Cúng Dường Đúng Cách / Top 10 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Apim.edu.vn

Cúng Dường, Nhận Cúng Dường Đúng Pháp

Lượt xem: 5730

(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích ĐVXP.9, TG. 2011, tr.319-323)

Nguồn: Sách: Đường Về Xứ Phật – Tập 9

Hỏi: Kính bạch Thầy! Quý vị cư sĩ phật tử cúng dường cho chư Tăng như thế nào là đúng pháp và như thế nào là không đúng pháp?

Chư Tăng khi nhận đồ cúng dường như thế nào đúng pháp và như thế nào là không đúng pháp? Phải làm gì khi thọ nhận sự cúng dường? Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ.

Ðáp: Người cư sĩ Phật tử cúng dường đúng chánh pháp là phải chọn một vị tăng giới đức nghiêm chỉnh, phải đầy đủ oai nghi tế hạnh, phải có một đời sống phạm hạnh, phải thiểu dục tri túc giống như Phật và chúng Thánh Tăng ngày xưa thì sự cúng dường ấy mới đúng là chánh pháp.

Khi chọn được một vị tu sĩ như vậy thì phải thành tâm dâng lên cúng dường với một tấm lòng cung kính ngưỡng mộ, mặc dù của ít lòng nhiều, không phải đòi hỏi ở những món ăn cao lương mỹ vị mới có lòng thành, mà chỉ là những món ăn đơn giản như cơm muối, củ khoai và tương chao rau đậu luộc, v.v…

Người cư sĩ phật tử cúng dường không đúng chánh pháp là cúng dường cho những vị tăng phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới, sống không đúng oai nghi tế hạnh. Cúng dường cho những vị tăng này là nối giáo cho ngoại đạo diệt Phật giáo. Bởi đức Phật dạy: “Giới luật Ta còn là Ðạo Ta còn, giới luật Ta mất là Ðạo Ta mất”, câu nói này có nghĩa là tu sĩ còn giữ gìn giới hạnh nghiêm chỉnh thì đạo Phật còn, tu sĩ không giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì đạo Phật mất.

Lời dạy năm xưa của đức Phật đến giờ này nó còn nguyên giá trị rất lớn, giúp cho chúng ta quan sát đạo Phật còn hay mất. Theo lời dạy này, đạo Phật không còn nữa. Từ khi đức Phật và chúng Thánh Tăng đã viên tịch hết thì không còn ai giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh nữa, nên đạo Phật đã mai một từ đó. Hiện giờ, quý vị cư sĩ phật tử muốn cúng dường đúng chánh pháp thì phải chọn những vị tăng xứng đáng, giới luật nghiêm trì không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào thì mới cúng dường, còn ngược lại thì quý vị không nên cúng dường cho những vị tăng phạm giới, phá giới, vì cúng dường như vậy là gián tiếp quý vị diệt Phật giáo, “Phật giáo còn là giới luật còn, Phật giáo mất là giới luật mất”. Các vị tăng phạm giới, phá giới là những vị Tăng đang diệt Phật giáo, đang giết chết Phật giáo. Quý vị cư sĩ hãy cảnh giác những vị tăng này, họ là những Ma Vương đội lốt tu sĩ Phật giáo để diệt Phật giáo.

Còn quý vị tăng tu hành chân chánh khi nhận sự cúng dường đúng chánh pháp thì không được nhận tiền, bạc, vàng, châu báu, y áo vải hàng tốt đẹp mà phải bằng vải hàng thô xấu, cách thức ăn mặc của một vị tăng chân chánh thì không được ăn mặc sang đẹp, vì ăn mặc sang đẹp là chưa nhàm chán thế gian, chưa nhàm chán thế gian là lòng tham muốn còn đầy đủ tham muốn. Tâm tham muốn còn đầy đủ là người thế gian chứ không phải là người tu, tâm chưa phải là người tu thì không nên nhận sự cúng dường, nhận sự cúng dường như vậy thì không đúng chánh pháp. Cho nên, những tu sĩ ăn mặc sang đẹp, ở trong chùa to Phật lớn, xe cộ đủ loại, tiền bạc cất giữ mà nhận của cúng dường thì không đúng chánh pháp.

