Tín Ngưỡng Thờ Bà Cậu Ở Cần Thơ

Tín ngưỡng thờ Bà Cậu có nguồn gốc ở miền Trung, được các ngư dân mang vào Nam Bộ từ khoảng xuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII. Có nhiều ý kiến cho rằng đây là tín ngưỡng xuất phát từ tín ngưỡng thờ Mẫu, đó là thần Nước, Mẫu Thủy, Mẫu Thoải. Trong dân gian, Mẫu Thoải là hóa thân lần thứ ba của Thánh Mẫu Liễu Hạnh, được gọi là Mẫu Đệ Tam. Mẫu Đệ Tam cai quản vùng sông nước, biển cả và luôn luôn cứu độ cho dân cư khu vực này. Binh tướng của bà là các thần dưới dạng rắn, thuồng luồng- có sức mạnh dẹp yên sóng gió, có khả năng làm mưa, chống lũ lụt, hồng thủy… Ngư dân tin rằng khi đi biển, nếu gặp bão thì Bà sẽ cứu giúp. Tín ngưỡng Mẫu Thoải rất phổ biến ở khu vực Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ và khi vào đến Nam Bộ thì việc phối thờ Thiên Y A Na Bà Chúa Ngọc cùng hai người con (Cậu Trài (Tài)- Cậu Quí) tạo thành tục thờ đặc trưng của cư dân biển đảo là thờ Bà Cậu.1

Nghi thức hạ thủy bè thủy lục tại Lễ Tống ôn ở Miếu bà Xóm Chài (Cái Răng- Cần Thơ). Ảnh: DUY KHÔI

Người đi ghe xuồng mỗi buổi sáng đều thắp nhang cầu mong Bà Cậu phù hộ những điều tốt lành. Ảnh: DUY KHÔI

Sở dĩ dân miền sông nước thường cúng Bà Cậu bằng vịt vì quan niệm, với nghề nghiệp và cuộc sống của họ, hạnh phúc và thành đạt là ghe, tàu đi đến nơi về đến chốn. Ngược lại, điều luôn làm họ lo lắng là tai họa, không may phương tiện bị rủi ro va chạm, đụng chìm… đồng nghĩa với thất bại, phá sản, giải nghệ. Chính vì vậy phương tiện nổi đi nhanh an toàn trong mọi điều kiện luôn là yêu cầu số một đối với người mưu sinh trên sông nước. Trong khi đó, con vịt luôn luôn nổi và bơi lướt nhanh trên mặt nước. Thế là họ thường dâng cúng Bà cặp vịt. Mặc dù đối với nhà Phật, đức Bồ Tát không dùng đồ mặn, nhưng người dâng cúng “lý sự” rằng, Bà không ăn vịt mà dùng vịt để cưỡi đi giúp các ghe, tàu mỗi khi gặp sóng to, gió lớn, vượt qua các chướng ngại trên luồng để đi đến nơi về đến chốn an toàn.2

Trong khi đó, Bà Cậu được Huỳnh Tịnh Paulus Của ghi nhận trong Đại Nam Quấc âm tự vị trong mục từ Bảy bà ba cậu là: Bà chúa Tiên, bà chúa Ngọc, bà chúa Xứ, bà chúa Động, bà Cố Hỉ, bà Thủy, bà Hỏa; cậu Trày, cậu Quí đều là con bà chúa Ngọc, làm bạn với một vị thái tử mà sinh ra; còn có cậu Lý, cậu Thông, nói theo vần kể có ba cậu. Về hai người sau không rõ sự tích.3

Lại có quan niệm cho rằng, đánh bắt cá vốn là nghề kiếm sống của những người hạ bạc (hiểu là nghèo khổ cùng cực nhất trong xã hội thời xưa, nên được xếp đứng đầu trong tứ nghệ khổ: ngư, tiều, canh, mục), bởi thế có câu: Cùng nghề đi tát, mạt nghề đi câu. Nói cách khác, ngư dân là những người bạc phận nhất, cực chẳng đã mới làm cái nghề đi vào ngõ cụt: Nhất phá sơn lâm nhì đâm hà bá. Chính vì vậy ngư dân phải tự tìm cho mình sự che chở của một thế lực siêu hình mà theo họ là đầy quyền năng: Bà Cậu, xem như Thủy thần- chỗ dựa tâm linh, để cầu xin được phù hộ độ trì. Thế mới được an lòng!

