Trên mảnh đất chữ S này hội tụ nhiều tinh hoa tôn giáo. Nhưng có lẽ một trong những tôn giáo lâu đời nhất với sức sống bền bỉ, đó là đạo Phật.
Với sự phát triển hàng ngàn năm cùng nhiều hình thức tông môn chi phái, Phật giáo đã thu hút số lượng các tín đồ đông đảo tham gia.
Trong đó, Phật giáo Hòa Hảo là một trong những tôn giáo nội sinh, có tầm ảnh hưởng lớn trong khu vực miền Tây , và trở thành là tôn giáo có số tín đồ đông thứ 4 tại Việt Nam.
Để giúp mọi người hiểu rõ hơn về Phật giáo Hòa Hảo, cơ sở điêu khắc tượng Phật Trần Gia xin cung cấp các thông tin đầy đủ, chính xác, rõ ràng về tông phái này.
XEM THÊM TƯỢNG PHẬT ĐẸP DO ĐIÊU KHẮC TRẦN GIA TÔN TẠO
1/ Phật giáo Hòa Hảo là gì?
Phật giáo Hòa Hảo là một tông phái Phật giáo chính thống do Đức Thầy tục danh Huỳnh Phú Sổ sáng lập năm 1939.
Mục đích của Phật giáo Hòa Hảo là giúp nhân dân Học Phật tu Nhân hành thiện, chủ trương tu hành tại gia, giải trừ mê tín dị đoạn.
Đây chính là một tôn giáo nội sinh mang đậm tính dân tộc, ảnh hưởng tới Nam Bộ và phù hợp với mọi tầng lớp bình dân.
Phật giáo Hòa Hảo là một tông phái thu hút khá nhiều tín đồ
2/ Phật giáo Hòa Hảo ra đời khi nào?
Phật giáo Hòa Hảo xuất hiện tại làng Hòa Hảo, tỉnh Châu Đốc nay thuộc tỉnh An Giang vào năm 1939 do đức thầy Huỳnh Phú Sổ sáng lập.
Nên nhiều người hiện nay vẫn hay gọi Phật giáo Hòa Hảo An Giang là do nơi khởi nguồn của tông phái này.
Nói về hoàn cảnh lúc đó là đất nước bị xâm chiếm bởi hai thế lực là Pháp- Nhật. Xã hội loạn lạc, Phật giáo đứng trước sự áp lực của văn hóa phương Tây .
Hầu hết mọi người dân đều nghiêng về Tây học, nho giáo trở nên lỗi thời, các ông đồ và thầy sư đều tìm lối thoát cho mình.
Thời điểm đó Phật giáo tại chùa chiền bị biến tướng chỉ phục vụ cho ma chay, các sư biến thành thầy cúng.
Càng ngày Phật giáo càng chìm đắm trong mê tín. Trước tình hình đó, Đức Huỳnh Phú Sổ với sứ mệnh Thiên Cơ đứng ra hành đạo, lập đạo và truyền đạo.
Ngài Huỳnh Phú Sổ được gọi là Thầy Tư Hòa Hảo, con của ông Huỳnh Công Bộ và Bà Lê Thị Nhậm. Là một gia đình trung lưu, được nhiều uy tín với người dân địa phương.
Khi còn nhỏ, học đến bậc tiểu học thì ông đau ốm liên miên nên đành phải rời nhà trường để dưỡng bệnh. Từ 15 đến 18 tuổi, không có một lương y nào trị dứt được các cơn đau của ông.
Phật giáo Hòa Hảo do Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ sáng lập
Năm 1939, sau khi cùng với thân phi viếng các am động miền Thất Sơn, Tà Lơn, và ông chính thức được đại ngộ.
Sau đó ông mở Đạo khi chưa tròn 20 tuổi, Và nơi tổ chức khai đạo là gia đình ông. Đồng thời ông lấy tên ngôi làng để đặt tên cho tôn giáo mới: Phật Giáo Hòa Hảo. Ông được các tín đồ suy tôn và gọi là Đức Thầy, Đức Tôn Sư.
