Lễ Mở Cửa Mả Là Gì?

Buổi lễ này chính là nghi thức khai mộ, được du nhập vào Việt Nam từ Trung Quốc. Sau đó, nó nhanh chóng trở thành một trong những buổi lễ quan trọng trong văn hóa của nước ta.

Việc cúng khai mộ sẽ được tiến hành sau khi chôn cất người chết 3 ngày. Điều này khởi nguồn từ quan niệm sau 3 ngày nằm dưới đất, người thân phải mở cửa mả thì linh hồn người đã khuất mới ra khỏi mộ, siêu thăng về nơi tịnh độ, yên bình.

Theo quan điểm Nho gia, việc mở cửa mộ cho vong hồn đi ra là không đúng. Buổi lễ này là bởi sau 3 ngày tang lễ con cháu nên ra mộ khóc lóc để tỏ lòng thương tiếc đối với người đã chết.

Đạo Phật quan niệm thế nào về lễ mở cửa mả

Trong đạo Phật không có lễ mở cửa mộ, kinh và giáo lí chỉ nhắc đến buổi lễ an vị mộ. Quan niệm Phật giáo cho rằng trong ngày tang lễ, vong hồn người chết đã được rước về nhà để thực hiện nghi lễ an sàng chứ không còn ở dưới mộ nữa. Lễ tam chiêu được thực hiện với ý nghĩa khác chứ không phải mở cửa mả để gọi linh hồn người chết.

Trong ngày an táng, do bận quá nhiều công việc nên gia đình không chăm chút được cho mộ phần của người đã khuất. Việc đắp mộ, chôn cất đều được thực hiện bởi người ngoài. Sau khi làm lễ địa táng được 3 ngày, con cháu trở ra mộ thăm viếng, đắp lại mộ phần, dọn cỏ xung quanh, thắp hương mới cho thật chu đáo. Đồng thời, làm lễ cúng để tỏ lòng thương nhớ đến người đã khuất.

Có thể thấy rằng, mỗi tôn giáo lại có cái nhìn hoàn toàn khác về lễ cúng mở cửa mả nói riêng cũng như phong thủy mộ phần nói chung. Tuy nhiên, tựu chung lại thì buổi lễ này cũng được thực hiện với mong muốn bày tỏ lòng tiếc thương và hi vọng người đã chết được siêu thoát. Qua đó, thể hiện một nét đẹp trong văn hóa tâm linh của người Việt Nam.

Mở Cửa Mả Là Gì

Rate this post

Mở cửa mả là gì ? Cúng mở cửa mả như thế nào  Tìm hiểu về tục mở cửa mả

Việt Nam ta vốn không có tục mở cửa mả, sau này được du nhập từ tập tục của Trung Quốc vào nước ta. Tục mở cửa mả mang đậm màu sắc của Nho giáo. Mở cửa mả còn được gọi là lễ khai mộ, là loại lễ làm trước khi vào các lễ chính thức trong các đám tang.

Ngày nay, dù nhiều nơi đã không còn giữ tục này nhưng với người dân Nam Bộ đây là một lễ không thể thiếu khi trong gia đình có người mất đi.

Nghi thức mở của mả được nhiều người cho rằng sẽ giúp người đã khuất siêu thoát thường được làm sau 3 ngày. Tính từ ngày người mất nhập quang nên còn gọi là Ngày Tam Chiêu (chiêu vong linh người mất sau 3 ngày).

Quan niệm của họ là sau 3 ngày thì hồn người chết dần dần hội lại nhưng vẫn chưa tỉnh táo, không thể tìm được đường siêu thoát dưới nhiều tầng phía trên như thế nên dù là chôn dưới mộ đất hay mộ được làm từ xi măng thì gia đình của người mất phải thực hiện lễ mở cửa mả để giúp vong linh tìm được đường ra.

Nếu không vong linh không được siêu thoát sẽ phải đau khổ, chịu nhiều đày ải. Chỉ có thể quanh quẩn quanh mộ phần của mình, không thể tiến vào của luân hồi, đầu thai kiếp khác.

