khánh, cùng giữ chánh niệm. Nam Mô A Di Đà Phật !

Tiếp đó, tất cả đại chúng hai tay bưng bát cơm đưa lên trán và thầm đọc:

Tay bưng bát cơm, nguyện cho chúng sanh, Pháp thí thành tựu, nhận của trời người cúng. Án chỉ rị chỉ rị phạ nhật ra hồng phấn tra (3 lần)

Nhận của trời người cúng ở đây là xứng đáng nhận sự cúng dường của người và trời, chỉ cho bậc A La Hán, người đã đoạn tận tam độc tham, sân, si và vô minh phiền não. Trong khi Cúng Quá Đường ý niệm này khởi lên, mong cho chính bản thân mình và hết thảy chúng sinh sớm chứng đắc A La Hán và thoát ly sinh tử luân hồi khổ đau.

Nghe tiếng khánh để bát cơm xuống và múc ít cơm ra chén để lưu phạn. Nghe chuông, bưng chén cơm để trước ngực và thầm đọc:

Nay đem phước đã tu, ban cho tất cả quỉ, ăn rồi hết đau khổ, xả thân về cõi tịnh, hưởng phước của Bồ Tát, rộng lớn như hư không, quả tốt như vậy đó, tiếp tục lớn thêm mãi. Án độ lợi ích tá ha. (3 lần)

Lưu phạn là san sẻ phần cơm của mình cho chúng quỉ thần và cho người ăn sau mình; ý nghĩa bố thí, mở rộng tình thương của mình dành cho người bất hạnh, không đủ cơm ăn áo mặc, ý tưởng này giúp cho hành giả nuôi dưỡng từ tâm ngay trong lúc mình ăn.

Lưu phạn xong, nghe hai tiếng chuông đại chúng bắt đầu dùng cơm, trước khi ăn, hành giả phải khởi niệm Tam Đề và Ngũ Quán, đây là một nghi cách đẹp và có ý nghĩa của nhà Phật mà hành giả không phải chỉ áp dụng trong khi Cúng Quá Đường mà có thể áp dụng trong tất cả các bữa ăn khác của mình trong đời sống.

Tam Đề là ăn ba muỗng cơm lạt đầu tiên, muỗng thứ nhất: thầm đọc, nguyện chấm dứt tất cả những điều ác; muỗng thứ hai: nguyện làm tất cả những việc lành; muỗng thứ ba: nguyện giúp đỡ tất cả chúng sanh.

Ý nghĩa Tam Đề này là nói rõ mục đích tối hậu của hành giả tự độ mình là dứt ác, làm lành, đạt đến giải thoát và thực thi hạnh độ tha là giúp đỡ người khác rõ biết đường đi lối về của nhân quả nghiệp báo, ra khỏi tà kiến để chấm dứt đau khổ trong đời sống để rồi cuối cùng cũng đạt đến giác ngộ giải thoát như bản thân mình.

Tiếp đến bắt đầu ăn cơm phải tưởng Ngũ Quán:

– Thứ nhứt. Con xin biết ơn người đã phát tâm cúng dường, sửa soạn những thức ăn này;

– Thứ hai. Con nguyện nổ lực tu học, trau dồi giới hạnh để xứng đáng thọ dụng những thức ăn này;

– Thứ ba: Trong khi ăn, con nguyện từ bỏ lòng tham dục, tham ăn;

– Thứ tư: Con quán chiếu những thức ăn này như những vị thuốc, để cho thân thể con khỏi bệnh tật;

– Thứ năm: Con nuôi dưỡng chánh niệm, chỉ vì để thành tựu đạo nghiệp giải thoát giác ngộ mà con xin thọ dụng những thức ăn này.

Trong suốt thời gian dùng cơm, hành giả luôn luôn giữ chánh niệm với năm phép quán trên.

Ăn cơm xong, lấy tăm xỉa răng và thầm nguyện:

Nhấm tăm dương chi, nên nguyện chúng sinh, tâm tính thuần hóa, cắn nát phiền não. Án a mộ dà, di ma lệ, nhĩ phạ ca ra, tăng thâu đà nễ, bát đầu ma, câu ma ra, nhĩ phạ tăng thâu đà da, đà ra đà ra, tố di ma lê, sa phạ ha (3 lần),

Ngày xưa tăm dùng trong chùa thường được làm bằng cành dương nhỏ, nên gọi là tăm dương. Ăn xong xỉa răng là thời điểm sau cùng của bữa ăn; thân vừa no đủ và tâm tư thư thái, hoan hỷ, không có chút lo lắng phiền não, nên cũng mong cho người khác cũng giống như chính mình.