Đức Thầy cho biết mình là bậc : Sinh nhi tri, nhìn rõ được quá khứ và tương lai. Xuống hạ dưới có nhiệm vụ truyền bá cho dân chúng tư tưởng Bửu Sơn Kỳ Hương, khôi phục lại Phật giáo, cứu độ chúng sinh thoát khỏi vòng mê mị biển khổ.
Ông bắt đầu công việc chữa bệnh bằng các bài thuốc nam do ông kê toa từ lá cây, nước lá, giấy vàng đồng thời truyền dạy đạo lý bởi những bài sám giảng ( sấm giảng) do ông soạn.
Những bài sám giảng này với nội dung cốt lõi là giáo lý của Đức Phật Thích Ca, đồng thời gần gũi với mọi người dân ở Nam Bộ lúc bấy giờ bởi nhờ áp dụng lối văn thơ dễ hiểu, bình dị để truyền.
Vừa chữa bệnh vừa truyền giáo. Nhờ vậy mà Phật giáo Hòa Hảo phát triển rộng rãi khắp miền Tây Nam Bộ.
Phật giáo Hòa Hảo phát triển ở miền Tây Nam Bộ
3/ Giáo lý phật giáo Hòa Hảo ( sấm giảng Phật giáo Hòa Hảo ):
Giáo lý Phật giáo Hòa Hảo được thể hiện rõ ràng trong các bài sấm kệ của ngài Huỳnh Phú Sổ soạn thảo dựa trên sự tiếp thu của tư tưởng Bưu Sơn Kỳ Hương của Phật Thầy Tây An, kết hợp với quan điểm đạo đức Nho giáo, Lão giáo và xu hướng của phong trào chấn hưng Phật giáo.
Phật giáo Hòa Hảo sấm giảng do ngài Huỳnh Phú Sổ biên soạn gồm 2 phần là: Sấm giảng giáo lý Phật giáo Hòa Hảo và thi Văn giáo lý gồm có 6 quyển:
Giáo lý của Phật giáo Hòa Hảo do chính đức thầy Huỳnh Phú Sổ biên soạn
Sấm giảng Phật giáo Hòa Hảo quyển 1: Chính là sấm giảng khuyên người đời tu niệm. Được viết theo lối văn lục bát, dài 912 câu.
Sấm giảng Phật giáo Hòa Hảo quyển 2: Kệ dân của người khùng. Được viết theo lối văn thất ngôn trường thiên, dài 476 câu.
Sấm giảng Phật giáo Hòa Hảo quyển 3 : là Phật giáo Hòa Hảo Sám Giảng. Được viết theo lối văn lục bát, dài 612 câu.
Sấm giảng Phật giáo Hòa Hảo quyển 4 là Giác mê tâm kệ. Viết theo thể văn thất ngôn trường thiên, dài 846 câu.
Sấm giảng Phật giáo Hòa Hảo quyển 5: Khuyến thiện. Với độ dài 776 câu, được viết kết hợp thể thơ lục bát đoạn đầu và đoạn cuối, thể thất ngôn trường thiên ở đoạn giữa.
Sấm giảng Phật giáo Hòa Hảo quyển 6: Những điều sơ lược cần biết của kẻ tu hiền. Được viết theo lối tản văn, trình bày tôn chỉ, giới luật của Đạo.
Phần thứ hai: Thi Văn Giáo Lý. Gồm hơn 200 bài thơ do ngài viết từ năm Kỷ Mão (1939) đến năm Đinh Hợi (1947).
Nội dung chính của giáo lý Phật giáo Hòa Hảo có thể tổng kết thành 2 phần là Học Phật và Tu Nhân.
Đối với “Học Phật” đều lấy giáo lý đạo Phật làm nền tảng và có giản lược, thêm bớt một số. Phần này chủ yếu khuyên các tín đồ ăn ở ngay thẳng.