Nghi thức này thể hiện sự lo lắng, thương yêu của gia đình có tang đối với người thân. Mong người đã khuất sẽ không phải chịu đau đớn, mà an yên chuyển sang kiếp sau tốt đẹp hơn.

Cúng mở cửa mả cần chuẩn bị những gì

Lễ mở của mả thông thường cần chuẩn bị các vật sau đây: 1 con gà con, 3 ống trúc, 1 cái thang đôi khi cần cả 1 cây lao hoặc cây mía. Gà con được buộc dây vào chân để gia chủ dắt đi quanh mộ phần 3 vòng, nên chọn con có tiếng kêu vang và kêu nhiêu. Tiếng gà con gọi gà mẹ tượng trưng cho hình ảnh người con gọi cha mẹ đã mất của mình. Thể hiện sự tiếc thương, thiếu mất một phần tình thân nhân trong cuộc sống của gia chủ.

Một số người quan niệm, người đã khuất chỉ khi nghe được tiếng gà con của gia đình mình mới hồi hồn, tỉnh táo mà đi chuyển kiếp được. Đối với những người mất lúc còn trẻ hoặc mất lúc chưa có vợ (chồng) thì không bắt buộc phải dắt gà con vào mộ phần.

Tục mở cửa mả ở Việt Nam

Ba ống trúc được dùng trong nghi lễ mở của mả của người dân Nam Bộ tượng trưng cho Tam Cang nghĩa là các mối liên hệ giữa người với người theo quan niệm của các nhà Nho giáo thời xưa, bao gồm: Quân – Thần (mối quan hệ giữa vua và thần tử trong nước). Phụ – Tử (quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong nhà). Phu – Thê (mối quan hệ giữa vợ chồng với nhau).

Ống trúc có chiều dài khoảng 4 tấc (40cm) được vót nhọn 1 đầu để cắm xuống đất. 1 đầu bằng để đựng lần lượt: nước, muối, nước. Phía trên miệng ống trúc phải được bọc lại bằng bao nilon và dây chun.

Cây thang tượng trưng cho Ngũ Thường theo đạo Nho ngày trước: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Cây thang thường dài 5 tấc (50cm) được làm bằng tre, trúc hoặc đôi khi là cây chuối. Nhân gian quan niệm cây thang này sẽ giúp người mất leo lên khỏi mộ phần của mình, có tác dụng như vật dẫn đường.

Số lượng bậc thang của cây thang giả này cũng được quy định theo quan niệm số vía được phân theo giới tính của người xưa – nam thập nữ cửu, tức là cây thang sẽ có 7 bậc nếu là đàn ông, 9 bậc thang nếu là phụ nữ.

Chuẩn bị mâm cúng mở cửa mả

Cây lao hoặc cây mía được sử dụng trong lễ mở cửa mả để thể hiện công ơn dưỡng dục của cha mẹ đối với con cái khi còn sống. Giống như hình ảnh cha mẹ cực khổ, gầy gò giống như cây lao, cây mía vì chăm sóc, nuôi dạy đứa con. Đối với người chưa có con thì không cần phải chuẩn bị thứ này.

Vật dụng dùng để cúng thì gồm: 2 bình hoa, 2 đĩa trái cây, 6 chén chè, 2 đĩa xôi, 1 bộ tam sênh, 7 cái chén nhỏ, 1 bình trà thơm, 250 ml rượu. Hai bình hoa và hai đĩa trái cây để cúng đất đai và vong hồn. Bộ tam sênh có: trứng, thịt, tôm.

Trong đó, trứng tượng trưng cho Thiên, thịt tượng trưng cho Thổ. Tôm tượng trưng cho Thủy. Ngoài ra, còn phải chuẩn bị 18 con chim còn sống dùng để phóng sanh cầu phước lành. Mong hướng công đức cho người đã khuất, giúp vong linh sớm siêu thoát, an lạc.

Tục mở cửa mả là nét riêng biệt thuộc về văn hóa nhân gian miền Nam Bộ. Thể hiện tính trọng tình cảm của người dân nơi đây dù là với người còn sống hay đã khuất.

Mở Cửa Mả Là Gì ? Cúng Mở Cửa Mả Như Thế Nào ?

