Cúng Dường Phật / Top 9 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Apim.edu.vn

Cúng Dường Cha Mẹ Là Cúng Dường Phật

Bông hồng màu đỏ trong mùa báo hiếu, đó là sự nhắc nhở mọi người rằng hạnh phúc cho chúng ta khi còn có cha và mẹ để được phụng sự, cha mẹ là ruộng phước điền lớn nhất để chúng ta gieo mầm phúc đức. Đức Phật dạy rằng: “Gặp thời không có Phật xuất thế thì cúng dường cha mẹ giống như cúng dường Phật vậy.” Cha mẹ chúng ta còn sống thì chính là Phật đang ở tại nhà mình, do vậy phải hết lòng cung kính phụng dưỡng.

Bông hồng màu trắng nhắc đến những ai đã mất mẹ, đó là điều đáng buồn, nhưng không hẳn là chúng ta không còn có phương thức nào để báo hiếu. Vì theo quan điểm đạo Phật, sống không phải là bắt đầu, chết không phải là chấm dứt tất cả. Nếu chúng ta có lòng hiếu thảo, có đời sống đạo đức thì vẫn thực hiện trọn vẹn trách nhiệm của người con đối với các bậc cha mẹ. Đối với cha mẹ qua đời thì hãy phát tâm tu tạo phước đức, làm các điều lành để hồi hướng siêu độ cho cha mẹ được sanh về cảnh an lạc.

Báo Hiếu là lý tưởng của Bồ Tát Đạo, khi chúng ta học kinh Vu Lan Bồn, Kinh Báo Hiếu Phụ Mẫu và Kinh Địa Tạng thì thấy rõ được phương pháp báo hiếu đúng theo tinh thần Phật dạy. Trong kinh ấy, chúng ta nhận thức rõ được ý nghĩa của nhân quả chi phối đời sống con người. Nếu như sống với tâm ô nhiễm thì chắc chắn chiêu cảm đời sống khổ đau trong ác đạo, nếu sống với tâm thanh tịnh, biết phụng sự Tam Bảo thì được cảnh sống an lạc trong hiện tại và tương lai.

Chúng ta ý thức sâu sắc rằng, giáo lý nhân quả thuyết minh hiện trạng đời sống nhân sanh và mọi diễn biến vũ trụ vạn vật. Ở trong Kinh Vu Lan Bồn nhắc đến Bà Thanh Đề, mẹ của Ngài Mục Kiền Liên, do hiện kiếp tham lam và bỏn xẻn nên sau khi chết đọa lạc vào cảnh giới ngạ quỷ.

Trong Kinh Địa Tạng có hai hình ảnh nổi bật đó là mẹ của Thánh Nữ Bà La Môn vì tội hủy báng Tam Bảo mà đọa lạc vào địa ngục; mẹ của Quang Mục Bồ Tát do hiền kiếp sát sanh hại vật không tin nhân quả, sau khi chết cũng bị đọa vào địa ngục thọ khổ báo. Kinh Địa Tạng cũng được xem là kinh báo hiếu trong Phật môn “Phật môn chi hiếu kinh”, nhấn mạnh phương pháp báo hiếu mà còn thuyết minh ý nghĩa tính chất nhân quả trong hai lĩnh vực thiện ác của chúng sanh. Nhận thức đúng đắn nguyên lý nhân quả mới có thái độ báo hiếu thiết thực nhất.

Người học Phật chân chính, sống đúng theo pháp Phật, một lòng sắt son phụng sự Tam Bảo, thì người đó mới hiểu rõ ý nghĩa báo hiếu. Muốn có công đức báo ân cha mẹ là phải phát Bồ Đề Tâm. Đó là cái tâm rộng lớn hướng đến lý tưởng làm Phật mà thực hiện hạnh nguyện cứu giúp và dìu dắt chúng sanh cùng tu đạo giải thoát.