Một vị tăng phải giữ gìn giới luật nghiêm túc, đời sống phải ba y một bát, thiểu dục tri túc, luôn luôn sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhặt, mới xứng đáng nhận của cúng dường. Nhận sự cúng dường như vậy mới đúng chánh pháp. Một vị tăng chân chánh khi xứng đáng nhận đồ cúng dường là phải tu tập những pháp môn rất nghiêm chỉnh như sau:

1/ Thứ nhất phải sống một đời sống phạm hạnh thì mới xứng đáng thọ nhận của cúng dường, bằng ngược lại thì mang nợ đàn na thí chủ.

2/ Thứ hai là phải sống một đời sống giới luật nghiêm chỉnh, thấy các lỗi nhỏ nhặt sợ hãi, mới xứng đáng thọ nhận của cúng dường, bằng ngược lại thì mang nợ đàn na thí chủ.

3/ Thứ ba là phải nhập cho được Bất Ðộng Tâm Ðịnh. Bất Ðộng Tâm Ðịnh tươngđương với Sơ Thiền. Người nhậpđược Bất Ðộng Tâm là người ly dục ly ác pháp, người ấy mới xứng đáng nhận của cúng dường, nếu tâm chưa ly dục ly ác pháp thì chưa xứng đáng nhận của cúng dường.

4/ Thứ tư là phải siêng năng chuyên cần tu tập Tứ Chánh Cần tức là ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp, nếu một vị tăng mà không tu pháp môn này thì không xứng đáng nhận của cúng dường.

5/ Thứ năm là phải siêng năng tu tập Tứ Niệm Xứ để đẩy lui các chướng ngại pháp tức là khắc phục tâm tham ưu của mình thì mới xứng đáng thọ nhận sự cúng dường.

6/ Thứ sáu là phải siêng năng tu tập Tứ Bất Hoại Tịnh, tức là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng và niệm Giới thì mới xứng đáng thọ nhận sự cúng dường.

7/ Thứ bảy là phải siêng năng phòng hộ giữ gìn các căn không cho dính mắc các trần tức là tu tập ngũ căn thì mới xứng đáng thọ nhận sự cúng dường.

***

Cúng Dường Đúng Pháp Và Lợi Ích Của Cúng Dường Tam Bảo

Cúng dường Tam bảo được lợi ích tùy tâm niệm người Phật tử. Nếu vì mình và thân thuộc mình mà cúng dường, phước đức cũng theo tâm lượng hẹp hòi ấy. Nếu vì Tam bảo thường còn và lợi ích chúng sinh, phước đức sẽ theo tâm lượng rộng rãi thênh thang này.

>>Nghèo là không biết gieo nhân bố thí cúng dường

Cúng dường Tam bảo đúng pháp

Người Phật tử chân chính khi phát tâm cúng dường Tam bảo, chỉ vì mong cho Tam bảo thường còn ở thế gian để đưa chúng sinh ra khỏi đau khổ mê lầm. Nếu đến chùa, Phật tử cúng năm mười đồng, Tăng, Ni có hỏi cầu điều gì, Phật tử nên thưa: “Chúng tôi chỉ cầu mong chư Tăng, chư Ni nhận món tịnh tài này để có phương tiện an ổn tu hành, hầu truyền bá chánh pháp lợi ích chúng sinh.” Chỉ vì Tam bảo vì chúng sinh mà cúng dường, đây là tâm hồn cao thượng quảng đại vị tha. Làm việc bố thí cúng dường cao đẹp như vậy công đức làm sao giới hạn được. Vì Tam bảo thường còn ở thế gian để làm lợi ích cho chúng sinh, trong chúng sinh đã có bản thân mình và thân quyến mình rồi. Quên mình chỉ nghĩ đến toàn thể chúng sinh, không phải lòng lợi tha vô bờ bến là gì? Với một lòng vị tha rộng lớn như vậy, dù một số tiền nhỏ, một vật dụng mọn đem cúng dường cũng là phước đức vô biên. Cho nên nói “Phật dụng tâm”.

Chư Phật ra đời cũng vì chúng sinh, truyền bá chánh pháp cũng vì chúng sinh, chúng ta đền ơn chư Phật cũng vì cứu độ chúng sinh.