Việt Nam ta vốn không có tục mở cửa mả, sau này được du nhập từ tập tục của Trung Quốc vào nước ta. Tục mở cửa mả mang đậm màu sắc của Nho giáo. Mở cửa mả còn được gọi là lễ khai mộ, là loại lễ làm trước khi vào các lễ chính thức trong các đám tang.

Ngày nay, dù nhiều nơi đã không còn giữ tục này nhưng với người dân Nam Bộ đây là một lễ không thể thiếu khi trong gia đình có người mất đi.

Nghi thức mở của mả được nhiều người cho rằng sẽ giúp người đã khuất siêu thoát thường được làm sau 3 ngày. Tính từ ngày người mất nhập quang nên còn gọi là Ngày Tam Chiêu (chiêu vong linh người mất sau 3 ngày).

Quan niệm của họ là sau 3 ngày thì hồn người chết dần dần hội lại nhưng vẫn chưa tỉnh táo, không thể tìm được đường siêu thoát dưới nhiều tầng phía trên như thế nên dù là chôn dưới mộ đất hay mộ được làm từ xi măng thì gia đình của người mất phải thực hiện lễ mở cửa mả để giúp vong linh tìm được đường ra.

Nếu không vong linh không được siêu thoát sẽ phải đau khổ, chịu nhiều đày ải. Chỉ có thể quanh quẩn quanh mộ phần của mình, không thể tiến vào của luân hồi, đầu thai kiếp khác.

Nghi thức này thể hiện sự lo lắng, thương yêu của gia đình có tang đối với người thân. Mong người đã khuất sẽ không phải chịu đau đớn, mà an yên chuyển sang kiếp sau tốt đẹp hơn.

Cúng mở cửa mả cần chuẩn bị những gì ?

Lễ mở của mả thông thường cần chuẩn bị các vật sau đây: 1 con gà con, 3 ống trúc, 1 cái thang đôi khi cần cả 1 cây lao hoặc cây mía. Gà con được buộc dây vào chân để gia chủ dắt đi quanh mộ phần 3 vòng, nên chọn con có tiếng kêu vang và kêu nhiêu. Tiếng gà con gọi gà mẹ tượng trưng cho hình ảnh người con gọi cha mẹ đã mất của mình. Thể hiện sự tiếc thương, thiếu mất một phần tình thân nhân trong cuộc sống của gia chủ.

Một số người quan niệm, người đã khuất chỉ khi nghe được tiếng gà con của gia đình mình mới hồi hồn, tỉnh táo mà đi chuyển kiếp được. Đối với những người mất lúc còn trẻ hoặc mất lúc chưa có vợ (chồng) thì không bắt buộc phải dắt gà con vào mộ phần.

Ba ống trúc được dùng trong nghi lễ mở của mả của người dân Nam Bộ tượng trưng cho Tam Cang nghĩa là các mối liên hệ giữa người với người theo quan niệm của các nhà Nho giáo thời xưa, bao gồm: Quân – Thần (mối quan hệ giữa vua và thần tử trong nước). Phụ – Tử (quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong nhà). Phu – Thê (mối quan hệ giữa vợ chồng với nhau).

Ống trúc có chiều dài khoảng 4 tấc (40cm) được vót nhọn 1 đầu để cắm xuống đất. 1 đầu bằng để đựng lần lượt: nước, muối, nước. Phía trên miệng ống trúc phải được bọc lại bằng bao nilon và dây chun.

Cây thang tượng trưng cho Ngũ Thường theo đạo Nho ngày trước: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Cây thang thường dài 5 tấc (50cm) được làm bằng tre, trúc hoặc đôi khi là cây chuối. Nhân gian quan niệm cây thang này sẽ giúp người mất leo lên khỏi mộ phần của mình, có tác dụng như vật dẫn đường.

Số lượng bậc thang của cây thang giả này cũng được quy định theo quan niệm số vía được phân theo giới tính của người xưa – nam thập nữ cửu, tức là cây thang sẽ có 7 bậc nếu là đàn ông, 9 bậc thang nếu là phụ nữ.

