Cúng Giỗ 3 Năm / Top 6 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Apim.edu.vn

Văn Khấn Ngày Giỗ, Bài Cúng Giỗ 3 Năm, Cúng Lễ Ngày Giỗ Hết (Lễ Đại Tường) Như Thế Nào

Rate this post

Đang xem: Cúng giỗ 3 năm

Những bài chia sẻ hay nhất

Tìm hiểu về thủ tục cúng giỗ

Ngày giỗ hay còn gọi là thủ tục ma chay, là ngày mất của một thành viên nào đó trong gia đình tính theo thời gian âm lịch. Là dịp để người thân, con cháu tổ chức cúng cơm hàng năm để tưởng nhớ đến người đã mất, là thời điểm thích hợp để gặp mặt nhận họ hàng và bàn bạc về các công việc chung của gia đình nói riêng và dòng họ nói chung.

Cúng giỗ ông bà, cha mẹ đã khuất luôn được thực hiện chỉn chu, nghiêm trang

Thủ tục cúng giỗ vào ngày nào đúng?

Trong phong tục ma chay, cúng giỗ, dựa vào thời gian mất của người đã khuất con cháu sẽ tiến hành 3 ngày giỗ với 3 nghi thức khác nhau. Gồm:

+ Giỗ đầu: Là ngày giỗ đầu tiên của người đã mất được tiến hành sau 1 năm về cõi vĩnh hằng. Giỗ đầu cũng là thời gian nằm trong kỳ tang chế, vẫn đang trong không khí bi ai và buồn thảm.

Có 3 ngày giỗ với 3 thủ tục cúng giỗ+ Giỗ hết: Là ngày giỗ được tiến hành sau khi người quá cố đã mất được hai năm. Thủ tục ma chay trong thời gian này vẫn được tổ chức với nghi thức trang nghiêm.

+ Giỗ thường: Là ngày giỗ được tiến hành sau khi quá cố đã mất được 3 năm trở lên. Đối với ngày giỗ thường, người thân, con cháu sẽ không mặc tang phục nữa. Là thời điểm để con cháu sum họp lại với nhau, tưởng nhớ người đã mất, trò chuyện và bàn bạc về chuyện gia đình hay dòng họ.

Bài văn khấn trong thủ tục cúng giỗ

Khi tổ chức các thủ tục cúng giỗ, không thể thiếu bài văn cúng giỗ đầu. Thực tế, các bài văn khấn giỗ đầu có sự khác nhau giữa các đối tượng, cấp bậc. Khác nhau giữa văn khấn cúng giỗ ông bà nội ngoại với cha mẹ, chồng chồng. Khác nhau giữa văn khấn cúng giỗ trẻ sơ sinh với bà cô tổ, ông mãnh.

Khi cúng giỗ không thể thiếu bài văn cúng giỗBài viết hôm nay sẽ hướng dẫn các bạn một số bài văn cúng giỗ đầu, cụ thể:

Con lạy chín phương trời, mười phương chư Phật, chư Phật mười phương. Hôm nay là ngày…tháng…năm…, âm lịch tức ngày….tháng…năm…dương lịch.

Tại (địa chỉ):……Con/cháu/ phu/ thê là………cùng các chú bác, cùng anh rể, chị gái, các em trai gái dâu rể, con cháu nội ngoại kính lạy.Nay nhân ngày lễ Chung Thất theo nghi lễ cổ truyền, có kính cẩn sắm các thứ lễ vật gồm có:…………

Kính dâng lễ mọn biểu lộ lòng thành.

Trước linh vị của ….(tên người đã khuất)

Xin kính cẩn trình thưa rằng:

Cha/ mẹ/vợ/ chồng/con/cháu… đi đâu, vội vàng chi mấy

Trời cao có thấy, thảm thiết muôn phần thương thay!

Đời người giấc mộng, hình ảnh phù vân

Ngày tựa chim hay, tiết vừa bốn chín (hoặc trăm ngày)

Thoi đưa thấm thoát nay đã bảy tuần (hoặc trăm ngày)

Cây lặng gió lay, khóc làm sao được

Lưng cơm đĩa muối, gọi chút đền ân

Xin cha (mẹ) về thượng hưởng.

Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.

Con kính lạy Đức Đương cảnh Thành hoàng chư vị Đại Vương.

Con kính lạy ngài Đông Trù Tư mệnh Táo phủ Thần Quân.

Con kính lạy các ngài Thần linh, Thổ địa cai quản trong xứ này.

Con kính lạy chư gia tiên Cao Tằng Tổ tiên nội ngoại họ

Tín chủ (chúng) con là:………… Tuổi……………………

Ngụ tại:………………………………………………………..

Hôm nay là ngày……………tháng……….năm….…………(Âm lịch).

Chính ngày Giỗ Đầu của:………………………………………………

Năm qua tháng lại, vừa ngày húy lâm. Ơn võng cực xem bằng trời biển, nghĩa sinh thành không lúc nào quên. Càng nhớ công ơn gây cơ tạo nghiệp bao nhiêu, càng cảm thâm tình, không bề dãi tỏ. Nhân ngày chính giỗ, chúng con và toàn gia con cháu, nhất tâm sắm sửa lễ vật kính dâng, đốt nén tâm hương dãi tỏ tâm thành.

Thành khẩn kính mời:…………………………..Mất ngày tháng năm (Âm lịch):………………………………………..

Mộ phần táng tại:…………………………………………..

Cúi xin linh thiêng giáng về linh sàng, chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật, độ cho con cháu bình an, gia cảnh hưng long thịnh vượng.

Chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin được phù hộ độ trì.

Phục duy cẩn cáo!

Đây là Website chính thức của công viên nghĩa trang Hòa Bình

Tham khảo bảng giá đất nghĩa trang Lạc Hồng Viên: Tại đây!

Tìm Hiểu 3 Bài Văn Khấn Cúng Giỗ Chuẩn Tâm Linh Năm 2022

Cúng giỗ ông bà cha mẹ là một trong những nghi thức truyền thống của người Việt ta từ ngàn đời nay. Phong tục này giúp con cháu luôn ghi nhớ đến ông bà tổ tiên người có công lao sinh sinh thành và dưỡng dục con cháu. Đặc biệt trong ngày giỗ thì việc khấn vái rất quan trọng. Vậy văn khấn cúng giỗ như thế nào đúng chuẩn tâm linh? Mời bạn theo dõi bài chia sẻ sau đây của xoso88.net.

Tìm hiểu ý nghĩa của việc thực hiện nghi thức cúng giỗ ông bà cha mẹ

Trước khi tìm hiểu bài văn khấn cúng giỗ thì chúng ta cùng tìm hiểu ý nghĩa của nghi thức này:

Cúng giỗ được xem là một nghi thức vô cùng quan trọng đối với người Việt. Bởi vì nó thể hiện lòng biết ơn và tưởng nhớ của con cháu đối ông bà, cha mẹ đã khuất có công sinh thành và nuôi dưỡng chúng ta.

Đồng thời nghi thức này còn thể hiện nét đẹp truyền thống văn hóa của người Việt Nam: “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.

3 bài văn khấn cúng giỗ ông bà cha mẹ đúng chuẩn tâm linh

Theo nhiều tài liệu tâm linh để lại thì phong tục cúng giỗ của người Việt đều phải trải qua 3 thời điểm là cũng giỗ đầu, giỗ hết và giỗ thường. 3 bài văn khấn cúng giỗ sau đây hoàn toàn dựa trên 3 thời điểm này:

Văn khấn gia tiên ngày giỗ đầu

“Con lạy chín phươngTrời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương. – Con kính lạy Đức Đương cảnh Thành hoàng chư vị Đại Vương. – Con kính lạy ngài Đông Trù Tư mệnh Táo phủ Thần Quân. – Con kính lạy các ngài Thần linh, Thổ địa cai quản trong xứ này. – Con kính lạy chư gia tiên Cao Tằng Tổ tiên nội ngoại họ……………………………………….. Tín chủ (chúng) con là:………………………………………….. Tuổi…………………………………….. Ngụ tại:……………………………………………………………………………………………………………… Hôm nay là ngày……………tháng……….năm…………….( âm lịch). Chính ngày Giỗ Đầu của:……………………………………………………………………………………… Năm qua tháng lại, vừa ngày húy lâm. Ơn võng cực xem bằng trời biển, nghĩa sinh thành không lúc nào quên. Càng nhớ công ơn gây cơ tạo nghiệp bao nhiêu, càng cảm thâm tình, không bề dãi tỏ. Nhân ngày chính giỗ, chúng con và toàn gia con cháu, nhất tâm sắm sửa lễ vật kính dâng, đốt nén tâm hương dãi tỏ tấc thành. Thành khẩn kính mời:………………………………………………………………………………………….. Mất ngày……………….. tháng……………………..năm……………………………( âm lịch) Mộ phần táng tại:………………………………………………………………………………………………… Cúi xin linh thiêng giáng về linh sàng, chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật, độ cho con cháu bình an, gia cảnh hưng long thịnh vượng. Tín chủ con lại xin kính mời các cụ Tổ Tiên, nội ngoại, Tổ Khảo, Tổ Tỷ, Bá thúc, Cô Di và toàn thể các Hương linh gia tiên đồng lai hâm hưởng. Tín chủ lại mời vong linh các vị Tiền chủ, Hậu chủ trong đất này cùng tới hâm hưởng. Chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin được phù hộ độ trì. Phục duy cẩn cáo!”