Có 3 pháp môn chính là Ác pháp, Chân pháp và Thiện pháp
Đối với “Tu Nhân” khuyên các tín đồ phải “ tứ ân hiếu nghĩa” gồm: Ân tổ tiên cha mẹ, ân đất nước, ân đồng bào nhân loại, ân tam bảo gồm Phật, Pháp, Tăng.
Phật giáo Hòa Hảo khuyên tín đồ phải vừa học Phật vừa tu nhân để tạo công đức. Nhờ công đức để thành hiền nhân.
Việc tu hành cần phải dựa trên đạo làm người. “Thiên kinh vạn điển, hiếu nghĩa vi tiên” (Nghĩa là học Phật mà không tu nhân thì vô nghĩa)
Kinh Phật giáo Hòa Hảo sám giảng đã để lại nhiều tinh hoa cho các tín đồ tu tập. Một trong những lời khuyên răn mà các tín đồ thường phải lưu tâm khắc cốt là Phật giáo hòa hảo 8 điều ngăn cấm được nằm ở phần “Lời khuyên bổn đạo” trong quyển Trung phần 1 của chú Giải sám giảng.
4/ 8 điều răn cấm Phật giáo Hòa Hảo như sau:
Đối với những người khi đặt chân vào cửa Đạo, bất kỳ ai cũng phải chuyên trì giới luật: hàng cư sĩ giữ Ngũ giới, hàng xuất gia như tỳ kheo giữ 250 giới, tỳ kheo ni giới 348 giới.
Với Phật giáo Hòa Hảo khuyên các tín độ giữ gìn để không vi phạm Phật Giáo Hòa Hảo 8 điều ngăn cấm:
Điều thứ nhất:
Phải lánh xa Tứ đồ tường tức như: tửu, sắc, tài, khí. Nếu mê đắm thì cuộc đời trụy lạc, hư hỏng, bê tha, nhơ nhuốc. Nếu thắng được thì trở thành con người tốt đẹp: “Người tu hành phải trừ nghiệp chướng,
Với bốn ma mới đặng an nhàn”.
Phải ăn ở đúng Đạo lý và trọn vẹn ba giềng mối lớn Tam Cang và Ngũ Thường để toàn phần Nhân đạo.
Tam Cang: là ba giềng mối lớn gồm: vua tôi, cha con, chồng vợ. Đối với người chưa có gia đình thì: Vua tôi, cha con, sư đệ. Nghĩa là phải đối xử:
Một công dân thì tận trung với đất nước
Một người con thì phải hiếu thảo với cha mẹ
Vợ chồng thì ân nghĩa song toàn
Sư đệ: thầy tận tâm dạy dỗ, trò phải tôn kính phụng hành
Ngũ thường: Đức thầy có răn dạy: :“Ngũ luân lễ nghĩa năm hằng” bao gồm Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
Nhân chính là lòng hiếu đạo, thương người, tận tâm giúp đỡ người khác, không phân biệt.
Nghĩa: Lòng tốt, làm việc phải có ích cho mọi người, theo đạo lý, không vụ lợi.
Lễ: Phải kính trên, nhường dưới từ cách chào hỏi đối xử với mọi người, luôn tôn kính với Phật, Trời, Thần, Thánh.
Trí: Đó là trước khi nói hay làm việc phải dùng trí để suy xét cẩn thận bằng sự ngay chánh.
Tín: Đó chính là sự chân thật với đạo lý chân chính, thầy Tổ sáng lành, bạn bè trung thực, chung thủy.
Khi chúng ta hành được Ngũ Thường sẽ không vi phạm Ngũ giới bởi:
Nếu hành được chữ Nhân thì không Sát sinh
Nếu hành được chữ Nghĩa thì không Đạo tặc
Nếu hành được chữ Lễ thì không Tà dâm
Nếu hành được chữ Trí thì không nhiễm: tửu, sắc, tài, khí
Nếu hành được chứ Tín thì không vọng ngữ .
Các tín đồ phật giáo Hòa Hảo cần trì 8 điều điều răn
Điều thứ hai:
Không nên lười biếng, phải cần-kiệm, sốt sắng, lo làm ăn và lo tu hiền chân chất, không nên gây gổ với nhau và hãy tha thứ tội lỗi cho nhau khi nóng giận.