Phương pháp cứu tội nhân trong địa ngục, theo Kinh Vu Lan chép rằng mẹ Ngài Mục Kiền Liên, bà Thanh Đề bị đọa trong địa ngục, Mục Kiền Liên dù là tu chứng lục thông, thần thông đệ nhất cũng không có phương cách gì cứu mẹ. Đức Phật dạy Ngài Mục Kiền Liên phát tâm rộng lớn hiến cúng dường phẩm vật lên Đức Phật và Hiền Thánh Tăng, nhờ phước đức và oai lực đó mà bà Thanh Đề được sanh về cõi an lành.

Trong Kinh Địa Tạng, Thánh Nữ Bà La Môn phát tâm cúng dường Tam Bảo, nhất tâm niệm đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại, nhờ công đức đó mà cứu mẹ thoát khỏi cảnh địa ngục khổ đau. Thánh nữ đã phát nguyện: “Nguyện cùng tận thì gian vị lai, có bao kẻ tội khổ, con xin tìm đủ cách mà làm cho họ giải thoát”.

Cũng tương tự như thế, Ngài Quang Mục phát tâm cúng dường chùa tháp, nhất tâm niệm Phật, nhờ công đức đó mà cứu mẹ thoát khỏi địa ngục. Từ đó Quang Mục phát tâm rộng lớn cứu độ chúng sanh đang khổ đau thoát khỏi cảnh đau khổ. Thánh Nữ Bà La Môn và Quang Mục Bồ Tát đều là tiền thân của Ngài Địa Tạng hành Bồ Tát Đạo.

Do vậy muốn có năng lực cứu độ chúng sanh trong địa ngục, điều căn bản là phải phát lòng từ bi rộng lớn với tâm bình đẳng mới chuyển hóa nghiệp thức người đã mất. Lòng từ bi là ý nghĩa căn bản của Bồ Đề Tâm, của nguyện lực hạnh Bồ Tát Đạo, là nhân tố cứu khổ ban vui cho mọi loài chúng sanh và thành tựu giác ngộ viên mãn.

Đức Phật dạy rằng: “Dù tại gia hay xuất gia, dù Thanh văn hay chư Phật đều có bổn phận đền ơn cha mẹ, vì tâm hiếu là tâm Phật”. Báo hiếu là điều kiện cốt lõi của đạo lý giải thoát. Trong Kinh Nguyên Thủy hay Kinh Đại Thừa, Đức Phật nhấn mạnh rằng biết hiếu thảo với cha mẹ là tạo được vô lượng phước đức.

Ở trong Kinh Địa Tạng nhấn mạnh rằng, bất hiếu với cha mẹ là đọa địa ngục A Tỳ, ai hiếu kính cha mẹ sẽ được phước đức thù thắng. Ở trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Đức Phật nhấn mạnh rằng người nào phát tâm niệm Phật cầu vãng sanh nhất định phải tu tam phước, hiếu thuận với cha mẹ là điều phước thứ nhất trong ba phước giúp cho người thành tựu nguyện lực vãng sanh.

Chúng ta hãy noi gương của Đức Phật, sau khi thành đạo lên cung trời Đao Lợi thuyết pháp cho thánh mẫu Ma Gia, về hoàng cung thuyết pháp cho vua cha là vua Tịnh Phạn trước lúc lâm chung. Ngài Xá Lợi Phất là đệ nhất trí tuệ trong hàng đệ tử Phật, một cuộc đời theo Phật xuất gia đến năm ngài 80 tuổi, trước khi ngài nhập diệt, từ giã cõi đời giả tạm này, đã đảnh lễ xin Phật về nhà thuyết pháp độ mẹ già 100 tuổi rồi mới nhập Niết Bàn.

Ngài Địa Tạng báo hiếu cho mẹ là phát nguyện cứu độ chúng sanh bị đọa lạc trong khắp chốn địa ngục khổ đau qua vô số kiếp. Học Phật tức là học phát tâm như tâm của Phật và Bồ tát, học báo hiếu cha mẹ như các Ngài đã báo hiếu. Năng lực báo hiếu của chúng ta có ý nghĩa thiết thực hay không thì trước hết mỗi người nên tự hỏi mình đã phát tâm Bồ đề hay chưa? Đây là vấn đề chúng ta cần lưu ý.