Văn khấn cúng giỗ ngày giỗ hết

“Nam mô a di Đà Phật! Nam mô a di Đà Phật! Nam mô a di Đà Phật! – Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương. – Con kính lạy Đức Đương cảnh Thành hoàng chư vị Đại Vương. – Con kính lạy ngài Đông Trù Tư mệnh Táo phủ Thần Quân. – Con kính lạy các ngài Thần linh, Thổ địa cai quản trong xứ này. – Con kính lạy chư gia tiên Cao Tằng Tổ tiên nội ngoại họ… … … … … … … Tín chủ (chúng) con là:… … … … … … … Ngụ tại:… … … … … … . Nhân ngày mai là ngày Giỗ Hết của… … … … … … … Tín chủ con cùng toàn thể gia khuyến tuân theo nghi lễ, sửa biện hương hoa lễ vật dâng cúng các vị Tôn thần. Cúi xin các vị Bản gia, Thổ Công, Táo phủ Thần quân, Ngữ phương, Long mạch và các vị Thần linh, hiển linh chứng giám, thụ hưởng lễ vật, phù hộ cho toàn gia chúng con an ninh khang thái, vạn sự tốt lành. Chúng con kinh thỉnh các Tiên linh, Gia tiên họ… … … … … …. và những vong hồn nội tộc được thờ phụng vị cùng về hâm hưởng. Chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin được phù hộ độ trì. Nam mô a di Đà Phật! Nam mô a di Đà Phật! Nam mô a di Đà Phật!”

Văn khấn ngày giỗ thường

Nam mô a di Đà Phật! Nam mô a di Đà Phật! Nam mô a di Đà Phật! – Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương. – Con kính lạy Đức Hoàng Thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần. – Con kính lạy ngài Đông Trù Tư mệnh Táo phủ Thần Quân. – Con kính lạy các ngài Thần linh, Thổ địa cai quản trong xứ này. – Con kính lạy Tổ Tiên nội ngoại họ…………………………………………………. Tín chủ (chúng) con là…………………………………………………………………… Ngụ tại…………………………………………………………………………………. Hôm nay là ngày …………… tháng ……………. Năm……………………………… Là chính ngày Cát Kỵ của………………………………………………………………… Thiết nghĩ………………….(dài) vắng xa trần thế, không thấy âm dung. Năm qua tháng lại ngày húy lâm. Ơn võng cực xem bằng trời biển, nghĩa sinh thành không lúc nào quên. Càng nhớ công ơn gây cơ tạo nghiệp bao nhiêu, càng cảm thâm tình, không bề dãi tỏ. Ngày mai Cát Kỵ, hôm nay chúng con và toàn gia con cháu thành tâm sắm lễ, quả cau, lá trầu, hương hoa trà quả, thắp nén tâm hương dâng lên trước án thành khẩn kính mời……………………………………………………………………… Mất ngày ……………..tháng………………….năm…………………………………….. Mộ phần táng tại………………………………………………………………………….. Cúi xin linh thiêng giáng về linh sàng, chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật, độ cho con cháu an ninh khang thái, vạn sự tốt lành, gia cảnh hưng long thịnh vượng. Con lại xin kính mời các vị Tổ Tiên nội ngoại, Tổ Khảo, Tổ Tỷ, Bá Thúc, Huynh Đệ, Cô Di, và toàn thể các Hương linh gia tiên đồng lai hâm hưởng. Tín chủ con lại xin kính mời ngài Thổ Công, Táo Quân và chư vị Linh thần đồng lai giám cách thượng hưởng. Tín chủ lại mời các vị vong linh Tiền chủ, Hậu chủ nhà này, đất này cùng tới hâm hưởng. Chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin được phù hộ độ trì. Nam mô a di Đà Phật! Nam mô a di Đà Phật! Nam mô a di Đà Phật!

Lấy Chồng Xa 3 Năm Giỗ Mẹ Không Được Về, Lần Giỗ Thứ 4 Quyết Định Bồng Con Về Quê

Ngày quyết định lấy Thái gia đình Huê đã ngăn cản:

– Nhà nó mãi tận trong ấy xa xôi cách trở gả mày vào đó sau có đẻ đái ốm đau hay bệnh tật gì bố mẹ không vào thăm nom giúp đỡ được đâu. Thôi bỏ đi con à.

– Nhưng con với anh ấy yêu nhau mà mẹ. Với lại chúng con đã xác định lập nghiệp ngoài này rồi nên cũng không vào trong đấy đâu mà mẹ. Con ở ngoài này thì gặp bố mẹ thường xuyên ấy, khéo con về nhiều lại đuổi con đi.

Thấy 2 con yêu nhau quá cấm thì không nỡ mà Thái cũng nói với bố mẹ người yêu là anh quyết định lập nghiệp ngoài này rồi. Nhà anh 2 anh em trai, anh cả ở trong đó nên anh cũng không nhất thiế phải về quê. Thế nên bố mẹ Huê mới đồng ý cho cưới.

Nhưng chẳng thể nào ngờ mới cưới vợ được 3 tháng thì công ty Thái phá sản. Lúc này bố và anh trai Thái ở trong quê đang làm chủ thầu xây dựng, quản lý khoảng 20 thợ xây trong làng đi nhận thầu xây dựng 1 vài tỉnh lân cận. Làm ăn được nên anh Thái gọi em trai về:

– Mày ở ngoài đó suốt đời làm thuê thì không khá lên được đâu, lại mang tiếng ăn bám nhà vợ chó chui gầm trạn . Tốt nhất về đây làm với anh và bố.

– Vâng, để em tính.

Vậy là kế hoạch cả 2 vợ chồng định về gần nhà Huê xin làm việc đã bị thất bại . Thái nhất quyết 1 mực đòi về quê làm ăn với bố và ăn, vợ nói thế nào cũng không nghe. Thậm chí lúc đó Thái còn nói nếu Huế không theo anh thì cô có thể ở lại.

Thuyền theo nái, gái theo chồng biết phải làm sao . Lấy chồng rồi mà ở lại nhà đẻ 1 mình thì làng xóm cũng dị nghị, bố mẹ cô còn mặt mũi nào. Vậy là Huê đành phải nuốt nước mắt theo chồng vào quê anh cách nhà cô hơn nghìn km ở tận miền trung xa xôi.

Về đó được tròn 2 tháng, vẫn còn đang chân ướt chân ráo làm quen với mọi thứ thì Huê nhận tin sét đánh, mẹ cô bị đôt tử qua đời trong đêm. Huê đau đớn trở ra chịu tang mẹ nhưng cũng chỉ được 3 ngày là phải trở vào vào vì mẹ chồng trong đó bệnh trọng. Anh chị và bố chồng đều không có nhà.

Sau đó thì Huê mang bầu rồi sinh con. Giỗ đầu mẹ là lúc cô mới sinh nên không về được. Bảo chồng về thì anh nói bận, đợi lần sau gia đình về cả. Nhưng rồi giỗ thứ 2, thứ 3 cô vẫn không thể về được vì lần nào giục về chồng cũng nói bận. Cô đòi về 1 mình thì anh tuyên bố thẳng mặt:

– Từ ngày cô đẻ nhà cô đã ai vào thăm chưa mà cô phải về thăm họ.

