Cúng Giỗ Như Thế Nào Là Đúng / Top 7 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Apim.edu.vn

Cúng Dường Như Thế Nào Là Đúng Pháp ?

Phước báu của sự cúng dường

Vu lan, cúng dường, bố thí đúng pháp

Hỏi: Kính thưa thầy, cúng dường như thế nào là đúng pháp? Trường hợp mượn tiền để cúng dường thì có phước hay không?

Đáp: Khi cúng dường một ai đó nên có sự chọn lọc, cân nhắc cẩn thận vì người được cúng giống như mảnh đất được gieo trồng. Chúng ta có nhiều cách để tạo ra phước đức, về mặt xã hội, ta thực hiện đắp đường, xây cầu, khoan giếng, trồng cây, tạo công viên, hoa viên, lập ra các nơi khám chữa bệnh miễn phí, bệnh viện từ thiện… Còn đối với đạo Phật cần có những trách nhiệm cao hơn, ngoài việc giúp đỡ vật chất còn phải hỗ trợ tinh thần để họ phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, bế tắc cuộc đời.

Tại các chùa hay các cấp của giáo hội cần lập ra các đoàn từ thiện đi đến vùng sâu, vùng xa thăm hỏi, động viên, trợ duyên cho họ bằng những món quà vật chất với tấm lòng của ít lòng nhiều, khuyến tấn họ đến chùa tu tập, nương theo lời Phật dạy, hướng dẫn họ biết cách gieo trồng phước báu, không phải chờ đến khi giàu có mới làm phước được.

Từ là nói trại của hai chữ có nghĩa là cungcấp và dưỡng nuôi. Về nội dung thì bố thí hay cúng dường chỉ là một, không có gì là sai khác. Tuy cùng chung một nghĩa cử, một hành động, nhưng người ta dùng hai từ khác nhau để phù hợp với đối tượng thọ nhận: cho với lòng hảo tâm, thương cảm thì gọi là bố thí, còn cho với lòng ngưỡng mộ, tôn kính thì gọi là cúng dường.

Từ ngữ “cúng dường” có nghĩa là cung cấp, dưỡng nuôi các bậc tôn kính như Thầy, Tổ hay ông bà, cha mẹ…những người có công truyền đạt đạo lý làm người, điều hay lẽ phải như ba ngôi báu Phật, Pháp, Tăng đời đời giúp ta an trụ trong chánh pháp, hiểu rõ chúng sanh trong lục đạo luân hồi đều là bà con quyến thuộc của nhau trong nhiều đời, nhiều kiếp, cho nên hành động bố thí đối với họ ta phải gọi là cúng dường.

Thí dụ, cha mẹ là hai đấng sanh thành mang nặng đẻ đau, nuôi ta khôn lớn, lo cho ta ăn học tới nơi tới chốn, dựng vợ gã chồng, tạo cho ta gia tài sự nghiệp, ta phải có trách nhiệm cúng dường cha mẹ khi tuổi già hay lúc bệnh hoạn, ốm đau… (nghĩa là cung cấp và dưỡng nuôi cha mẹ.) Cung cấp những nhu cầu cần thiết để nuôi dưỡng cha mẹ là đạo lý “Uống nước nhớ nguồn; ăn trái nhớ kẻ trồng cây” trong tập quán của người Việt nam

Thuở quá khứ, có năm người giả làm Tỳ-kheo, lạm dụng sự cúng dường của Đàn-na tín thí để nuôi sống bản thân và gia đình. Sau khi chết, họ tái sanh trở lại làm người thân phận nghèo hèn. Cả năm người đều phải ở đợ, phục dịch cho gia đình Hoàng hậu Mạt-lợi, phu nhân vua Ba-tư-nặc.

Một hôm, ở Tịnh xá có lễ cúng dường chư Tăng, Hoàng hậu Mạt-lợi đến dự, dẫn theo đoàn tùy tùnggiúp việc, phục dịch cho bà. Sau khi các Phật tử cúng dường tứ sự, đảnh lễ giáo đoàn Như Lai Thế Tônxong, Mạt-lợi phu nhân ngồi sang một bên, cung kính đảnh lễ bạch hỏi đức Phật nguyên nhân vì sao bà được làm Hoàng hậu.

Đức Phật cho biết, trong đời quá khứ, bà là một Phật tử thuần thành, tín tâm cúng dường cho năm thầy Tỳ-kheo với lòng chí thành, chí kính, nhờ phước báu đó, ngày nay bà được sanh vào gia đình quyền quý và được tại vị trên ngôi Hoàng hậu mẫu nghi thiên hạ.

Nhân đây đức phật cũng cho bà rõ là năm vị Tỷ-kheo được bà cúng dường đời trước không phải là thầy tu thật, mà năm vị giả làm Tỳ-kheo để ăn của cúng dường. Do vì nghiệp báo giả làm Tỷ-kheo, lạm dụngtài vật cúng dường của đàn-na tín thí để nuôi thân và gia đình. Cho nên, đời nay năm người ấy được sanh lại làm người phải chịu thân phận kẻ nghèo hèn. Năm người đó nay đang có mặt trong đoàn người giúp việc, phục dịch cho Hoàng hậu đang đứng bên ngoài.

Nghe đức Phật nói vậy, Hoàng hậu Mạc-lợi với lòng từ bi và đức khoan dung, muốn phóng thích năm người đó ra khỏi đoàn tùy tùng để tự do làm ăn, bà xin đức Phật cho biết danh tánh của năm người ấy. Đức Phật bảo, đó là bốn người khiêng kiệu và người lo vệ sinh riêng cho bà đấy.

Vừa nghe, bà giật mình, liền ra lệnh cho năm người ấy tự do đi tìm công việc làm ăn sinh sống, nhưng họ không biết phải làm gì và đi đâu, nên cả năm người đều xin ở lại phục vụ cho bà suốt đời. Đó là cách trả nợ theo luật nhân quả của người xuất gia không tu hành đàng hoàng.