Tăng, Ni nhận sự cúng dường chân chính của Phật tử, tự nhiên thấy mình có một trọng trách lớn lao vô cùng. Làm sao tu hành tinh tiến? Làm sao truyền bá chánh pháp lợi ích chúng sinh? Để xứng đáng thọ nhận những thứ cúng dường của Phật tử, chỉ cần nỗ lực tu hành, cố gắng học tập để hiện tại và vị lai làm lợi ích chúng sinh. Nếu hiện đời, Tăng, Ni, không làm tròn hai việc này, có thể mai kia phải mang lông đội sừng để trả nợ tín thí. Biết như thế, hiểu như thế, Tăng, Ni làm sao dám lơi lỏng lơ là trong việc tu hành học tập. Thế là, nhờ sự cúng dường chân chính của Phật tử thúc đẩy Tăng, Ni đã cố gắng càng cố gắng hơn trong nhiệm vụ thiêng liêng cao cả của chính mình.

Thấy mình thiếu nợ, mới cố gắng lo đền trả bằng cách nỗ lực tu hành và độ sinh, đây là mục tiêu đức Phật bắt Tăng, Ni thọ nhận đồø cúng dường của Phật tử. Tăng, Ni là người có bổn phận hướng dẫn tín đồ cúng dường chân chính đúng pháp thì, cả thầy trò đều cao thượng và lợi ích lớn. Chúng ta phải gan dạ đập tan những tập tục sai lầm, đừng vì quyền lợi, đừng vì cảm tình, khiến cho chánh pháp đi lần vào chỗ mờ tối suy tàn. Chúng ta là người lãnh đạo, không phải là kẻ theo đuôi tín đồ để cầu được nhiều lợi dưỡng. Đã dám bỏ nhà đi tu, tức là dám nhận chịu mọi sự đói rách nghèo nàn, mọi sự gian truân khó khổ, vô lý vì sự ăn mặc mà đi ngược lại sơ tâm siêu thoát của mình.

Tăng, Ni nhận sự cúng dường chân chính của Phật tử, tự nhiên thấy mình có một trọng trách lớn lao vô cùng.

Tuy nhiên, nói thế không có nghĩa chúng tôi hoàn toàn phủ nhận sự cầu nguyện. Chúng ta thấy rõ cầu nguyện chỉ là trợ duyên nhỏ xíu, kẻ đối tượng cầu nguyện chỉ được lợi ích một hai phần mười, như trong kinh nói. Chúng ta đã thừa nhận “nhân quả nghiệp báo” là chân lý thì sự cầu nguyện là ngoại lệ, có kết quả cũng tí xíu thôi. Cổ vũ cho điều phi chân lý, để cho người xao lãng chân lý, là việc làm trái với chánh pháp. Vì lòng hiếu thảo của Phật tử, buộc lòng chúng ta phải cầu nguyện, khi cầu nguyện chúng ta phải cảnh cáo rằng: “Việc làm này là phụ thuộc không đáng kể, kết quả ít lắm.” Có thế mới khỏi lệch lạc trên con đường hoằng hóa lợi ích chúng sinh. Đã thấy cầu nguyện là việc phụ, chúng ta đừng vì nó làm mất thì giờ tu học của Tăng, Ni, làm mất thì giờ truyền bá chánh pháp.

Chúng ta thấy rõ cầu nguyện chỉ là trợ duyên nhỏ xíu, kẻ đối tượng cầu nguyện chỉ được lợi ích một hai phần mười, như trong kinh nói.

Lợi ích của việc cúng dường Tam bảo

Cúng dường Tam bảo được lợi ích tùy tâm niệm người Phật tử. Nếu vì mình và thân thuộc mình mà cúng dường, phước đức cũng theo tâm lượng hẹp hòi ấy. Nếu vì Tam bảo thường còn và lợi ích chúng sinh, phước đức sẽ theo tâm lượng rộng rãi thênh thang này. Người Phật tử chân thật thì, bao giờ hay bất cứ việc gì cũng vì lợi ích chúng sinh. Đừng khi nào để lệch lạc mục tiêu tối thượng ấy. Chư Phật ra đời cũng vì chúng sinh, truyền bá chánh pháp cũng vì chúng sinh, chúng ta đền ơn chư Phật cũng vì cứu độ chúng sinh.

Đó là tâm niệm rộng lớn cao cả của người tu theo đạo Phật. Vì chúng sinh mà cúng dường Tam bảo, quả thật người Phật tử sống đúng chánh pháp, hành đúng chánh pháp. Hành động đúng chánh pháp thì công đức lượng đồng với chánh pháp, nghĩa là kiếp kiếp đời đời không mất. Nếu dạy Phật tử làm phước tạo công đức, Tăng, Ni nên dạy đúng tinh thần này.

