Ngày Giỗ Bà Chúa Kho / Top 13 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 9/2023 # Top Trend | Apim.edu.vn

Đầu Năm Đi Giỗ Bà Chúa Kho

Bà Chúa Kho quê ở Làng Diềm, tỉnh Bắc Ninh, là một người phụ nữ vừa có nhan sắc lại vừa đảm đang, có công chiêu dân lập làng và dạy người dân cách làm mùa, giúp cho người dân có cuộc sống no đủ.

Vào đời nhà Lý, Bà có công giúp triều đình trông coi kho lương thực tại Núi Kho (tỉnh Bắc Ninh) và đã “thác” trong cuộc kháng chiến chống quân Tống vào ngày 12 tháng giêng năm Đinh Tỵ (1077).

Nhà vua thương tiếc phong cho Bà là Phúc Thần. Người dân nhớ thương Bà lập nên đền thờ tại kho lương thực cũ của triều đình ở Núi Kho và gọi Bà với một niềm tôn kính là: Bà Chúa Kho.

Cũng vì lý do này mà những người kinh doanh, làm ăn buôn bán rất có lòng tin vào việc đi lễ đền Bà Chúa Kho trong dịp đầu năm để đi vay vốn làm ăn hoặc tín khách đến xin lộc rơi, lộc vãi.

Hàng năm, tại đền Bà Chúa Kho cũng như tại Làng Diềm, nơi sinh và nơi mất của Bà, chính quyền, làng xã và Ban quản lý Đền đều làm lễ tưởng nhớ Bà.

Năm nay, dù ngày mất của Bà vào thứ hai đầu tuần (12/1 âm lịch) nhưng cũng không ngăn nổi lòng thành của những người thành tâm ở nhiều tỉnh thành lân cận về thắp hương xin lộc.

Ngay từ sáng sớm, bãi xe ô tô và xe máy đã đầy kín chỗ.

Ban quản lý đền đã dành riêng một chỗ để tín khách dâng lễ tưởng nhớ 931 năm ngày mất của Bà Chúa Kho.

Toàn bộ đường đi và sân đền đều chật kín người.

Người đi lễ chen chúc nhau để có thể vào tận trong cung Bà Chúa để làm lễ.

Vào những ngày đông như ngày giỗ Bà, cuối tuần, mỗi ngày những người viết sớ có thể viết tới 30 bộ (mỗi bộ là 10.000 đồng).

Sau khi dâng lễ Bà Chúa Kho, các tín khách liền kiếm một chỗ và … thụ lộc tại chỗ.

Khi ra về, tín khách cũng muốn mua một món đồ để lấy may.

Đền Bà Chúa Kho rất đông người đến thắp hương xin lộc và cũng rất đông những người ăn xin xếp thành hàng.

Văn Khấn Bà Chúa Kho Và Cách Sắm Lễ Đi Đền Bà Chúa Kho

I. Sự tích đền Bà chúa Kho

Tương truyền vào thời nhà Lý: Theo chân đến làng Quả Cảm Bắc Ninh, Nơi được mệnh danh có người con gái với nhan sắc tuyệt trần. Tuy xuất thân từ một gia đình nông thôn nghèo nhưng Bà đa trí đa tài từ cầm kỳ thi họa cái nào cũng giỏi.

Bà lọt vào mắt nhà vua và được đưa vào cung làm vợ vua Lý. Sau khi trở thành vợ vua, Bà nhận thấy vùng đất quê nhà còn hoang sơ: đất đai sâu rộng mà không ai khai hoang, sản xuất. Chính vì vậy Bà xin nhà vua cho được về làng, chiêu dân lập ấp, khai khẩn ruộng hoang, tăng gia sản xuất. Vào ngày 12 tháng Giêng năm Đinh Tỵ (1077) quân Tống kéo sang xâm lược nước ta. Lý Thường Kiệt lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống Tống. Vào thời đó ở làng Cổ Mễ, núi Kho, Cầu Gạo… vốn là những nơi đặt kho lương thực của quân Lý ở bờ nam chiến tuyến Như Nguyệt (Sông Cầu). Núi Kho, núi Dinh, Thị Cầu cũng vốn là một vị trí chiến lược có thể kiểm soát con đường từ Lạng Sơn qua sông Cầu về Thăng Long xưa. Bà tổ chức sản xuất, tích trữ lương thực, trông nom kho tàng quốc gia phục vụ cho trận chiến Như Nguyệt. Bà cũng “thác ” trong cuộc chiến này.