Qua câu chuyện, ta thấy thực hành bố thí, cúng dường với tâm thành kính và hoan hỷ cho thầy tu giả dối mà vẫn được phước lớn như vậy huống hồ gì là cúng dường cho các vị cao Tăng tu hành chân chánh hay các vị Thánh Tăng thì phước lực không thể nghĩ bàn. Cho nên, trong kinh có ví người cúng dường như con dao, người nhận cúng dường như cục đá mài, hành động cúng dường như việc mài dao. Dao càng mài càng sắc. Đá càng mài càng mòn.

Một thời, lúc Phật còn tại thế, gặp năm hạn hán mất mùa, dân chúng đói khổ, thiếu thốn, khó khăn, đức Phật cũng không ngoại lệ, một vị Tỳ-kheo thấy Phật thiếu ăn, liền đem chiếc y của mình đổi lấy bát cơm dâng lên cúng Phật.

-Bạch Phật, cha con chết rồi chỉ còn mẹ già.

– Người xứng đáng nhận bát cơm này là mẹ ông chứ không phải Ta.

– Người xuất gia còn cha mẹ không ai nuôi dưỡng thì người đó có quyền khất thực đem về cúng dườngcha mẹ.

Ngoài việc cúng dường cha mẹ, người Phật tử còn có trách nhiệm và bổn phận cúng dường người tu hành chân chánh, có đạo đức, có nhân cách, suốt đời phục vụ vì Tam Bảo, vì lợi ích chúng sanh.

Tai sao ta phải cúng dường người tu hành chân chánh?

Cha mẹ làm nên thân ta, Thầy Tổ giúp ta biết được điều hay lẽ phải để vượt qua cạm bẫy cuộc đời, không rơi vào hố sâu tội lỗi. Vì vậy từ cúng dường được dùng đối với các bậc trưởng thượng, tôn kínhnhư cha, mẹ, Thầy, Tổ v.v.. là những người có công nuôi dưỡng, dạy dỗ, chỉ bày, giúp ta nên người. Ngoài từ ngữ bố thí, cúng dường còn có nhiều từ ngữ khác như kính tặng, kính biếu… để nói lên lòng tôn kính của người cho.

Từ ngữ “bố thí” được người Việt Nam sử dụng với nhiều ý nghĩa như: cho, tặng, biếu, giúp đỡ, chia sẻ…Tất cả đều mang ý nghĩa tốt đẹp của hành động cho.

Khi gặp người nghèo khổ ta thương tình giúp đỡ gọi là cho hay gọi là bố thí cũng được. Người có tâm từ bi rộng lớn không những biết bố thí, cúng dường, giúp đỡ, chia sẻ cho người mà còn giúp các loài vật nữa. Đó là người biết gieo trồng phước đức đúng pháp. Người tu hành theo đạo Phật rất cần thực tậpđể có được tâm từ bi rộng lớn này.

Con cháu đem vật phẩm nuôi dưỡng ông bà cha mẹ thì gọi là cúng dường phẩm vật, còn ông bà cha mẹ đem của cải vật chất lo cho con cháu thì ta gọi bằng từ cho, giúp đỡ hay chia sẻ. Hoặc người dân bình thường muốn đem phẩm vật cho những người có địa vị trong xã hội thì gọi là kính biếu hay kính tặng…

Cùng một hành động “bố thí” mà tùy theo đối tượng, tùy theo hoàn cảnh, mà ta dùng từ ngữ sao cho phù hợp, để không làm mất đi sự tôn kính, lòng thương cảm của ta.

Là Phật tử, chúng ta phải học hiểu rõ ràng chỗ này, để dùng từ ngữ không bị sai lệch làm ảnh hưởngkhông tốt đến hành động bố thí của mình.

Bố thí, cúng dường là hành động làm phước thiện, theo luật nhân quả, nó là điều kiện thiết yếu để ta tiêu trừ đau khổ, chuyển hóa nghèo cùng khốn đốn, không còn sợ nghèo đói và vượt qua nỗi bất an sợ hãi trong cuộc đời như mũi tên chỉ đường, để ta không bị đi lạc.

Hai từ này tuy viết khác, nói khác, nhưng nó cùng một ý nghĩa, tùy theo đối tượng của sự cho (người nhận) mà ta có cách gọi khác nhau để phù hợp, làm đẹp, làm hài lòng cả hai đối tượng cho và nhận mà thôi.

Giúp ta gieo trồng phước

Việc thiện dù nhỏ mà ta chịu khó làm như đức Phật đã làm thì vinh hoa phú quý sẽ đến với ta trong hiện tại và tương lai. Nhờ bố thí, mà lòng tham lam, ích kỷ của ta được giảm bớt. Nếu chất chứa lòng tham không đáy sẽ tạo cho ta nhiều tội lỗi, nuôi dưỡng lòng hiềm hận, nỗi bất an, lo sợ nhiều điều trong cuộc sống.

Trong các trường hợp giúp đỡ người nghèo, người bị thiên tai, hoạn nạn, bịnh tật … ta có thể gọi là cho, tặng hay biếu… Còn con cái giúp đỡ ông bà cha mẹ thì ta dùng từ ngữ “cúng dường” (đọc trại âm của chữ cung dưỡng). Đối với người có địa vị cao trong xã hội hoặc người cao niên, lớn tuổi thì ta dùng từ “kính tặng, kính biếu…” Chung quy, tất cả đều là hành động “bố thí” được triển khai bằng nhiều từ ngữkhác nhau để sử dụng rộng rãi, phù hợp cho nhiều đối tượng mà thôi.