Chuẩn bị mâm cúng mở cửa mả

Cây lao hoặc cây mía được sử dụng trong lễ mở cửa mả để thể hiện công ơn dưỡng dục của cha mẹ đối với con cái khi còn sống. Giống như hình ảnh cha mẹ cực khổ, gầy gò giống như cây lao, cây mía vì chăm sóc, nuôi dạy đứa con. Đối với người chưa có con thì không cần phải chuẩn bị thứ này.

Vật dụng dùng để cúng thì gồm: 2 bình hoa, 2 đĩa trái cây, 6 chén chè, 2 đĩa xôi, 1 bộ tam sênh, 7 cái chén nhỏ, 1 bình trà thơm, 250 ml rượu. Hai bình hoa và hai đĩa trái cây để cúng đất đai và vong hồn. Bộ tam sênh có: trứng, thịt, tôm.

Trong đó, trứng tượng trưng cho Thiên, thịt tượng trưng cho Thổ. Tôm tượng trưng cho Thủy. Ngoài ra, còn phải chuẩn bị 18 con chim còn sống dùng để phóng sanh cầu phước lành. Mong hướng công đức cho người đã khuất, giúp vong linh sớm siêu thoát, an lạc.

Tục mở cửa mả là nét riêng biệt thuộc về văn hóa nhân gian miền Nam Bộ. Thể hiện tính trọng tình cảm của người dân nơi đây dù là với người còn sống hay đã khuất.

Nghi Thức Khai Mộ (Mở Cửa Mả)

Nghi thức khai mộ (Mở cửa mả) – 2 nghi

I. Chuẩn bị: Các thức cúng gồm:

1. Một cái thang bằng bẹ chuối (Nam 7 bậc, Nữ 9 bậc), một Cây Mía Lao để cả ngọn, một ít tiền Vàng Mã

2. Hai Bình Bông, hai đĩa Trái Cây (1 cúng Đất Đai, 1 cúng Vong)

3. Ba ống Trúc dài khoảng bốn tấc vót nhọn một đầu: 1 đựng Muối, 1 đựng Gạo, 1 đựng Nước – bịt lại bằng Nilon trên đầu

4. Bốn cây Đèn Cầy, một bó Nhang lớn, 3 cây Nhang trung (Cở ngón tay út)

5. Năm thứ Đậu (100 gram chung cho 5 thứ), năm Thẻ Tre dài 4 tấc vót nhọn 1 đầu (Để làm Bài Vị cúng Ngũ Phương Ngũ Thổ Tôn Thần) 6. Sáu Chén Chè, hai Đĩa Xôi, một bộ Tam Sênh(Trứng, Thịt, Tôm)

7. Bảy cái Chung, một bình Trà, một xị Rượu

8. Mười tám con Chim để phóng sanh (Thay cho Gà)

* Lưu ý: Nên sử dụng chén, đĩa.. bằng nhựa dùng một lần – Cúng xong để lại tại Mộ luôn không dọn về.

– Khi đi ra mộ Gia Quyến nhớ mặc Đồ Tang, mang theo cái Bài Vị.

– Chuẩn bị sẵn Ba Mâm Cơm Canh để về nhà Cúng An Linh

II. Sắp đặt lễ cúng:

– Cắm ba ống Trúc có Gạo, Muối, Nước dưới Chân Mộ, dựa cái thang vào 3 ống Trúc, đằng sau phía Trên để cái Bài Vị.

– Bày hai mâm lễ cúng có Chè, Xôi, Bông, Trái Cây, chung cúng Trà Rượu, Giấy Tiền Vàng Mã, một mâm trước Mộ (Dưới chân) để cúng Vong và một mâm ở một nơi sạch sẽ gần đó để cúng Thần.

– Cắm Năm Thẻ Tre đã được dán Bài Vị Ngũ Phương Ngũ Thổ Tôn Thần ở bốn góc và giữa Mộ.

– Thắp nhang trước Mộ, mâm cúng Thần và các Bài Vị Tôn Thần cũng như ở các ngôi Mộ xung quanh.

– Để Cây Mía và Lồng Chim phía bên phải ngôi Mộ.

