Lễ Cúng Vong / Top 11 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Apim.edu.vn

Bài Khấn Lễ Cúng Vong Linh Ngoài Mộ

Lễ tạ mộ là gì?

Lễ cúng tạ mộ là một trong những thủ tục lễ cúng tạ mộ của người Việt để luôn nhớ tới nguồn cội, vì họ cho rằng tổ tiên ở dưới “âm” yên ổn thì con cháu trên trần gian mới có thể “an cư lạc nghiệp”. Vì vậy, cứ mỗi ngày 24 hoặc 25 tháng Chạp âm lịch mỗi năm thì nhiều gia đình thường tổ chức lễ cúng tạ mộ cuối năm này. Cúng tạ mộ là một trong những lĩnh vực khá tâm linh nên thông thường sẽ mời các thầy có chuyên môn về làm lễ cúng và hiểu biết về tâm linh để cúng.

Khi chuẩn bị xây mộ thì gia chủ cần tổ chức làm lễ khấn tạ mộ mới xây nhằm xin ý kiến và thông báo cho người đã khuất về ngôi nhà mới của họ. Còn trong trường hợp phần mộ đã được yên ổn, luôn mang đến những điều may mắn, thuận lợi cho con cháu ở trần gian thì họ thường làm văn khấn tạ mộ để tỏ lòng biết ơn ông bà tổ tiên đã phù hộ.

Với những gia chủ có tâm, có tín, khấn lễ chu đáo thì tổ tiên sẽ ban phát may mắn, sức khỏe, gia đình êm ấm, cuộc sống yên lành, công việc thuận lợi và không phải lo lắng bị ma quỷ quấy nhiễu, điều dữ hóa lành, mọi hung đều hóa cát,…

Một số loại lễ tạ mộ trong năm

Lễ tạ mộ dịp cuối năm

Lễ tạ mộ dịp đầu năm (còn gọi là lễ tạ mộ thanh minh)

Lễ tạ mộ mới xây xong

Lễ tạ mộ kết phát: đây là lễ tạ mộ phát theo phong thủy tâm linh cho các ngôi mộ đặc trưng. 

Lễ tạ mộ kết mối (còn gọi là mối đùn): lễ này cho mộ có lớp keo kiên cố để bảo vệ hài cốt. 

Lễ tạ mộ phát kết thủy – thủy tụ: hình thức tạ mộ này được thực hiện theo một cách riêng và có tác dụng giúp con cháu có nhiều điều may mắn. Theo đó, thi hài của người đã mất được bao bọc bởi lớp nước và không được cải táng. Trường hợp làm ngược lại nước sẽ bị đục và thi hài sẽ chuyển màu đen.

Lễ tạ mộ tam đại: đây là lễ tạ cúng tổ tiên 3 đời.

Lễ, văn khấn tạ mộ 3 ngày, lễ tạ mộ trong ngày giỗ

Lễ tạ mộ rằm tháng 7

Lễ tạ mộ dòng họ, dòng tộc

Tham khảo 200 mẫu mộ đá đẹp mới nhất tại Đá Mỹ Nghệ Ninh Vân – Ninh Bình:

Văn khấn tạ mộ là gì?

Như đã nói trên thì lễ cúng tạ mộ là một trong những nghi lễ của người Việt nhắm ghi nhớ những người đã khuất, tổ tiên với hy vọng mang đến một năm đầy may mắn, được tổ tiên ban ơn, gia đình thuận hòa và tăng sự hưng vượng gia đạo. Để có thể gửi những hy vọng tỏ lòng biết ơn đến “bề trên” thì phải cần đến văn khấn tạ mộ.

Vì vậy, văn khấn tạ mộ là một bài văn được biên soạn theo lĩnh vực tâm linh thường được các thầy có chuyên môn lập nên để đọc lên trong ngày tạ mộ. Đây cũng như những lời mà người ở trần gian muốn gửi đến người ở cõi âm.

Tham khảo bài viết:

Chọn ngày thế nào khi muốn thực hiện lễ tạ mộ?