HT. Thích Thanh Từ

Cúng Dường Thế Nào Cho Đúng?

“Cúng dường là dâng cúng các phẩm vật thiết yếu cho đức Phật và chư Tăng với lòng chân thành, cung kính. Cúng dường vốn là tiếng Trung Hoa, đọc theo âm Hán Việt là cung dưỡng hay cúng dưỡng, tiếng việt chúng ta đọc thành cúng dường, người miền bắc thì đọc là cúng dàng, Có lần, Một phật tử gửi cho tôi một bao thư, trong đó có một trăm nghìn đồng và một tờ giấy ghi:”Con xin cúng vườn Thầy”. Có lẽ, người này chưa phải Phật tử, nên nghỉ cúng dường là “cúng cái giường nằm”, ghi thành “cúng vườn” chắc sẽ đúng hơn. Thực ra, từ cúng dường nghĩa là cung cấp hoặc dâng cúng, đọc nghĩa với các từ bố thí, biếu, tặng, dâng, hiến, cho.

Nếu xét về mặt ngữ nghĩa, tất cả các từ trên đều có nghĩa là lấy những vật thuộc sở hữu của mình như tiền bạc, tài sản, nhà cửa, ruộng vườn, xe cộ,…đem cho người khác. Tuy nhiên, tùy theo đối tượng, địa vị, độ tuổi… mà sử dụng từ khác nhau. Đối với chư Tăng dùng từ cúng dường; đối với cha mẹ, những bậc tôn kính dùng từ biếu, dâng; đối với bạn bè dùng từ tặng; đối với những người dưới cùng từ cho hoặc bố thí; còn từ hiến dùng trong các trường hợp như: hiến máu, hiến xác, hiến tạng…Riêng từ bố thí, người Việt Nam chúng ta xem nó hơi thấp kém, thường sử dụng cho người dưới hoặc ăn xin. Tuy nhiên, nếu chúng ta tìm hiểu trong kinh tạng Nam Tông, từ bố thí được dùng cho cả chư Tăng, các vị bà la môn và những người tôn quý. Như vậy, bố thí ngày xưa với cúng dường bây giờ hoàn toàn giống nhau.

Thời đức Phật còn tại thế, các Phật tử cúng dường cho đức Phật và chư Tăng bốn thứ (tứ sự) là y phục, thuốc thang, ngọa cụ, và thức ăn. Về sau, họ còn cúng dường cả nơi ở như: tinh xá Trúc Lâm do vua Bình Sa cúng dường, tinh xá Kỳ Viên cho trưởng giả Cấp Cô Độc, vườn xoài do kỹ nữ Ambapali cúng dường… Những trú xứ của chư Tăng hiện tại, ngoài từ tinh xá ra, còn được gọi bằng rất nhiều từ khác, chẳng hạn như: tịnh xá, chùa, thiền viện, tu viện, tịnh viện, tịnh thất, già lam, niệm Phật đường…

Ngày xưa, vào mỗi buổi sáng, đức Phật và chư Tăng ôm bát đi khất thực, tức đi xin ăn. Vì đức Phật và chư Tăng xin về để ăn, chứ không tự nấu nên được gọi là khất sĩ. Tuy đều đi xin ăn, nhưng khất sĩ khác với khất cái. Khất cái thường là những người tàn tật, bệnh hoạn, đói khổ, lười biếng hoặc không làm ra tiền mà phải đi xin. Cách xin của họ là: đi ở ngoài đường hoặc đứng một chổ nào đó, năn nỉ, van lơn, thể hiện vẻ ngoài rất đau khổ để người khác động lòng thương mà cho. Họ nhận bố thí không giới hạn, người ta cho bao nhiêu thì nhận bấy nhiêu, đầy bát thì bỏ vào túi, đầy túi thì bỏ vào bao.