III. Nghi thức cúng:

– Thắp nhang khấn xin Chư Vị Tôn Thần dẫn dắt Linh Hồn người chết về nghe Kinh, chứng minh Lễ Khai Mộ.

– Thầy tụng Kinh thỉnh Chư Vị Tôn Thần và triệu Linh, làm phép Sái Tịnh

– Gia đình chia nhau mỗi người một ít Đậu, một người đại diện cầm Cây Mía, Lồng Chim theo Thầy đi quanh mộ vừa niệm Phật, vừa rải Đậu.

– Sau khi đi đủ ba vòng trở lại vị trí cũ, phóng sanh Chim, đốt Giấy Tiền Vàng Mã, lạy tạ Tôn Thần và dẫn Vong trở về nhà cúng An Linh.

(Dọn 2 mâm cúng, mỗi mâm có đèn nhang riêng để cúng Vong và Thần Mả; sắm 5 ống tre: 1 ống đựng Mè, 1 ống đựng Đậu, 1 ống đựng Gạo, 1 ống đựng Muối, 1 ống đựng Nước, đầu ống bịt vải cột dây, đuôi ống vót nhọn để cắm ngang đầu Mả; 1 cây Mía Lau cột chân một con Gà Giò; 5 cây Thẻ sơn vôi trắng có vẽ Bùa Trấn Mả cắm bốn góc Mả và giữa núm Mả; 1 cây Thang ba nấc bằng cọng chuối dựng vô đầu Mả; 1 gói năm thứ Đậu để Sư rải quanh Mả ).

– XƯỚNG: Tựu vị – Niệm hương – Lễ tam bái – Bình thân quỳ.

– TÁN: Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát ma ha tát. ( 3 lần)

– ĐỒNG DẪN: Hương đăng thỉnh, hương đăng triệu thỉnh.

– DẪN: Nhứt tâm triệu thỉnh: Đương sơn bổn xứ, Thổ Địa chánh thần, Ngũ Phương Mộ Trạch sứ giả, lai đáo chứng tri, thọ thử cúng dường, thùy từ gia hộ.

– DUY NGUYỆN: Thượng tuân Phật sắc, hạ mẫn phàm tình, khai Mộ dẫn Vong, nguyện thùy chứng giám.

– ĐỒNG DẪN: Hương hoa thỉnh, hương hoa triệu thỉnh.

– DẪN: Nhứt tâm triệu thỉnh, Thượng Hạ truy hồn tam sứ giả, Đông Tây thủ mạng nhị Thần Quan, tiếp dẫn phục vì Vong, tánh … nhứt vị Thần (Nữ: Chánh) Hồn. Lai phó Mộ phần, thọ tài hưởng thực.

– DUY NGUYỆN: Tam đồ lộ viễn, thích triệu lai lâm, thính Pháp văn Kinh, siêu thăng Lạc Quốc.

– DẪN: Thiết dĩ: Diêm, mễ, thủy thạnh tam đồng, tiểu trúc giá chủng nhứt chi, ức Phụ Mẫu dưỡng nhi chi lao khổ.

– DẪN: Thần thê đăng Tam Cấp, niệm Tam Cang, xuất Tam giới vãng Lạc Bang.

– DẪN: Thiết dĩ: Ngũ chủng đậu tượng Ngũ Thường chi lý, phối Đại Thừa chủng trí chi duyên, tiền Phật Gia tứ chủng ư Tây Thiên, Chư Tôn Giả chủng vu Đông Độ, tung thử Thiền Gia vi Tổ, chủng miêu căn xứ xứ tục truyền, tế độ chư Phật Tử hữu duyên, tiếp dẫn chúng sơ đăng Giác Lộ. Ngô kim phụng pháp, sái đậu thanh miêu. ( Hốt đậu rải bốn phía nấm Mộ).

Nhứt sái đậu Hương Hồn siêu Tịnh Độ.

Nhì sái đậu Hương Hồn vãng Tây Phương.

Tam sái đậu đồng kiết diệp miêu căn, hộ Tang Chủ tăng long phước thọ.