Ý của Đức thầy là phải bỏ tính lười biếng, siêng năng tiết kiêm. Nếu không tiết kiệm thì làm được bao nhiêu cũng phung phí.
Tiết kiệm không phải hà tiền mà là biết cách tiêu tiền, việc nào đáng và đúng thì tiêu, còn không thì dành cho việc công ích.
Đồng thời phải lo tu hành nhưng vẫn phải làm ăn nếu không sẽ không có tiền của sinh sống và giúp đời, cũng không thể an tâm tu niệm .
Ngoài ra, không nên oán hận, hiềm khích với mọi người dù người trong gia đình, dòng họ hay ngoài xã hội.
Mọi người cần mở lòng yêu thương, khoan dung với những kẻ lầm đường lạc lối.
Điều thứ ba:
Ta chẳng nên ăn xài chưng dọn cho thái quá, lợi dụng tiền tài mà quên nhân nghĩa và đạo lý, đừng ích kỷ, xu nịnh kẻ giàu sang, phụ người nghèo khó .
Đức thầy khuyên răn tín đồ không ăn xài phung phí, chưng diện lòe loẹt từ trang phục cho đến nhà cửa, nên sống thanh đạm, có thời gian thì tu học, dư tiền thì bố thí giúp đời.
Đức thầy cũng khuyên không nên ích kỷ, hạm muốn lợi ích riêng tư mà nghĩ đến việc lợi dụng tiền của, lợi dụng lòng tốt của người khác, của quốc gia và Đạo giáo.
Đối với những người tham lam, ích kỷ nên khi nào cũng muốn danh lợi cho bản thân. Nên nịnh bợ kẻ giàu sang, phụ bạc người nghèo khổ. Hãy tập cho mình tính thanh đạm, chân thực, ngay thẳng, cương trực.
Điều thứ tư: Ta chẳng nên kêu Trời, Phật, Thần, Thánh mà sai hoặc nguyền rửa, vì Thần Thánh không can phạm đến ta.
Thông thường người trần khi giận dữ, ghét ai thì thường có tật kêu Trời, Phật, Thần Thánh mà sai khiến hoặc trù rủa. Đây là phạm ác khẩu rất lớn và bị trả quả.
Muốn chừa bỏ lời nói ác xấu nên thay vào lời hiền lương đức hạnh để đối xử với mọi người. Mục đích của điều răn cấm thứ tư là chừa Ác khẩu và hành Chánh Ngữ.
Điều thứ năm:
Ta chẳng nên ăn thịt trâu, chó, bò và không nên sát sinh hại vật mà cúng Thần Thánh nào, vì Thần Thánh không bao giờ dùng hối lộ mà tha tội cho ta.
Nếu ta làm ta sẽ chịu tội, còn những hạng ăn đồ cúng kiếng mà làm hết bệnh là Tà Thần, nếu ta cúng kiếng mãi thì nó ăn quen và nhiễu hại ta.
Ý của Ngài là bớt sát sinh, không nên ăn những con vật quan trọng có công ơn với đời, giúp ích cho ta việc sinh hoạt hàng ngày. Nên đỗi đãi bằng lòng biết ơn, lòng nhân và từ bi, bình đẳng.
Tiếp theo không giết sinh vật cúng tế. Vì các Thần Thánh ở cảnh giới khác và có thức ăn riêng không phải như chúng ta.
Đồng thời các Ngài ngay thẳng, không vì ăn đồ cúng kiếng mà ban phước hay thiếu cúng tế mà giáng họa.
Cứ theo luật nhân quả, ai làm lành hưởng phước, tạo ác mang tai.
Chúng sinh phải nhận định rõ chánh tà. Nếu mê tín giết sinh vật cúng Thần Thánh để cầu phước thì chỉ có Tà thần hưởng. Và nếu hưởng quen thì sẽ tìm cách quấy phá.