Nhà vua biết chuyện vô cùng thương tiếc phong cho Bà là Phúc Thần . Người dân nhớ thương Bà lập nên đền thờ tại kho lương thực cũ của triều đình ở Núi Kho và gọi Bà với một niềm tôn kính là: Bà Chúa Kho. Công lao của bà đã được triều đại phong kiến ghi nhận qua việc sắc phong đền thờ bà là “Chủ khố linh từ” (Đền thiêng thờ bà Chúa Kho). Ở thôn Cổ Mễ còn một ngôi đình và ngôi chùa cổ. Chùa Cổ Mễ có từ đời lý thế kỷ XI. Ngày nay trong chùa còn ba pho tượng đá khá đẹp mang rõ phong cách điêu khắc thời Mạc. Chùa còn lại đến nay là kiến trúc thế kỷ XIX, làm theo kiểu chữ T chạm khắc công phu

II. Sắm lễ đền Bà chúa Kho

Theo phong tục cổ truyền khi đến Đình, Đền, Miếu, Phủ nên có lễ vật có thể to, nhỏ, nhiều, ít, sang, mọn tuỳ tâm. Mặc dù ở những nơi này thờ Thánh, Thần, Mẫu nhưng người ta vẫn có thể sắm các lễ chay như hương hoa quả, oản,… để dâng cũng được.

Lễ Chay: Gồm hương hoa, trà, quả, phẩm oản… dùng để lễ ban Phật, Bồ Tát (nếu có).

Lễ chay cũng dùng để dâng ban Thánh Mẫu.

Lễ Mặn: Nếu Quý vị có quan điểm phải dùng mặn thì chúng tôi khuyên mua đồ chay hình tướng gà, lợn, giò, chả.

Lễ đồ sống: Tuyệt đối không dùng các đồ lễ sống gồm trứng, gạo, muối hoặc thịt tại các ban quan Ngũ Hổ, Bạch xà, Thanh xà đặt ở hạ ban Công Đồng Tứ phủ.

Cỗ sơn trang: Gồm những đồ đặc sản chay Việt Nam: Không được dùng cua, ốc, lươn, ớt, chanh quả… Nếu có gạo nếp cẩm nấu xôi chè thì cũng thuộc vào lễ này.

Lễ ban thờ cô, thờ cậu: Thường gồm oản, quả, hương hoa, gương, lược… Nghĩa là những đồ chơi mà người ta thường làm cho trẻ nhỏ. Nhưng lễ vật này cầu kỳ, nhỏ, đẹp và được bao trong những túi nhỏ xinh xắn, đẹp mắt.

Lễ thần Thành Hoàng, Thư điền: Phải dùng chay mới có phúc và những lời cầu nguyện được linh ứng.

Theo lệ thường, người ta lễ thần Thổ địa, thủ Đền trước, gọi là lễ trình vì đó là lễ cáo Thần linh Thổ Địa nơi mình đến dâng lễ. Người thực hành tín ngưỡng cao lễ Thần linh cho phép được tiến hành lễ tại Đình, Đền, Miếu, Phủ.

Sau đó người ta sửa sang lễ vật một lần nữa. Mỗi lễ đều được sắp bày ra các mâm và khay chuyên dùng vào việc cúng lễ tại Đình, Đền, Miếu, Phủ.

Kế đến là đặt lễ vào các ban. Khi dâng lễ phải kính cẩn dùng hai tay dâng lễ vật, đặt cẩn trọng lên bàn thờ. Cần đặt lễ vật lên ban chính trở ra ban ngoài cùng.

Chỉ sau khi đã đặt xong lễ vật lên các ban thì mới được thắp hương.

Khi làm lễ, cần phải lễ từ ban thờ chính đến ban ngoài cùng. Thường lễ ban cuối cùng là ban thờ cô thờ cậu.

Thứ tự thắp hương khi đi lễ

Thắp từ trong ra ngoài:

Ban thờ chính của điện được đặt theo hàng dọc, ở gian giữa được thắp hương trước.