Chọn ngày để tiến hành lễ tạ mộ là điều rất quan trọng mà bất cứ ai cũng cần quan tâm. Tuy nhiên, điều này còn tùy thuộc vào từng địa điểm khác nhau. Mặc dù vậy sẽ có một số lễ tạ mộ cố định cũng như các loại lễ bắt buộc phải lựa chọn ngày tốt.

1. Lễ tạ mộ cuối năm

Lễ tạ mộ cuối năm thường được chọn trong khoảng thời gian từ khi đưa ông Táo lên trời  23/12 âm lịch đến ngày cuối cùng của năm là 30 Tết Nguyên Đán. Theo đó, các gia đình sẽ tiến hành dọn dẹp các phần mộ một cách sạch sẽ. Đồng thời làm lễ tạ mộ cuối năm. Mục đích của công việc này chính là mời ông bà tổ tiên về ăn Tết. Cùng với đó là cảm ơn thần linh đã dung dưỡng phần mộ rất bình an.

2. Lễ tạ mộ mới xây cất xong

Ngày được chọn làm lễ tạ mộ mới xây xong là ngày hoàn thành xây dựng mộ phần. Tuy nhiên, bạn cũng có thể lựa chọn ngày hợp với tuổi, ngày hoàng đạo hoặc ngày gần nhất với ngày xây xong mộ.

3. Lễ tạ mộ đầu năm, lễ Thanh Minh

Lễ tạ mộ Thanh Minh được thực hiện vào ngày 3/3 âm lịch hàng năm. Bởi vậy, bạn cần phải chuẩn bị các đồ lễ, viết sớ trước ngày làm lễ.

Bên cạnh đó, các ngày lễ tạ mộ khác nhau sẽ được thực hiện vào ngày khác nhau. Ví dụ ngày giỗ gia tiên thực hiện vào ngày giỗ. Lễ tạ mộ tháng 7 sẽ làm trong các ngày khác nhau tùy thuộc ngày tốt hoặc ngày làm giỗ.

Sắm lễ và văn khấn tạ mộ

1. Lễ tạ mộ cuối năm

– Sắm lễ

Dọn dẹp khu lăng mộ: Trước khi bắt đầu làm lễ, bạn cần phải làm sạch và dọn dẹp khu lăng mộ. Thực hiện phát quang bụi rậm, cây cối, cỏ dại hoặc sơn sửa lại các vị trí đã bị hư hại. Đồng thời hãy nhớ kiểm tra xem mộ bị rắn rết, chuột… làm tổ hay không để tiến hành xử lý và lau chùi. Nếu như có phần mộ đẹp và khang trang sẽ mang đến mộ phần tốt, tổ tiên sẽ bình an và gia chủ sẽ được hưởng nhiều lộc.

Sau khi đã dọn dẹp xong phần mộ, bạn cần phải chuẩn bị phần lễ cũng như văn khấn để tiến hành lễ tạ mộ cuối năm. Mục đích của lễ này là cảm ơn thần linh và thổ địa đã che chở cho những người đã khuất. Đồng thời tạ ơn ông bà tổ tiên đã bảo vệ cho con cháu và mời ông bà về ăn Tết. Cụ thể phần lễ phải bao gồm 2 phần:

Lễ tạ ơn thần linh, thổ địa: Lễ này nên có một mâm xôi gà hoặc xôi giò. Nếu như ở nghĩa trang có miếu của thần linh thì nên bày ở đó và dâng sớ. Trường hợp không có miếu thì đặt bên cạnh mộ, khấn, vái lạy trời đất.

Lễ tạ ơn tổ tiên sẽ bao gồm:

Hương thơm

Trái cây

Hoa tươi

Trầu cau

Rượu trắng

Chè thuốc

Nến cốc

Vàng mã

Sớ tạ lễ

Một số quần áo, vật dụng cho người đã khuất

Mặc dù phần lễ sắm để tạ mộ có thể đơn giản và không quá cầu kỳ nhưng điều quan trọng bạn cần phải thành tâm. Đồng thời một lòng hướng về người đã mất.