Do vậy tín đồ bớt sát sinh, đừng mù quán mà hãy tập đức hiếu sinh, tin vào luật nhân quả.
Điều thứ sáu:
Ta không nên đốt giấy tiền vàng bạc, quần áo và các vật dụng bằng giấy mà tốn tiền vì cõi Diêm Vương không bao giờ ăn hối lộ và cũng không tiêu xài được. Nên để tiền đó mà trợ cứu cho những người lỡ đường, đói rách, tàn tật.
Các tín đồ không nên đốt vàng mã cho người chết. Đây là tục lệ do người Tàu bày ra.
Đã tu hành ai cũng muốn mình và những người thân được về với Tiên Phật, nhưng lại lo gửi tiền xuống Địa ngục. Tu để đi lên mà tâm nguyện đi xuống, thực sự là trái ngược.
Đức Thầy dạy tín đồ đừng mê tín tà kiến mà hãy rèn luyện được chánh tín, đúng với chân lý, tiết kiệm tiền để làm việc phước thiện, vun trồng gốc phúc.
Điều thứ bảy:
Đứng trước mọi việc về sự đời hay đạo đức, cần phải suy xét cho minh lý rồi sẽ phán đoán việc ấy.
Đức Thầy mong muốn tín đồ dùng chánh trí, chánh kiến để suy xét, nhận định các việc Đời và Đạo rõ ràng, đúng sự thật.
Việc đời chính là việc cư xử với mọi người trong gia đình, dòng họ và xã hội. Đây thuộc phần tu Nhân.
Việc đạo đức cần dùng trí huệ xét mọi vấn đềnhư lành dữ, chính hay tà trước khi nói hay hành động. Đây thuộc phần tu Phật.
Sau khi đã suy xét sáng suốt mới nói hay làm và không có sự nhầm lẫn nào.
Việc đời theo nhân đạo công bằng, chính nghĩa, Việc Đạo đúng chân lý , vô vi thật tướng.
Muc đích điều răn thứ 7 giúp tín độ dẹp bỏ Tà kiến, mê lầm, diệt trừ mười món phiền não để rèn được chánh trí và chánh kiến.
Mười món phiền não gồm: ngũ độn sử và ngũ lợi sử: .
NGŨ ĐỘN SỬ:
1-Món THAM: Lòng ham muốn quá độ.
2-Món SÂN: Tâm nóng nảy thù hận.
3-Món SI: Lòng mê tối lầm lỗi
4-Món MẠN: kiêu mạn, tự phụ, háo thắng.
5-Món NGHI: Lòng nghi ngờ do dự, không quyết đoán.
NGŨ LỢI SỬ: Năm món phiền não lanh lợi là:
1-Thân kiến: Giải nghĩa là chấp thân ngũ uẩn giả hợp là thật.
2-Biên kiến: Giải nghĩa là chấp một bên, như chấp thân nầy còn hoài, hoặc chấp có, chấp không…
3-Tà kiến: Giải nghĩa là chấp theo các chủ thuyết tà như là mê tín
4-Kiến thủ: Giải nghĩa là bảo thủ
5-Giới cấm thủ: Giải nghĩa là chấp thủ các giới lặt vặt vô lý, như việc ép xác hành khổ…
Đây là chìa khóa giúp chúng sinh mở rộng cửa tâm chân lý để chứng thành Phật Đạo
Điều thứ tám:
Ta phải thương yêu lẫn nhau như con một cha, dìu dắt lẫn nhau vào con đường đạo đức.
Nếu ai giữ đặng trọn lành trọn sáng về nơi Tây Phương an dưỡng mà học Đạo cho hoàn toàn đặng trở lại cứu vớt chúng sinh.
Đạo Phật là đạo từ bi, không chỉ yêu thương đồng Đạo mà còn cả các chúng sinh.
Cây từ bi được mọc lên từ hạt giống yêu thương, trổ quả Bồ đề( chánh giác). Do vậy nếu muốn đắc quả Phật thì hành giả phải có tình yêu thương và đặt đúng chỗ.