Thủy thần là vị thần bảo hộ cho những người sống nghề sông nước, là một đối tượng được nghĩ ra trên cơ sở phối hợp pha lẫn các truyền thuyết sẵn có từ thuở xa xưa đem từ miền ngoài vào, rồi tự tâm thức, bà con đặt định một danh hiệu rất chung chung: Bà Cậu. Không ít người đã cố gắng lý giải về nguồn gốc, danh tánh, nhưng dân gian kể cả những người sống nghề hạ bạc cũng không mấy ai quan tâm đến thần tích tuy luôn rất thành kính, sợ hãi. Với họ, có hai loại thủy thần: tốt, thân thiện thì Bà Cậu; còn xấu, gây tai họa cho người là… Hà Bá và Bà Thủy.4

Ở Cần Thơ, Bà Cậu không chỉ được thờ trong khoang ghe, tàu mà còn được xây miếu thờ. Ngôi miếu này hiện tọa lạc tại khu vực Xóm Chài, thuộc khu vực 3, phương Hưng Phú, quận Cái Răng. Đây là ngôi miếu được xây dựng từ rất lâu đời, cách đây khoảng 120 năm. Trước đây, cư dân khu vực này sống bằng nghề chài lưới, đánh cá… mà công việc này hằng ngày phải đối với diện với bao hiểm nguy của sông sâu nước chảy, sóng to gió lớn… nên cần có sự che chở của một vị thần để vững tâm trong công cuộc mưu sinh. Và Bà Cậu- với tư cách là vị thần cai quản vùng sông nước, có thể đem đến cho họ sự bình an trong tâm tưởng nên dân làng chung tay xây miếu thờ Bà, mong Bà phù hộ cho sóng yên gió lặng, mọi người được bình yên, tôm cá đầy thuyền. Miếu Bà Xóm Chài lúc đầu được xây dựng đơn giản bằng cột gỗ, lợp lá. Sau một thời gian dài, ngôi miếu xuống cấp, hư hỏng, dân làng mới góp tiền xây lại ngôi miếu khang trang như hiện nay. Trong miếu, ngoài việc thờ Bà Cậu, dân làng ở đây còn thờ Bà Chúa Xứ, Tả Ban, Hữu Ban, Thành Hoàng và Phật Di Lặc. Nhìn chung, việc thờ cúng ở miếu Bà Xóm Chài không khác mấy so với cơ cấu thờ cúng ở đình làng. Ngay cả lễ cúng Bà hằng năm cũng là mô phỏng lễ hội Kỳ Yên ở đình làng.

Hằng năm, miếu Bà có hai kỳ cúng lớn, đó là ngày 13, 14 tháng Giêng âm lịch và ngày 23, 24 tháng 4 âm lịch. Trong đó, lễ cúng vào tháng Giêng là lớn nhất, có học trò lễ, có thuyền tống ôn, thu hút hàng trăm lượt người đến tham dự. Phẩm vật cúng Bà trong các ngày này gồm có: heo trắng làm sẵn, gà, cháo ám, trái cây… Trong đó, heo gà dùng cúng Bà Cậu, còn cháo ám dùng để cúng binh.