Sau đó Thầy Chứng Minh nhịp một tiếng chuông, đại chúng cùng uống nước, hai tay bưng bát nước cung kính trước ngực và thầm nguyện:

Phật nhìn một bát nước, có tám vạn tư vi trùng, nếu không trì chú này, như ăn thịt chúng sanh. Án phạ tất ba ra ma ni sa ha (3 lần).

Qua Phật nhãn, Đức Thế Tôn thấy rõ có vô số vi trùng trong một bát nước, một cái thấy mà mãi đến hơn 2,000 năm sau mới có người phát hiện, đó là vào hậu bán thế kỷ 19, nhà sinh vật học người Pháp Louis Pasteur (1822-1895) khám ra những vi khuẩn gây bệnh qua kính hiển vi. Cũng chính vì bài kệ chú uống nước có tính siêu khoa học này mà nhà bác học vĩ đại nhất của thế kỷ thứ 20, ông Albert Einstein (1879-1955) đã không ngần ngại khi tuyên bố “Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học.”

Uống nước xong, nghe chuông, đại chúng cùng tụng bài Kiết Trai:

Nam mô tát đa nẫm, tam miệu tam bồ đề, cu chi nẫm, đát điệt tha. Án chiếc lệ chủ lệ chuẩn đề ta bà ha (7 lần).

Gọi là bố thí, tất được ích lợi; vui thích bố thí, sau được an vui. Thọ thực hoàn tất, nên nguyện chúng sanh, việc làm hoàn mãn, đầy đủ Phật pháp.

Theo sau là nghi thức niệm Phật và Kinh Hành, đi từ trai đường lên Chánh Điện, hành giả chấp tay nghiêm trang và từng bước chân kinh hành, miệng niệm Phật trong chánh niệm, vào điện Phật, lễ Tứ Thánh, quỳ xuống tụng bài Sám Nguyện và hồi hướng công đức, đó là hoàn mãn thời Cúng Quá Đường!

(Bài này đã được đăng trên trang Facebook của Duyên Giác Ngộ ngày 10 tháng 7, 2020)

Nghi Thức Cúng Các Ngày Tết Năm 2022

– Nếu gia đình chưa có bàn thờ Phật, thì không sắm lễ cúng Phật, nhưng vẫn đọc phần cúng Phật, khi đọc thì hướng tâm tới Phật, nguyện dâng tất cả lễ đã sắm để cúng Phật, rồi thừa lộc Phật, vẫn hiến cúng được cho chư Thiên, chư Thần và các vong linh.

– Có hai cách khấn cúng:

Dành cho trường hợp cúng lễ, nhưng không có thời gian tụng kinh.

Dành cho trường hợp cúng lễ, có thời gian tụng kinh.

– Văn khấn và tụng kinh theo vòng ba ngày, hết ngày thứ ba, đến ngày thứ tư, quay lại làm theo hướng dẫn ngày thứ nhất.

– Đồ Lễ & Cách Sắp Lễ

Trà: Pha nước trà có hương thơm.

Thực: Mâm cơm chay bao gồm các đồ thức ăn từ rau củ quả, không có thịt của chúng sinh. Sữa tươi hoặc nước cơm.

– Sắp Lễ

Cúng Phật: Một bát cơm, một cốc nước chè.

Cúng chư Thiên, chư Thần: Một bát cơm, một cốc nước chè.

Cúng gia tiên và các vong linh: Mâm cơm chay, sữa tươi.

Lưu Ý: Các đàn cúng lễ không sát sinh, không đốt tiền vàng, mã, giấy sớ.