Và chỉ có con đường Đức thì mới hết khổ, và phải dìu dắt lẫn nhau vào con đường Đạo Đức, cùng nương vào nhau để chứng thành Đạo quả như nhau.
Cuối cùng phải tu cho mình trọn lành trọn sáng. Có 2 cách để đạt điều này.
Cách thứ nhất là Báo đáp Tứ ân, diệt Thập ác là Trọn lành. Hành Bát Chánh Đạo là Trọn sáng.
Muốn trọn lành thì phải ngăn ác và hành thiện. Bởi nguyên nhân của luân hồi chuyển kiếp chính là 10 điều ác và là nghiệp nợ.
Dứt được nghiệp là ngăn ác. Báo đáp tứ ân là trả được nợ và tạo phước đức gọi là hành thiện. Đây thuộc phần tu nhân, ngăn ác và hành thiện thì gọi là tròn lành.
Muốn tròn sáng thì phải hành “Bát Chánh Đạo” và “Niệm Phật”.Bởi phải triệt trừ vọng niệm mới thanh tịnh và khai sáng trí huệ nên phải trì hành Bát chánh. Trong Bát chánh sẽ có Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Tinh Tấn, Chánh Mạng, Chánh Niệm, Chánh Định để diệt phiền não, tâm định, bất loạn lúc đấy trí huệ sáng màu gọi là tròn sáng.
Cách thứ hai là cần làm theo ba điều mà Đức Thầy chỉ dạy: Làm hết các việc từ thiện”, “tránh tất cả điều độc ác” là trọn lành. Còn “Quyết rửa tấm lòng cho trong sạch” là trọn sáng.
5/ Phật giáo Hòa Hảo thờ gì?
Phật giáo Hòa Hảo thờ gì rất được nhiều người quan tâm.
Trong Phật giáo Hòa Hảo chủ trương thờ đơn giản, không cầu kỳ, tập trung nội tâm hơn là bề ngoài, đúng với tinh thần vô vi mà Đức Phật Thích Ca nêu rõ trước đây.
Thờ cúng của Phật giáo Hòa Hảo khá đơn giản
Theo nghi thức thờ phụng của Phật giáo Hòa Hảo trong gia đình đều có ba ngôi thờ cúng: Bàn thờ phật, bàn thờ thông thiên và bàn thờ cửu huyền thất tổ.
Bàn thờ Phật hay được gọi là ngôi thờ Tam Bảo, được thờ ở giữa nhà, cao hơn bàn thờ Cửu huyền thất tổ.
Theo Đức thầy, các cư sĩ tại gia nên thờ đơn giản, cần tín ngưỡng xoay về tâm hơn là tướng sắc bên ngoài.
Đức Thầy dạy tín đồ trang trí ngôi Tam Bảo một bức trần màu dà bởi màu dà là biểu hiện cho sự thoát tục.
Màu dà do sự kết hợp của màu khác nên còn biểu trưng cho sự hài hòa, bình đẳng.
Bức trần dà là tiêu biểu tinh thần vô thượng của nhà Phật.
Bàn thờ Phật tượng trưng cho Phật Đạo, tôn thờ vị Phật trong cõi Ta Bà và mười phương chư Phật, Pháp, Tăng, cùng Phật Tổ, Phật Thầy…
Bàn thờ thông thiên: được dựng trước sân nhà hoặc mái nhà. Theo Đức Thầy nếu nhà chật hẹp thì chỉ cần 1 bài Thông thiên.
Nếu trường hợp ở cùng với một người không theo cùng đạo thì tới thờ cúng chỉ niệm thầm đủ các bài nguyện và khởi tâm là được.
Bàn thờ thông thiên là bàn thờ thông lên trời hay được gọi là bàn thờ Cộng đồng Tam Giáo dùng tưởng niệm bốn phương Trời Phật.
Điều này thể hiện tinh thần tín ngưỡng trời Phật. Theo Đức Thầy có 3 vị Thiên hoàng (vua các cõi Trời), Địa hoàng (vua các cõi địa ngục), Nhơn hoàng (vua các cõi người) và được gọi là Phật Thánh Tiên.