Các ban thờ hai bên được thắp hương sau khi đã thắp xong hương ban chính ở gian giữa.

Khi thắp hương cần dùng số lẻ: 1, 3, 5, 7 nén. Thường thì 3 nén

Sau khi hương được châm lửa thì dùng hai tay dâng hương lên ngang trán, vái ba vái rồi dùng cả hai tay kính cẩn cắm hương vào bình trên ban thờ.

Nếu có sớ tấu trình thì kẹp sớ vào giữa bàn tay hoặc đặt lên một cái đĩa nhỏ, hai tay nâng đĩa sớ lên ngang mày rồi vái 3 lần.

Trước khi khấn thường có thỉnh chuông. Thỉnh ba hồi chuông. Thỉnh chuông xong thì mới khấn lễ.

IV. Bài văn khấn đền Bà Chúa Kho

Nội dung bài văn khấn cúng đền bà Chúa Kho như sau: Hương tử con là …. Hôm nay là ngày…

Văn Khấn Bà Chúa Kho

Văn khấn cúng tại đền Bà Chúa Kho là điều bất kỳ ai đi đền đều cần tới dù là đầu năm hay cuối năm

Hương tử con lễ bạc tâm thành, cúi đầu thành tâm kính lễ Chúa Kho Thánh mẫu, cúi xin được phù hộ độ trì Văn khấn tại đền Bà Chúa Kho

Nam mô a di Đà Phật!

Nam mô a di Đà Phật!

Nam mô a di Đà Phật!

– Con xin kính lạy Tam giới Thiên chúa cập nhất thiết Thánh chúng.

– Con xin kính lạy Tam phủ công đồng. Tứ phủ vạn linh.

– Con xin kính lạy Thiên tiên Thánh mẫu, Địa thiên Thánh mẫu, Thủy tiên thánh mẫu.

– Con xin kính lạy Đức Chúa kho Thánh mẫu hiển hoá anh linh.

– Con xin kính lạy Đương niên hành khiển chí đức Tôn thần.

– Con xin kính lạy Đường cảnh Thành Hoàng Bản Thổ đại vương.

– Con xin kính lạy Ngũ hổ thần tướng, Thanh bạch xà Thần linh

Hương tử con là:…………………………………………………………………….

Ngụ tại:…………………………………………………………………………………

Ngày hôm nay là ngày……………………………………………………………..

Con sắm sửa kim ngân, hương hoa, lễ vật chí thiết một lòng thành tâm dâng lễ, sám hối cầu xin phù hộ cho hương tử con được: gia quyến bình an, cầu tài đắc tài, cầu lộc đắc lộc, bách sự cầu được như ý.

Hương tử con lễ bạc tâm thành, cúi đầu thành tâm kính lễ Chúa Kho Thánh mẫu, cúi xin được phù hộ độ trì.

Nam mô a di Đà Phật!

Nam mô a di Đà Phật!

Nam mô a di Đà Phật!

Lễ Hội Đền Bà Chúa Kho

Bà Chúa Kho xuất thân từ một gia đình nghèo khó ở làng Quả Cảm gần đó. Sau khi lấy vua Lý, thấy ruộng đất ở đây bị hoang hoá, bà xin vua cho về làng chiêu dân lập ấp, khai khẩn ruộng hoang. Không ai biết tên bà, khi bà qua đời, nhân dân lập đền thờ để ghi lại công ơn bà là đã hết lòng chăm lo cho dân ấm no, trông coi các “lẫm thóc, lẫm tiền” của Nhà nước. Công lao của bà đã được triều đại phong kiến ghi nhận qua việc sắc phong đền thờ bà là “Chủ khổ linh từ” (Đền thiêng thờ bà Chúa Kho). Ở thôn Cổ Mễ còn một ngôi đình và ngôi chùa cổ. Chùa Cổ Mễ có từ lâu đời. Ngày nay trong chùa còn ba pho tượng đá khá đẹp mang rõ phong cách điêu khắc thời Mạc. Chùa còn lại đến nay là kiến trúc thế kỷ XIX, làm theo kiểu chữ T chạm khắc công phu.