Mặc dù người dân nơi đây không biết Bà Cậu là ai nhưng niềm tin của họ đối với Bà Cậu là tuyệt đối. Họ tin rằng, mọi bất trắc trên sông nước mà quá trình làm nghề họ gặp phải đều có Bà Cậu che chở. Vì lẽ đó, tín ngưỡng thờ Bà Cậu của người dân Cần Thơ là thể hiện sự tri ân của dân làng đối với đấng bề trên, cho họ một cuộc sống ấm no đủ đầy, bình an, hạnh phúc. Đồng thời qua đó còn thể hiện lòng ước mong mỗi cuộc hải trình ra khơi được đi đến nơi về đến chốn, sóng yên gió lặng, tôm cá đầy thuyền.

Trần Phỏng Diều

Hình Tượng “Bà Cậu” Và Tục Cúng Ghe Ở Miền Tây

Đại đa số ghe buôn, ghe hàng đều thờ “Bà Cậu” trên ghe và tổ chức cúng ghe vào các ngày 16 và 29 âm lịch mỗi tháng. Về lễ vật, nếu các phương tiện vận tải trên bộ thường cúng gà (tượng trưng cho hoạt động chạy nhảy mau mắn) thì cúng ghe phải cúng vịt (tượng trưng cho sự bơi lội, di chuyển thuận lợi trên sông).

Mâm cúng gồm vịt luộc với ba chén cháo, một bình trà, một bình rượu và bánh ngọt, có nơi cúng thêm đầu heo tùy theo kinh tế gia đình. Mâm cúng đặt trước mũi ghe, khi bắt đầu cúng, chủ ghe đốt nhang cầu nguyện việc mua bán, may mắn, sức khỏe…

Về hình tượng “Bà Cậu” có nhiều giả thuyết, nhưng đa số chủ nghe thường truyền tụng đó là một bà già và hai người con trai chuyên cứu giúp người trên sông nước khi gặp nạn. Để tỏ lòng tri ân, các bạn hàng xưa tổ chức cúng vái cầu nguyện Bà và hai cậu con trai phò hộ, giúp đỡ. Hình tượng “Bà Cậu” còn được người đi ghe xuồng đem ra cảnh báo trừng phạt đối với những hành vi, lời nói sai trái, không trung thực.

Có những “điềm báo” chẳng biết dựa trên nền tảng tâm linh nào, chẳng hạn việc mua bán sẽ thành đạt nếu trong khi di chuyển bắt gặp chó lội ngang sông và ở trước mũi ghe hoặc ban đêm trong khoang ghe xuất hiện đom đóm; việc mua bán sẽ khó khăn khi gặp rắn hay ngỗng lội ngang…

Tục cúng ghe ở Miền Tây khá phong phú, mặt khác lại có một số nét tương đồng. Để chuẩn bị đóng ghe mới, bao giờ chủ nhà cũng cúng vái miếng ván gỗ đầu tiên, gọi là tục cúng “gim lô”. Trên đó là mâm đồ cúng tương tự mâm cúng hàng tháng của chủ ghe nhưng có kèm theo một tấm vải đỏ tượng trưng cho sự may mắn. Miếng ván gỗ “gim lô” phải dày hơn các miếng gỗ tiếp theo.

Sau khi hoàn thành chiếc ghe, chủ nhà phải thu hồi các cây đinh đã đóng trên miếng “gim lô”, thợ đóng ghe phải “xảm” vào đó các cọc gỗ khác tương ứng. Tục truyền rằng nếu mất mấy cây đinh ấy thì sẽ bị nhiều điều xui xẻo.

Khi kéo ghe lên bờ để sửa chữa hoặc đại tu, người dân cúng “lên nề”, nghi thức cũng tương tự lễ nghi cúng hàng tháng. Cúng ghe để xuất hành buôn bán đầu năm, chủ ghe phải chọn ngày. Nếu đã chọn được ngày tốt nhưng vì một nguyên nhân nào đó chưa xuất hành được thì bày lễ vật trên bờ, sau đó cho ghe chạy qua chạy lại nơi đặt mâm cúng ba lần, rồi xuất hành ngày nào thì tùy ý.