Do vậy bàn Thông Thiên mang ý nghĩa biểu tượng cho Tiên Đạo.
Bàn thờ Cửu huyền thất tổ: Được đặt ngay giữa nhà, thấp hơn ngôi Tam Bảo hoặc dưới ngôi Tam Bảo.
Đây là bàn thờ truyền thống của Tổ tiên từ thời vua Hùng lập nước tới giờ. Đây là bàn thờ tượng trưng cho Thánh Đạo tôn thờ Tổ Quốc và ông bà cha mẹ từ vô lượng kiếp của chúng ta.
Các vật dâng cúng:
Trời Phật không dùng vật thực của thế gian mà chỉ chứng nhận lòng thành mà thôi. Hay nói đúng hơn là chứng tâm chứ không chứng lễ.
Do vậy, Ngài dạy bàn thờ Phật và bàn thờ Thông Thiên chỉ cúng 3 món tiêu biểu gồm:
Nước lạnh: thể hiện cho sự trong sạch
Bông hoa: thể hiện cho sự tinh khiết
Nhánh hương: tẩy mùi uế trược
Đối với bàn thờ Cửu huyền thất tổ có mòn gì cũng được.
Người theo Phật Giáo Hòa Hảo chỉ thờ Phật, Tổ tiên, Ông Bà, Cha Mẹ và những vị anh hùng của đất nước, không thờ bất cứ vị tà thần nào mà mình không rõ gốc rễ.
6/ Các ngày lễ tết trong Phật giáo Hòa Hảo:
Trong đạo Hòa Hảo, các ngày lễ đều tính là ngày âm lịch. Trong một năm, các tín đồ Phật giáo Hòa Hảo sẽ có các ngày lễ tết chính gồm:
Tết Nguyên Đán: ngày 1/1
Lễ Thượng Ngươn: Rằm tháng giêng
Ngày Đức Huỳnh Giáo chủ vắng mặt: 25/02
Lễ Phật Đản: 08/04
Lễ khai sáng Đạo Phật giáo Hòa Hảo: 18/05
Lễ Trung Ngươn, Vu Lan Báo Hiếu: Rằm tháng bảy
Vía Phật Thầy Tây An: 12/08
Lệ Hạ Ngươn: Rằm tháng mười
Lệ Phật Adida: 17/11
Lễ Đản Sinh Đức Huỳnh Giáo Chủ: 25/11
Lễ Phật thành đạo: Ngày 8 tháng chạp
Trải qua bao nhiêu thăng trầm, Phật Giáo Hòa Hảo vẫn thu hút đông đảo các tín đồ tham gia, tu hành, sống tốt đời đẹp Đạo.
Quý Phật tử có nhu cầu xem giảng giáo lý Phật giáo Hòa Hảo có thể nghe online hoặc tải về máy các tài liệu kinh sấm giảng Phật giáo Hòa Hảo mp3 hoặc xem video tổng hợp giảng kinh Phật giáo Hòa Hảo do cơ sở điêu khắc tượng Phật Trần Gia dày công tổng hợp phía dưới.
XEM THÊM TƯỢNG PHẬT ĐẸP DO ĐIÊU KHẮC TRẦN GIA TÔN TẠO
Nhận xét tích cực từ quý khách hàng của cơ sở điêu khắc tượng Phật Trần Gia:
CƠ SỞ ĐIÊU KHẮC TRẦN GIA.
Chuyên Tư Vấn – Thiết Kế – Thi Công Các Công Trình Nghệ Thuật
Đa Dạng Kích Thước – Đa Dạng Chất Liệu .
Trụ sở chính : 27 Đường số 1, khu phố 5, P. Hiệp Bình Phước, Q. Thủ Đức, Tp. Hồ Chí Minh
Lâm Đồng : 57 Nguyễn Chí Thanh, Nghĩa Lập, Đơn Dương, Lâm Đồng
Website : dieukhactrangia.com
Hotline : 0931.47.07.26
Email : dieukhactrangia@gmail.com