– Anh nói thế mà nghe được à. Nhà tôi bố già ốm đau, mẹ chết anh trai tôi 1 mình cáng đáng mọi việc sao mà vào được. Anh cũng đã lần nào ra thăm nhà tôi chưa ngoài cái lần mẹ tôi chết.

– Tôi chẳng việc gì phải ra ngoài đó cả. Cô đi lấy chồng rồi thì nên biết phận. Thích về về 1 mình để con tôi lại, cô đi đâu tôi không quan tâm nhưng con tôi thì không thể theo cô.

Huê cay đắng nuốt nước mắt vào trong, cô không ngờ người đàn ông ngày xưa từng hứa lên hứa xuống sẽ coi bố mẹ cô như chính bố mẹ đẻ anh giờ lại tráo trở thế này. Gần tới giỗ thứ 4 của mẹ, anh trai Huê gọi điện:

– Em ơi, lần này em có về được không?? Bố mong em và cháu lắm sức khỏe bố dạo này hơi yếu, hay ho về đêm.

– Vâng, anh để em thu xếp ạ.

Huê đã thử ngon ngọt nói với chồng nhưng Thái vẫn giữ nguyên quan điểm cũ một mực không theo vợ ra Bắc và cấm cô không được đưa con theo. Nhưng lần này Huê quyết định rồi, cô lặng lẽ gói quần áo rồi bồng con trở ra để có thể cúng mẹ đúng ngày giỗ. Hi vọng rồi chồng cô sẽ hiểu.

Tới ga, Huê gọi điện cho anh trai ra đón. Anh có hỏi chồng thì Huê cứ nói là chồng bận có thể về sau. Nhưng rồi vừa mới bước chân vào tới nhà chưa kịp chào bố thì Huê đã nhận được tin sét đánh từ chồng. Suốt quãng đường chồng không 1 lời hỏi thăm 2 mẹ con, dù Huê lên tàu đã nhắn lại là cô về quê. Và bây giờ anh ta mới gọi:

– Mày quay trở về mày chết luôn với tao. Giờ tao sẽ ra tao đón con tao về.

Chẳng ngờ anh trai Huê đứng ngay sau nên đã nghe thấy em rể nói vọng ra từ điện thoại. Anh giằng luôn điện thoại của Huê:

– Tao thách mày ra đây đấy. Mày thử ra đây xem, còn em tao từ giờ nó ở luôn ngoài này không bao giờ quay lại đấy nữa. Có thằng chồng khốn nạn như mày thà nó ở 1 mình nuôi con còn hơn.

Huê thắp hương cho mẹ mà 2 hàng nước mắt chảy ra. Không ngờ cái kiếp lấy chồng xa của cô lại khổ tới vậy.

Phương Lâm/ Theo Thể thao xã hội

Nỗi lòng của cô gái lấy chồng xa: bố ruột đau vẫn phải chăm cho mẹ chồng trước

Những dòng tâm sự có nuối tiếc, buồn bã của cô gái quê ở Nghệ An lấy chồng Hà Nội này hiện đang nhận được sự đồng cảm của nhiều người. Mặc dù có chồng yêu, con ngoan, công việc ổn định, nhưng cô gái vẫn không ngừng trăn trở khi đi lấy chồng xa, không thể báo đáp gia đình.

Đây là những lời tâm sự được đăng tải trên trang NEU Confessions. Cô gái quê ở Nghệ An, lấy chồng Hà Nội và hiện đang mang bầu em bé thứ 2. Không phải là cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, trong câu chuyện của mình, cô gái đã tâm sự về những thiệt thòi, nỗi buồn và giọt nước mắt khi lấy chồng xa nên không thể chu toàn với nhà mẹ đẻ. Tâm sự này đã nhận được rất nhiều sự đồng cảm từ những người chung hoàn cảnh.

“Chào tất cả các em, chị là một cựu sinh viên K48 trường ta, có chồng và đang mang bầu bé thứ 2. Vợ chồng chị rất rất hợp tuổi nha (chị 88 và chồng chị 81- đi xem bói toán hay những người am hiểu vấn đề tuổi tác đều khen 2 tuổi này). Thế mà bây giờ chị đang ngồi lủi thủi, buồn, khóc và gõ những dòng tâm sự này với các em.

Chị quê ở Nghệ An, bố mẹ đều là công chức nhà nước, cũng thuộc kiểu gia đình gia giáo và khá giả. Nhà có 2 chị em gái, em gái chị cũng học một trường Đại học có tiếng ở Hà Nội, nhưng tốt nghiệp xong xin về làm việc ở quê. Ngày xưa đi học, chị rất chăm chỉ, cộng với một chút thông minh và may mắn nên đã ra trường với tấm bằng xuất sắc.

Khi đó bố mẹ chị cũng nhờ một vài mối quan hệ ở quê xin cho chị về làm ở 1 sở tại Nghệ An. Chị lúc đó mới 22 tuổi như các bạn mới ra trường, ý chí cao ngút ngàn, tham vọng là sẽ xin việc và lấy chồng Hà Nội, sẽ thay đổi cuộc sống kiểu công chức bình thường như gia đình, sẽ năng động tìm kiếm một “kiểu sống” khác hiện đại hơn.

Chị rất tự hào vì tấm bằng của mình, vì kết quả chị dành được, thực chất là cái tôi của chị quá lớn. Chị đã xin bố mẹ sẽ thử làm việc ở đây vài năm, nếu không ổn định sẽ về quê theo ý bố mẹ, và bố mẹ đồng ý.

Ra trường, chị xin vào công ty xuất nhập khẩu, công việc ở đây giống như chị mong ước và kỳ vọng, môi trường thật sự năng động cho mình thể hiện năng lực. Chị cũng gặp và yêu chồng hiện tại của chị. Lúc đó, anh ấy là kế toán trưởng của một phòng ban, bố anh ấy là giáo viên đại học, mẹ là bác sỹ, gia đình cũng thuộc dạng có điều kiện ở đây. Chị bắt đầu tin vào số phận đã đem mọi thứ thuận lợi cho chị và chị cảm thấy thật may mắn. Bọn chị yêu và tìm hiểu 1 năm rồi cưới.

Đọc đến đây có lẽ nhiều bạn nghĩ, chị kể chị đang khóc chắc lại là chồng cặp bồ bịch lăng nhăng. Nhưng không phải các em ạ, chị đang buồn cho bản thân chị.

Sau khi chị ra trường đi làm một thời gian, ở quê bà ngoại chị ốm nặng. Từ nhỏ tới lớn, chị em chị luôn sống có bà bên cạnh. Đi học Tết hay hè về bà đều cho tiền, tuy ít ỏi nhưng chị cảm thấy rất quý và thương bà rất nhiều. Thời gian bà ốm, cũng vì công việc bận rộn nên chị không thể sắp xếp thời gian về thăm bà được, chứ không phải như thời đang học đại học. Mỗi tối về muộn, thỉnh thoảng chị kịp gọi dăm ba câu hỏi han bố mẹ em và bà.

Bà ngoại ốm nặng khoảng 3 tháng sau bà mất, khi bà mất, công ty cũng cho chị nghỉ phép được 3 ngày. Khi về đến nhà thì mọi người đang chờ để mang bà đi hỏa táng, chị cũng không thể nhìn được bà lần cuối cùng, mọi người đều nói rằng bà rất mong chờ và cứ gọi tên chị. Chị đã khóc vì ân hận, trách móc bản thân.

Rồi mọi việc lại trôi qua. Chị lấy chồng, ở riêng và sinh bé trai đầu lòng. Hết tháng ở cữ mẹ chồng và chồng chăm thì mẹ chị ra để chăm cháu đến khi con chị 5 tháng, thực ra là mẹ cũng đi đi về về Vinh – Hà Nội.

Mẹ chị bị bệnh tiền đình, say xe, mỗi lần đi ra đây đều nằm liệt cả ngày rồi mới tỉnh dậy chơi với cháu. Chị thương mẹ vô cùng, cứ nghĩ vì mình mà lại làm khổ mẹ.