Sau nghi thức cúng ghe, chủ nghe mời các ghe đậu lân cận sang uống rựơu, đờn ca tài tử, bàn bạc chuyện buôn bán làm ăn cho chuyến đi tới. Tục cúng ghe ở đồng bằng sông Cửu Long được xem là một tập tục văn hóa tâm linh, gắn chặt trong đời sống dân gian truyền thống đã vài trăm năm.

Tìm Hiểu Về Tục Thờ “Bà, Cậu” Ở Nam Bộ

Tùy theo tập quán tín ngưỡng từng vùng miền, hầu hết ngư dân, chủ phương tiện đưa rước hành khách, mua bán trên sông rạch ở các tỉnh Nam Bộ đều tin tưởng vào sự hiển linh của “Bà, Cậu”.

Đến nay có nhiều giai thoại nói về danh xưng “Bà, Cậu” với nhiều nguồn gốc, điển tích khác nhau. Có người cho rằng Bà và Cậu chỉ là một người phụ nữ tên Cậu rất linh thiêng và sống ở trên sông, biển.

Làm thuyền giấy rước “Bà, Cậu”.

Một giả thiết khác được nhiều người tán đồng là “Bà” ở đây mang tên Thiên Hậu, vị “nữ thần” này cai quản sông nước để giúp đỡ người dân khi gặp hoạn nạn, không gây bão lũ để người dân yên ổn làm ăn. Cạnh đó còn trừ khử những loại người hung ác, gian tà. Còn “Cậu” ở đây là nói về hai người con của bà tên Tài và Quý, những người luôn ở bên bà để cứu nạn những người không may gặp nạn trên sông, biển.

Có ý kiến cho rằng: Bà, Cậu được thờ trên tàu, ghe của những người làm nghề liên quan đến sông nước là đức Phật Bồ Tát, vì đây là vị thần linh gần gũi nhất với đời sống cư dân Nam Bộ. Và còn khá nhiều giả thiết về nguồn gốc của “Bà, Cậu” trong suy nghĩ người dân.

Dù hình tượng, quan niệm về “Bà, Cậu” chưa thống nhất nhưng hầu hết những người thờ cúng đều rất tin tưởng và duy trì lệ cúng rất thường xuyên. Thông thường, bàn thờ “Bà, Cậu” trên ghe, tàu luôn được đặt ở nơi trang trọng trong khoang sinh hoạt. Trên bàn thờ luôn có nhang, hoa tươi, trái cây các loại. Trước mỗi chuyến khởi hành chủ phương tiện đều thắp nhang khấn vái để được mua may, bán đắt, đi đường suôn sẻ, không gặp xui xẻo, ma quỷ đeo bám…

Một ngôi miếu thờ ở Cái Răng (TP Cần Thơ).

Nhiều người sau mỗi chuyến đi mua bán, đánh bắt có lời to còn tổ chức cúng vái “Bà, Cậu” rất trang trọng. Riêng về ngày cúng thường xuyên thường tổ chức vào ngày 16 âm lịch hàng năm với hai mục đích: cúng vái “Bà, Cậu” phù hộ cho gặp được những điều may mắn. Cạnh đó còn cúng vái những oan hồn “cô hồn cát đản” không theo quấy rối.

Về lễ vật để cúng kiến, thông thường chủ nhà sẽ cúng vịt luộc cùng các món ăn phụ khác. Lý giải vì sao phải cúng vịt mà không là loại gia súc, gia cầm khác, ông Võ Văn Tám, 67 tuổi ngụ thị trấn Sông Đốc, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau cho biết “…Sở dĩ dân miền sông nước miền Tây thường cúng Bà Cậu bằng vịt vì quan niệm con vịt luôn luôn nổi và bơi lướt nhanh trên mặt nước. “Bà, Cậu” không ăn vịt mà dùng vịt để cưỡi đi giúp các ghe, tàu mỗi khi gặp sóng to, gió lớn, vượt qua các chướng ngại để đi đến nơi về đến chốn an toàn…”.