B. Nghi Thức Cúng Lễ

1. Cúng Lễ Không Tụng Kinh

Mỗi ngày cúng lễ đều làm theo nghi thức này, đến ngày cuối làm theo nghi lễ: Cúng mãn tết.(Cắm hương xong, chắp tay đọc)

Chí tâm đảnh lễ: Tất cả chư Phật ba đời, tột hư không khắp pháp giới. (1 lễ)Chí tâm đảnh lễ: Tất cả Chính Pháp ba đời, tột hư không khắp pháp giới. (1 lễ)Chí tâm đảnh lễ: Tất cả Tăng bậc Hiền Thánh ba đời, tột hư không khắp pháp giới. (1 lễ)

Thượng: Chúng con xin dâng lên cúng dường thập phương chư Phật chứng minh.Trung: Chúng con xin phụng cúng chư Bồ Tát, chư Hiền Thánh Tăng chứng minh.Hạ: Chúng con xin cúng dường cho chư Thiên, chư Thần Linh tại nơi đây.Sau: Chúng con xin được nương oai lực Tam Bảo, chúng con xin thỉnh mời và hiến cúng cho tất cả các vong linh gia tiên tiền tổ nội ngoại đôi bên họ: … các vong linh thai nhi của (tên mẹ)…. cùng các vong linh có duyên tại nơi đất ở của gia đình và các vong linh oan gia trái chủ có duyên oán kết đang báo oán gia đình chúng con. Nguyện cho đầu xuân năm mới, các vong linh được nương sự hiến cúng trong đàn lễ cúng này của con mà được thọ thực no đủ, khởi tâm hoan hỉ, hộ trì cho gia đình chúng con.

(Đọc chú Biến thủy, Biến thực)Chú biến thực: Nam mô tát phạ đá tha nga đá phả rô chỉ để ám tam bạt ra tam bạt ra hồng. (7 lần)Chú biến thủy: Nam mô tô rô bà ra đát tha nga đá ra đát điệt tha án tô rô tô rô, bát ra tô rô, bát ra tô rô sa bà ha. (7 lần)Phổ cúng dường: Án nga nga nẵng tam bà phạ phiệt nhật ra hồng. (7 lần)

(Cúng dường Tam Bảo: Nếu gia đình phát tâm cúng dường Tam Bảo về chùa thì đọc tiếp, nếu không cúng dường thì không đọc) Đầu xuân năm mới, chúng con muốn cho gia đình một năm được tăng trưởng phúc lành, các sự cát tường, tiêu trừ nghiệp chướng, nên chúng con thành tâm tu bồi cội phúc bằng cách cúng dường hộ trì Tam Bảo, để hưởng phúc lành từ nơi tu tập của chư Tăng tại chùa … (nếu tại Chùa Ba Vàng thì đọc: Chùa Ba Vàng, Phường Quang Trung, Tp Uông Bí, Tỉnh Quảng Ninh) với tâm nguyện cho chư Tăng được tứ sự như ý phù hợp với việc tu tập để hồi hướng công đức cúng dường của chúng con đến cho chư Thiên, chư Thần Linh, chư vong linh.– Chúng con cúng dường Tam Bảo với số tiền là … để hồi hướng phúc đến cho chư Thiên, chư Thần Linh tại nơi đất ở thuộc gia đình.– Chúng con cúng dường Tam Bảo… với số tiền là … để hồi hướng cho chư vong linh gia tiên tiền tổ nội ngoại đôi bên họ: …… (và vong linh thai nhi)– Chúng con cúng dường với số tiền là … để hồi hướng cho chư vong linh có duyên tại nơi đất ở của gia đình tại địa chỉ …– Chúng con cúng dường Tam Bảo với số tiền là … để hồi hướng phúc đến cho chư vong linh oan gia trái chủ, hợp duyên, oán kết của cả gia đình.)

(Nếu trong gia đình có người cần cầu sức khỏe hoặc công danh hoặc thi cử…. thì đọc tiếp: Chúng con cúng dường Tam Bảo với số tiền là… để hồi hướng phúc đến cho(tên)… được….).

Nhân dịp đầu xuân năm mới, chúng con cũng nguyện cầu cho tất cả các chúng chư Thiên, chư Thần Linh, chư vong linh mà chúng con hiến cúng, được kết duyên pháp lữ với chúng con, đời đời kiếp kiếp trợ duyên cho nhau tu hành cho tới ngày thành Phật. Chúng con cũng xin hồi hướng phúc lành đến cho gia đình chúng con (nguyện gì đọc nấy)….. và cùng nhau tinh tấn tu hành theo Chính Pháp của Phật. Chúng con xin phát nguyện sẽ dâng cúng lễ vật thực trong(3, 4, 5….)…. ngày tết, mỗi ngày một lần, tuỳ vào thời gian trong ngày chúng con sắp xếp được. Đến ngày….. chúng con xin làm lễ cúng mãn tết (dân gian gọi là lễ hoá vàng). Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni!