Khi con được hơn 5 tháng, mẹ chị về, chị thuê giúp việc rồi đi làm, ông bà nội cũng thỉnh thoảng sang chơi với cháu. Sau đó vài tuần chị nhận tin ông nội của chị ở quê lại bị tai biến nặng, chị xin về thăm ông nhà chồng không cho, nói rằng con đang nhỏ.

Đây là những lời tâm sự được đăng tải trên trang NEU Confessions. Cô gái quê ở Nghệ An, lấy chồng Hà Nội và hiện đang mang bầu em bé thứ 2. Không phải là cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, trong câu chuyện của mình, cô gái đã tâm sự về những thiệt thòi, nỗi buồn và giọt nước mắt khi lấy chồng xa nên không thể chu toàn với nhà mẹ đẻ. Tâm sự này đã nhận được rất nhiều sự đồng cảm từ những người chung hoàn cảnh.

“Chào tất cả các em, chị là một cựu sinh viên K48 trường ta, có chồng và đang mang bầu bé thứ 2. Vợ chồng chị rất rất hợp tuổi nha (chị 88 và chồng chị 81- đi xem bói toán hay những người am hiểu vấn đề tuổi tác đều khen 2 tuổi này). Thế mà bây giờ chị đang ngồi lủi thủi, buồn, khóc và gõ những dòng tâm sự này với các em.

Chị quê ở Nghệ An, bố mẹ đều là công chức nhà nước, cũng thuộc kiểu gia đình gia giáo và khá giả. Nhà có 2 chị em gái, em gái chị cũng học một trường Đại học có tiếng ở Hà Nội, nhưng tốt nghiệp xong xin về làm việc ở quê. Ngày xưa đi học, chị rất chăm chỉ, cộng với một chút thông minh và may mắn nên đã ra trường với tấm bằng xuất sắc.

Khi đó bố mẹ chị cũng nhờ một vài mối quan hệ ở quê xin cho chị về làm ở 1 sở tại Nghệ An. Chị lúc đó mới 22 tuổi như các bạn mới ra trường, ý chí cao ngút ngàn, tham vọng là sẽ xin việc và lấy chồng Hà Nội, sẽ thay đổi cuộc sống kiểu công chức bình thường như gia đình, sẽ năng động tìm kiếm một “kiểu sống” khác hiện đại hơn.

Chị rất tự hào vì tấm bằng của mình, vì kết quả chị dành được, thực chất là cái tôi của chị quá lớn. Chị đã xin bố mẹ sẽ thử làm việc ở đây vài năm, nếu không ổn định sẽ về quê theo ý bố mẹ, và bố mẹ đồng ý.

Ra trường, chị xin vào công ty xuất nhập khẩu, công việc ở đây giống như chị mong ước và kỳ vọng, môi trường thật sự năng động cho mình thể hiện năng lực. Chị cũng gặp và yêu chồng hiện tại của chị. Lúc đó, anh ấy là kế toán trưởng của một phòng ban, bố anh ấy là giáo viên đại học, mẹ là bác sỹ, gia đình cũng thuộc dạng có điều kiện ở đây. Chị bắt đầu tin vào số phận đã đem mọi thứ thuận lợi cho chị và chị cảm thấy thật may mắn. Bọn chị yêu và tìm hiểu 1 năm rồi cưới.

Đọc đến đây có lẽ nhiều bạn nghĩ, chị kể chị đang khóc chắc lại là chồng cặp bồ bịch lăng nhăng. Nhưng không phải các em ạ, chị đang buồn cho bản thân chị.

Sau khi chị ra trường đi làm một thời gian, ở quê bà ngoại chị ốm nặng. Từ nhỏ tới lớn, chị em chị luôn sống có bà bên cạnh. Đi học Tết hay hè về bà đều cho tiền, tuy ít ỏi nhưng chị cảm thấy rất quý và thương bà rất nhiều. Thời gian bà ốm, cũng vì công việc bận rộn nên chị không thể sắp xếp thời gian về thăm bà được, chứ không phải như thời đang học đại học. Mỗi tối về muộn, thỉnh thoảng chị kịp gọi dăm ba câu hỏi han bố mẹ em và bà.

Bà ngoại ốm nặng khoảng 3 tháng sau bà mất, khi bà mất, công ty cũng cho chị nghỉ phép được 3 ngày. Khi về đến nhà thì mọi người đang chờ để mang bà đi hỏa táng, chị cũng không thể nhìn được bà lần cuối cùng, mọi người đều nói rằng bà rất mong chờ và cứ gọi tên chị. Chị đã khóc vì ân hận, trách móc bản thân.

Rồi mọi việc lại trôi qua. Chị lấy chồng, ở riêng và sinh bé trai đầu lòng. Hết tháng ở cữ mẹ chồng và chồng chăm thì mẹ chị ra để chăm cháu đến khi con chị 5 tháng, thực ra là mẹ cũng đi đi về về Vinh – Hà Nội.

Mẹ chị bị bệnh tiền đình, say xe, mỗi lần đi ra đây đều nằm liệt cả ngày rồi mới tỉnh dậy chơi với cháu. Chị thương mẹ vô cùng, cứ nghĩ vì mình mà lại làm khổ mẹ.

Khi con được hơn 5 tháng, mẹ chị về, chị thuê giúp việc rồi đi làm, ông bà nội cũng thỉnh thoảng sang chơi với cháu. Sau đó vài tuần chị nhận tin ông nội của chị ở quê lại bị tai biến nặng, chị xin về thăm ông nhà chồng không cho, nói rằng con đang nhỏ.

Ông bị tai biến nặng nên phải sống thực vật, mặc dù nhà của các cậu các cô ở gần nhưng bố mẹ chị cũng rất vất vả sang chăm ông, trực viện… Ngồi lủi thủi chị lại suy nghĩ, lại khóc, lại ân hận…

1 năm sau, ông cũng qua đời, chị cũng phần vì con nhỏ, phần vì công việc nên không thể về được, đành đợi gần Tết thu xếp về quê cùng chồng và con rồi thắp hương cho ông. Khi đó, ngồi trước mộ ông chị khóc nức nở, vì nghĩ mình là đứa cháu bất hiếu, vì không lo được gì cho ông bà.

Bây giờ, chị đang mang bầu bé thứ 2, vì thằng anh mới 4 tuổi rưỡi nên mẹ chị lại phải đi Vinh – Hà Nội chăm cháu. Bầu được 5 tháng, bố chị lại bị cao huyết áp, ngất xỉu phải đi cấp cứu ở bệnh viện.

Mình xin mẹ chồng về chăm bố vài ngày, nhà chồng chị đồng ý. Nhưng sau đó, mẹ chồng chị phải đi cấp cứu vì bà bị bệnh tim, chồng lại đi công tác xa, 2 chị gái chồng thì 1 người sống trong Sài Gòn, một người đang định cư ở nước ngoài nên một lần nữa chị lại phải ở lại nấu cháo, trực viện mẹ chồng mà không thể về quê chăm bố đẻ.

Đi làm về, chị đón con, may mà bác giúp việc lo việc nhà và nấu sẵn cháo, ăn vội bát cơm chị lại chạy lên viện đưa cho mẹ chồng, trực bà đến 10h đêm thì bố chồng đến thay cho về. Và giờ là 2h sáng, sau khi hoàn thành được đống giấy tờ mai nộp sếp, chị sang phòng con ngó xem nó ngủ chưa, lại quay về phòng làm việc lủi thủi ngồi khóc.

Các em ạ, chị không vơ đũa cả nắm, cuộc sống có người này người kia, nhưng đúng là thiệt thòi nhất là con gái lấy chồng xa bố mẹ.

Bố mẹ nuôi cho ăn học, lớn khôn thành người, học đại học nhiều ước mơ hoài bão, những vẫn ở trong vòng tay bố mẹ thì cuộc sống vẫn còn màu hồng, vẫn còn mơ ước và lắm dự định cao ngút trên trời. Nhưng lấy chồng xong, bố mẹ mình mất đi 1 đứa con, cho dù nhiều dự định nhưng việc lấy chồng sinh con cũng là một rào cản của người phụ nữ các em ạ, con đường để hiện thực hóa cái giấc mơ màu hồng đó ngày càng gian nan hơn. Đàn bà không giống như đàn ông.