Nếu biết người chúng ta định cúng sẽ sử dụng đồng tiền hợp lý, có lợi cho đạo hoặc cho chúng sinh thì mình được phước đầy đủ.

Thời đức Phật, có hai vợ chồng là Phật tử rất tín tâm Tam Bảo, nhưng hoàn cảnh gia đình lại nghèo khó, bữa đói, bữa no. Một hôm, người chồng đến chùa thấy nhiều người đem vật thực đến cúng dườngTam Bảo, anh phát tâm hoan hỷ vô cùng.

Về nhà, anh thấy nhà mình quá nghèo, không có cái gì có thể mang đến chùa để cúng dường, anh ta tủi thân, buồn rầu, đau khổ, đến nỗi anh ta không muốn ăn, chẵng muốn làm. Người vợ biết được, bèn đưa ra ý kiến: hay là anh đem em bán đi lấy tiền cúng dường, khi nào có tiền thì anh chuộc em về. Người chồng suy nghĩ, thấy làm như vậy thì quá nhẫn tâm, nên cả hai vợ chồng bàn nhau đi vay tiền cúng dường, nếu không trả nỗi thì đến ở đợ làm việc cho họ để trừ nợ.

Sau khi suy tính, chọn lựa, hai vợ chồng đến một nhà phú hộ trong làng trình bày sự việc, được nhà phú hộ đồng ý cho vay một số tiền với điều kiện trong bảy ngày phải mang tiền đến trả. Nếu không thì cả hai vợ chồng phải đến đây làm việc ở đợ suốt đời.

Nhận được tiền, hai vợ chồng vui mừng mang đến cúng dường cho lễ Trai Tăng với tâm thành kính và hoan hỷ. Mấy ngày sau, hai vợ chồng đều cảm thấy thật hạnh phúc được góp phần vào công đức này, sẵn sàng tinh thần đến nhà Phú hộ ở đợ vào ngày mai thì hôm ấy nhà vua hay tin nhà chùa thiết lễ cúng dường Trai Tăng, Ngài thân hành đến chùa xin được cúng dường cho lễ này. Sau khi được biết đã có hai vợ chồng nhà nghèo cúng dường, nhà vua yêu cầu hai vợ chồng phải nhường phần cúng dường lễ này cho Ngài. Hai vợ chồng nhà nghèo nghe lệnh vua như vậy, bèn đến trình bày: Chúng con nhà quá nghèo, may mà có nhà phú hộ trong làng cho vay tiền cúng dường, xin nhà vua để cho chúng con lo trọn, chứ lần này con không được cúng dường Tam Bảo thì e rằng suốt đời, con không có cơ hội nào nữa. Chúng con phải đi ở đợ làm việc suốt đời cho nhà phú hộ để trả món nợ này. Xin đức vua nhân từban ân, để chúng con được làm trọn công đức với Tam Bảo.

Tuy bị từ chối, nhưng nhà vua rất cảm phục tấm lòng cao thượng của hai vợ chồng. Về triều, nhà vua đem chuyện này thuật lại cho các quan quân, quần thần nghe, ai cũng đem lòng cảm phục. Và Ngài truyền lệnh cấp phát tiền bạc, nhà cửa, ruộng vườn cho hai vợ chồng làm ăn sinh sống để có cơ hội làm việc phước thiện. Từ đó hai vợ chồng trở nên giàu có, tin sâu Tam Bảo hơn, thường xuyên phát tâm bố thí, cúng dường và nguyện đời đời kiếp kiếp đi theo con đường lợi ích cho tha nhân.

Thật là “nhân quả nhãn tiền,” người thực hành bố thí cúng dường với tâm thành kính, hoan hỷ, dám hy sinh như hai vợ chồng trong câu chuyện thật là hiếm thấy trong thời chúng ta.

Một vị minh quân, một ông vua sáng suốt, biết phát huy những việc làm phước đức như ông vua kể trên thật là hạnh phúc cho dân, cho nuớc. Lịch sử nhân loại đã có rất nhiều vị lãnh đạo quốc gia làm được những việc như thế. Ở Việt Nam có Trần Nhân Tông, một vị vua lãnh đạo đất nước bằng tinh thần Bi, Trí, Dũng của đạo Phật, hướng dẫn dân chúng tu hành theo tinh thần Phật dạy, xây dựng nên một nước Việt nam hùng cường về mọi mặt, bên ngoài chiến thắng ngoại xâm, bên trong dân chúng sống thanh bình, no ấm, an vui như đang sống trong cõi Cực Lạc hiện tiền.

Đạo lý nhà Phật dạy con người sống có ích cho đời và đạo, không vì lợi ích riêng tư mà làm khổ mình, khổ người. Người Phật tử khi thực hành bố thí cho người, dù họ là người ăn xin hay kẻ tật nguyền cũng đều cung kính tôn trọng, không cho mình là người cao quý, mà có thái độ xem thường hay khinh rẻ. Tuy hành động bố thí vẫn có phước báu, nhưng lại tăng trưởng tâm cống cao, ngã mạn làm cho người nhận không vui ắt phải chịu quả báo không tốt về sau.

Chúng ta không nên mượn tiền để cúng dường, trừ trường hợp đặc biệt khi thấy người ta lâm vào hoàn cảnh quá ngặt nghèo mà không thể vận động được ai khác giúp đỡ, thế là buộc mình hy sinh mượn tiền để cúng dường thì đây là việc làm cao quý khó ai sánh bằng. Chỉ sợ trong tâm chúng ta có ý mong cầu danh lợi nên mới mượn tiền để cúng dường. Có trường hợp đặc biệt những người vay tiền để làm ăn chứ không phải để chủ tâm cúng dường, họ trích ra một phần nhỏ để cúng dường để cầu may mắn trong làm ăn. Đến lúc nào đó sự nghiệp sụp đổ, mọi người mới thắc mắc sao thấy người đó làm phước nhiều mà tại sao vẫn bị phá sản? Thật ra, mọi người đâu biết rằng cái phước ông làm được, nó quá nhỏ so với số tiền đã vay mượn quá lớn, nhưng làm ăn có khi thành công, có khi sụp đổ. Chính vì vậy, khi làm ăn chúng ta phải cân đối vừa với khả năng của mình, đừng vay mượn quá nhiều.