Chú ý, nếu phần mộ nhỏ thì cần phải chuẩn bị thêm bàn, thêm mâm để có thể bày lễ khấn, cũng như đặt bát hương sao cho đúng và phù hợp nhất. Nếu vừa có nơi thờ thần linh riêng, Thổ Địa riêng buộc phải bày lễ khấn ở hai nơi và phần mã đã chuẩn bị sẽ được bày ở nơi thờ thần linh Thổ Địa. Ngoài ra, tùy thuộc vào phong tục tập quán của từng vùng miền sẽ chuẩn bị nhiều đồ hơn hoặc ít đồ hơn để thích ứng và phù hợp.

2. Lễ tạ mộ mới xây xong

– Sắm lễ

Phần lễ thần linh

Phần lễ cho thần linh sẽ bao gồm: xôi, thịt luộc, vàng và tiền xu. Lễ này sẽ được đặt ở nơi có bàn thờ thần linh trong nghĩa trang. Trường hợp không có bàn thờ riêng thì sẽ đặt bên cạnh lễ gia tiên.

Phần lễ gia tiên

Phần lễ gia tiên sẽ được bày ở những nơi bằng phẳng và trên phần mộ vừa xây xong. Trường hợp mộ nhỏ quá không bày được lễ thì có thể sắm thêm bàn. Theo đó, phần lễ cúng tạ mộ mới xây sẽ tùy thuộc vào phong tục của từng địa phương và tùy điều kiện của gia đình để sắm lễ. Điều quan trọng nhất gia chủ cần phải thành tâm. Cụ thể như sau:

– Phần lễ vật cúng tạ mộ bao gồm:

Hương thơm và hoa tươi ( nên chọn một số loại hoa như: hồng đỏ, cúc, bách hợp trắng hoặc loài hoa mà người khuất thích): 10 bông

Trầu cau: 3 lá, 3 quả hoặc cành dài và đẹp

Trái cây: 1 mâm ngũ quả

Xôi trắng: 1 mâm trên bày gà luộc (gà trống thiến) cả con hoặc giò nạc.

Rượu trắng: nửa lít, 5 cái chén, 10 lon bia, 2 bao thuốc lá, 2 gói chè (1 lạng/gói) 2 nến cốc màu đỏ.

– Phần lễ cúng mã bao gồm:

1 cây vàng hoa đỏ

5 con ngựa với 5 màu khác nhau là: đỏ, xanh, trắng, vàng, chàm, tím. 5 bộ mũ, áo, hia loại to và đồ đi kèm là cờ lệnh, kiếm, roi.

Mỗi con ngựa ở trên lưng sẽ có 10 lễ vàng tiền. Mỗi lễ sẽ bao gồm:tiền xu, vàng lá, tiền âm phủ.

4 đĩa để tiền vàng riêng: 

1 đĩa 3 đinh vàng lá, 1 đinh xu tiền. 

1 đĩa 1 đinh vàng lá + 7 đinh xu tiền. 

1 đĩa 9 đinh vàng lá +1 đinh xu tiền. 

1 đĩa 1 đinh xu tiền

Quần áo cho người trong mộ được chọn tùy theo vong linh là nam/nữ, phụ lão/ấu nhi tương ứng.

Bên cạnh những lễ đã chuẩn bị trên, bạn cũng có thể sắm thêm tiền âm phủ, vàng lá tiền xu…

Một số mẫu văn khấn tạ mộ khác:

(Tạ mộ để xin phép Thổ thần Thổ địa nơi đó cho Ông bà về ăn Tết)

Ngoài ra, cũng có rất nhiều bài văn khấn tạ mộ khác nhau, tùy theo vùng miền hoặc theo từng thầy. Hoặc mọi người có thể tìm kiếm trên mạng với các từ khóa như văn khấn thần linh ngoài mộ, văn khấn tạ mộ ngoài đồng,… để có thể lựa chọn và đọc trong buổi khấn sao cho phù hợp nhất.