Chưa kể cuộc sống vợ chồng có lúc thế này thế khác, lúc “cơm không lành canh không ngọt”, cãi vã giận hờn không biết chia sẻ cùng ai, cứ giữ trong lòng không bao giờ kể cho bố mẹ mình vì sợ bố mẹ buồn, càng không dám kể cho bố mẹ chồng, chỉ nhìn vào 2 đứa con mà tự an ủi mình.

Những biến cố cuộc sống tuy không phải quá nặng nề nhưng nó thật sự khác xa những cái mơ mộng màu hồng, khi dính vào cuộc sống cơm áo gạo tiền, bon chen chèn ép thì nó thành màu xám các em ạ, không giống mình nghĩ đâu.

Chị không phải đang bị quan cuộc sống, vì chị vẫn đang có 1 công việc tốt, chồng yêu, con ngoan, nhà chồng cũng rất tốt.

Duy chị chỉ buồn vì đã không được ở bên chăm sóc bố mẹ mình những lúc ốm đau, những giai đoạn khó khăn nhất. Bây giờ chị mới thấm thía câu nói “Con gái mà lấy chồng gần, có bát canh cần mẹ cũng mang cho, con gái mà lấy chồng xa, một là mất giỗ, hai là mất con”.

Đúng là bố mẹ chị mất con thật các em ạ, mỗi lần nghĩ tới gia đình là tim chị đau thắt lại. Lo cho con ăn học nên người, khi trưởng thành chưa kịp đền đáp công ơn bố mẹ thì lại tất bật lo cho một gia đình xa lạ khác. Mỗi khi lễ Tết mình đều phải dành thời gian nhiều hơn cho bên chồng, cuối cùng rồi mới đến bố mẹ mình. Ra đi thì lại lấy bao nhiêu gà thịt trứng rau đem lên thành phố. Đừng có nói là do số phận, hay vì yêu một chàng trai mà đổ lỗi duyên số không thể về gần bố mẹ, tất cả là do mình quyết định và chọn lựa các em ạ. Về gần bố mẹ, ăn ít đi một tý, tiêu ít đi một tý nhưng được chăm sóc bố mẹ, thỉnh thoảng mua cái quà cái bánh cho bố mẹ, còn hơn là đến tháng gửi tiền về rồi khi bố mẹ nhắm mắt xuôi tay cũng không thể ở bên.

Mặc dù biết cuộc sống là phải ước mơ hoài bão, nhưng cái ước mơ mỗi thời điểm nó sẽ khác nhau, như cái gu âm nhạc của mỗi thế hệ, cứ mỗi lớn lại bớt trẻ trâu đi. Đến khi chị hiểu ra thì mọi thứ không thể thay đổi được. Nên chị khuyên các em rất chân thành, hãy nghĩ đến bố mẹ các em trước.

Đây là cảm xúc của chị, chị viết ra để nhẹ nỗi lòng. Sáng mai chị vẫn phải đi làm, tối về vẫn trực viện mẹ chồng và bố chị cũng vẫn đang nằm viện. Buồn, thật sự rất buồn và hối hận…”.

Theo Trí thức trẻ

Trông thấy mẹ chồng vào nhà nghỉ, con dâu rơi nước mắt khi biết sự thật phía sau Ngọc cũng rất kính trọng mẹ chồng và luôn coi bà như một tấm gương để mình học hỏi. Vậy mà những hình ảnh trước nhà nghỉ lúc nãy đã làm cô choáng váng… Trưa nay, Ngọc không về nhà ngay sau khi hết giờ làm như thường…

Mùng 3 Tháng 3 Ngày Giỗ Đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh

Mộ phần Đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh tại thôn Vân Cát huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định.

Từ trung tâm Hà Nội, du khách lái xe hướng qua ra đường CT 01/ CT Pháp Vân – Cầu Giẽ. Đến đoạn giao giữa CT Hà Nội – Ninh Bình và CT Pháp Vân – Cầu Giẽ, lái xe qua vòng xuyến sang QL 21B vào Đại lộ Thiên Trường. Tại vòng xuyến Big C Nam Định, dẽ phải vào QL10/QL38B qua cầu Lộc An tới Đại Lộ Lê Đức Thọ qua cầu Nam Định dẽ phải vào ĐT490/ ĐT 490C, dẽ trái vào ĐT487 đến ngã rẽ phải thứ 5 dẽ vào và đi thẳng đến ngã dẽ thứ 4 bên trái dẽ vào đi thẳng theo đường làng Phú Hào là tới đền Phủ Giày.

Đền Phủ Giày thờ ai?

Đền là một quần thể gồm nhiều ngôi đền nhỏ ghép lại. Đặc biệt phải nói đến kiến trúc quan trọng nhất là đền thờ bà chúa Liễu Hạnh (phủ chính), ngay sát chợ Viềng. Các kiến trúc còn lại là Tiên Hương, Vân Các, Công Đồng từ, đền thờ Lý Nam Đế, chùa Linh Sơn, lăng bà chúa Liễu Hạnh. Phủ Tiên Hương được coi là đền chính của Mẫu Liễu Hạnh và thờ bên chồng của Mẫu, còn phủ Vân Cát và Phủ Tổ là nơi thờ Mẫu và bên ngoại (bên bố mẹ đẻ) của Mẫu.

Lịch sử đền Phủ Giày

Đền Phủ Dầy có truyền thuyết kể lại rằng xưa kia vì nhớ thương chồng con trước khi về trời mà bà chúa Liễu Hạnh đã để lại chiếc giày ở trần gian. Cũng có truyền thuyết kể lại rằng vua đi qua vùng này và nghỉ đêm ở quán hàng của bà chúa Liễu Hạnh, sau đó được tặng một đôi giầy nên đã lập nơi thờ tự và gọi đó là Phủ Dầy. Khi gọi Phủ Dầy còn vì chính nơi này có món bánh dày – giò nổi tiếng, lại có người cho rằng: Kẻ Dày xuất phát từ nơi có gò đất nổi lên hình bánh dầy trước cửa phủ.

Phủ Dầy bắt nguồn từ tên một làng cổ là “Kẻ giầy”. Theo “Sự tích công chúa Liễu Hạnh” của Trọng Nội, Xuất bản năm 1959 thì: đời Vua Anh Tông (1557) làng kẻ Giầy đổi thành xã An Thái gồm: Vân Cát, Vân Cầu, Vân La (Vân Đình) và Vân Miếu. Đến đời Gia Long, Vân Cát chia thành 2 xã là Vân Cát và Kim Thái. Sang đời Tự đức (1860) xã An Thái đổi thành 2 thôn Vân Cát và Tiên Hương xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, Tỉnh Nam định.

Vân Cát là nơi sinh ra, Tiên Hương là quê chồng và là nơi chôn cất Mẫu Liễu Hạnh khi Bà qua đời sau lần giáng trần thứ nhất. Phủ Dầy chính là “cái nôi” sinh ra Thánh Mẫu Liễu Hạnh và là tên gọi chung cho một quần thể các di tích của tín ngưỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở huyện Vụ Bản Nam định. Tên di tích được gọi theo địa danh ở địa phương.

Kiến trúc đền Phủ Giày

Đền Phủ Giày gồm 3 quần thể chính:

Phủ Tiên Hương thuộc thôn Tiên Hương, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, Nam Định; nằm cạnh đường giao thông liên xã. Đây là phủ chính trong quần thể di tích Phủ Dầy. Phủ được xây dựng từ thời Lê – Cảnh Trị (1663 – 1671), trải qua bao thăng trầm lịch sử, phủ vẫn giữ được nét cổ kính thời xưa.

Năm 1996 Phủ Tiên Hương đã được sửa chữa lớn để thờ phụ thân của Mẫu Liễu Hạnh và thờ cả đức Thánh Trần. Phủ Tiên Hương còn lưu giữ được một số sắc phong, sớm nhất là đời Lê Chính Hòa, rồi đến Lê Vĩnh Thịnh, Lê Vĩnh Khánh đầu thế kỷ XVIII.Thánh Mẫu được tôn là “Mạ vàng công chúa”, “Mẫu nghi thiên hạ”.