Sau khi đem về, họ có thể sử dụng tiền xin được để ăn chơi, cờ bạc, rượi chè, trai gái…Bản thân họ có thể làm những việc xấu ác như: sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu… Còn các vị khất sĩ là những người đầu đủ lục căn và sức khỏe, có khả năng làm ra tiền, thậm chí có vị còn thuộc dòng sát đế lợi (tầng lớp vua chúa) hoặc Bà la môn (tầng lớp trí thức). Vì hạnh nguyện khất sĩ nên các vị ấy xuất gia tu học Phật Pháp và nuôi thân mình bằng cách ôm bát đi khất thực. Cách khất thực của khất sĩ cũng khác khất cái: các vị ôm bát đi từng nhà, không quan tâm đến việc được hay không được cúng, nhà này không cúng thì sang nhà kia, không tỏ vẻ đói khổ để làm người khác động lòng mà cúng dường cho mình.

Bình bát của khất sĩ được gọi là Ứng Lượng Khí, nghĩa là khi đồ ăn đầy bát, vừa với sức ăn của mình, là các vị đi về, không phải đầy bát rồi bỏ vào túi đầy túi thì bỏ vào bao. Đặc biệt, chư Tăng thời đức Phật không nhận tiền bạc. Các vị sống một cuộc đời trong sạch, cao thượng, giữ gìn giới hạnh không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu… Có lần, sau một thời gian dài xuất gia, đức Phật trở về hoàng cung để thăm vua cha. Đầy là lần về thăm đầu tiên của ngài. Khi đến thành Ca tỳ la vệ thì trời cũng đã tối, Ngài nghỉ lại qua đêm tại công viên. Sáng hôm sau, cũng như mọi ngày cùng với chư Tăng tháp tùng, đức Phật ôm bát đi vào thành Ca tỳ la vệ khất thực. Hình ảnh oai nghi của những chiếc cào vàng thanh tịnh, trang nghiêm lần đầu xuất hiện ở thành Ca tỳ la vệ đã khiến cho dân chúng rất ngưỡng mộ. Vua tịnh Phạn nghe tin con mình về tới, vui mừng đi ra để đón con. Khi nhìn thấy đức Phật ôm bát đi xin, ông vừa mừng lại vừa buồn; mừng vì cha con bao nhiều năm nay mới gặp lại, nhưng buồn vì thấy con mình thuộc dòng dõi vua chúa, từng ăn cao lương mũ vị, dùng bát ngọc đũa ngà, có cơm bừng nước gót, kẻ hầu người hạ, thế nào bây giờ lại ôm bát đi xin thức ăn từ những người nghèo.

Vua cha cảm thấy có điều gì đó nhục nhã. Sau một lúc thăm hỏi, ông nói với đức Phật: “Sao con về tới đây không vào hoàng cung để ăn cơm lại đi xin thế này? Dòng dõi của chúng ta không bao giờ đi xin như vậy”. Đức Phật mỉm cười và ôn tồn nói:” Dạ đúng, dòng dõi của vua chúa thì không đi xin ăn nhưng dòng dõi của khất sĩ thì đi xin ăn”. Sau đó ngài phân tích phân tích cho vua cha lý do tại sao mà các vị khất sĩ đi xin ăn: Sở dĩ con người chúng ta hơn thua, đấu tranh, dây biết bao nhiêu tội lỗi là do chấp ngã (cái ta). Ôm bát đi xin ăn sẽ phá trừ được cái bản ngã của Mình. Đồng thời, đi như vậy cũng là để cho mọi người nhìn thấy hình ảnh cao quý mà phất tâm cúng dường, gieo cái duyên trong Phật pháp, sau khi được đức Phật phân tích cho hiểu, vua Tịnh Phạn rất hoan hỷ, không còn buồn việc con mình trở thành khất sĩ nữa.

Ban đầu, đức Phật và chư tăng ngày nào cũng phải đi khất thực. Nhưng về sau, đôi khi, Phật tử thỉnh các ngài về tư gia, hoặc họ đến thẳng tinh xá để cúng dường. Một số người đặt nghi vấn là:” Hiện nay, có một số vị ôm bát đi khất thực lại nhận tiền, họ đứng trước các cửa hàng, thậm chí đứng ngay nơi bán thịt, bán cá, đợi khi nào người ta cho tiền mới chịu đi. Những trường hợp này là như thế nào?”. Thực ra những người này chỉ là khất cái giả dạng khất sĩ, không phải là người tu chân chính. Khi đi qua Ấn độ, tôi gặp một vài “vị sư” người Ấn cũng cạo đầu, đắp y, ngồi ở nơi các thánh tích. Họ ngồi đó, người thì ôm bát, người thì đọc sách, người thì tọa thiền… Tôi hỏi dân địa phương:”Những vị sư này ở đâu? Họ tu như thế nào?”. Người ta trả lời rằng những vị đó tu theo mùa; nghĩa là, khi nào có khách hành hương, họ mới cạo đầu, đắp y và ra đó ngồi. Như vậy, họ cũng chỉ là khất cái mang hình dạng của khất sĩ, không phải là người chân tu, thật học.