Trường hợp vì quá cần thiết để giúp người mà mình không có tiền nên buộc lòng phải vay mượn và cúng dường trọn vẹn số tiền đó thì chắc chắn người đó sẽ có phước báo lớn khi đủ duyên. Tuy nhiên, vẫn còn tốt hơn khi chúng ta biết cúng dường Tam bảo dù ít hay nhiều đó vẫn là thiện chí. Do đó, mọi chuyện làm phước cũng như chuyện làm ăn, chúng ta cần cân nhắc kỹ lưỡng trong khả năng cho phép.

Tam Bảo là ngọn đèn sáng giúp con người vượt qua tăm tối vô minh. Tam Bảo có khả năng chuyển hóaphiền não khổ đau thành an vui, hạnh phúc. Nhờ Tam Bảo ta biết được điều hay, lẽ phải, biết rõ thật sự sống của con người và muôn loài đều phải cưu mang, nương nhờ lẫn nhau. Vì vậy, người tu hành theo đạo Phật cần phát triển lòng thương yêu, tinh thần trách nhiệm và bổn phận giúp đỡ, gìn giữ sự sống cho mình và muôn loài chúng sanh. Do đó Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) như ba viên ngọc quý, không gì có thể so sánh được. Và Tam Bảo có sáu ý nghĩa không thể nghĩ bàn:

Một là nghĩa hy hữu, tức là hiếm có, khó được như vàng, bạc, kim cương, ngọc quý… người nghèo không thể có được. Phật, Pháp, Tăng cũng vậy, dù người ở sát bên chùa, nhưng thiếu phước cũng khó gặp, không thể thân cận với Tam Bảo nên gọi là hy hữu.

Hai là nghĩa ly cấu, tức lìa xa những việc xấu ác hay làm những việc tốt lành, như châu báu thế gian, trong sáng, sạch đẹp không tỳ vết, khó vấy bẩn. Phật, Pháp, Tăng cũng vậy, hay xa lìa phiền não, xấu ác nên gọi là Ly cấu.

Ba là nghĩa thế lực, như châu báu ở thế gian có thế lực lớn, giúp người vượt qua nghèo khó, còn dùng trị bệnh trúng độc. Tam Bảo cũng vậy, có đủ sáu thông (Lục thông), tùy cơ ứng biến, dứt kiếp nghèo khổ, giải thoát được sanh tử luân hồi nên gọi là thế lực.

Bốn là nghĩa trang nghiêm, như châu báu ở thế gian, làm đồ trang sức cho thân thể trở nên xinh đẹp, lộng lẫy, ai cũng muốn ngắm nhìn. Tam Bảo cũng vậy, lấy nhân quả, nghiệp báo, nhân duyên làm nền tảng giúp người làm chủ bản thân, tâm trí trở nên sáng suốt, thanh tịnh, làm việc chân chánh nên gọi là trang nghiêm.

Năm là nghĩa tối thắng, như châu báu ở thế gian quý hơn tất cả mọi vật, nhưng xét cho cùng không quý bằng mạng sống con người. Tam Bảo cũng vậy, là pháp thù thắng hơn hết giúp người vượt qua nỗi khổ, niềm đau, sống được an vui, hạnh phúc nên gọi là tối thắng.

Sáu là nghĩa bất biến (không thay đổi) như vàng ròng ở thế gian, dù đập, nấu, mài, dủa vẫn không thay đổi bản chất. Tam Bảo cũng vậy, người thân cận Tam Bảo tất được an vui, hạnh phúc, không có gì cao hơn, hay hơn, không ai có thể làm tốt hơn, không bị vô thường chi phối, nước không thể cuốn trôi, lửa không thể thiêu đốt nên gọi là bất biến.

Vì vậy, thực hành cúng dường Tam Bảo là phước báu thù thắng hơn tất cả, bởi nhờ sự cúng dường này mà Tam Bảo được lan truyền rộng khắp và trường tồn ở thế gian để nhiều người nương tựa, tu học, thực hành những lời Phật dạy mà biết cách sống tốt đạo đẹp đời bằng tình người trong cuộc sống.

Cúng Giỗ Hết Như Thế Nào?

Giỗ Hết gọi là Đại Tường (chữ Hán: 大祥), là ngày giỗ sau ngày người mất hai năm, vẫn nằm trong thời kỳ tang. Thời gian hai năm cũng vẫn chưa đủ để hàn gắn những vết thương trong lòng những người còn sống. Trong lễ này, người ta vẫn tổ chức trang nghiêm. Lúc tế lễ người được giỗ và Gia tiên, con cháu vẫn mặc đồ tang phục và vẫn khóc giống như Giỗ Đầu và ngày đưa tang, vẫn bi ai sầu thảm chẳng kém gì Giỗ Đầu. Nhà có điều kiện thì có thể thuê cả đội kèn trống nữa.

Sắm lễ giỗ hết

Vào ngày Giỗ Hết, ngoài mâm lễ mặn và hoa, quả, hương, phẩm oản… thì người ta thường mua sắm rất nhiều đồ hàng mã không chỉ là tiền, vàng, mã làm bằng giấy mà còn cả các vật dụng như quần, áo, nhà cửa, xe cộ giống như trong ngày Giỗ Đầu. Vàng mã được đốt cho người quá cố cũng nhiều hơn ngày Giỗ Đầu.