Lưu ý về lễ tạ mộ

Lễ tạ mộ được thực hiện nhằm tạ ơn các vị thần linh, ông bà và cầu mong những điều may mắn, bình an và phát lộc. Chính vì vậy mà những người thực hiện cần phải chuẩn bị kỹ lưỡng về lễ vật cũng như bài văn cúng. Tuy nhiên, bạn cần phải chú ý một số điểm để hạn chế những điều không tốt có thể xảy đến. Đồng thời đảm bảo được sự kính trọng đối với những người đã khuất:

Khi tạ mộ gia tiên cần quan tâm đến phần mộ của dòng họ: Đây là nơi thờ cúng những người có mối quan hệ trên 5 đời với gia chủ. Bởi vậy, bạn nên chú ý thắp hương cho cả những phần mộ xung quanh.

Người nên đi tạ mộ: là những cụ già lo việc cúng bái khấn tổ tiên

Người không nên đi tạ mộ: đây là việc làm thể hiện sự thành kính và rất linh thiêng. Hơn nữa rất nhiều ma quỷ, hơi lạnh nên một số người nếu tham gia có thể ảnh hưởng đến sức khỏe. Cụ thể như sau:

Những người tình trạng sức khỏe không tốt như: ốm yếu, bệnh tật, phụ nữ mang thai

Trẻ em dưới 10 tuổi

Phụ nữ đang trong thời kỳ kinh nguyệt

Không nên đi tạ mộ quá sớm, sương gió sẽ không tốt cho sức khỏe nhất là khi có trẻ nhỏ.

Không nên đi quá muộn vì âm khí nhiều không tốt cho sức khỏe.

Không nên làm quá to, quá linh đình

Không ăn đồ cúng ở ngoài nghĩa trang sẽ mất vệ sinh và lạnh bụng.

Không vui đùa ngoài nghĩa trang, phần mộ

Khi tạ mộ về cần hơ lửa hay tắm nước gừng để xua tan hơi lạnh và loại bỏ âm khí.

Mời bạn xem video về văn khấn tạ mộ sau đây:

Các mẫu mộ xây đẹp

Làm Giỗ, Cúng Vong… Ai Ăn? Vong Linh Hưởng Thụ Như Thế Nào?

Chúng ta thường hay cúng vong rất nhiều lễ, đồ chay có, đồ mặn có…Vậy liệu rằng vong hưởng thụ ra sao? Có nhận được những gì ta cúng hay không?

Sau khi một người đã mất, vong hồn của họ có dùng được đồ ăn do người thân cúng hay không?

Sau khi một người đã mất, vong hồn của họ có dùng được đồ ăn do người thân cúng hay không? Nhiều người cho rằng cần phải cúng vì họ dùng được nhưng cũng có ý kiến ngược lại.

Chết rồi thì sao mà ăn được?

“Tôi cho rằng việc cúng cơm hay là làm giỗ của các gia đình hiện nay cũng chỉ là nhằm tưởng nhớ và sự thành tâm của người còn sống đối với người mất. Chứ chết rồi thì sao mà ăn được? Chúng ta vẫn thấy thức ăn cúng xong vẫn còn đó thì người mất đã ăn cái gì?” Anh Hoàng Trọng Tín (quận Bình Thạnh) tâm sự.

Với người đã mất nếu làm mâm cơm cúng, họ có thọ hưởng được hay không?

Trái với quan điểm của anh Tín, chị Nguyễn Thị Xuân (quận Gò Vấp) lại cho rằng: “Người mất thì vong hồn của họ vẫn còn, họ vẫn biết đến việc ăn uống, họ ăn hương hoa… Chứ không thể nói là họ không ăn gì cả.”