Làm Lân trong lễ hội cúng “Bà, Cậu”.

Tùy theo đặc điểm riêng, chủ ghe, tàu ngoài việc cúng “Bà, Cậu” tại phương tiện của mình, họ còn tham gia cúng tại các cơ sở thờ tự khác như: lăng, miễu, am thờ… do chính quyền địa phương tổ chức cúng “Bà, Cậu” kết hợp với các lễ hội khác như lễ nghinh Ông ở Sông Đốc (Cà Mau); Gành Hào (Bạc Liêu); Thạnh Hải (Bến Tre); Cái Răng (TP Cần Thơ)… về ngày cúng thì mỗi nơi mỗi khác nhưng về nghi thức cúng bái thì có rất nhiều nét tương đồng. Nhiều địa phương còn tổ chức lễ cúng hàng năm rất hoành tráng thu hút rất nhiều du khách đến tham quan, thưởng lãm.

Ông Lê Quang Trinh, 88 tuổi, trưởng ban tế tự Miễu bà phường Hưng Phú, quận Cái Răng, TP Cần Thơ cho biết “…Lễ hội cúng “Bà, Cậu” tại đây tổ chức rất qui mô, kéo dài 2 đến 3 ngày với nhiều hoạt động lễ, hội và các trò chơi dân gian, tuy rầm rộ nhưng luôn tiết kiệm và không xảy ra nạn mê tín dị đoan…”.

Tập quán tôn sùng, thờ cúng “Bà, Cậu” đã trở thành nét văn hóa tâm linh vốn có tự lâu đời đã và đang được người dân vùng nước Nam Bộ duy trì cho đến nay bằng sự thành kính chân tâm.

Lễ Vật Cúng Bà Chúa Xứ Gồm Những Gì?

Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam tọa lạc nơi chân núi Sam, trước thuộc xã Vĩnh Tế, nay thuộc phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang, Việt Nam. Đây là một di tích (lịch sử, kiến trúc và tâm linh) quan trọng của tỉnh và của khu vực.

Lễ Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam được tổ chức trang trọng từ ngày 23 đến 27 tháng 4 âm lịch hàng năm, trong đó ngày vía chính là ngày 25. Các lễ chính gồm:

Lễ “tắm Bà” được cử hành vào lúc 0 giờ đêm 23 rạng 24 tháng 4 âm lịch.

Lễ “thỉnh sắc” tức rước sắc và bài vị Thoại Ngọc Hầu cùng hai phu nhân từ Sơn lăng về miếu bà, được cử hành lúc 15 giờ chiều ngày 24.

Lễ túc yết và Lễ xây chầu: Lễ “túc yết” là lễ dâng lễ vật (lễ vật chính là con heo trắng) và tiến hành nghi thức cúng Bà, lúc 0 giờ khuya đêm 25 rạng 26. Ngay sau đó, là “Lễ xây chầu” mở đầu cho việc hát bộ (còn gọi là hát bội hay hát tuồng).

Lễ chánh tế được cử hành vào 4 giờ sáng ngày 27.

Lễ hồi sắc được cử hành lúc 16 giờ chiều cùng ngày, ngay sau khi Lễ chánh tế kết thúc. Đây là lễ đem sắc và bài vị Thoại Ngọc Hầu cùng hai phu nhân về lại Sơn lăng.