Tam Tự Quy Y Tự quy y Phật, nguyện cho chúng sinh, hiểu thấu đạo lớn, phát tâm vô thượng. (1 lễ) Tự quy y Pháp, nguyện cho chúng sinh, thâm nhập kinh tạng, trí tuệ như biển. (1 lễ) Tự quy y Tăng, nguyện cho chúng sinh, quản lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lễ)

HẾT

2. Cúng Lễ Có Tụng Kinh

Văn khấn và tụng kinh theo vòng ba ngày, hết ngày thứ ba, đến ngày thứ tư, quay lại làm theo hướng dẫn ngày thứ nhất.(Cắm hương xong, quỳ gối, chắp tay đọc)

Nguyện Hương Nguyện đem lòng thành kính Gửi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo Thề trọn đời giữ đạo Theo tự tính làm lành Cùng pháp giới chúng sinh Cầu Phật từ gia hộ Tâm bồ đề kiên cố Chí tu đạo vững bền Xa biển khổ nguồn mê Chóng quay về bờ giác Nam mô Hương Cúng Dường Bồ Tát Nam mô Hương Cúng Dường Bồ Tát Nam mô Hương Cúng Dường Bồ Tát Ma Ha Tát!

Chí tâm đảnh lễ: Tất cả chư Phật ba đời, tột hư không khắp pháp giới. (1 lễ)Chí tâm đảnh lễ: Tất cả Chính Pháp ba đời, tột hư không khắp pháp giới. (1 lễ)Chí tâm đảnh lễ: Tất cả Tăng bậc Hiền Thánh ba đời, tột hư không khắp pháp giới. (1 lễ)

Tán Pháp Pháp Phật sâu mầu chẳng gì hơn, Trăm ngàn muôn kiếp khó được gặp. Nay con nghe thấy vâng gìn giữ, Nguyện hiểu nghĩa chân đức Thế Tôn. Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni!(3 lần)

(Ngồi đọc kinh)

Ngày Mùng Một

Bài kinh: NGÀY LÀNH THÁNG TỐT(ĐTKVN, Tăng Chi Bộ I, chương 3, phẩm Cát tường, phần Buổi sáng tốt đẹp)

Một thời Thế Tôn ở thành Vương Xá (Ràjagaha) tại Khổng Tước Lâm (Moranivāpa). Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: – Các loại hữu tình nào, này các Tỷ-kheo, vào buổi sáng, thân làm việc thiện, nói lời nói thiện, ý nghĩ điều thiện, các loài hữu tình ấy, này các Tỷ-kheo, có một buổi sáng tốt đẹp. Các loại hữu tình nào, này các Tỷ-kheo, vào buổi trưa, thân làm việc thiện, nói lời nói thiện, ý nghĩ điều thiện, các loài hữu tình ấy, này các Tỷ-kheo, có một buổi trưa tốt đẹp. Các loại hữu tình nào, này các Tỷ-kheo, vào buổi chiều, thân làm việc thiện, nói lời nói thiện, ý nghĩ điều thiện, các loài hữu tình ấy, này các Tỷ-kheo, có một buổi chiều tốt đẹp.Vầng sao lành, điều lànhRạng đông lành, dậy lànhSát-na lành, thời lànhCúng dường bậc Phạm hạnhThân nghiệp chánh, lời chánhÝ nghiệp chánh, nguyện chánhLàm các điều chơn chánhThì được lợi an lạcLớn mạnh trong Phật giáoHãy không bệnh an lạcCùng tất cả bà con.

Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni! (1 xá)

Mười Hạnh Phổ Hiền Đệ tử chúng con tùy thuận tu tập mười nguyện lớn của đức Phổ Hiền Bồ Tát: Một là kính lễ chư Phật Hai là xưng tán Như Lai Ba là rộng tu cúng dường Bốn là sám hối nghiệp chướng Năm là tùy hỷ công đức Sáu là thỉnh Phật chuyển Pháp Bảy là thỉnh Phật trụ thế Tám là thường theo học Phật Chín là hằng thuận chúng sinh Mười là hồi hướng khắp tất cả. Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni!(1 xá)

(Tiếp theo đọc: “Thượng: Chúng con xin dâng lên….,” ở cuối bài tụng kinh ngày mùng ba)

Ngày Mùng Hai

Bài Kinh: Kinh Doanh Thành Công(ĐTKVN, Tăng Chi Bộ II, Chương 4, phẩm Không Hý Luận, phần Buôn Bán)

Một thời Thế Tôn trú ở Kosambi, vườn Ghosita, rồi Tôn giả Xá Lợi Phất (Sariputta) đi đến đảnh lễ và bạch Thế Tôn: Bạch Thế Tôn, do nhân gì, duyên gì có người buôn bán thất bại, không thành tịu như ý muốn? Có người buôn bán thành tựu như ý muốn và thành tịu ngoài ý muốn? Này Xá Lợi Phất (Sariputta), có hạng người đi đến vị Sa Môn (chư Tăng), hứa hẹn giúp đỡ nhưng không cho như đã hứa. Người ấy, sau khi mạng chung đi đến chỗ này, dẫu có buôn bán gì cũng đi đến thất bại, không thành tựu như ý muốn. Nhưng ở đây, này Xá Lợi Phất (Sariputta), có hạng người đi đến vị Sa Môn (chư Tăng) hứa hẹn giúp đỡ, và người ấy đã cho như đã hứa. Sau khi mạng chung, người ấy đi đến chỗ này, dẫu buôn bán gì cũng thành tựu như ý muốn. Ở đây, này Xá Lợi Phất (Sariputta), có hạng người đi đến vị Sa Môn (chư Tăng) hứa hẹn giúp đỡ, và người ấy đã cho nhiều hơn như đã hứa. Người ấy sau khi mạng chung, đi đến chỗ này, dẫu buôn bán gì cũng được thành tựu ngoài ý muốn.

Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni! (1 xá)

Mười Hạnh Phổ Hiền Đệ tử chúng con tùy thuận tu tập mười nguyện lớn của đức Phổ Hiền Bồ Tát: Một là kính lễ chư Phật Hai là xưng tán Như Lai Ba là rộng tu cúng dường Bốn là sám hối nghiệp chướng Năm là tùy hỷ công đức Sáu là thỉnh Phật chuyển Pháp Bảy là thỉnh Phật trụ thế Tám là thường theo học Phật Chín là hằng thuận chúng sinh Mười là hồi hướng khắp tất cả. Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni! (1 xá)

(Tiếp theo đọc: “Thượng: Chúng con xin dâng lên….,” ở cuối bài tụng kinh ngày mùng ba)

Ngày Mùng Ba

Bài Kinh: Hai Hạng Người Đáng Được Cúng Dường(ĐTKVN, Tăng Chi Bộ I, Chương II, phẩm Không Thăng Bằng)

Một thời, Thế Tôn ở tại Xá Vệ, vườn ông Cấp Cô Độc. Rồi gia chủ Cấp Cô Độc đi đến đảnh lễ và bạch Thế Tôn: Có bao nhiêu hạng người, bạch Thế Tôn, đáng được cúng dường ở đời? Và chỗ nào cần phải bố thí và cúng dường? Này gia chủ, có hai hạng người đáng được cúng dường ở đời: Hữu học (chư Tăng đang tu hành) và Vô học (Phật và các bậc Thánh Tăng đã chứng đắc). Đối với hai hạng người này xứng đáng được cúng dường ở đời. Và này gia chủ, ở đây (tinh xá Kỳ Viên) cần phải bố thí và cúng dường.