Còn chị Diệu Thanh (Đồng Nai) thì băn khoăn việc có nên cúng cơm sau 49 ngày hay không?: “Mẹ mất được 5 tuần, em gái nói rằng sau 49 ngày (chung thất) sẽ không cúng cơm nữa. Vì theo kinh Địa Tạng, sau 7 tuần thì thần thức của hương linh sẽ theo nghiệp mà thọ sanh. Vậy có nên cúng cơm nữa không?…

Nếu làm quỷ thần vẫn thọ nhận cơm cúng

Trao đổi về điều này, thầy Thích Phước Thái cho rằng: “Theo tinh thần của kinh Địa Tạng và quan điểm Phật giáo Bắc truyền, một người khi mất đi, thần thức của họ (thân trung ấm) hầu hết đều phải trải qua giai đoạn trung gian thường là khoảng 49 ngày để tìm cảnh giới tái sanh.

Trong thời gian thọ thân trung ấm, hương linh vẫn thọ dụng được tất cả những vật phẩm mà thân nhân dâng cúng (thường là cơm, nước, hương, hoa) nhưng chỉ hưởng mùi vị của thức ăn mà thôi. Vì thế, thân trung ấm còn được gọi là hương ấm (thọ dụng mùi hương của thực phẩm).

Cho nên trong vòng 49 ngày, thân nhân cần dâng cúng cơm nước hàng ngày cho người chết để họ được no đủ, đặc biệt vào những ngày tuần thất thường cúng kính trang trọng hơn (như đến chùa hoặc thỉnh chư Tăng về nhà làm lễ cầu siêu cho người quá vãng).

Chúng ta là người trần mắt thịt nên không thể biết được thân nhân sau khi chết tái sanh về đâu. Trong khi loài quỷ thần vẫn hưởng được đồ cúng vì thế việc dâng cơm nước vẫn nên thực hiện

Chúng ta là người trần mắt thịt nên không thể biết được thân nhân sau khi chết tái sanh về đâu. Trong khi loài quỷ thần vẫn hưởng được đồ cúng vì thế việc dâng cơm nước vẫn nên thực hiện

Sau 49 ngày, khi thần thức tìm được cảnh giới tái sanh, thường thì họ sanh về một trong sáu cõi của lục đạo (trời, a tu la, người, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục) và từ đây, sự thọ dụng của họ có khác biệt.

Ví dụ như, nếu thần thức sanh vào cõi trời thì họ sẽ không ăn thực phẩm của cõi người vì thực phẩm ở cõi trời thượng vị hơn rất nhiều lần. Hoặc nếu họ đọa vào địa ngục thì cũng không thể thọ dụng được thực phẩm của loài người vì bị hành hạ, phải ăn hòn sắt nóng, uống nước đồng sôi, chịu nhiều đau khổ cùng cực …

Duy chỉ có các chúng sanh trong loài quỷ thần thì vẫn có thể “ăn” được những phẩm vật do thân nhân dâng cúng.

Ngoài ra việc làm cỗ dâng cúng cha mẹ, ông bà, tô tiên đã khuất của người Việt còn nhằm thể hiện tấm lòng thành của con cháu đối với người đã khuất. Do đó, để tưởng niệm người thân. Chính vì thế cứ vào các ngày giỗ hoặc lễ Tết thì các gia đình thường làm mâm cơm cùng hoa trái để cúng kính ông bà và tổ tiên.

Bên cạnh đó chúng ta là người trần mắt thịt nên không thể biết được thân nhân của mình sau khi chết tái sanh về đâu. Trong khi loài quỷ thần vẫn hưởng được đồ cúng vì thế việc dâng cơm nước vẫn nên thực hiện.

Những gia đình nào có người thân mất thì trong 49 ngày nên cúng cơm hằng ngày, còn vào các ngày lễ tiếp theo như tiểu tường, đại tường hay ngày kỵ giỗ hàng năm thì thân nhân cần phải làm mâm cơm cúng giỗ. Có điều không nên quá câu nệ vào hình thức.

Cách làm mâm cơm cúng vong

Nghi cúng cơm này truyền thừa trong dân gian, do ông bà từ ngày xưa bày ra. Đây là một tập tục có từ ngàn xưa.