Theo chúng tôi

Công Đức Dâng Hoa Cúng Dường Phật

Phật Thích Ca Mâu Ni đang thuyết pháp tại núi Linh Thứu, Đại Phạm Thiên Vương dâng lên cành hoa Kim Sắc Ba La Mật, Phật liền nâng cành hoa lên để thị ý đại chúng, đại chúng đều ngơ ngác, chỉ có Ngài Ma Ha Ca Diếp “Phá nhan vi tiếu – mĩm miệng cười”. Ngài nói: “Đây là pháp môn không lập văn tự, truyền ngoài giáo điển, hiện tại giao cho Ma Ha Ca Diếp”. Nhân thế mà Thiền Tông tôn Ngài Ma Ha Ca Diếp làm Sơ Tổ. Thành ngữ “Phá nhan vi tiếu – miệng mỉm cười” nầy cũng nói rỏ việc dâng hoa cúng Phật, đã có từ thời Ngài còn tại thế.

Hoa dùng để cúng dường chư Phật Bồ Tát là chỉ cho các loại hoa thực vật, tiếng Phạn dịch là “Bổ Thệ Ba”, kinh Phật thường gọi là “Hoa”. Phật giáo Ấn Độ, hoa cúng dường là một trong sáu món dùng để dâng cúng Phật Bồ Tát, các món cúng dường nầy đều có sự biểu trưng.

Theo Du Già Diệm Khẩu (Bản khắc gỗ tại chùa Dũng Tuyền, Cổ Sơn):

– Hoa tiêu biểu cho bố thí, vì bố thí thì khiến người sanh hoan hỷ.

– Hương tiêu biểu cho trì giới, vì trì giới thì hạnh nghiệp thơm lừng.

– Đèn tiêu biểu cho nhẫn nhục, vì nhẫn nhục thì chuyển lửa sân hận thành ánh sáng lớn (đại quang minh).

– Đồ (Nước) là tiêu biểu cho tinh tấn, vì tinh tấn thì sẽ đượm nhuần pháp thân.

– Quả tiêu biểu cho thiền định, vì thiền định thì hay thành tựu được quả vị Phật.

– Nhạc tiêu biểu cho trí tuệ, vì trí tuệ thì hay sanh ra các pháp.

Đem hoa dâng lên chư Phật Bồ Tát còn gọi là hiến hoa, đem hoa rãi lên Phật đài, đạo tràng,… gọi là tán hoa.

Trong kinh điển Phật giáo thường đề cập đến hoa báu từ trên trời rơi xuống như phẩm Thí Dụ kinh Pháp Hoa: “Nếu lúc muốn đi thì có hoa báu đỡ chân”. Hoa báu là chỉ cho các loại trân bảo hợp thành.

– Hoa cúng: Hao là một trong sáu loại cúng dường trong Phật giáo. Tập tục Ấn Độ truyền thống khi xưa thường dùng vòng hoa, rải hoa để cúng dường Phật. Vòng hoa là dùng chỉ kết lại thành, rồi đem đeo lên trên cổ của Thánh tượng để trang sức cúng dường. Tỳ-kheo không được dùng hoa để trang sức trên thân, chỉ được treo trong thất, hoặc dùng để cúng dường Phật. Kinh Phật chép: Ở trước Phật khen ngợi, thường có trời người rải hoa năm màu để cúng dường Phật.

Kinh Vô Lượng Thọ chép: “Tất cả chư Thiên, đều dâng trăm ngàn hoa hương ở cõi trời, muôn thứ kỹ nhạc để cúng dường Đức Phật”.

Kinh Pháp Hoa chép: “Có đến 10 thứ cúng dường. Lại đem hoa để ở đầu tiên, nhân vì hoa rất thơm, đẹp dùng để trang nghiêm”.

Cho nên đem hương thơm thanh khiết của hoa dâng lên trang nghiêm cúng dường Phật. Ngoài ra, hoa còn là một biểu pháp, nhân vì những khí vật trong nhà Phật đều có hàm ý tiêu biểu. Trước Phật cúng hoa tiêu biểu cho nhân, sau khi hoa nở thì kết trái, hoa tiêu biểu cho 6 độ muôn hạnh. Hoa tiêu biểu cho thiền định, đem công đức tu thiền định để cúng dường Phật. Tất cả công đức đều là từ trong thiền định mà khơi mở, chỉ có công đức thiền định mới hay đoạn trừ phiền não, sạch hết sanh tử, cuối cùng chứng được quả Phật. Đem hoa cúng Phật sẽ được nhiều công đức phước báu thù thắng.