Những đồ vàng mã trong ngày Đại Tường được gọi là mã biếu, vì khi những đồ lễ này được gửi từ cõi Dương gian xuống dưới cõi Âm ty thì người quá cố và Gia tiên không được dùng, mà phải đem những đồ lễ này đi biếu các Ác thần để tránh sự quấy nhiễu.

Sau khi lễ Tạ và hóa vàng xong, gia chủ bầy cỗ bàn mời họ hàng, khách khứa ăn giỗ. Diện mời đến ăn giỗ dịp này thường đông hơn lễ Tiểu Tường, cỗ bàn cũng làm linh đình và công phu hơn. Khách đến ăn giỗ vẫn mặc đồ tang phục, vẫn còn một sự bi ai, sầu thảm như ngày để tang hai năm trước và Tiểu Tường.

Sau ngày lễ này hết hai tháng, đến tháng thứ ba người ta sẽ chọn ngày tốt để Trừ phục (còn gọi là Đàm tế) tức có nghĩa là Bỏ tang, người thân sẽ đốt hết những áo quần tang, gậy chống. Sau đó, người đang sống sẽ trở lại cuộc sống thường nhật, có thể tổ chức hay tham gia các cuộc vui, đình đám và người vợ mới có thể đi bước nữa (nếu chồng mình mất). Đây là một buổi lễ vô cùng quan trọng, vì nó là một bước ngoặt đối với người đang sống và vong linh của người đã mất.

Mâm cơm cúng giỗ hết cần những gì?

Mâm cúng giỗ ở miền Nam

Dịp cúng giỗ tổ tiên, chẳng ai hiểu rõ ông bà thời xa xưa khi vào Nam thích ăn món gì, chế biến các vật tư ra sao, nhưng tùy hoàn cảnh mà có bốn món : Hầm, Thịt luộc, Xào, Kho. Nên hiểu không phải là dâng cúng cho cha mẹ đã quá cố nhưng là cho tổ tiên đời ông cố của gia chủ, hiểu ngầm rằng những bà con xa gần thời xa xưa cũng được tham dự, vì vậy, nếu cúng 3 mâm ở 3 bàn thờ (giữa, bên trái, bên mặt), hoặc 1 bàn thờ, thì thức ăn phải giống nhau.

– Món kho thường là thịt heo, cá lóc, kho với nước dừa để gợi phong vị miền Nam. – Món thịt luộc là thịt ba chỉ, xắt mỏng. – Món hầm, tức là thịt heo hầm, thường là giò heo hầm măng tre Mạnh Tông, loại măng ngon nhất của Nam Bộ (gợi tích ông Mạnh Tông trong nhị thập tứ hiếu). – Xào là món thịt bị câu thúc về hình thức: xào chua, xào mặn, với rau cải đồ lòng, hoặc tôm, gần như tuyệt đối không dùng thịt rừng.

Mâm cúng giỗ ở miền Trung

Người miền Trung nổi tiếng cầu kỳ trong các món ăn, nhất là Huế có sự ảnh hưởng lớn từ cung đình Huế từ các triều đại xưa. Do đó món ăn cũng có phần cầu kỳ không kém khi làm mâm cúng giỗ. Các món cúng sẽ được phân ra làm 04 loại là: món xào, món canh, món ăn từ thịt, món từ tôm cá:

– Thịt vịt luộc chấm nước mắm gừng – Thịt gà bóp với rau răm tiêu muối – Thịt heo luộc với mắm tôm, kèm với rau sống, vã xắt lát – Thịt heo quay -Thịt gà ru ty – Thịt bò nướng – Thịt heo kho rim – Thịt heo kho nước với sã và đậu phụng – Bánh tráng ram ( người Nam gọi là chả giò, loại bánh trán cuốn thịt băm rồi chiên dầu ăn cho vàng) – Nem chả – Cá chiên khúc – Cá thu hay cá to chặt khúc kho nước – Tôm rim hay tôm rang – Vã trộn với tôm, – Canh ổ khoa nhồi thịt – Canh bún nổi giò heo hay nấu với lòng gà, vịt – Canh củ hầm thịt bò – Thường là món củ hay légume xào với thịt heo nạc, có khi thịt bò hay tôm – Đậu cô ve, Su – Xà lách bóp thịt bò với dầu dấm – Đậu trắng, Khoai tây chiên – Món khoai Tây, với hành Tây nấu với thịt gà hay bò theo kiểu Ấn Độ gọi là món Ca ry.(người ta thường ăn với bánh mì)

Mâm cúng giỗ ở miền Bắc

Với mâm cỗ giỗ truyền thống miền bắc thì đây gần như là tất cả các món bạn có thể gặp trên hầu hết mâm cỗ ở các gia đình miền bắc từ xưa đến nay:

– Cơm trắng, Xôi gấc (ăn kèm với giò, chả) – Xôi vò, chè đường – Một con cua và một quả trứng bày chung trên một đĩa – Bánh dầy đậu – Chả quế – Thịt quay, Bê thui (chấm tương gừng) – Giò lụa hay giò bò thì là, Giò thủ, Giò bì – Thịt kho tàu – Chân giò (giò heo) hầm măng khô, mộc nhĩ – Chả giò cua bể + bún – Gà quay hay gà luộc (chặt miếng, sắp vào một chiếc đĩa sâu, những miếng đẹp và có da thì nằm sát đáy đĩa, rồi úp ngược đĩa gà này vào một chiếc đĩa trảng khác, cho ngon mắt) – Thịt đông, dưa chua (nếu cúng giỗ vào mùa lạnh) – Nem dê (làm bằng thịt bò nhưng gọi là nem dê) – Tôm sú hay tôm càng rim – Tôm thịt xào nấm đông cô, đậu ve, cà rốt, su hào – Lươn om với bắp chuối bào – Nộm măng (+ tôm, thịt, khế thái dọc, mè rang) – Miến xào lòng gà (+ mộc nhĩ) – Món bóng cá nhồi giò sống hay bóng lợn (canh bóng, nấu với rau củ, nấm, mộc nhĩ) – Xà lách búp, cà chua, dưa deo (chấm nước tôm rim)

Văn khấn Thổ Thần, Táo Quân, Long Mạch và các vị Thần linh trước khi Giỗ Hết

Nam mô a di Đà Phật! Nam mô a di Đà Phật! Nam mô a di Đà Phật!

– Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương. – Con kính lạy Đức Đương cảnh Thành hoàng chư vị Đại Vương. – Con kính lạy ngài Đông Trù Tư mệnh Táo phủ Thần Quân. – Con kính lạy các ngài Thần linh, Thổ địa cai quản trong xứ này. – Con kính lạy chư gia tiên Cao Tằng Tổ tiên nội ngoại họ………………………………

Tín chủ (chúng) con là:…………………………………………………………………… Ngụ tại:……………………………………………………………………………………. Nhân ngày mai là ngày Giỗ Hết của……………………………………………………… Tín chủ con cùng toàn thể gia khuyến tuân theo nghi lễ, sửa biện hương hoa lễ vật dâng cúng các vị Tôn thần. Cúi xin các vị Bản gia, Thổ Công, Táo phủ Thần quân, Ngữ phương, Long mạch và các vị Thần linh, hiển linh chứng giám, thụ hưởng lễ vật, phù hộ cho toàn gia chúng con an ninh khang thái, vạn sự tốt lành. Chúng con kinh thỉnh các Tiên linh, Gia tiên họ…………………. và những vong hồn nội tộc được thờ phụng vị cùng về hâm hưởng. Chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin được phù hộ độ trì.

Nam mô a di Đà Phật! Nam mô a di Đà Phật! Nam mô a di Đà Phật!

Văn khấn chính ngày Giỗ Hết

Nam mô a di Đà Phật! Nam mô a di Đà Phật! Nam mô a di Đà Phật!

– Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương. – Con kính lạy Đức Đương cảnh Thành hoàng chư vị Đại Vương. – Con kính lạy ngài Đông Trù Tư mệnh Táo phủ Thần Quân. – Con kính lạy các ngài Thần linh, Thổ địa cai quản trong xứ này. – Con kính lạy chư gia tiên Cao Tằng Tổ Khảo, Cao Tằng Tổ Tỷ, Tổ Tiên nội ngoại họ …………………………………………………………………………………………. Tín chủ (chúng) con là:…………………………………………………………………… Ngụ tại:……………………………………………………………………………………. Hôm nay là ngày ……………….. tháng ……………… năm …………………………… Chính ngày Giỗ Hết của…………………………………………………………………… Thiết nghĩ……………… vắng xa trần thế, không thấy âm dung. Năm qua tháng lại vừa ngày Giỗ Hết. Ơn võng cực xem bằng trời biển, nghĩa sinh thành không lúc nào quên. Càng nhớ công ơn gây cơ tạo nghiệp bao nhiêu, càng cảm thâm tình, không bề dãi tỏ. Nhân ngày chính giỗ, chúng con và toàn gia con cháu, nhất tâm sắm sửa lễ vật kính dâng, đốt nén tâm hương dãi tỏ tấc thành. Thành khẩn kính mời……………………………………………………………………… Mất ngày…………. Tháng………………năm…………………………………………… Mộ phần táng tại:………………………………………………………………………….. Cúi xin linh thiêng giáng về linh sàng, chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật, độ cho con cháu bình an, gia cảnh hưng long thịnh vượng. Tín chủ lại mời vong lonh các vị Tiền chủ, Hậu chủ trong đất này cùng tới hâm hưởng. Tín chủ con lại xin kính mời các cụ Tổ Tiên nội ngoại, Tổ Khảo, Tổ Tỷ, Bá thúc, Huynh Đệ, Cô Di, Tỷ Muội và toàn thể các Hương linh gia tiên đồng lai hâm hưởng. Chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin được phù hộ độ trì.

Nam mô a di Đà Phật! Nam mô a di Đà Phật! Nam mô a di Đà Phật!

Cúng Giỗ Đầu Như Thế Nào

Cúng giỗ là một buổi lễ kỷ niệm ngày người mất qua đời quan trọng của người Việt, được tính theo Âm lịch. Ngày này là ngày để thể hiện tấm lòng thủy chung, thương xót của người đang sống với người đã khuất, thể hiện đạo hiếu đối với Tổ tiên. Nhà giàu thì tổ chức làm giỗ linh đình, mời người thân trong dòng họ, bạn bè gần xa, anh em bằng hữu về dự giỗ. Nhà nghèo thì chỉ cần lưng cơm, đĩa muối, quả trứng, ba nén nhang, một đôi nến và vài món ăn giản dị cúng người mất cũng đã có lòng Thành kính đối với người đã mất. Lòng thủy chung, thương xót người đã khuất chỉ phụ thuộc vào việc con cháu phải nhớ ngày người mất để làm giỗ, không liên quan đến việc làm giỗ lớn hay nhỏ.

Giỗ Đầu gọi là Tiểu Tường (chữ Hán: 小祥), là ngày giỗ đầu tiên sau ngày người mất đúng một năm, nằm trong thời kỳ tang, là một ngày giỗ vẫn còn bi ai, sầu thảm. Thời gian một năm vẫn chưa đủ để làm khuây khỏa những nỗi đau buồn, xót xa tủi hận trong lòng của những người thân. Trong ngày Giỗ Đầu, người ta thường tổ chức trang nghiêm không kém gì so với ngày để tang năm trước, con cháu vẫn mặc đồ tang phục. Lúc tế lễ và khấn Gia tiên, những người thân thiết của người quá cỗ cũng khóc giống như ngày đưa tang ở năm trước. Nhà có điều kiện thì có thể thuê cả đội kèn trống nữa.