Khi cúng để 3 chén cơm, một chén chính giữa phải đầy cơm và 2 chén 2 bên thì lưng. Chén cơm và đôi đủa ở giữa là để cúng cho hương linh mới chết, còn 2 chén và 2 chiếc đủa 2 bên là để cúng cho 2 bên vai giác, tức là tả mạng thần quang và hữu mạng thần quang.

Thường là để cúng 3 chén, 6 chén hoặc 9 chén, chớ để 5 chén là sai. Lý do để 2 chiếc đủa 2 bên, ý nói rằng, ma cũ thường ăn hiếp ma mới, nên chỉ để một chiếc mà không để nguyên đôi. Nếu để nguyên đôi, thì hương linh mới chết đó khó có thể ăn được trọn vẹn, mà bị các cô hồn giành giật ăn hết vậy.

Cách thức cúng cơm này không phải là nghi thức của Phật giáo, mà là theo tục lệ tín ngưỡng nhân gian ngày xưa bày nay làm lại mà thôi.

Ngày Lễ Vu Lan Có Phải Là Lễ Xá Tội Vong Nhân?

BNEWS Vào ngày Rằm tháng Bảy hàng năm, các gia đình thường chuẩn bị 2 mâm cúng cho lễ Vu lan và lễ Xá tội vong nhân. Nhưng liệu hai lễ này có phải là một và nguồn gốc ra sao thì ít ai rõ.

Hàng năm, cứ đến Rằm tháng Bảy âm lịch, người dân cả nước lại sắm sửa những mâm đồ lễ cho ngày lễ Vu Lan (lễ báo hiếu) và lễ Xá tội vong nhân (hay còn gọi là cúng cô hồn, “mở cửa địa ngục”). Đây là một trong những nét văn hóa truyền thống của người Á Đông.

Trên thực tế, 2 lễ đều được cúng vào ngày Rằm tháng Bảy, song xuất phát từ những điển tích riêng biệt. Theo Giáo hội phật giáo Việt Nam, lễ Vu Lan là để cầu siêu cho cha mẹ nhiều đời được siêu thoát, còn lễ Xá tội vong nhân là để cúng cho nhưng vong hồn không nơi nương tựa, không người thờ cúng. Cách chuẩn bị lễ vật cúng Rằm tháng Bảy theo văn hóa truyền thống

Vào ngày Rằm tháng Bảy hàng năm, các gia đình thường chuẩn bị 2 mâm đồ lễ: một mâm cúng tổ tiên tại bàn thờ và một mâm cúng chúng sinh (cúng cô hồn) đặt ở sân trước nhà hoặc trên vỉa hè.

Trên mâm cúng tổ tiên, gia đình bày cỗ mặn, tiền vàng và những vật dụng cá nhân dành cho người cõi âm làm bằng giấy (vẫn gọi là đồ hàng mã) những mong người thân đã mất có được một cuộc sống tiện nghi, đầy đủ ở cõi âm giống như người dương thế.

Trên mâm cúng chúng sinh, lễ vật gồm có: quần áo chúng sinh bằng giấy nhiều màu, các loại bỏng gạo, ngô khoai, bánh kẹo, cháo trắng hoặc cháo hoa, tiền vàng, nước lã hoặc rượu, cốc gạo trộn lẫn với muối (cốc này sẽ được rắc ra vỉa hè hoặc sân nhà khắp tứ phía sau khi cúng xong) và còn có thể cài thêm cả chút tiền lẻ.

Lễ này thường được làm vào ban ngày, tránh làm vào xẩm tối vì lúc này mặt trời đã lặn, cửa âm phủ đã đóng.

Ngoài ra, vào ngày này, tại các chùa người ta cũng làm lễ phóng sinh, thả chim, thả cá về với môi trường sống của chúng.

Trong ngày lễ Vu Lan, vốn được coi là ngày dành cho mẹ, những người có mẹ còn sống sẽ cài một bông hồng đỏ lên áo và những người mẹ đã mất sẽ đeo một bông hồng trắng, tới chùa cầu kinh để linh hồn mẹ được an lành, siêu thoát.