Soạn Tập Bách Dụ Kinh chép: “Có một người hái hoa, gom những bông hoa lại rồi kết thành tràng hoa cúng dường tháp Phật, sau khi chết đi được phước báu sanh về cõi trời”.

Kinh Phật Vị Thủ Ca Trưởng Giả Thuyết Nghiệp Báo Sai Biệt Kinh chép: “Đâng hoa cúng Phật được 10 thứ công đức:

1. Ở thế gian thường tốt đẹp như hoa.

2. Trên thân không có mùi hôi dơ.

3. Phước đức và giới hạnh lan tỏa khắp nơi.

4. Sanh ở chỗ nào lỗ mũi không hư hoại hay phân biệt được mùi của các loài hương.

5. Ở thế gian mà vượt hơn thế gian được mọi người kính ngưỡng.

6. Thân thường giữ được mùi hương thơm sạch.

7. Ưa thích nghe chánh pháp, thọ trì đọc tụng.

8. Có phước báu rộng lớn.

9. Mạng chung sanh về cõi trời.

10. Mau chứng được đạo Niết Bàn.

Hoa cúng dường Phật trong kinh điển ghi rằng: Thường thấy có hoa Ưu Bát La (hoa sen xanh), Bát đầu Đặc Ma Hoa (hoa sen hồng), Câu Vật Đầu Hoa (hoa sen trắng), Phân Đà Lợi Hoa (hoa sen trắng lớn) có 4 loại như thế. Hoặc Mạn Đà La Hoa, Ma Ha Mạn Đà La Hoa, Mạn Thù Sa và Ma Ha Mạn Thù Sa hoa, có 4 loại như thế.

Theo kinh Vô Lượng Thọ chép: “Bốn loại hoa trước được trang nghiêm ở cõi Cực Lạc”.

Theo kinh Pháp Hoa chép: “Bốn loại hoa sau từ trên cõi trời rơi xuống, là thứ 3 trong sáu tướng lành. dùng hao cúng Phật trong kinh cũng xác định rỏ ràng, không phải hoa gì cũng cúng được”.

Đà La Ni Tập Kinh, quyển 6 chép: “Hoa cây cúng dường thì có cành liễu, bá diệp, trúc, hoa tạp, quả chi,… hoa có mùi hôi, cây gai sanh hoa hoa có vị đắng cay, hoa không có tên,… đều không nên đem cúng.

Hiện tại trong chùa, ngoài việc dùng hoa tươi cúng Phật, còn có dùng giấy, lụa, vàng để chế thành hoa cúng ở trước Phật. Việc cúng hoa trong Phật giáo biểu đạt được tấm lòng kiền thành, lại cũng là việc gieo trồng công đức phước báu, trí huệ tốt đẹp trong cuộc sống hiện tại và tương lai, từ đó cũng tự trang sức cho hoàn cảnh tự viện tốt đẹp.

(Nguồn chuahoiphuoc.net)

Tôn Kính Và Cúng Dường Đức Phật

Buổi nói chuyện của Đức Đạt Lai Lạt Ma chiều Thứ Ba 7-7-2015 không nằm trong các chương trình có công bố trên truyền thông dòng chính. Tôi cũng không ngờ, rằng chương trình này nói toàn tiếng Tây Tạng. Tất cả mọi người trên sân khấu đều nói tiếng Tây Tạng, chỉ trừ ban đầu cô Ann Curry trong cương vị MC nói vài câu tiếng Anh.