Vào đời nhà Lý, Bà có công giúp triều đình trông coi kho lương thực tại Núi Kho (tỉnh Bắc Ninh) và đã “thác” trong cuộc kháng chiến chống quân Tống vào ngày 12 tháng giêng năm Đinh Tỵ (1077).

Nhà vua thương tiếc phong cho Bà là Phúc Thần. Người dân nhớ thương Bà lập nên đền thờ tại kho lương thực cũ của triều đình ở Núi Kho và gọi Bà với một niềm tôn kính là: Bà Chúa Kho.

Như vậy, Đền Cổ Mễ thờ Bà Chúa Kho chính là nơi tưởng niệm một người phụ nữ Việt Nam đã khéo tổ chức sản xuất, tích trữ lương thực, trông nom kho tàng quốc gia trong thời kỳ trước và sau chiến thắng Như Nguyệt.

LỄ HỘI ĐỀN BÀ CHÚA KHO 12.1 ÂM LỊCH – BẮC NINH

Lễ hội Đền Bà Chúa Kho được diễn ra vào ngày 25/2 (tức ngày 12 tháng giêng), tưởng niệm Ngày giỗ Bà Chúa Kho (12 tháng Giêng năm Đinh Tỵ 1077 – 12 tháng Giêng năm Canh Dần 2012) được tổ chức tại đền Bà Chúa Kho, thôn Cổ Mễ, xã Vũ Ninh, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh.

Cảnh làm lễ trong sân đền

Có người cầu an, cầu lộc, nhưng đa phần đến để “vay vốn” Bà Chúa Kho, mong cho một năm vốn liếng dồi dào, làm ăn phát đạt… Tâm lý “vay vốn” của người dân cũng bắt nguồn từ những huyền tích xưa, và được củng cố thêm rằng “dù trải qua kháng chiến ác liệt thì ngôi đền này vẫn trụ vững”.

Nghi thức “vay vốn” cũng rất rõ ràng, người ta ghi trong sớ là vay bao nhiêu, làm gì, và bao lâu sẽ trả. Thậm chí có người còn hứa là vay 1 trả 3, trả 10… với quan niệm đã vay thì phải trả, nên dù có làm ăn tốt hay không, người ta vẫn giữ đúng lời hứa, tức là tạ lễ cuối năm ở đền Bà Chúa Kho.

Trong dịp lễ hội, xung quanh đền có hàng trăm cửa hàng bán đồ cúng tế, đông đúc người vào ra. Mâm lễ được khách hành hương mua sắm tùy tâm, khi đơn giản là thẻ hương, bông hoa với vài ba tập tiền âm phủ, cầu kỳ thì con gà đĩa xôi, hay một mâm ngũ quả đủ đầy… chủ yếu là thành tâm cầu khấn. Hằng năm, mặc dù ngày 14 tháng Giêng mới là ngày chính của Lễ hội, nhưng từ nhiều năm nay ngay từ những ngày đầu xuân và kéo dài trong cả tháng Giêng, dòng người đã đổ về đền Bà Chúa Kho rất đông.

Sắm Lễ Cúng Bà Chúa Kho

“Đầu năm đi vay, cuối năm đi trả”, mỗi ngày có hàng nghìn khách thập phương đổ về Đền Bà Chúa Kho hành lễ.

Cành vàng lá ngọc, vàng bạc bày bán la liệt dọc lối lên đền Bà Chúa Kho

Đã thành thông lệ, cứ vào dịp đầu năm, hàng vạn người lại ngược về Bắc Ninh đi lễ Bà Chúa Kho để cầu lộc. Đầu năm vay bà, cuối năm trả nợ. Cái sự vay trả nơi đây cũng rườm rà chẳng khác nào vay tiền thật trong ngân hàng Nhà nước.

Để vào được nơi thâm nghiêm Bà ngự trong hậu cung đền Bà Chúa Kho “vay tiền” là việc không hề đơn giản. Nhiều người kinh doanh có máu mặt, cũng có không ít quan chức, lãnh đạo một số cơn quan nhà nước phải bỏ ra hơn một ngày mới đến lượt mang lễ vào khấn vay bà. Muốn vay bao nhiêu phụ thuộc vào lễ sắm nhiều hay ít.