Việc phân biệt màu sắc hoa này còn có một ý nghĩa nhân văn sâu sắc là phải biết trân trọng những gì mình đang có (cha, mẹ, người thân) và nhắc nhở mỗi người phải luôn ghi nhớ công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ.

Truyền thuyết về nguồn gốc ngày lễ Vu Lan và ngày Xá tội vong nhân

Lễ Vu Lan mang tính chất là ngày lễ báo hiếu – một trong những lễ vô cùng quan trọng của Phật giáo. Xuất phát từ sự tích về Bồ tát Mục Kiền Liên đại hiếu đã cứu mẹ của mình ra khỏi kiếp ngạ quỷ. Vu Lan là ngày lễ hằng năm để tưởng nhớ công ơn cha mẹ (và tổ tiên nói chung) – cha mẹ của kiếp này và của các kiếp trước.

Theo kinh Vu Lan thì ngày xưa, Mục Kiền Liên đã tu luyện thành công nhiều phép thần thông. Mẫu thân ông là bà Thanh Đề đã qua đời, ông tưởng nhớ và muốn biết bây giờ mẹ như thế nào nên dùng mắt phép nhìn khắp trời đất để tìm. Thấy mẹ mình, vì gây nhiều nghiệp ác nên phải làm ngạ quỷ, bị đói khát hành hạ khổ sở, ông đã đem cơm xuống tận cõi quỷ để dâng mẹ.

Tuy nhiên do đói ăn lâu ngày nên mẹ của ông khi ăn đã dùng một tay che bát cơm của mình đi tránh không cho các cô hồn khác đến tranh cướp, vì vậy khi thức ăn đưa lên miệng thức ăn đã hóa thành lửa đỏ.

Mục Liên quay về tìm Phật để hỏi cách cứu mẹ, Phật dạy rằng: “dù ông thần thông quảng đại đến đâu cũng không đủ sức cứu mẹ ông đâu. Chỉ có một cách nhờ hợp lực của chư tăng khắp mười phương mới mong giải cứu được. Ngày rằm tháng bảy là ngày thích hợp để vận động chư tăng, hãy sắm sửa lễ cúng vào ngày đó”.

Làm theo lời Phật, mẹ của Mục Liên đã được giải thoát. Phật cũng dạy rằng chúng sinh ai muốn báo hiếu cho cha mẹ cũng theo cách này (Vu Lan Bồn Pháp). Từ đó ngày lễ Vu Lan ra đời.

Theo tín ngưỡng dân gian, lễ Xá tội vong nhân là đến ngày Rằm tháng Bảy, những vong hồn còn lang bạt nơi trần gian chưa về với cõi âm sẽ được bắc cầu cho siêu độ. Cũng có quan điểm cho rằng đây là ngày cõi âm mở cửa địa ngục để các linh hồn được siêu thoát, về cõi trần để tái sinh.

Để cho các vong hồn này không quấy nhiễu đời sống và có thể siêu thoát thì người ta cúng cháo loãng, gạo, bỏng, muối…

Truyền thuyết khác nói rằng, phật A Nan Đà khi đang ngồi trong tịnh thất thì có một con quỷ miệng lửa (diệm khẩu) hiện lên báo, 3 ngày nữa ông sẽ chết và hóa thành quỷ đói. Cách duy nhất để sống đó là cúng cho bọn quỷ đói thức ăn để được tăng thọ.

Ngài còn được Phật truyền cho bài chú “Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Ðà La Ni”, đem tụng trong lễ cúng để được thêm phước./.

Nghi Cúng Cơm Vong

Tang Chủ tựu vì … Lễ tam bái … Bình thân giai quỳ.

Tây Phương Tịnh Độ bạch Liên khai, Linh giả tùng tư quy khứ lai. Nhất niệm hoa khai thân kiến Phật, vĩnh vô bát nạn cập vô xâm.