– DẪN: Thiết dĩ: Kê thinh ốc ốc, sầu thất mẫu, thống lạc quần, hốt đại minh Khai Mộ chi môn, nguyện Vong Giả Thần Hồn định tĩnh.

– TỤNG: ( Sư đi trước, Chủ Tang cầm cây Mía có cột Con Gà nơi gốc Mía kéo đi theo Sư quanh mộ 3 vòng, Sư vừa đi vừa tụng):

* Công đức bảo sơn thần chú: Nam mô Phật đà da, Nam mô Đạt mạ da, Nam mô Tăng già da, Án, tất đế hộ rô rô, tất đô rô, chỉ rị ba, yết rị bà, tất đạt rị, bố rô rị, ta bà ha ( 3 lần).

– XƯỚNG: (Thả gà) Án, linh linh tốc xuất hồng hồng tá ha. ( Bạt tai cho con Gà chu chéo lên rồi thả ra).

– TỤNG: Biến thực biến thủy chơn ngôn, cẩn đương trì tụng:

Nẳng mồ tát phạ đác tha nga đa, phạ lồ chỉ đế. Án tam bạt ra, tam bạt ra hồng. (3 lần).

– XƯỚNG: Trà châm – Lễ nhị bái – Bình thân quỳ.

– TỤNG:

Nẳng mồ tô rô bà da, đác tha nga đa da, đát điệt tha. Án tô rô, tô rô, bác ra tô rô, bác ra tô rô, ta bà ha. (3 lần).

– XƯỚNG: Tái hiến trà châm – Lễ nhị bái – Bình thân quỳ.

– TỤNG:

Án nga nga nẳng tam bà, phạ phiệt nhựt ra hồng. (3 lần).

– XƯỚNG: Chung hiến trà châm – Lễ nhị bái – Bình thân quỳ.

* TỤNG CHÚ VÃNG SANH

– Nẳng mồ a di đá bà dạ, đá tha già đá dạ, đá địa dạ tha, a di lị đô bà tỳ, a di lỵ đá tất đam bà tỳ, a di lỵ đá tỳ ca lan đế, a di lỵ đá tỳ ca lan đá, già di nhị già già na, chỉ đá ca lệ ta bà ha.

– TÁN: Ngũ phương Đồng Tử khai minh lộ, Thần Kê linh hiển dẫn Hồn quy, kim thời sái Đậu Hồn siêu thoát, Khai Mộ giải Tà vĩnh an ninh.

– Nam mô Tiêu Tai Giáng Kiết Tường Bồ Tát ma ha tát. ( 3 lần)

– XƯỚNG: Khai Mộ Môn sự tất, Tang Chủ kiền thiềng lễ tứ bái.

– Tang chủ tựu vì. Lễ tam … bái. Bình thân giai quì.

– Ngũ phương Tôn Thần lai văn triệu thỉnh lai lâm.

I). HƯƠNG HUÊ THỈNH:

* Nam mô nhứt tâm phụng thỉnh: Đương Sơn bổn Xứ phước Đức chánh thần. Ngũ Phương mộ trạch sứ giả Tôn Thần, lai đáo Đàn Tiền chứng minh pháp sự. Thọ thử cúng dường thùy từ gia hộ, tiếp triệu phục vì Vong chánh …

– Duy nguyện: Thừa Tam Bảo lực, trượng bí mật ngôn. Vong Linh lai đáo Mộ Phần, thính Pháp văn Kinh, thọ tài hưởng thực.

– Kiềng thiềng tửu châm sơ tuần. Lễ nhị … bái.

II). HƯƠNG HUÊ THỈNH:

* Nam mô nhứt tâm phụng thỉnh: Thượng Hạ Truy Hồn tam sứ giả, Đông Tây thủ mạng nhị Thần Quan. Tiếp độ phục vì Vong chánh …

– Duy nguyện: Tam đồ lộ viễn, tiếp triệu lai lâm. Vong Linh lai đáo Đàn Tiền, thính Pháp văn Kinh, thọ tài hưởng thực.

– Kiềng thiềng tửu châm nhị tuần. Lễ nhị … bái.