Có đi lễ Bà Chúa Kho mới thấy hết cái sự nhiêu khê của việc sắm lễ. Hàng vạn người đổ về đây đều không ngoài mục đích cầu tài cầu lộc và ai cũng cố gắng sắm cho mình những mâm lễ thật hoành tráng hầu mong Bà để mắt tới mà ban lộc cho!

Mà cũng lạ, chưa ở đâu như đền Bà Chúa Kho người ta đi sắm lễ lại “chuyên nghiệp” đến thế.

Lễ dâng lên Bà Chúa Kho mâm nào mâm ấy đều vàng chóe “cành vàng lá bạc”, “vàng thỏi”, “vàng cục”, “vàng lá”, “đô la”… toàn tính bằng tiền tỷ và hàng triệu đô cả. Và để có được những mâm lễ hàng mã cả tỷ đồng âm phủ ấy người ta cũng phải chi ra bằng tiền thật một lượng không nhỏ. Lễ ít thì mấy chục nghìn, lễ to lên đến hàng trăm, thậm chí cả triệu đồng.

Chỉ riêng số tiền mua lễ này nhân lên con số hàng vạn người đi lễ mỗi ngày sẽ ra một khoản tiền khổng lồ được các “tín chủ” mù quáng ném vào lò thiêu nhẹ như lông hồng (ở đền Bà Chúa Kho gọi là hóa sớ dâng bà)!

Sắm lễ mới là công đoạn đầu tiên, việc tiếp theo khong kém phần quan trọng là phải đặt lễ, đi lễ hết các ban (có rất nhiều ban như ban Cô, ban Cậu, Đức Bà, Đức Ông…) và cuối cùng là khấn lễ. Đối với hầu hết người đến vay Bà, việc khấn phải vào được hậu cung mới thiêng. Không ít người đã phải chi đậm (bằng tiền thật) vào các ban, hòm công đức và “nhờ vả người dẫn đường” để được lọt vào nơi linh thiêng nhất ấy khấn cho thấu đến tai Bà!

Ở đền Bà Chúa Kho có một dịch vụ lạ đời chưa từng thấy nơi đâu có đó là khấn lộc riêng! Khách đến lễ Bà hầu hết đều mong cầu tài cầu lộc và thường đi nhóm với nhau nên ngay lối vào chính điện đã có hàng chục “cô” tay phải lăm lăm chiếc đĩa toen hoẻn, tay trái cầm đồng xu rỉ sét gõ leng keng gạ gẫm đặt lễ để họ khấn riêng với bà ?

Lễ chung lộc riêng!

“Hai trăm năm trăm đặt vào đây chị khấn Bà cho. Lễ chung nhưng Lộc riêng em ạ” – một “cô” người gầy như sếu, tóc nhuộm loe hoe, môi thâm sì nâng đĩa lên gạ gẫm.

Tôi hỏi: “Lễ chung Lộc riêng là gì hả chị?”. Như vớ được vàng, “cô” cầm tay tôi kéo tuột vào một góc phía sau cánh cửa vào cung Bà giải thích: “Em đi lễ đây là lễ cho công ty đúng không? Tội gì mình không nhân tiện lễ của cơ quan mà khấn riêng cho mình, biết đâu lễ hậu lọt vào mắt Bà, năm nay em lên làm sếp giàu nứt đố đổ vách ấy chứ, lúc đó nhớ sắm lễ thật to về tạ Bà và đừng quên chị đấy”!

Không kịp để tôi nói đồng ý hay không, “cô” đã nâng đĩa lên gieo đồng sấp ngửa ngay. “Cô” giải thích khấn trước lễ sau cũng không sao! Sau vài lần đồng tiền xu leng keng “cô” phán: “Bà cười rồi, em chỉ mâm lễ của công ty và đặt tiền lễ (tiền thật và phải đặt vào đĩa của cô!), xưng tên tuổi để Bà ban lộc cho”.

Khốn nỗi, tôi đang đi thực tế viết bài làm gì có lễ? Tôi đánh bài tháo lui song đã muộn. “Cô” sấn sổ lên đòi đặt lễ trả công. Móc ví chẳng còn đồng tiền lẻ nào vì không phải là người đi lễ nên đành ngậm ngùi rút tờ mười nghìn đồng đỏ chóe “mừng tuổi cô”. Không biết năm nay tôi có được lên làm sếp hay không nữa!