Đó cũng là lần đầu tiên tôi được nghe hoàn toàn, một sự kiện nhiều giờ, trong tiếng Tây Tạng — cầu nguyện, ca hát, và rồi Đức Đạt Lai Lạt Ma thuyết giảng, kể cả khi ngài nói giỡn (dĩ nhiên, tôi không hiểu, nhưng rồi thấy Ngài và rồi cả ngàn người cười phá lên). Không khí huyền ảo như dưòng siêu thực, khó gặp lần thứ nhì trong kiếp này. Buổi lễ có tên là Tibetan Long Life Prayers to His Holiness The Dalai Lama, trên nguyên tắc chỉ giành cho cộng đồng người Tây Tạng lưu vong và những người Mỹ biết nóí tiếng Tây Tạng.

*

Đặc biệt, nhà nước Trung Quốc gây chia rẽ thêm, đã ra lệnh cho các tu viện trong vùng Tây Tạng phải dựng tượng và thờ phượng vị thần Shugden. Chính phủ TQ cũng cung cấp tiền, hỗ trợ các bộ pháí thờ Shugden tại Ấn Độ, Nepal, toàn cầu để làm suy yếu vị trì của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Từ tháng 12-2-12, nhà sư Lama Jampa Ngodrup được chính phủ TQ giao nhiệm vụ ra hải ngoại, cổ vũ thờ vị thần Shugden.

Tôi hoàn toàn không thể hiểu được tại sao những người tự nhận là Phật Tử này có thể đánh trống, hô hào la hét, chỉ trích Đức Đạt Lai Lạt Ma. Vì sao Phật Tử hung hăng như thế? Trước giờ, tôi đã không dám nặng lời với bất kỳ ai, ngay cả một người khác đạo đang hung hăng tấn công mình. Có cái gì rất bệnh ở kiểu như thế. Thêm nữa, trong cương vị nhà báo ngồi giữa Little Saigon, tôi đã quen với nhiều sóng gió. Đôi khi, có những người gọi điện thoạị vào tòa soạn, mắng tôi xối xả vì dung chữ không thích nghi, hay vì lỗi chính tả nào đó, hay vì bản tin dịch thiếu sót… Ra phố, gặp mục sư hay linh mục, tôi cũng chắp tay kính lễ.

Tôi rất ít khi tranh luận… phần lớn vì nhớ lời dặn của thầy tôi, rằng chuyện gì cũng có nhân quả. Đặc biệt nên tránh tranh cãi, vì nếu mình nói đúng Phật Pháp, mà người kia nhất định cãi bướng, kiếp sau họ khó gặp lại Phật Pháp. Thêm nữa, Thầy dạy, ra đường, thấy một em nhỏ cũng chớ xem thường, vì em bé đó có thể là một vị thánh tái sinh, hay một vị bồ tát tái sinh…

Tôi thấy anh Tenzin đứng sau một chiếc bàn. Tôi đưa tay lên hét, “Mr. Tenzin Dorjee.” Anh bước ra, bắt tay chào, nhận 12 số báo gói sẵn, và đưa một vé vào cửa cho tôi. Anh nói rằng bây giờ cons ớm, vì một giờ rưỡi chiều mới vào hội trường. Những người giữ an ninh mặc đồng phục giăng dây để làm mọi người xếp hàng chờ sẵn. Thế rồi, anh Tenzin biến mất dạng. Cũng nên nói thêm, anh nguyên là nhà sư Tây Tạng ra đời, bây giờ vẫn độc thân (và có lẽ, sẽ độc thân suốt kiếp này, vì có một số vị lạt ma được chỉ thị ra đời để hoằng pháp), học xong Tiến sĩ và bây giờ dạy ở đạị học CSU Fullerton. Bản thân anh là Hội trưởng của hội Tibetan Association of Southern California.

Tôi nhìn chung quanh. Hầu hết đứng để chờ vào, vì ai cũng mặc trang phục lễ hội, màu sặc sỡ như trang phục thổ cẩm của người Hmong tại miền núi Việt Nam.. Thấy rõ đấy: gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma, đối với dân Tây Tạng là lễ hội lớn. Trẻ em cũng mặc trang phục lễ hội nữa, có em khóc, có em chạy giỡn và bị mẹ nắm tay ghìm lại, bắt chờ. Những người Mỹ trắng cũng đông…

Tôi tới các bàn đang bày bán kỷ vật, khăn quàng, trang phục, chuông, mõ… kiểu Tây Tạng. Phải mua cái gì chớ, vì Ngài Đạt Lai Lạt Ma sau năm nay, không chắc gì tới Quận Cam nữa. Năm nay, Ngài 80 tuổi, và sẽ được sắp xếp tới các thành phố khác sau này.