Theo tín ngưỡng của người dân, nơi đây vẫn còn có những tục như xin xăm Bà, vay tiền Bà, thỉnh bùa Bà…

Kinh nghiệm viếng Chùa Bà (Châu Đốc)

Lễ vật cúng Bà Chúa xứ núi Sam. Những điều cần biết khi bạn chuẩn bị đi viếng Bà Chúa xứ núi Sam

Gần đến ngày viếng bà chúa xứ núi Sam, một trong những lễ hội lớn được công nhận lễ hội văn hóa cấp quốc gia. Có đến đây, du khách mới có thể cảm nhận được sự tâm linh của đông đảo người dân dành cho bà chúa xứ núi Sam là như thế nào…

– Trái cây – Hoa lay ơn – Nhang rồng phụng 5 tất – Đèn cầy – Gạo hủ – Muối hủ – Trà pha sẵn – Rượu nếp Hà Nội 420ml – Nước chai 500ml – Giấy cúng Bà Chúa Xứ – Bánh kẹo – Trầu cau – Chè – Xôi – Cháo trắng – Bộ Tam sên – Vịt luộc – Gà luộc – Heo quay con – Bánh bao

– Liên Hệ: 0969 69 59 19

Xót Thương Cậu Bé 6 Tuổi Cùng Ông Bà Sống Nơm Nớp Trong Căn Nhà Dột Nát

Lên 6 tuổi, cậu bé Trung không có tình yêu thương của người cha. Hàng ngày cậu bé cùng ông bà phải sống trong căn nhà dột nát, nguy cơ đổ sập bất cứ lúc nào. Khuôn mặt Trung buồn thiu khi cái đói, cái nghèo bủa vây gia đình em không lối thoát.

Con dốc nhỏ kéo dài từ cánh đồng ngô, loằng ngoằng dẫn chúng tôi đến thăm ngôi nhà của cậu bé Phan Văn Trung theo sự chỉ đường của anh Giáp Văn Thực – Trưởng thôn Gia Tiến, (xã Tân Trung, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang). Cậu bé không có cha, em là “con nhặt” của người mẹ hâm dở Phan Thị Nhung Hương (31 tuổi) gầy nhom, xấu xí.

Nhấn để phóng to ảnh

Cậu bé Trung 6 tuổi không có cha, mẹ lại không được khôn ngoan nên em chỉ biết dựa vào bà ngoại.

Nhấn để phóng to ảnh

Căn buồng nơi ông ngoại cậu bé Trung nằm với la liệt các đồ vứt đi nhặt được ở các nơi về.

Khi chúng tôi đến, cậu bé Trung khuôn mặt buồn thiu đang ở bên ông ngoại. Mấy ngày nay, ông ngoại của em ốm sốt nằm bẹp ở trong nhà vì không có tiền đi bệnh viện.

Để kiếm cái ăn, bà ngoại của em đã đi bắt cua từ sáng sớm, dặn cậu bé ở nhà trông ông nhưng em cũng chẳng biết làm gì ngoài việc quanh quẩn bên giường của ông với sự lo lắng hằn trên gương mặt non dại.

Nhấn để phóng to ảnh

Toàn cảnh ngôi nhà của cậu bé Trung với những đồ đã hỏng và nền đất mấp mô.

Bước chân vào bên trong, cảnh tượng ngôi nhà tồi tàn hiện ra trước mắt chúng tôi, nền nhà đất lồi lõm với những vũng sâu khoét to đến hơn một gang tay. Tài sản là 2 chiếc giường đã gãy gần sập xuống, một chiếc tủ không có cánh với các đồ được gom lại do những nhà khác thải ra đặt chung đống áo quần lộn xộn….

Tổ ấm ấy của Trung và ông bà là một gian nhỏ, mái lợp thủng lỗ chỗ nhìn xuyên tới cả trời. Những hôm trời nắng thì mặt trời xuyên rọi vào trong còn hôm trời mưa thì ở trong nhà cũng không khác gì ngoài sân. Xung quanh nhà 4 mảng tường bong tróc, sụt lở khắp nơi, bụi bay mù mịt.