Mười Hạnh Phổ Hiền Đệ tử chúng con tùy thuận tu tập mười nguyện lớn của đức Phổ Hiền Bồ Tát: Một là kính lễ chư Phật Hai là xưng tán Như Lai Ba là rộng tu cúng dường Bốn là sám hối nghiệp chướng Năm là tùy hỷ công đức Sáu là thỉnh Phật chuyển Pháp Bảy là thỉnh Phật trụ thế Tám là thường theo học Phật Chín là hằng thuận chúng sinh Mười là hồi hướng khắp tất cả. Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni!(1 xá)

(Tiếp theo đọc: “Thượng: Chúng con xin dâng lên….,” ở cuối bài tụng kinh ngày mùng ba)

Nếu cúng tiếp ngày mùng 4, mùng năm…, thì quay lại làm theo từ bài ngày mùng một. Lễ cúng mãn tết (dân gian gọi hoá vàng) thì xem bài hướng dẫn sau.

(ĐỌC TIẾP: Thượng: Chúng con xin dâng lên….)

Thượng: Chúng con xin dâng lên cúng dường thập phương chư Phật chứng minh.Trung: Chúng con xin phụng cúng chư Bồ Tát, chư Hiền Thánh Tăng chứng minh.Hạ: Chúng con xin cúng dường cho chư Thiên, chư Thần Linh tại nơi đây.Sau: Chúng con xin được nương oai lực Tam Bảo, chúng con xin thỉnh mời và hiến cúng cho tất cả các vong linh gia tiên tiền tổ nội ngoại đôi bên họ: … các vong linh thai nhi của (tên mẹ)…. cùng các vong linh có duyên tại nơi đất ở của gia đình và các vong linh oan gia trái chủ có duyên oán kết đang báo oán gia đình chúng con. Nguyện cho đầu xuân năm mới, các vong linh được nương sự hiến cúng trong đàn lễ cúng này của con mà được thọ thực no đủ, khởi tâm hoan hỉ, hộ trì cho gia đình chúng con.

Chú biến thực: Nam mô tát phạ đát tha, nga đá phả rô chỉ đế, ám tam bạt ra, tam bạt ra hồng. (7 lần)Chú biến thủy: Nam mô tô rô bà ra, đát tha nga đá ra, đát điệt tha, án tô rô tô rô, bát ra tô rô, bát ra tô rô sa bà ha. (7 lần)Phổ cúng dường: Án nga nga nẵng tam bà phạ phiệt nhật ra hồng. (7 lần)

(Cúng dường Tam Bảo: Nếu gia đình phát tâm cúng dường Tam Bảo về chùa thì đọc tiếp, nếu không cúng dường thì không đọc Sang canh năm mới…., chúng con muốn cho gia đình một năm được tăng trưởng phúc lành, mọi sự cát tường, tiêu trừ nghiệp chướng, nên chúng con thành tâm tu bồi cội phúc bằng cách cúng dường hộ trì Tam Bảo, để hưởng phúc lành từ nơi tu tập của chư Tăng tại chùa……(nếu tại Chùa Ba Vàng thì đọc: Chùa Ba Vàng, Phường Quang Trung, Tp Uông Bí, Tỉnh Quảng Ninh) với tâm nguyện cho chư Tăng được tứ sự như ý phù hợp với việc tu tập để hồi hướng công đức cúng dường của chúng con đến các vị chư Thiên, chư Thần Linh và các vong linh.– Chúng con cúng dường Tam Bảo với số tiền là….. để hồi hướng phúc đến cho chư Thiên, chư Thần Linh tại nơi đất ở của gia đình.– Chúng con cúng dường Tam Bảo với số tiền là… để hồi hướng cho chư vong linh gia tiên tiền tổ nội ngoại đôi bên họ:…… (cùng vong linh thai nhi)– Chúng con cúng dường với số tiền là… để hồi hướng cho chư vong linh có duyên tại nơi đất ở của gia đình tại địa chỉ….– Chúng con cúng dường Tam Bảo với số tiền là… để hồi hướng phúc đến cho chư vong linh oan gia trái chủ, hợp duyên, oán kết của cả gia đình

(Nếu trong gia đình có người cần cầu sức khỏe hoặc công danh hoặc thi cử…. thì đọc tiếp: Chúng con cúng dường Tam Bảo với số tiền là… để hồi hướng phúc đến cho(tên)… được…. ).