*

Tôi luôn luôn nhìn Đức Đạt Lai Lạt Ma như một hóa thân của Đức Quan Âm. Tôi đã dự pháp hội của ngài nhiều năm nay, ở Pasadena, ở Long Beach, ở Quận Cam… Lần họp báo giành cho rất ít phóng viên ở Long Beach mấy năm trước, tôi nhường cho hai bạn phóng viên – Tâm Huy Huỳnh Kim Quang và Quảng Trà Nguyễn Thanh Huy – tham dự, vì biết là sẽ có cơ duyên đứng bên Đức Đạt Lai Lạt Ma chụp hình. Hóa ra, hai anh này lúng túng, không được chụp hình gần, lại thành ra chụp hình giùm cho mấy người khác; tôi còn nhớ và còn giữ mấy tấm ảnh chụp hình một vài nhà báo gốc Việt đứng kế bên Đức Đạt Lai Lạt Ma.

Tôi tham dự các pháp hội chỉ vì lòng tôn kính, thuần túy vì lòng tôn kính. Không phảỉ vì nghe pháp. Tôi đã mua qua Amazon sách của ngài, nhiều tới để sách chất ở đầu giường, ở bên giường để ban đêm hễ mở mắt là thấy có sách của Đức Đạt Lai Lạt Ma để đọc, và tin rằng mình đọc kỹ hơn rất nhiều người. Đó là đọc, dĩ nhiên là đọc bản Anh ngữ, còn nói rằng mình hiểu Phật pháp tới đâu thì, dĩ nhiên, có thể gọi rằng chẳng tới đâu – hay để nói cho gọn kiểu người xưa, rằng chỉ nhớ có mỗi chữ Như. Nếu không nhầm.

Anh bạn Giáo sư Tenzin Dorjee ngôì trên sân khấu, cách Đức Đạt Lai Lạt Ma một ghế trống. Tôi không hiểu ý nghĩa ghế trống để bên Đức Đạt Lai Lạt Ma có ý nghĩa gì. Có thể tượng trưng cho Đức Ban Thiền Lạt Ma đang bị Trung quốc giam cầm? Không hiểu nổi. Cô MC Ann Curry đứng ở bục, nói vài câu tiếng Anh là thôi. Từ đó trở đi, là nói toàn tiếng Tây Tạng. Tôi nghe dĩ nhiên không hiểu, nhưng bầu không khí tuy rộng tới khoảng 2,000 người ngồi, nhưng vẫn đậm chất thân thương.

Vài hôm sau, Bảo cảm ơn về tấm ảnh, cho biết cô bạn kia là học cùng ở Đại học Naropa, nay về Quận Cam dự pháp hội. Nghĩa là, cũng chung một làng Phật Giáo Tây Tạng.

*

Tôi luôn luôn nhìn Đức Đạt Lai Lạt Ma như hóa thân của Đức Quan Thế Âm. Nghĩa là, nhìn chúng sinh như mẹ nhìn con, lòng lúc nào cũng muốn bảo bọc chúng sinh. Mỗi lần nghĩ tới Ngài, lòng tôi tự nhiên thấy ấm lại, như khi nghĩ tới ba, tới mẹ.

Anh bạn nhạc sĩ Trần Chí Phúc một hôm gọi điện thoại, lúc 10 giờ khuya, nói rằng cần một bài thơ để anh phổ nhạc, để sang hôm sau anh sẽ hát trong Đạo Tràng Nhân Quả của quý thầy phái khất sĩ Quận Cam, còn gọi là hệ phái Minh Đăng Quang, nơi anh thân với một số vị sư.

Tôi nói, tôi không có thơ thiền, thơ đạo nào có sẵn, vì trước giờ mỗi năm chỉ làm thơ một lần cho báo Xuân, và do vậy chỉ có thơ tình, vì muốn bán báo là phải làm thơ tình mới chiều lòng độc giả được.