Vì trong nền nhà mấp mô, không bàn ghế nên mọi người chỉ vào thăm ông ngoại của Trung một chút rồi ra hết cả ngoài sân đứng dù trời vẫn nóng như thiêu, như đốt. Trong lúc nhờ người đi gọi bà Tuyết ở ngoài đồng trở về, anh Thực tâm sự:

“Trong xã Gia Trung, thì hoàn cảnh của gia đình cháu Trung này là bi đát nhất. Ông bà Tuyết sinh được 2 cô con gái thì cả 2 cùng bị dở. Cô lớn là Phan Thị Hương Nhung chính là mẹ cháu Trung, cô bé là Phan Thị Hương, cả 2 chẳng biết làm ăn gì cả, bà Tuyết sai gì làm nấy nhưng mà cũng chậm chạp lắm.

Nhấn để phóng to ảnh

Bà Tuyết năm nay mới ngoài 50 nhưng trông già sọm với công việc ngày ngày đi bắt cua nuôi chồng, con và cháu.

Nhấn để phóng to ảnh

Bà tủi thân vì có đến tận 2 cô con gái nhưng đều dơ dở không biết làm gì cả.

Ông ngoại cháu Trung là Phan Văn Đức ngày trước đi phu hồ bị vôi vữa bắn vào mắt nên giờ gần như không nhìn thấy. Ông ấy cũng không được khôn nhưng được cái chăm chỉ làm lụng quanh năm. Đợt này do nắng quá, lại không có gì ăn uống nên ông vật ra ốm khiến chúng tôi cũng lo quá!”.

Vừa dứt lời tâm sự của anh trưởng thôn, cũng là khi bà Tuyết xách một chiếc xô sứt mẻ từ ngoài đồng trở về. Biết khách phải đứng hết ở ngoài sân, bà Tuyết xấu hổ không dám ngẩng mặt lên, đôi bàn tay chai sạn với chằng chịt những vết sứt sẹo cứ bám chặt vào nhau mãi không rời.

Nhấn để phóng to ảnh

Ngôi nhà của bà chẳng có gì đáng giá đến 20 ngàn đồng.

Mới ở cái tuổi ngoài 50, nhưng nhìn bà Tuyết đã già như một bà cụ. Dáng bà gầy sọp, héo hon với hai má tóp lại cùng hàm răng đã gãy gần hết. Bà Tuyết bảo: “Tôi có hẳn 2 cô con gái đấy chứ nhưng giá mà chúng bình thường như mọi người thì tôi đã được nhờ…”.

Bỏ dở câu nói, bà lại cúi đầu, im lặng. Cái đói, cái nghèo bủa vây nhiều năm qua khiến bà trở nên cùng quẫn đáng thương. Chồng ốm không có tiền đi bệnh viện, cháu thì đói khát chờ bà… Biết bao nỗi lo cùng nhau kéo đến khiến bà kiệt sức, đường cùng không lối thoát.

Nhấn để phóng to ảnh

Sự nghèo khổ của bà đến tận cùng khi không có tiền mua nổi cái kiềng nấu cơm mà phải kê 3 hòn gạch lên để nấu.

Nhấn để phóng to ảnh

Những mảng tường bong tróc, như sắp sập trong ngôi nhà của bà.

Đi vòng quanh nhà bà, điều khiến chúng tôi càng thêm hoang mang và lo lắng hơn khi nguồn nước sinh hoạt của gia đình cũng mất vệ sinh và cạn kiệt dần. Một chiếc giếng với thành được xây bằng gạch, đã vỡ nhiều viên nham nhở rêu cáu và nguy hiểm được bà múc mãi mới nổi một gàu nước đục ngầu.

Ở gần ngay đó là gian bếp với vật liệu đun là những thứ rác rưởi được đi nhặt ở khắp mọi nơi về và hoàn toàn tối thui, không có bóng điện. Đến chiếc kiềng để bắc nồi lên bếp cũng không có nên phải kê tạm 3 viên gạch…

Mọi thứ diễn ra trước mắt khiến chúng tôi một lần nữa phải giật mình vì cái sự nghèo xác xơ, không có nổi một vật dụng gì đáng giá đến 20 ngàn đồng của gia đình bà.