Hình thức khất thực của chư Tăng thời đức Phật hiện nay vẫn còn tồn tại ở các nước như: Tích Lan, Thái lan, Cao Miên, Lào, Myanmar,… Riêng Việt Nam chúng ta, ngoài những vị khất sĩ bên Nam tông, còn có những vị khất sĩ là đệ tử, đệ tôn của tổ sư Minh Đăng Quang. Chư tăng bên bắc tông thì chỉ ở chùa, không ôm bát đi khất thực mà khuyết khích các Phật tử đem phẩm vật đến chùa để cúng dường.

Mục đích cúng dường Tam bảo của Phật tử là để nuôi chư Tăng tu học, xây dựng cơ sở tự viện, góp phần hoằng dương Phật pháp. Tuy có người tại gia, người xuất gia, nhưng tất cả chúng ta đều là đệ tử Phật, đều phải có trách nhiệm đóng góp cho sự nghiệp tu học và hoằng truyền chánh pháp. Người tại gia lo về hộ pháp, tức phần vật chất. Người xuất gia lo về hoằng pháp, tức phần tinh thần.

Về mặt quả báo, việc bố thí, cúng dường giúp chúng ta biết buôn xả, mở rộng lòng từ, trừ diệt tâm keo xẻn, ích kỷ, được nhiều người quý mến, được giàu có ở hiện đời cũng như đời sau. Trong kinh Tăng Chi Bộ, đức Phật có dạy năm lợi ích của việc bố thí:”Một là được nhiều người ưa thích. Hai là được bậc thiện nhân, chân nhân thân cận. Ba là tiếng đồn tốt đẹp được truyền đi. Bốn là không có sai lệch pháp của người gia chủ. Năm là khi thân hoại mạng chung, sinh lên cõi lành, thiện giới”. Và cũng trong kinh Tăng Chi Bộ, có ba phần thuộc về người bố thí:”Một là trước khi bố thí, ý được vui lòng, Hai là trong khi bố thí, tâm được tịnh tín. Ba là sau khi bố thí, cảm thấy hoan hỷ”. Như vậy, trước, trong và sau khi bố thí hoặc cúng dường, tâm của chúng ta phải vui vẻ. Ngoài ra, nếu không chấp có người cúng, không chấp có vật cúng và không chấp có người nhận thì chúng ta sẽ có phước báu vô lượng. Chúng ta hãy coi bố thí, cúng dường là việc đương nhiên, giống như đói thì ăn, khát thì uống. Hằng ngày, chúng ta cho thân thể của mình ăn ngon, uống bổ, đến khi thân thể này bị bệnh, có ai trách cứ, mắng chửi nó vì thấy tiếc những thức ăn, đồ uống mà mình đã dùng để nuôi dưỡng nó hay không? Chắc là không. Cũng như vậy, sau khi bố thí, cúng dường, chúng ta không nến chấp vào 3 việc nêu trên, đặc biệt là không nên chấp có vật cúng; làm được như thế, chúng ta sẽ không rơi vào phiền não nếu có sự việc bất như ý xảy ra.

Chẳng hạn, bây giờ chúng ta cúng dường cho một ông thầy nào đó, mai mốt ông ấy hoàn tục, mình tiếc nuối than rằng:”Trời ơi! Hồi đó tôi cúng cho ổng ăn, bây giờ ổng ra đời, thiệt là uổn quá!” Nghĩ như vậy là không được. Hoàn tục là việc rất bình thường, Người Thái Lan, người Campuchia, người Lào và cả người Khơ me ở miền tây, Việt Nam đi vào chùa như một nghĩa vụ, sau thời gian ở chùa, ai thích thì ở lại tu tiếp, ai không thích thì ra đời, lập gia đình, sống như người bình thường. Trong đạo Phật, tất cả đều tùy duyên, còn duyên thì ở chùa, hết duyên thì ra đời. Cho dù người mình từng cúng dường do phạm vào trọng giới mà bị buộc phải hoàn tục, chúng ta cũng không nên cảm thấy tiếc nuối, Khi người ta tu mình cúng dường cho người ta ăn, như vậy mình cũng có phước. Người ta có làm điều gì sai trái thì đó là chuyện của người ta. Chúng ta không nên chấp vì nếu chấp sẽ phát sinh phiền não, không tạo được phước, nhiều khi còn gây thêm tội. Tôi từng nghe một vị thầy kể rằng: Có một bà đem đồ cúng đến chùa cúng, một thời gian sau, vì Thầy đó không làm theo lời bà đề nghị, bà giận quá đòi hết tất cả đem về. Cúng dường mà chấp có vật cúng sẽ tự rước lấy phiền não như vậy đó!