Cảnh quan của phủ rất rộng rãi và thoáng đãng. Mới bước vào, du khách sẽ thấy một giếng nước tròn bên trong là ụ đất để cắm cờ khi diễn ra lễ hội. Cán cờ bằng gậy gỗ, trên đầu buộc túm lá hoặc quạ đen làm thiên sứ của trời. Lá cờ thần được treo trên đỉnh. Tiếp đến là sân lớn diễn ra các trò chơi hay là nơi những sập bán hàng được bày bán trong mùa lễ hội. au sân lớn là ba phương đình với phương du ở giữa và hai bên phương đình làm nơi gác chuông, gác trống. Tiếp nối 3 phương đình là hồ bán nguyệt, xuống hồ bán nguyệt có hai cầu được lát bằng đá, đối xứng qua hồ, bên phải là nhà bia và lầu Cậu, bên trái là nhà bia và lầu Cô.

Kiến trúc các dãy nhà tại Phủ được nối liền nhau tạo thành thể thống nhất. Mỗi nhà sẽ có phòng riêng gọi là cung, có tất cả 4 cung: Cung đệ tứ thờ Tứ phủ công đồng hay còn gọi là ban Công Đồng. Đối xứng với cung Đệ Tứ bên trái là Ban Quan lớn Thủ phủ và bên phải là Ban Chầu Thủ phủ; cung đệ tam thờ Đức Vua cha Ngọc Hoàng và Hội Đồng các quan hay Ngũ vị vương quan; Cung đệ nhị thờ Tứ Vị Chầu bà và ba bộ long ngai; Cung Đệ nhất là cung thờ Tam Tòa Thánh Mẫu. Cung này ở trong cùng. Tuy nhiên, đa phần nơi thờ Mẫu Tứ phủ có nội cung (cung cấm).

Cung cấm có khám kính đặt tượng đồng Mẫu Liễu Hạnh cùng với hai Mẫu Quang cung Quế Anh phu nhân và Quỳnh cung Duy Tiên phu nhân đều được phong thần và sắc phong. Tuy nhiên, không phải lúc nào bạn cũng có thể vào đó được mà phải có sự cho phép của ban quản lý khu di tích mới được đặt chân vào đó.

Bên cạnh các dãy nhà thờ có 1 dãy nhà nữai là Ban Trần Triều. Trong dãy nhà này có đặt ban thờ Ban Trần Triều và Ban Đức Vương Phụ, Vương Mẫu. Đằng sau nơi thờ chính là Động Sơn Trang, nơi này thờ bà Chúa Đệ Nhị Thượng ngàn Hai Chầu và mười hai cô Sơn Trang.

Phủ nằm phía bắc thôn Vân Cát xã Kim Thái, cách phủ Tiên Hương chừng 1 km. Phủ nằm giữa đền làng Vân Cát và chùa Long Vân nơi thờ Phật, vì thế tạo nên một quần thể thờ Phật – Mẫu – Thần.

Văn bia “Thánh Mẫu cố trạch linh từ bi ký” được đặt ở Ngũ Vân Lâu trước phủ do Tổng tài quốc sư quán đời Nguyễn là Cao Xuân Dục soạn năm Thành Thái Tân Sửu (1901) viết về quá trình xây dựng phủ Vân Cát: ” .. .là một lầu cổ miếu, chọn đất dựng nền từ thời Lê Cảnh Trị (1633- 1671), làm đơn giản mà đẹp, Khoảng đời Cảnh Thịnh (1794- 1800) hội nguyên Trần Gia Du, thiếu tả giám Trần Công Bản đã mở rộng ra. đến năm Kỷ Mão (1879) đời Tự đức, quan huyện Lê Kỳ đã sửa lợp lại, đến năm Thành Thái thứ 12(1900) thì hoàn thành “.

Từ cổng bước vào, du khách sẽ gặp Ngũ Vân Lâu, gác chuông với 5 cổng lớn xây dựng từ năm Tự Đức. Phía trong là hồ bán nguyệt xây bằng đá. Giữa hồ bán nguyệt có phương du nằm ở giữa và có hai cầu đá dẫn ra ngoài. Phương du gồm có ba gian làm bằng gỗ lim, mái có góc uốn cong, xung quanh lan can được ghép bằng những tường hoa bằng đá với những mảng phù điêu trạm khắc một số loài hoa và những con voi. Phương du có bốn mặt thoáng, là nơi khách đứng xem kéo chữ vào ngày hội.

Bên trong phủ có 4 cung thờ: kết câu hai cung đệ nhất và đệ nhị đều có 3 gian, và cả 2 đều được xây từ năm Tự Đức (1879). Cả hai cung đều bị giặc Pháp phá hủy mãi về sau mới được tôn tạo lại.

Cung đệ nhất là chính cung khép kín thờ Tam Tòa Thánh Mẫu, tượng bằng đồng gồm có Mẫu Thượng Thiên ngồi giữa, Mẫu Thượng Ngàn bên trái, Mẫu Thoải bên phải.

Cung đệ nhị thờ Tứ vị chầu Bà và Tam tòa quan lớn, đặc biệt có hai khám hai bên thờ Ông Hoàng Mười (bên phải) và Ông Hoàng Ba (bên trái).

Trong Phủ còn dấu tích nhiều câu đối, đại tự, hoành phi có giá trị. Ngoài ra, nét độc đáo còn nằm ở văn bia cùng ngũ vân lâu ngay tại mặt chính của đền, các công trình bố trí chặt chẽ tạo thành thể thống nhất, giữ lại nét giá trị từ ngàn đời.

Lăng mộ Thánh Mẫu Liễu Hạnh

Lăng mộ Thánh Liễu Hạnh nằm ở thôn Tiên Hương trên cồn cá chép. Ngôi mộ trước kia là bãi đất với lùm cây xanh lá, sau đó được xây thành khu nhỏ gồm gạch lát đá. Sau đó, vua Bảo Đại cầu tự được con và được thánh Mẫu báo mộng cho, năm 1938, vua Bảo Đại biết ơn mẫu và cho trùng hưng lại lăng mộ với chất liệu bằng đá xanh và 60 búp sen hồng quy mô như hiện nay.

Hướng chính của lăng là hướng Tây quay về phía núi Tiên Hương. Từ ngoài vào bước theo bậc tam cấp lên đến mộ phải qua 5 lớp tường toàn bằng đá được chạm khắc, mỗi lớp tường vuông đều có cửa, cửa được bổ trụ bằng đá vuông với ba mặt đều khắc câu đối và phía trên đặt các nụ sen bằng đá hồng nhạt tới 60 nụ sen đá.

Xung quanh lăng mộ là hàng cây 4 mùa xanh mát, 4 cột trụ chính đặt 4 góc khiến lăng mộ càng thêm long trọng và trang nghiêm. Ngôi mộ được đặt ngay chính trung tâm và ở chỗ cao nhất của cả khu lăng. Tại bốn cửa ở bậc cuối cùng đều có một bức bình phong bằng đá án ngữ. Phía sau cửa chính, nằm về hai phía góc đối diện với cửa ra vào là hai nhà bia với bốn cột vươn lên.

Bên cạnh khu lăng mộ còn có một gian nhà thờ tự với kết cấu sau: Ban thờ Mẫu nằm chính giữa, từ ngoài bước vào thì bên phải ngay cạnh ban thờ Mẫu là ban thờ Bà Cai Bản mệnh, tiếp là ban thờ đức Thánh Trần. Bên trái của Ban thờ Mẫu là ban thờ quan lớn đệ nhất và ban thờ Nhị Vị Cô Nương.

Hàng năm vào mùa lễ hội, đền đón hàng ngàn khách du lịch về trẩy hội. Hòa chung không khí tấp nập của mùa lễ hội, dân làng và du khách càng thấy hứng khởi đón chào một năm mới đầy thắng lợi./

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Trong tín ngưỡng của người Việt và của một số dân tộc thiểu số khác ở trên lãnh thổ Việt Nam, việc tôn thờ nữ thần, thờ mẫu thần, thờ mẫu tam phủ tứ phủ là hiện tượng khá phổ biến và có nguồn gốc lịch sử và xã hội sâu xa. Tuy tất cả đều là sự tôn sùng thần linh nữ tính, nhưng giữa thờ nữ thần, mẫu thần, mẫu tam phủ tứ phủ không hoàn toàn đồng nhất.

Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam là một tín ngưỡng bản địa cùng với những ảnh hưởng ngoại lai từ đạo giáo, tín ngưỡng lấy việc tôn thờ Mẫu (Mẹ) làm thần tượng với các quyền năng sinh sôi, bảo trữ và che chở cho con người. Tín ngưỡng mà ở đó đã được giới tính hoá mang khuôn hình của người Mẹ, là nơi mà ở đó người phụ nữ Việt Nam đã gửi gắm những ước vọng giải thoát của mình khỏi những thành kiến, ràng buộc của xã hội Nho giáo phong kiến. Vào hồi 17h15 giờ địa phương (21h15 giờ Việt Nam) ngày 1/12/2016, tại Phiên họp Uỷ ban Liên Chính phủ về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể lần thứ 11 của UNESCO diễn ra tại thành phố Addis Ababa, Cộng hòa dân chủ Liên bang Ethiopia, di sản “Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt” đã chính thức được UNESCO ghi danh tại Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại./

Các dạng thức thờ Mẫu Thờ Mẫu ở Bắc bộ

Bắt nguồn từ tục thờ Nữ thần có nguồn gốc xa xưa từ thời tiền sử, tới thời phong kiến một số Nữ thần đã được cung đình hoá và lịch sử hoá để thành các Mẫu thần tương ứng thời kỷ từ thế kỷ 15 trở về trước với việc phong thần của nhà nước phong kiến, hình thức thờ Mẫu thần với các danh xưng như Quốc Mẫu, Vương mẫu, Thánh Mẫu như hiện tượng thờ Âu Cơ, Ỷ Lan, Mẹ Thánh Gióng, Tứ vị Thánh nương,…

Thờ Mẫu ở Trung Bộ Thờ Mẫu ở Nam bộ

So với ở Bắc Bộ, tục thờ Nữ thần và Mẫu thần có sự phân biệt nhất định với biểu hiện rõ rệt là thông qua tên gọi và xuất thân của các vị thần thì ở Nam Bộ sự phân biệt giữa hình thức thờ Nữ thần và Mẫu thần ít rõ rệt hơn, hiện tượng này được giải thích với nguyên nhân Nam Bộ là vùng đất mới của người Việt, khi di cư vào đây họ vừa mang các truyền thống tín ngưỡng cũ lại vừa tiếp nhận những giao lưu ảnh hưởng của cư dân sinh sống từ trước tạo nên bức tranh không chỉ đa dạng trong văn hoá mà còn cả trong tín ngưỡng

Những Nữ thần được thờ phụng ở Nam Bộ như Bà Ngũ Hành, Tứ vị Thánh nương, Bà Thuỷ Long, Bà Chúa Động, Bà Tổ Cô,…và những Mẫu thần được thờ phụng như Bà Chúa Xứ, Bà Đen, Bà Chúa Ngọc, Bà Thiên Hậu,…

Liễu Hạnh công chúa

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

(đổi hướng từ Mẫu Liễu Hạnh)

Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. Mời bạn giúp hoàn thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ.

Đền thờ Thánh Mẫu, đường Ngô Quyền, thành phố Thông tin chung Đà Lạt

Tên thật Phạm Tiên Nga

Liễu Hạnh Công chúa ( chữ Hán: 柳杏公主) là một trong những vị thần quan trọng của tín ngưỡng Việt Nam. Bà còn được gọi bằng các tên: Bà Chúa Liễu, Liễu Hạnh (柳杏), Mẫu Liễu Hạnh (母柳杏) hoặc ở nhiều nơi thuộc vùng Bắc Bộ bà được gọi ngắn gọn là Thánh Mẫu.

Truyền thuyết

Theo truyền thuyết trong dân gian Việt Nam, Liễu Hạnh là một trong bốn vị thánh Tứ bất tử. Bà vốn là con gái thứ hai của Ngọc Hoàng Thượng đế, 3 lần giáng trần. Bà đã được các triều đại phong kiến từ thời nhà Hậu Lê đến thời nhà Nguyễn cấp nhiều Sắc, tôn phong là “Mẫu nghi thiên hạ – Mẹ của muôn dân” và cuối cùng quy y cửa Phật.

Lần giáng sinh đầu tiên

Căn cứ vào ” Quảng Cung linh từ phả ký”, ” Quảng Cung linh từ bi ký” và ” Cát Thiên tam thế thực lục” hiện đang lưu giữ ở địa phương do Ban quản lý di tích – danh thắng của tỉnh Nam Định sưu tầm và một số tài liệu trong Hội đồng khoa học lịch sử Nam Định thẩm định thân thế và sự tích bà Liễu Hạnh như sau:

Vào đầu thời nhà Hậu Lê, tại ấp Quảng Nạp, xã Vỉ Nhuế, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng, trấn Sơn Nam; có ông Phạm Huyền Viên, người xã La Ngạn kết duyên cùng bà Đoàn Thị Hằng, người ấp Nhuế Duệ, cũng xã Vỉ Nhuế (nay là thôn Vỉ Nhuế, xã Yên Đồng, Ý Yên, tỉnh Nam Định).

Hai ông bà là những người hiền lành, tu nhân tích đức nhưng hiềm một nỗi đã ngoài 40 mà chưa có con. Một đêm rằm tháng hai, ông bà được thần báo mộng là Ngọc Hoàng sẽ cho con gái thứ hai là Công chúa Hồng Liên đầu thai làm con, từ đó bà có thai. Trước khi sinh, vào đêm ngày 6 tháng 3 năm Quý Sửu, trời quang mây vàng như có ánh hào quang. Ông Huyền Viên ngồi đợi tin mừng, bỗng như có một nàng tiên từ trong đám mây bước xuống thềm nhà, và bà sinh một bé gái. Vì vậy ông đặt tên con là Phạm Tiên Nga.

Phạm Tiên Nga càng lớn càng xinh đẹp, mọi việc nữ công gia chánh đều thành thạo, đảm đang. Đến năm 15 tuổi đã có nhiều người đến dạm hỏi nhưng nàng đều khước từ vì nàng còn phải ở nhà chăm sóc cha mẹ già yếu, canh cửi quán xuyến công việc gia đình.

Ngày 10 tháng 10 năm Nhâm Ngọ ( 1462), cha của nàng qua đời. Hai năm sau mẹ của nàng cũng về nơi tiên cảnh. Phạm Tiên Nga đã làm lễ an táng cha mẹ ở phía đông nam phủ Nghĩa Hưng (nay là thôn La Ngạn, ở đây có đền thờ cha và mẹ của Phạm Tiên Nga).

Sau ba năm để tang cha mẹ, lo mồ yên mả đẹp, Phạm Tiên Nga bắt đầu chu du khắp nơi làm việc thiện (lúc này Tiên Nga vừa tròn 35 tuổi).

Cùng với việc đắp đê, bà còn cho làm 15 cây cầu đá, khơi ngòi dẫn nước tưới tiêu, khai khẩn đất ven sông, giúp tiền bạc cho người nghèo, chữa bệnh cho người ốm, sửa đền chùa, cấp lương bổng cho các vị hương sư, khuyên họ cố sức dạy dỗ con em nhà nghèo được học hành.

Năm 36 tuổi, bà đến bờ Sông Đồi dựng một ngôi chùa trên mảnh vườn nhỏ, đặt tên là Chùa Kim Thoa. Bên trên thờ đức Nam Hải Quan Thế Âm Bồ Tát, bên dưới thờ cha và mẹ.

Sau đó hai năm, bà tới tu sửa chùa Sơn Trường – Ý Yên, Nam Định, chùa Long Sơn – Duy Tiên, Hà Nam, chùa Thiện Thành ở Đồn xá – Bình Lục, Hà Nam. Tại chùa Đồn xá, Bà còn chiêu dân phiêu tán, lập ra làng xã, dạy dân trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải.

Tháng Giêng năm Nhâm Thìn ( 1472), bà trở lại chùa Kim Thoa, và tháng 9 năm ấy, Bà trở về quê cũ cùng các anh chị con ông bác tu sửa đền thờ Tổ họ Phạm khang trang bề thế (nay còn đền thờ ở phía nam xóm Đình thôn La Ngạn). Sau đó Bà lại đi chu du ở trong hạt, khuyên răn bà con dân làng những điều phải trái.

Lần giáng sinh thứ hai

Ngay sau khi bà mất, nhân dân xã La Ngạn, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng đã lập đền thờ trên nền nhà cũ, gọi là Phủ Đại La Tiên Từ, Đồng thời quê mẹ của Người là xã Vỉ Nhuế cũng lập đền thờ để tưởng nhớ công lao của bà, gọi là Phủ Quảng Cung.