Thì ra, không chỉ trong các cơ quan nhà nước mới có việc tiêu tiền chùa. Tại nơi cầu cúng linh thiêng này còn có cả một đội ngũ đông đảo cô đồng trà trộn vào khách làm lễ để khấn riêng cho những người thích đánh quả lẻ xin “lộc chùa” bằng “lễ chùa”!

1.001 mánh móc hầu bao “thượng đế”

Dịch vụ cúng thuê vẫn hoạt động

Mặc cho cái rét quất từng cơn vào mặt, mỗi khi có khách dừng xe hỏi đường vào Đền Bà Chúa Kho, ngay lập tức có một “hướng dẫn viên” lao ra chỉ trỏ rồi hăng hái: “Nếu anh chị không nhớ đường, cứ theo em”. Đám khách đang ngơ ngác, anh thanh niên liền nói: “Lúc này đang rảnh, đoàn anh chị sớm thì còn có cơ hội “gặp Bà” chứ chờ lát nữa thì chỉ còn nước đứng ở sân mà vái, không chen nổi đâu”. Đoàn khách không ai bảo ai, lục tục theo xe anh thanh niên nọ. Vào cổng đền, anh ta nhiệt tình hướng dẫn đường đi nước bước.

Đường vào Đền san sát cửa hàng hoa, sớ, lễ. Khách thập phương đã đông nhưng đôi lúc cũng chẳng ăn nhằm so với “cò” bán hoa, sớ, lễ. “Em ơi! Vào đây uống nước, sắp lễ, viết sớ đi”, mỗi chủ hàng lao ra tiếp cận khách, thậm chí còn theo khách vào Đền để mời chào. Thấy đám “lâu nhâu” lao ra định nẫng tay trên, anh thanh niên nọ xẵng giọng: “Khách nhà tôi đấy, vất vả mời từ đường cái mời vào, đừng có “hóng” mà “hớt”.

Cuối năm “vàng” lại “nạp đầy kho bà chúa

Cảnh tượng này tiếp diễn giống hệt nhau mỗi khi có đoàn khách xuất hiện. Chỉ cần cái gật đầu, “thượng đế” sẽ có ngay mâm lễ vào dâng cửa Bà Chúa kèm sớ cúng với mức giá rất khác nhau, từ 100.000 đồng đến tiền triệu.

Sau khi thoát cảnh chen lấn mời chào, du khách những tưởng được bình an, nào ngờ trong đám khách lại “lách” ra một đám “cò” mới. Không rì rầm xin xỏ, chèo kéo, đám này liền lôi trong túi của mình ra một nắm danh thiếp rồi nói: “Đây là cửa hàng, số điện thoại nhà em, các bác cứ vào đền, alo cho em một tiếng, dăm phút sau em cho người sắm đủ lễ mang vào”.

Hối hả dâng tiền, vàng trả lễ Bà Chúa.

“Cò” có cả 1.001 cách để thuyết phục các “thượng đế” phải móc hầu bao. Dịch vụ đổi tiền lẻ cũng rôm rả mời chào khi được “ưu ái” địa điểm đắc địa. Mỗi hàng đổi tiền ngự trước cửa chính điện. Cửa vào điện có 3 lối ra vào thì đã có sẵn 4 hàng đổi tiền lẻ “ngự” hai bên.

Giá đổi cũng lên “giời” tùy loại. Đổi 100.000 đồng lấy tiền mệnh giá 200 đồng thì chỉ được 60.000 đồng, lấy loại 500 đồng chỉ được 70.000 đồng, loại 1.000 đồng được 80.000 đồng, với mệnh giá 5.000 và 10.000 đồng được 90.000 đồng… Đội quân này còn đảm nhận cả khâu bưng lễ vào điện thờ, chờ cho tín chủ khấn xong, hạ lễ giúp và đưa ra tận chỗ hoá vàng. Tất nhiên, “thượng đế” cũng sẽ phải móc hầu bao cho từng công đoạn.

Cấm cúng thuê thì… khấn hộ

Những mâm vàng mã, đô la âm phủ cao ngất ngưởng.