Bạn Phúc nói, rằng có vào Google, tìm thơ đạo để phổ nhạc, nhưng thấy thơ quý thầy không hợp, mới nghĩ tới bạn, vậy thì làm ngay một bài thơ trong vòng một giờ đồng hồ, giử cho mình để phổ nhạc.

Tôi nói, cúng dường Tam Bảo là phải lẽ, xin chờ một giờ, tôi làm xong sẽ gửi qua email.

Bài thơ cúng dường các bà mẹ như sau:

Rồi mẹ như sương, tan vào nắng trưarồi mẹ như hương, ẩn hiện trong mơrồi mẹ như mây, tóc trắng cuối trời

rồi mẹ như nắng, bóng khuất sau đồi

(Thơ Phan Tấn Hải)

Xin mời nghe ở đây:

*

Chữ vàng trên giấy, lời Phật năm xưa, khởi từ bi dậy, chỉ qua kia bờ Thương ơi ba cõi, bè pháp cứu người, qua sông còn gọi, hoa bay khắp trời

(thơ Phan Tấn Hải)

Anh bạn Trần Chí Phúc phổ thành nhạc, và hát nháp như sau:

*

Tôi không biết rằng mình có sẽ in được CD nhạc và tập nhạc hay không, vì có mời ai hát cũng là tốn tiền, có ghi âm ở studio nào rồi cũng phải tốn kém. Nhưng ít ra, là phải làm cho đủ 10 bài thơ, để phổ thành nhạc. Trong đó, tất nhiên sẽ phải có một bài thơ ngợi ca Đức Quan Thế Âm… Chỉ hy vọng, từ từ các pháp sẽ thành tựu.

Nguyên Giác

Đốt Thân Thể Cúng Dường Chư Phật

Thứ tư – 28/03/2012 21:04

Đốt thân thể cúng dường chư Phật

(HDPT) – Trên đầu của những người xuất gia theo đạo Phật thường có những vết sẹo tròn, đây là vết tích của việc đốt hương cúng dường chư Phật. Trong Phật giáo lễ này còn được gọi là “Tấn hương” (đốt hương), “Nhiệt đảnh” (Đốt đầu) hay còn gọi là “Đốt Liều”.

Tự nguyện hiến dâng cho đạo Pháp

Tấn hương là một nghi thức biểu thị ý chí khao khát học hạnh Bồ-tát, nguyện hiến trọn cuộc đời mình phục vụ đạo pháp và cuộc sống con người. Người phát tâm tấn hương có thể đốt 1 liều (chấm hương – PV), 3 liều, 6 liều, 9 liều hay 12 liều trên đỉnh đầu tùy theo tâm nguyện của mỗi người.

Người Phật tử đốt hương nhằm cúng dường chư Phật

Các liều hương này hoàn toàn không nói lên phẩm đức của vị Tỳ kheo tu cao hay thấp. Việc phát nguyện tấn hương diễn ra sau khi các đệ tử tu theo đạo Phật thọ giới Tỳ kheo và Bồ tát giới. Lễ đốt hương này chỉ thấy trong các Đại giới đàn thuộc Phật giáo Bắc tông (hay đại thừa).

Còn đối với Phật giáo Nam Tông (tiểu thừa) không có truyền thống đốt hương này. Việc đốt này có từ bao giờ thì hiện nay vẫn chưa một ai xác định được nhưng ai cũng biết rõ truyền thống này truyền từ Phật Giáo Trung Hoa vào Việt Nam đã rất lâu.

Lúc đốt hương, người tu sĩ phải mang áo Cà Sa, ngồi ngay thẳng, nghiêm trang trước bàn thờ Phật, có những nhân viên y tế đo và đánh dấu trên đầu trước để tránh trúng mạch máu và dây thần kinh gây nguy hiểm cho bản thân. Ngoài ra bên cạnh còn có những người phụ giúp xem hương cháy được chừng nào và có ai bị xỉu, bị chảy máu…hay không.