Lần này, Bà kết duyên với ông Trần Đào, sinh được một người con trai, tên là Nhân, một con gái tên là Hoà. Giữa lúc cả gia đình đang đầm ấm vui vẻ thì bỗng nhiên, vào đúng ngày, Bà mất ngày 3 tháng 3 năm Đinh Sửu, thời Lê Gia Thái thứ 5 ( 1577). Năm ấy, Bà mới 21 tuổi, tuyệt nhiên không bệnh tật gì. Lăng mộ và đền thờ ở Phủ Dầy, thôn Thiên Hương – Vân Cát, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, Nam Định.

Hành thiện giúp đời

Giáng Tiên về trời đúng hạn định theo lệnh của Ngọc Hoàng. Nhưng khi nàng đã ở trên trời thì lòng trần lại canh cánh, ngày đêm da diết trong lòng nỗi nhớ cha mẹ, chồng con nên nàng muốn xuống trần gian lần nữa. Khi về đến nhà vừa đúng lúc gia đình đang làm giỗ mãn tang cho nàng, mọi người đều hết sức ngạc nhiên và vô cùng sung sướng. Nàng ôm lấy mẹ mà khóc, rồi kể hết sự tình, dặn anh hãy gắng lo chăm sóc cha mẹ, vì lần này xuống trần nàng không thể ăn ở như lần trước, rồi trở về nhà chồng. Liễu Hạnh gặp chồng, con cái mừng mừng tủi tủi. Nàng cũng kể rõ mọi chuyện cho chồng biết, khuyên chồng hãy cố gắng luyện chí, yên tâm theo đuổi sự nghiệp công danh, đừng quên chăm sóc con thơ, phụng dưỡng cha mẹ. Nàng quét dọn, sửa sang nhà cửa, may vá quần áo cho chồng cho con, rồi bỗng chốc lại thoắt biến lên mây… Cứ như thế, thỉnh thoảng nàng lại hiện về, làm xong các việc rồi lại biến đi. Ròng rã hàng chục năm sau, cho đến khi con cái khôn lớn và Đào Lang công thành danh toại, nàng mới từ biệt để đi chu du thiên hạ.

Tương truyền, ông đã gặp thần nữ là Liễu Hạnh công chúa cả thảy hai lần, và đều có xướng họa thơ: một lần gặp ở chùa Thiên Minh ( Lạng Sơn) khi ông đi sứ về, một lần ở Hồ Tây (nay thuộc Hà Nội) khi ông cùng với hai bạn họ Ngô và họ Lý đi chơi thuyền. Lần ở Hồ Tây, người tiên kẻ tục bèn làm thơ xướng họa liên ngâm, sau được nữ sĩ Đoàn Thị Điểm chép trong truyện “Vân Cát thần nữ” ở tập Truyền kỳ tân phả của bà. Theo nhà nghiên cứu Bùi Duy Tân, thì bài thơ ấy được đặt tên là Tây Hồ quan ngư (Xem cá Hồ Tây). Bản tiếng Việt do Phan Kế Bính dịch có tên là Cảnh Hồ Tây.

Ông bèn lên tiếng ghẹo: 三木森庭,坐著好兮女子 – Tam mộc sâm đình, tọa trước hảo hề nữ tử.

Người con gái nghe vậy, đối ngay: 重山出路走來使者吏人 – Trùng sơn xuất lộ, tẩu lai sứ giả lại nhân.

Phùng Khắc Khoan hết sức kinh ngạc bèn nói tiếp: 山人憑一几,莫非仙女臨凡 – Sơn nhân bàng nhất kỷ, mạc phi tiên nữ tâm phàm.

c âu này có nghĩa: cô sơn nữ ngồi ở ghế, phải chăng là tiên nữ giáng trần? Nhưng lắt léo ở chỗ: chữ sơn 山 và chữ nhân 亻ghép lại thành chữ tiên 仙. Chữ bàng có bộ kỷ 几. Chữ nhất và chữ kỷ ghép lại thành chữ phàm 凡.

Cuộc tái hợp với Đào Lang- Người chồng kiếp trước

Hiện nay những câu đối, những dấu tích về 2 lần gặp gỡ tại Lạng Sơn và Phủ Tây Hồ còn lưu lại ở Đền Mẫu Đồng Đăng (nơi Phùng Khắc Khoan gặp Liễu Hạnh lần đầu) và Phủ Tây Hồ (lần gặp thứ hai)

Sau khi hóa về trời,do vẫn còn tâm nguyên giúp đời nên Tiên Chúa khẩn thiết xin Ngọc Hoàng Thượng đế cho trở lại cõi trần gian. Ngọc Hoàng Thượng đế lắng nghe và hiểu rõ tất cả. Ngài cho gọi hai thị nữ tin cậy là Quỳnh Hoa và Quế Hoa bảo cùng đi với Tiên Chúa.

Những sự việc ấy lọt đến tai vua Lê chúa Trịnh. Hai vị vua chúa cho rằng trước kia tiên vương thả “yêu nữ” ra là một sai lầm, bây giờ đã đến lúc cần phải thẳng tay trừng trị. Bởi vì không thể có luật lệ nào khác ngoài luật lệ của vua chúa và ai muốn làm gì cũng không được tự quyền. Thế là hai vị cho triệu hồi các thuật sĩ tài giỏi trong nước đến kinh đô trong đó có Tiền Quân Thánh (vốn là tướng nhà trời, do mắc lỗi, đã bị đày xuống trần làm con trai thứ ba của một vị thượng sư, sư tổ của phái Nội đạo tràng), giao cho dẫn một đội quân hùng mạnh, đến thẳng miền Phố Cát để đánh dẹp.

Biết là không thể chống cự lại được, Tiên Chúa bảo Quỳnh Hoa, Quế Hoa tìm cách trốn đi, còn tự mình cũng hóa phép thành đứa trẻ, rồi lại hóa phép thành con rồng có vẩy vàng vẩy bạc múa lượn trên không.

Lễ hội

Tiền Quân Thánh lúc ấy ngồi trên voi chín ngà niệm thần chú tung lưới sắt ra chụp lấy. Tiên Chúa bị bắt rồi hiện nguyên hình trở lại.

Cung thờ Sơn Trang trong Phủ Tây Hồ

Lễ hội Thánh Mẫu Liễu Hạnh hàng năm được tổ chức vào ngày 3 tháng 3 Âm lịch – ngày giỗ của bà.

Địa điểm là:

Đền Sòng Sơn ở đường Hàng Bột, Hà Nội

Lễ hội thường kéo dài vài tuần lễ. Riêng lễ hội Phủ Dầy, còn gắn liền với Hội chợ Viềng, họp vào ngày 7 tháng giêng./

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Tứ phủ công đồng hay Tứ phủ là một tín ngưỡng nằm trong của tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam. Tứ phủ bao gồm:

Thiên phủ (miền trời): mẫu đệ nhất (mẫu Thượng Thiên) cai quản bầu trời, làm chủ các quyền năng mây mưa, gió bão, sấm chớp.

Nhạc phủ (miền rừng núi): mẫu đệ nhị (mẫu Thượng Ngàn) trông coi miền rừng núi, ban phát của cải cho chúng sinh.

Thuỷ phủ (miền sông nước): mẫu đệ tam (mẫu Thoải) trị vì các miền sông nước, giúp ích cho nghề trồng lúa nước và ngư nghiệp.

Địa phủ (miền đất): mẫu đệ tứ (mẫu Địa Phủ) quản lý vùng đất đai, là nguồn gốc cho mọi sự sống.

Tam phủ và Tứ phủ Hát Chầu Văn

Tứ phủ được thờ tại hầu hết các chùa chiền ở miền Bắc Việt Nam. Tại điện Hòn Chén ở Huế, Thiên Y A Na, nguyên là một nữ thần của người Chăm, được nhập vào hệ thống tứ phủ và thờ làm Mẫu Thiên . Trong khi đó, nhiều tài liệu cho rằng ở miền Bắc, Mẫu Thiên lại là Liễu Hạnh Công chúa.

Đó là hình thức hầu đồng với 36 giá chầu:

Thỉnh Mẫu Và Quan Đệ Nhất