III). HƯƠNG HUÊ THỈNH:

* Nam mô nhứt tâm phụng thỉnh: Ngũ Phương Ngũ Đế, Chúa Ngung Phương Thần, cập tùng Bộ Hạ lai đáo Đàn Tiền chứng minh pháp sự, thọ thử cúng dường, thùy từ gia hộ. Tiếp triệu phục vì Vong Chánh … . Lai đáo Mộ Phần, thính Pháp văn Kinh, thọ tài hưởng thực.

– Kiềng thiềng tửu châm tam tuần. Lễ nhị … bái.

* Giáo hữu biến thực biến thủy chơn ngôn:

Nẳng mồ tát phạ đác tha nga đa, phạ lồ chỉ đế. Án tam bạt ra, tam bạt ra hồng. (3 lần).

Nẳng mồ tô rô bà da, đác tha nga đa da, đát điệt tha. Án tô rô, tô rô, bác ra tô rô, bác ra tô rô, ta bà ha. (3 lần).

Án nga nga nẳng tam bà, phạ phiệt nhựt ra hồng. (3 lần).

– Nhất đích thanh lương thủy, năng trừ cơ khát tai.

– Kiềng thiềng trà châm bảo mãn. Lễ nhị … bái.

A-Di-Ðà Phật thân kim sắc Tướng hảo quang-minh vô đẳng-luân Bạch hào uyển-chuyển ngũ tu-di Cám mục trừng thanh tứ đại hải. Quang trung hóa Phật vô số ức, Hóa Bồ-tát chúng diệc vô-biên Tứ thập bát nguyện độ chúng-sanh Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.

Nam mô A Di Đà Phật. (108 lần)

Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát. (3 lần)

Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát. (3 lần)

Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát. (3 lần)

Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (3 lần)

(Vừa niệm Phật vừa dẫn Gia Đình kéo Gà đi quanh Mộ).

Thần Kê nhất thượng từng đàng Chư Phật chứng minh.

Thần Kê nhì thượng từng đàng Vong Giả siêu sanh Tịnh Độ.

Thần Kê tam thượng từng đàng Tang Chủ phước thọ tăng long.

(Cho Gà ăn đậu, uống rượu. Thả gà)

* Tụng Chú Táng Sa: (Rải đậu, Mè)

– Án a mộ già vĩ lô tả nẵng, ma ha mẫu nại ra ma nễ, bát nạp ma, nhập phạ lã, bát ra mạt đá dã hồng. (3 lần)

– Kiềng thiềng dĩ kim ngân phần hóa.

* TỤNG CHÚ VÃNG SANH

– Nẳng mồ a di đá bà dạ, đá tha già đá dạ, đá địa dạ tha, a di lị đô bà tỳ, a di lỵ đá tất đam bà tỳ, a di lỵ đá tỳ ca lan đế, a di lỵ đá tỳ ca lan đá, già di nhị già già na, chỉ đá ca lệ ta bà ha. (3 biến )

– Khai Mộ dẫn Vong sự tất. Tang Chủ kiềng thiềng lễ tất tứ … bái.

(Lấy 3 cây Nhang cắm vào Bài Vị).

– Thỉnh Vong về nhà.

– Qui khứ lai hề qui khứ lai.

Tây phương Tịnh độ bạch liên khai.

Nhứt trận hương phong xuy hốt đáo,

Hương hồn thừa thử bộ kim giai.

Số người đang online: 656

Tục Mở Cửa Mả Ở Nam Bộ

Thông thường sau khi chôn cất người quá cố khoảng 3 ngày thì gia chủ tổ chức mở cửa mả tại mộ phần người chết. Nhiều người còn nặng sự mê tín thì quan niệm rằng: người chết sau khi được an táng dưới mộ dù là mộ đất hay mộ xi măng thì vong linh sẽ không được siêu thoát, họ sẽ bị khổ sở, đày ải quanh quẩn dưới mộ sâu, vì vậy cần phải mở cửa mả để vong hồn họ ra khỏi huyệt mộ về chốn siêu thoát.