Điều đặc biệt khiến người đốt quên đi nỗi đau xác thịt là nhờ sự đồng thanh niệm danh hiệu Phật và trì tụng thần chú của quý chư Tăng, Ni, Phật tử… hòa cùng âm thanh của chuông trống Bát Nhã vang khắp căn phòng.

Lúc đốt hương luôn có người bên cạnh để giúp đỡ

Viên hương tròn được bỏ lên đầu của mỗi người làm từ bột trầm hương và lá ngải cứu. Trầm để cho thơm và dễ cháy, còn ngải cứu là vị thuốc chống nhiễm trùng và nhanh lành vết thương.

Hai thứ này trộn lại, vo tròn, quấn trong tờ giấy mỏng hút thuốc lá bằng hạt bắp, phía dưới được làm to ra bằng móng tay út, phần trên vấn lại nhọn để làm ngòi khi thắp lửa. Thời gian đốt từ 20 – 30 phút, tùy thuộc vào độ cháy và thịt của mỗi người.

Sư cô Thích nữ Thanh Hội tâm sự: “Ngay từ nhỏ mới xuất gia, nhiều người đã xem việc đốt hương là một hành động cao cả để cúng dường chư Phật. Tuy nhiên chỉ đốt ở cánh tay, cổ… chứ còn đốt trên đầu chỉ diễn ra sau khi thọ Đại giới (Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni – PV).

Việc đốt hương này được những người con Phật xem là hành động thể hiện sự chân thành, quyết tâm tin và theo Phật. Có người còn đốt đi một hoặc hai ngón tay để cúng dường”.

Thể hiện sự từ bi với tất cả muôn loài

Sư cô Thích Nữ Tuệ Nhã, thọ giới tại Đại giới đàn Trí Thủ (Nha Trang) chia sẻ: “Khi phát tâm thọ giới Bồ Tát, trong lòng khởi lên tâm nguyện từ bi rộng lớn để cứu độ chúng sanh, báo đền ân đức của Phật, thầy tổ, cha mẹ. Cho nên lúc được đốt hương không có gì gọi là đau đớn, nếu bảo đốt thêm ở đâu trên cơ thể mình tôi cũng đốt được, hy sinh cả thân mạng cũng không có gì lo sợ”.

Đốt hương nhằm hiện sự chân thành, quyết tâm tin và theo Phật

Đa số Tăng Ni Phật giáo đều cho rằng việc đốt hương là sự cúng dường giá trị tâm linh cao lớn nhất không phải dễ dàng làm được. Đó là hạnh phúc nhất của cuộc đời tu theo Phật.

Lúc đốt hương, những bậc làm cha làm mẹ (cha mẹ nhà sư – PV) chứng kiến dù đau đớn trong lòng khi thấy chảy máu, thịt cháy nhưng đều không nghĩ rằng con mình đang bị đốt mà đó là đứa con của Phật đang dâng lên Ngài đóa hoa lòng thành nên gia đình cùng chắp tay cùng cầu nguyện chung.

Không chỉ người xuất gia mới phát đại nguyện đốt như vậy mà ngay cả những Phật tử tại gia khi phát tâm thọ giới Bồ Tát cũng cạo đi một nhúm tóc trên đầu mình và xin đốt một chấm hương. Đốt cúng dường không phân biệt chủng tộc, nam, nữ… cứ ai phát nguyện thọ giới Bồ Tát, phát tâm đốt một phần trên cơ thể mình để cúng dường thì đốt.

Không phân biệt chủng tộc, nam, nữ, độ tuổi

Thầy Thích An Đạt, Chánh Thư ký Ban Văn Hóa Thành hội Phật giáo TPHCM cho rằng: “Việc Tấn hương thể hiện tấm lòng thành cúng dường của mình lên chư Phật. Mỗi kỳ thọ đại giới những người nào thọ giới Sa Di sẽ đốt một liều hương, còn với người thọ Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni thường đốt 3 liều hương. Mức độ đốt nhiều hay ít là do người đó phát nguyện. Riêng với Phật tử tại gia việc chấm hương cúng dường tùy theo tâm nguyện của người đó”.

Hoài Lương – An Phong