Sắm lễ cúng giỗ đầu

Vào ngày Giỗ Đầu, ngoài mâm lễ mặn và hoa, quả, hương, phẩm oản… thì người ta thường mua sắm rất nhiều đồ hàng mã không chỉ là tiền, vàng, mã làm bằng giấy mà còn cả các vật dụng như quần, áo, nhà cửa, xe cộ và một hình nhân. Hình nhân ở đây không có nghĩa là thế mạng cho người thật (người còn sống) mà là do nhân dân tin rằng, với phép thuật của thầy phù thủy thì hình nhân này sẽ hóa thành một người thật, xuống dưới Âm giới để hầu hạ vong linh người mất. Gia chủ sẽ đem những đồ lễ này lên bàn thờ để cúng. Cúng xong thì đem ra ngoài mộ để đốt.

Những đồ vàng mã trong ngày Tiểu Tường được gọi là mã biếu, vì khi những đồ lễ này được gửi từ cõi Dương gian xuống dưới cõi Âm ty thì người quá cố và Gia tiên không được dùng, mà phải đem những đồ lễ này đi biếu các Ác thần để tránh sự quấy nhiễu.

Sau khi lễ Tạ và hóa vàng xong, gia chủ bầy cỗ bàn mời họ hàng, khách khứa ăn giỗ. Khách đến ăn giỗ ăn mặc trang nghiêm, vẫn còn một sự bi ai, sầu thảm như ngày để tang năm trước.

Sau lễ này, người ta sẽ sửa sang lại mộ cho người quá cố, thi hài vẫn nằm dưới huyệt hung táng.

Mâm cơm cúng giỗ cần những gì?

Mâm cúng giỗ ở miền Nam

Dịp cúng giỗ tổ tiên, chẳng ai hiểu rõ ông bà thời xa xưa khi vào Nam thích ăn món gì, chế biến các vật tư ra sao, nhưng tùy hoàn cảnh mà có bốn món : Hầm, Thịt luộc, Xào, Kho. Nên hiểu không phải là dâng cúng cho cha mẹ đã quá cố nhưng là cho tổ tiên đời ông cố của gia chủ, hiểu ngầm rằng những bà con xa gần thời xa xưa cũng được tham dự, vì vậy, nếu cúng 3 mâm ở 3 bàn thờ (giữa, bên trái, bên mặt), hoặc 1 bàn thờ, thì thức ăn phải giống nhau.

– Món kho thường là thịt heo, cá lóc, kho với nước dừa để gợi phong vị miền Nam. – Món thịt luộc là thịt ba chỉ, xắt mỏng. – Món hầm, tức là thịt heo hầm, thường là giò heo hầm măng tre Mạnh Tông, loại măng ngon nhất của Nam Bộ (gợi tích ông Mạnh Tông trong nhị thập tứ hiếu). – Xào là món thịt bị câu thúc về hình thức: xào chua, xào mặn, với rau cải đồ lòng, hoặc tôm, gần như tuyệt đối không dùng thịt rừng.

Mâm cúng giỗ ở miền Trung

Người miền Trung nổi tiếng cầu kỳ trong các món ăn, nhất là Huế có sự ảnh hưởng lớn từ cung đình Huế từ các triều đại xưa. Do đó món ăn cũng có phần cầu kỳ không kém khi làm mâm cúng giỗ. Các món cúng sẽ được phân ra làm 04 loại là: món xào, món canh, món ăn từ thịt, món từ tôm cá:

– Thịt vịt luộc chấm nước mắm gừng – Thịt gà bóp với rau răm tiêu muối – Thịt heo luộc với mắm tôm, kèm với rau sống, vã xắt lát – Thịt heo quay -Thịt gà ru ty – Thịt bò nướng – Thịt heo kho rim – Thịt heo kho nước với sã và đậu phụng – Bánh tráng ram ( người Nam gọi là chả giò, loại bánh trán cuốn thịt băm rồi chiên dầu ăn cho vàng) – Nem chả – Cá chiên khúc – Cá thu hay cá to chặt khúc kho nước – Tôm rim hay tôm rang – Vã trộn với tôm, – Canh ổ khoa nhồi thịt – Canh bún nổi giò heo hay nấu với lòng gà, vịt – Canh củ hầm thịt bò – Thường là món củ hay légume xào với thịt heo nạc, có khi thịt bò hay tôm – Đậu cô ve, Su – Xà lách bóp thịt bò với dầu dấm – Đậu trắng, Khoai tây chiên – Món khoai Tây, với hành Tây nấu với thịt gà hay bò theo kiểu Ấn Độ gọi là món Ca ry.(người ta thường ăn với bánh mì)

Mâm cúng giỗ ở miền Bắc

Với mâm cỗ giỗ truyền thống miền bắc thì đây gần như là tất cả các món bạn có thể gặp trên hầu hết mâm cỗ ở các gia đình miền bắc từ xưa đến nay:

– Cơm trắng, Xôi gấc (ăn kèm với giò, chả) – Xôi vò, chè đường – Một con cua và một quả trứng bày chung trên một đĩa – Bánh dầy đậu – Chả quế – Thịt quay, Bê thui (chấm tương gừng) – Giò lụa hay giò bò thì là, Giò thủ, Giò bì – Thịt kho tàu – Chân giò (giò heo) hầm măng khô, mộc nhĩ – Chả giò cua bể + bún – Gà quay hay gà luộc (chặt miếng, sắp vào một chiếc đĩa sâu, những miếng đẹp và có da thì nằm sát đáy đĩa, rồi úp ngược đĩa gà này vào một chiếc đĩa trảng khác, cho ngon mắt) – Thịt đông, dưa chua (nếu cúng giỗ vào mùa lạnh) – Nem dê (làm bằng thịt bò nhưng gọi là nem dê) – Tôm sú hay tôm càng rim – Tôm thịt xào nấm đông cô, đậu ve, cà rốt, su hào – Lươn om với bắp chuối bào – Nộm măng (+ tôm, thịt, khế thái dọc, mè rang) – Miến xào lòng gà (+ mộc nhĩ) – Món bóng cá nhồi giò sống hay bóng lợn (canh bóng, nấu với rau củ, nấm, mộc nhĩ) – Xà lách búp, cà chua, dưa deo (chấm nước tôm rim)

Văn khấn giỗ đầu

Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương. Con kính lạy Đức Đương cảnh Thành hoàng chư vị Đại Vương. Con kính lạy ngài Đông Trù Tư mệnh Táo phủ Thần Quân. Con kính lạy các ngài Thần linh, Thổ địa cai quản trong xứ này. Con kính lạy chư gia tiên Cao Tằng Tổ tiên nội ngoại họ………………………… Tín chủ (chúng) con là:………………………………Tuổi…………………….. Ngụ tại:……………………………………………………………………………… Hôm nay là ngày……………tháng……….năm…………….(Âm lịch). Chính ngày Giỗ Đầu của……………………………………………………………… Năm qua tháng lại, vừa ngày húy lâm. Ơn võng cực xem bằng trời biển, nghĩa sinh thành không lúc nào quên. Càng nhớ công ơn gây cơ tạo nghiệp bao nhiêu, càng cảm thâm tình, không bề dãi tỏ. Nhân ngày chính giỗ, chúng con và toàn gia con cháu, nhất tâm sắm sửa lễ vật kính dâng, đốt nén tâm hương dãi tỏ tấc thành. Thành khẩn kính mời………………………………………………………………… Mất ngày…………. Tháng………………năm…………………(Âm lịch) Mộ phần táng tại:…………………………………………………………………….. Cúi xin linh thiêng giáng về linh sàng, chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật, độ cho con cháu bình an, gia cảnh hưng long thịnh vượng. Tín chủ con lại xin kính mời các cụ Tổ Tiên, nội ngoại, Tổ Khảo, Tổ Tỷ, Bá thúc, Cô Di và toàn thể các Hương linh gia tiên đồng lai hâm hưởng. Tín chủ lại mời vong linh các vị Tiền chủ, Hậu chủ trong đất này cùng tới hâm hưởng. Chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin được phù hộ độ trì. Phục duy cẩn cáo!

Cúng Đầy Tháng Theo Đạo Phật Như Thế Nào Là Đúng?

Hướng dẫn cúng đầy tháng theo đạo Phật

Thông thường ngày cúng đầy tháng cho bé được tính theo ngày âm lịch, tuy nhiên theo thời buổi hiện đại ngày nay do cuộc sống bận rộn nên các cha mẹ có thể tính theo ngày dương lịch cho con

Ý nghĩa của việc cúng đầy tháng cho con:

Theo tục lệ truyền thống, khi đứa bé chào đời tròn 1 tháng tuổi, gia đình sẽ làm một mâm lễ gọi là Đoàn du phạn hay còn gọi là mâm cơm đầy tháng để làm lễ cúng tạ ơn Bà Mụ gồm Bà Chúa đầu thai và 12 Bà Mụ. Vì theo quan niệm xa xưa, các bà mụ đã hình thành và dạy dỗ chăm sóc đứa trẻ biết ăn biết nói, biết cười,… Do đó, các bậc phụ huynh cần phải bày lễ để tạ ơn các bà Mụ. Và lễ cúng đầy tháng để thông báo đến với gia đình, bạn bè họ hàng và các ông bà tổ tiên thành viên mới trong gia đình và cũng là dịp để bé nhận những lời chúc tốt đẹp từ người thân, bạn bè.

Chuẩn bị mâm cúng đầy tháng theo đạo Phật như thế nào?

Theo Phật Giáo, đây là lễ cầu mong muốn cho bé được khoẻ mạnh, có cuộc sống bình an và cầu mong các vị thần, Đức Phật phù hộ, bảo vệ bé. Chính vì vậy, gia đình nên chuẩn bị mâm lễ cúng chay đầy tháng thanh tịnh cho bé, không nên rườm rà, phô trương tránh giết heo, mổ gà.

Lễ vật cúng đầy tháng cho bé gồm:

12 chén chè nhỏ – 1 chén chè lớn. (bé trai là chè đậu trắng và bé gái là chè trôi nước)

12 dĩa xôi nhỏ – 1 dĩa xôi lớn

12 chén cháo nhỏ – 1 chén cháo lớn

12 ly nước trắng nhỏ – 1 ly nước lớn

Bánh hỏi

Trầu têm cánh phượng, trà, hương, đèn cầy, muối, gạo, hoa,…

Các loại bánh chay

Ngũ quả

Ngoài ra nên có các lễ vật bày biện lên bàn thờ Phật, Gia tiên trong nhà.

– Cách sắp mâm và cúng đầy tháng

Theo quan niệm dân gian, mâm cúng được sắp đặt theo quy tắc phía Đông đặt bình hoa và đèn, phía Tây để bày đồ cúng. Thường thì mâm lễ cúng sẽ được xếp thành hai bàn: Một bàn để bày lễ cúng bà Chúa đầu thai và bàn còn lại được dùng để bày lễ cúng 12 bà mụ.

Vì là cúng đầy tháng theo đạo Phật cho bé nên cha mẹ cần tụng kinh Địa Tạng để cầu nguyện cho con, phóng sanh, làm việc phước thiện, tránh ăn mặn,… để hồi hướng phước lành báo cho con.