XƯỚNG:

I). HƯƠNG HUÊ THỈNH:

* Nam mô nhứt tâm phụng thỉnh …

– Tiền tràng phan hậu bảo cái, Quan Âm Như Lai tiếp dẫn Tây Phương nguyện. Đại Hùng, Đại Lực, Đại Thế Chí Bồ Tát giáng hạ chứng minh. Tiếp triệu phục vì Vong … Nhứt vị Thần (Chánh) Hồn.

– Duy Nguyện: Trăm năm ân ái nay ly biệt, hôm sớm vào ra bặt bóng hồng. Âm dương chia cách đành đôi ngã, nặng nợ tào khang một tấm lòng.

– Tang Chủ kiền thành, tửu châm sơ tuần … Lễ nhị bái … Bình thân giai quỳ.

II). HƯƠNG HUÊ THỈNH:

* Nam mô nhứt tâm phụng thỉnh …

– Bi nguyện sở tùng cứu thân khổ, phân thân biến độ thật nan lường. Địa Ngục vị không bất thành Phật, ngã kim khể thủ đại thệ vương. Tiếp triệu phục vì Vong … Nhứt vị Thần (Chánh) Hồn.

– Duy Nguyện: Sang cho mấy cũng rời thể xác, quý cho bao cũng biến mất ngày mai. Sướng cho bao cũng lao khổ đêm ngày, vui cho lắm cũng dường như sương tuyết.

– Tang Chủ kiền thành, tửu châm nhị tuần … “Xuân nữ”. Lễ nhị bái … Bình thân giai quỳ.

– Than ôi! Chiều xuống trên hoa thôn, người đi tê tái hồn. Bóng Trăng soi lờ lạt, tiếng dế khóc hoàng hôn.

– Hỡi ơi! Vinh hoa như tuyết giá, công danh giống hệt giấc mơ xa. Sanh bằng tỉnh ngộ nương về Đạo, Tu đắc Niết Bàn ấy thật là. Tiếp triệu phục vì Vong … Nhứt vị Thần (Chánh) Hồn.

– Tang Chủ kiền thành, tửu châm tam tuần … “Lớp nam”. Lễ nhị bái … Bình thân giai quỳ.

– Ô hô! Ơn xưa nhớ mãi, Tang mới đau hoài, than vì thể xác phôi pha, ngại thấy Kim Quan tàn tạ. Xuôi tay từ giả, thiêm thiếp ra đi. Tiếp triệu Hương Linh quay về bờ Giác.

* Tang Chủ tâm thành tấn phạn.

Nẳng mồ tát phạ đác tha nga đa, phạ lồ chỉ đế. Án tam bạt ra, tam bạt ra hồng. (3 lần).

Nẳng mồ tô rô bà da, đác tha nga đa da, đát điệt tha. Án tô rô, tô rô, bác ra tô rô, bác ra tô rô, ta bà ha. (3 lần).

Án nga nga nẳng tam bà, phạ phiệt nhựt ra hồng. (3 lần).

– Bát vàng cơm Hương Tích, Bình ngọc nước Triều Châu. Đầy vơi mùi Thiền vị, Con Cháu nguyện cúi đầu.

– Trăm hạnh Hiếu là gốc, muôn đức Hiếu là nguồn. Hay Thích tử Hiền tôn, Thần hay Người đồng trọng “Lớp trở” tâm thành, lễ vật, đủ đầy. Mong rằng, hồn Mẹ, về đây thọ dùng. Cơm canh lễ vật muôn trùng, chứng cho Con Cháu dâng cơm cúng dường.

– Tang Chủ kiền thành, trà châm chung tuần. Lễ nhị … bái.

– Tam tuần viên mãn, sở dĩ Kim Ngân phần hóa.

– Nẳng mồ a di đá bà dạ, đá tha già đá dạ, đá địa dạ tha, a di lị đô bà tỳ, a di lỵ đá tất đam bà tỳ, a di lỵ đá tỳ ca lan đế, a di lỵ đá tỳ ca lan đá, già di nhị già già na, chỉ đá ca lệ ta bà ha.