Nhân dịp đầu xuân năm mới, con cũng nguyện cầu cho tất cả các chúng chư Thiên, chư Thần Linh, chư vong linh mà chúng con hiến cúng, được kết duyên pháp lữ với chúng con, đời đời kiếp kiếp trợ duyên cho nhau tu hành cho tới ngày thành Phật. Con cũng xin hồi hướng phúc lành đến cho gia đình chúng con(nguyện gì đọc nấy)….. và cùng nhau tinh tấn tu hành theo Chính Pháp của Phật. Chúng con xin phát nguyện sẽ dâng cúng lễ vật thực trong(3, 4, 5,….)… ngày tết, mỗi ngày một lần, tuỳ vào thời gian trong ngày chúng con sắp xếp được. Đến ngày….. chúng con xin làm lễ cúng mãn tết. Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni!

Nguyện ngày an lành đêm an lành Ngày đêm sáu thời thường an lành Trong tất cả thời thảy an lành Nguyện ngôi Thượng Sư thương nhiếp họ

Nguyện ngày an lành đêm an lành Ngày đêm sáu thời thường an lành Trong tất cả thời thảy an lành Nguyện ngôi Tam Bảo thường gia hộ

Tam Tự Quy Y Tự quy y Phật, nguyện cho chúng sinh, hiểu thấu đạo lớn, phát tâm vô thượng.(1 lễ) Tự quy y Pháp, nguyện cho chúng sinh, thâm nhập kinh tạng, trí tuệ như biển.(1 lễ) Tự quy y Tăng, nguyện cho chúng sinh, quản lý đại chúng, hết thảy không ngại.(1 lễ)

HẾT

Nếu các Phật tử ở xa, muốn cúng dường về chùa Ba Vàng, nhưng không có điều kiện để về chùa, thì quý Phật tử khi cúng lễ xong, gom cất phần tịnh tài (tiền), để gửi ngay hoặc sau khoảng mấy tháng thì gửi. Chùa Ba Vàng và Thầy Thích Trúc Thái Minh không dùng bất kỳ một tài khoản ngân hàng nào khác. Nếu quý vị muốn cúng dường, công đức về chùa Ba Vàng thì chỉ chuyển khoản vào một tài khoản duy nhất sau đây:

Quý vị kiểm tra thông tin cung cấp tài khoản tại trang chùa Ba Vàng ở đường link sau:Thông Báo Số Tài Khoản Của Chùa Ba Vàng

Lưu ý: Nếu như sách nào có in số tài khoản mà không in đường link, mong quý vị xem xét và kiểm tra lại.

Tài Khoản Chùa Ba Vàng

– Số tài khoản: 0141005656888. – Tên tài khoản: Chùa Ba Vàng. – Ngân hàng: Vietcombank Quảng Ninh. – Mã SWIFT (mã số khi chuyển khoản quốc tế): BFTV VNVX014. Khi gửi xong thì nhắn tin vào số điện thoại để thầy biết 0981392858 (Sư thầy Thích Trúc Bảo Việt).

Liên Hệ

Nếu có bất cứ vấn đề gì thắc mắc, kính mời quý đạo hữu liên hệ với:1) Chùa Ba Vàng: – Số tổng đài Chùa Ba Vàng: 19008968 + Ban Tri khách (cố định): 02036557799 + Ban Tri khách (di động): 0963386533 – Email: chuabavang@gmail.com2) Thầy Thích Trúc Thái Minh: – Email: thaythichtructhaiminh@gmail.com – Nhắn tin vào fanpage: Thầy Thích Trúc Thái Minh:facebook.com/ThayThichTrucThaiMinh

Hướng dẫn nghi thức Tạ mộ cuối năm (2020) Bài cúng tất niên, ông Công, ông Táo năm 2020 Nghi thức cúng đêm giao thừa (năm 2020) Hướng dẫn lễ cúng khi không ăn Tết tại nhà (lên chùa, về quê… ăn Tết) năm 2020 Hướng dẫn nghi lễ Thanh minh năm 2020 Nghi thức cúng mãn Tết (hóa vàng) năm 2020 Nghi thức khai trương, khai xuân, mở hàng năm 2020 mới nhất Hướng dẫn các nghi thức cúng lễ tại cửa hàng (công ty…) năm 2020 Hướng dẫn cách làm lễ Sang cát (Bốc mộ) Hướng dẫn nghi thức chuyển đổi bàn thờ Hướng dẫn nghi thức động thổ, đổ móng, đổ mái, khánh thành nhà (xưởng,…) mới năm 2020