Để ngăn chặn tình trạng chèo kéo khách cúng thuê, nhà Đền dựng một tấm bảng to với nội dung: “Quý khách lưu ý: Không nhờ cúng thuê, lễ mướn”. Tuy nhiên, sau “biển cấm” này, hàng chục phụ nữ tay cầm đĩa, “đính kèm” vài đồng xu mắt đảo liên hồi, tiếp cận khách mời chào “khấn hộ”. Đám “thầy” khấn hộ này “bâu” quanh hòm công đức trước cửa nội điện, thấy khách vào, cả đám nhao ra mời chào, lôi kéo. Nhiều du khách bực mình lên tiếng: “Đền cấm cúng thuê, các chị không sợ bị “tóm” à?”. Một “thầy” cười nhếch rồi nói: “Đền cấm cúng thuê nhưng bọn tôi khấn hộ kia mà”.

Thấy đoàn khách có vẻ căng thẳng, một “thầy” liền “chém gió”: “Ai thì không biết chứ tôi khấn thiêng lắm, đấy, cái nhà khệ nệ đội mâm vàng, bạc kia năm ngoái nhờ tôi khấn, năm nay làm ăn trúng lắm, vừa lên trả lễ xong. Trước khi lên còn phải gọi điện cho tôi mấy ngày để trả lễ “thầy”. Lời “thầy” không biết thực hư thế nào nhưng đi dăm bước lại nghe một “thầy” “cóp” nguyên lời thầy nọ phán với khách kia.

Hoá ra, các “thầy” đều “uyên thâm” và “thiêng” như nhau, mỗi khi được thuê khấn đều ra rả “phán” giống nhau không sót một chữ. Nói về “đám” khấn thuê này, ông Nguyễn Văn Huynh, Trưởng Ban an ninh Đền Bà Chúa Kho khẳng định, “đám” cúng thuê toàn là dân thất nghiệp. Không nghề ngỗng gì nên lợi dụng trà trộn vào khách để hành nghề (!?).

Nội điện, nơi đặt bàn thờ Bà Chúa được “phong toả” bằng hệ thống cửa đóng, then cài để tránh tình trạng lộn xộn chốn linh thiêng. Để vào trong, chỉ được từng tốp vài ba người, vào xong có người của Ban tổ chức khoá cửa đứng canh. Ngoài cửa, từng tốp người đứng chờ tới lượt. Xen lẫn trong nhóm du khách là các “thầy” cúng thuê, tay cầm sổ bút ghi tên tuổi, địa chỉ của gia chủ. Mỗi tốp khách vào nội điện thì ngay lập tức có một “thầy” đứng ngoài “chỉ huy”. Khách hành lễ gõ chuông như thế nào? Khấn vái ra làm sao đều theo sự chỉ dẫn của “thầy”.

Càng về trưa, khách đổ về đền Bà Chúa Kho càng nhiều với những mâm vàng mã, đô la âm phủ cao ngất ngưởng. Ai cũng cố tìm cho mình một chỗ đứng gần Cung Bà Chúa như thể muốn “bà” nghe thấu lòng mình. Du khách vào đây phần lớn đều thuê người khấn hộ. Đỉnh điểm có lúc, trước điện Chúa Bà có đến 5 “thầy” thi nhau “phán”. Người cầu bố mẹ bình an, bách niên giai lão, nội ngoại hai bên hòa thuận, nói có người nghe, đe có người sợ… trẻ nhỏ ăn như cũ ngủ như xưa, học hành giỏi giang, tiến tới…

Một gia chủ giới thiệu mình là phu nhân của chủ tịch huyện ở tỉnh Nam Định vừa tái đắc cử. Gia chủ đọc, “thầy” phán theo: “Mong Bà phù hộ cho huyện X, tỉnh Nam Định năm nay ấm no hạnh phúc, ký kết được nhiều hợp đồng, khởi công nhiều dự án, phát triển bằng năm bằng ba năm ngoái”. Cầu chung xong, gia chủ cầu riêng cho nhà mình, cho ông chủ tịch vững ghế, sớm phát đường quan lộ.