Ái ngại trước hoàn cảnh của gia đình, ông Nguyễn Văn Nhưỡng – Chủ tịch UBND xã Tân Trung cho biết: “Xã đã nắm bắt được hoàn cảnh gia đình của bà Tuyết từ lâu rồi và cũng có phương án hỗ trợ, tuy nhiên chỉ được phần nào thôi. Hôm nay được các anh chị nhà báo về thăm, chúng tôi cũng mong muốn cơ quan giúp cho gia đình đỡ khổ”.

Nhấn để phóng to ảnh

Không có gì để đốt, bà thường nhặt nhạnh những thứ họ vất đi để mang về làm chất đốt.

Thương bà nhưng cậu bé Trung chẳng biết làm gì hơn bởi em mới chỉ lên 6 tuổi. Gương mặt cậu bé lúc nào cũng buồn thiu, đến bữa ăn hàng ngày cũng bị đói, nói gì đến ước mơ xa hơn khi có một mái nhà lành lặn để ở.

1.Mã số 3423: Bà Nguyễn Thị Tuyết (thôn Gia Tiến, xã Tân Trung, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang)

Ngõ 2 nhà số 48 Giảng Võ, Đống Đa, Hà Nội

Tel: 024. 3. 7366.491/ Fax: 024. 3. 7366.490

Email: [email protected]

Tên TK:Báo Điện tử Dân trí

Số TK: 0451000476889

Tại: Ngân Hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Thành Công – Hà Nội.

Account Name: Bao Dien tu Dan tri

Account Number: 0451370477371

Swift Code: BFTV VNVX 045

Bank Name: THE BANK FOR FOREIGN TRADE OF VIETNAM (VietComBank)

Tên TK: Báo Điện tử Dân trí

Số TK: 129 0000 61096

Tại: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công Thương Việt Nam – Chi nhánh Hoàn Kiếm

* Tài khoản VND tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV)

Tên Tài khoản : Báo Điện tử Dân trí

Số Tài khoản : 2611 000 3366 882

Tại : Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam- Chi nhánh Tràng An

Địa chỉ : Số 11 phố Cửa Bắc, Quận Ba Đình, thành phố Hà Nội; ĐT: 0436869656.

* Tài khoản USD tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV)

Account Name : Bao Dien tu Dan tri

Account Number : 2611 037 3366 886

Swift Code : BIDVVNVX261

Bank Name : Bank for Investment and Development of Vietnam JSC,Trang An Branch

Address : No 11 Cua Bac Str.,Ba Dinh Dist.,Hanoi, Vietnam; Tel: (84-4)3686 9656.

Tên TK: Báo Điện tử Dân trí

Số TK: 0721101010006

Tại Ngân hàng TMCP Quân đội – Chi nhánh Thái Thịnh – Hà Nội

Tên TK: Bao Dien tu Dan tri

Số TK: 0721101011002

Swift Code: MSCBVNVX

Bank Name: MILITARY COMMERCIAL JOINT STOCK BANK – MCSB ( No.3, Lieu Giai str., Ba Dinh Dist., Hanoi, Vietnam)

– Tên tài khoản: Báo Điện tử Dân trí

– Số tài khoản VND: 1400206034036

– Tại Ngân hàng: Agribank CN Láng Hạ

VP Hà Tĩnh: 46 Nguyễn Công Trứ, Phường Tân Giang, TP Hà Tĩnh. Tel: 0239.3.857.122

VP Đà Nẵng: 25 Nguyễn Tri Phương, Quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng. Tel: 0236. 3653 725

VP TPHCM: số 294 – 296 đường Trường Sa, phường 2, quận Phú Nhuận, TPHCM. Tel: 028. 3517 6331 (Trong giờ Hành chánh) hoặc số hotline 0974567567

VP Cần Thơ: 53/13 Lý Tự Trọng, Q Ninh Kiều, TP Cần Thơ. Tel: 0292.3.733.269