Trong khi làm lễ, gia chủ phải có con gà con dắt theo để nó kêu lên khiến hồn người chết nghe tiếng gà thức dậy bởi họ quan niệm người chết sẽ ngủ mãi mãi nếu không có tiếng gà đánh thức. Con gà con còn biểu tượng cho hình ảnh thiếu vắng tình thương của cha mẹ. Nếu người quá cố còn trẻ và chưa có vợ (chồng) thì không nhất thiết phải có con gà con.

Ảnh : Mâm cúng (Ảnh tư liệu)

Song song đó, người ta còn làm cái thang nhỏ bằng tre, trúc, hay bằng cây chuối có 7 thanh chắn ngang (nếu người mất là đàn ông), 9 thanh (nếu người chết là đàn bà) với quan niệm để người chết có thể leo lên khỏi huyệt một cách dễ dàng hơn. Cây thang năm tấc biểu trưng cho ngủ thường, ba ống trúc tượng trưng tam cang. Cạnh đó gia chủ còn đem theo cây mía lau tượng trưng cho việc cha mẹ nuôi con khổ nhọc mà ốm o gầy mòn như cây lau, cây sậy (?)

Cạnh đó người cúng còn chuẩn bị hai bình bông, hai đĩa trái cây (1 cúng đất đai, 1 cúng vong); 3 ống trúc dài khoảng 4 tấc vót nhọn một đầu: 1 đựng muối, 1 đựng nước, 1 đựng nước – bịt lại bằng nilon trên đầu ống trúc và 4 cây đèn cầy, 5 thứ đậu, 5 thẻ tre dài 4 tấc vót nhọn 1 đầu (để làm bài vị cúng ngũ phương ngũ thổ tôn thần); 6 chén chè, 2 đĩa xôi, một bộ tam sên (trứng, thịt, tôm), 7 cái chung, một bình trà, một xị rượu, 18 con chim để phóng sanh.

Theo đạo Phật, không có lễ mở cửa mả mà chỉ có lễ an vị mộ. Nghĩa là sau khi chôn cất ba ngày, con cháu trở ra mộ thăm viếng đắp sửa phần mộ cho chu đáo, vì trong ngày an táng gia quyến bận rộn nên mọi việc đắp mộ đều giao cho đạo tỳ. Trong khi tang quyến phải rước vong về nhà làm lễ an sàng, sợ rằng đạo tỳ làm không kỹ lưỡng, do đó mới ra thăm mộ kiểm tra sửa sang lại. Đồng thời tang quyến nhân đây làm lễ cúng vái tỏ lòng thương nhớ. Lễ này có thể gia chủ tự cúng, không nhất thiết mời thầy. Hơn nữa, hôm an táng xong đã rước vong về nhà làm lễ an sàng thì đâu còn hồn nào dưới mộ mà phải mở cửa mả cho hồn lên.

Ảnh: Mở cửa mả (Ảnh tư liệu)

Không cần đem theo gà, mía vì đó chỉ là hình thức tượng trưng hiếu đạo của nhà Nho, chỉ cần hoa trái xôi chè để cúng ở mộ là đủ. Riêng quan điểm của Nho gia, 3 ngày sau khi có người thân qua đời thì gia tộc phải khóc than tỏ lòng thương tiếc. Nhiều gia đình có người ở xa thường làm lễ “xả tang” trong ngày mở cửa mả để không phải có mặt trong những lần cúng tiếp theo như cúng 7 ngày, 21, 49. 100 ngày; không phải để tang người chết nữa. Khi đó, thầy tụng vừa tụng kinh vừa lấy cây lược chải đầu và cắt một nhúm tóc nhỏ của người được xả tang.

Đạo Phật không đặt nặng hình thức chỉ chú trọng vào thực tế, người sống nếu thật lòng thương nhớ người chết thì phải làm các việc phước thiện như tụng kinh niệm Phật, cúng dường Tam bảo, bố thí, phóng sanh… hồi hướng công đức cho người chết, như thế vong linh mới an lạc, siêu thoát.

Tuy có phần nặng về tâm linh siêu nhiên nhưng tục lệ nầy đã và đang được rất nhiều cư dân Nam bộ duy trì từ hàng trăm năm qua như một sự tưởng nhớ với người quá cố.

Trần Trấn Giang