Cạnh đó, gia chủ quê ở Bắc Ninh ngoài việc cầu tài, cầu lộc, còn ghi hẳn cả biển số 2 con xế hộp cho “thầy” nhờ bà Chúa che chở: “…Cầu cho Bà phù hộ, che chở cho 2 xe nhà con biển số 99 H…, 99 P… ra đường được thượng lộ bình an, đi tới chốn, về tới nơi”.

Với dân kinh doanh xin buôn may bán đắt, nhập bao nhiêu hàng bán hết bấy nhiêu, khách hàng trả tiền “tươi”, con nợ nóng lòng sốt ruột trả không thiếu một xu. Công việc kinh doanh ngày càng phát đạt… Cùng với du khách trong nước, lượng khách Việt kiều về trả lễ Bà Chúa cũng chiếm con số không nhỏ.

Mỗi nhà một cảnh, ai cũng có “tâm sự riêng” với Chúa Bà. Đứng cạnh một nữ trung niên tuổi ngoài 40, một “thầy” phán: “…Gia chủ của con là Việt kiều Liên bang Nga, hôm nay về đây trả lễ Bà. Cầu Bà ban cho lộc rơi, lộc vãi để năm sau đắt hàng, hàng nhập về bao nhiêu hết bấy nhiêu. Nhập năm bán năm, nhập mười bán mười, mua một bán hai ba…”. Một nhà có con đi xuất khẩu lao động Đài Loan bị vỡ nợ cũng khẩn thiết cầu cứu Bà Chúa, cầu Bà phù hộ cho năm sau xuất ngoại làm ăn khấm khá, không thất bát như thời gian qua…

Đền Bà Chúa Kho toạ lạc trên lưng chừng ngọn núi Kho, tại khu Cô Mễ, xã Vũ Ninh, TP Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Đây không chỉ là khu di tích lịch sử có giá trị nằm trong quân thể di tích của khu Cô Mễ (gồm: Đình – Chùa – Đền) mà còn là nơi hàng năm nhân dân khắp cả nước hành hương mang tính tín ngưỡng.

Đền Cổ Mễ thờ Bà Chúa Kho chính là nơi tưởng niệm một người phụ nữ Việt Nam đã khéo tổ chức sản xuất, tích trữ lương thực, trông nom kho tàng quốc gia trong thời kỳ trước và sau chiến thắng Như Nguyệt.

Vào đời nhà Lý, Bà có công giúp triều đình trông coi kho lương thực tại Núi Kho (tỉnh Bắc Ninh) và đã “thác” trong cuộc kháng chiến chống quân Tống vào ngày 12 tháng giêng năm Đinh Tỵ (1077).

Nhà vua thương tiếc phong cho Bà là Phúc Thần. Người dân nhớ thương Bà lập nên đền thờ tại kho lương thực cũ của triều đình ở Núi Kho và gọi Bà với một niềm tôn kính là: Bà Chúa Kho.

Bà Chúa Kho xuất thân từ một gia đình nghèo khó ở làng Quả Cảm gần đó. Sau khi lấy vua Lý, thấy ruộng đất ở đây bị hoang hoá, bà xin vua cho về làng chiêu dân lập ấp, khai khẩn ruộng hoang.

Không ai biết tên bà, khi bà qua đời, nhân dân lập đền thờ để ghi lại công ơn bà là đã hết lòng chăm lo cho dân ấm no, trông coi các “lẫm thóc, lẫm tiền” của Nhà nước. Công lao của bà đã được triều đại phong kiến ghi nhận qua việc sắc phong đền thờ bà là “Chủ khổ linh từ” (Đền thiêng thờ bà Chúa Kho).

Ở thôn Cổ Mễ còn một ngôi đình và ngôi chùa cổ. Chùa Cổ Mễ có từ lâu đời. Ngày nay trong chùa còn ba pho tượng đá khá đẹp mang rõ phong cách điêu khắc thời Mạc. Chùa còn lại đến nay là kiến trúc thế kỷ XIX, làm theo kiểu chữ T chạm khắc công phu.

Đình Cổ Mễ kiểu chữ nhất với năm gian, hai vì. Các mảng chạm khắc gỗ thể hiện theo các đề tài long vân khánh hội, ngũ hổ tranh châu với nghệ thuật điêu luyện. Đình thờ Trương Hống, Trương Hát là những anh hùng có công giúp Triệu Quang Phục (549-570) chống giặc Lương.