Người Phật tử thuần thành phải cúng dường bằng của cải làm ra từ lao động chân chính, không nên làm những nghề bất chính để có tiền dâng cúng tam bảo. Đức Phật dạy trong kinh Tăng Chi Bộ rằng:”Có năm nghề buôn bán mà cư sĩ không nên làm: Một là buôn bán vũ khí. Hai là buôn bán người. Ba là buôn bán thịt. Bốn là buôn bán rượu. Năm là buôn bán thuốc độc”. Ngoài ra, trong các kinh khác, đức Phật cũng dạy không nên làm nghề đồ tể. Có người hỏi rằng làm những nghề trên để lấy tiền đi từ thiện hoặc cúng chùa có phước hay không? Tất nhiên, nhân nào quả nấy, làm phước thì có phước, làm tội thì có tội. Thí dụ, một người có công đức với đất nước, được nhà nước khen thưởng và ban tặng rất nhiều huân chương. Thế nhưng, nếu người đó phạm tội cướp của, giết người thì có bị xử hay không? Chắc chắn là có. Không thể nói rằng:”Tôi có công với đất nước, tôi muốn làm gì thì làm”. Có công được thưởng theo công, có tội phải xử theo tội. Phật dạy phải nuôi mạng chân chính, không tán đồng chúng ta làm nghề bất chính, lấy tiền đó để cúng Phật. Chúng ta cúng Phật, dù ít ỏi, vẫn là tốt. Nếu không có tiền, thấy người ta phát tâm cúng, mình tùy hỷ cũng có phước. Trong bài Văn Sám Hối có đoạn viết:”hoặc tự mình làm, hoặc bảo người làm, hoặc thấy người làm mình vui mừng theo”. Chỉ cần vui mừng theo việc cúng dường của người khác là chúng ta đã có phước bằng họ rồi. Ngược lại, nếu chúng ta làm nghề bất chính để có nhiều tiền cúng dường thì phước đó không bù đắp nổi tội.

Đời sống của đức Phật và chư Tăng ngày xưa không ở lâu một chỗ, mỗi sáng đi khất thực, chỉ ăn ngày một bữa, không cất giữ tiền bạc, đi bộ không đi xe. Ngày nay, việc tu hành của chư Tăng đã có nhiều thay đổi. Đối với Phật giáo Nam Tông, các vị vẫn ăn ngày một bửa, nhưng đã ở yên một chỗ, lâu lâu mới đi khất thực một lần, và có cất giữ tiền bạc. Riêng ở Việt Nam, có hệ phái Khất sĩ do tổ sư Minh Đăng Quang khai sáng. Lúc đầu, chư Tăng thuộc hệ phái này cũng thực hành theo hạnh của Phật: y áo giống Phật; ăn ngày một bửa; không tự nấu mà đi khất thực; không ở lâu một chỗ, nay ở chổ này, mai ở chỗ khác; đo đâu cũng đi bộ; và không cất giữ tiền bạc. Thế nhưng, bây giờ cũng đã thay đổi: thỉnh thoảng mới đi khất thực, nhiều người ăn ngày hai đến ba bữa, ở tại một trú xứ, và có cất giữ tiền bạc. Còn chư Tăng bên Bắc Tông, lâu nay ở chùa; ăn uống tự nấu, có thể ăn một, hai hoặc ba bữa tùy theo mỗi nơi; có cất giữ tiền bạc; đi đâu thì dùng phương tiện giao thông; y phục mặc không giống Phật hồi xưa. Y phục của Phật giáo Bắc Tông tùy theo quốc độ: Việt Nam, Nhật Bản, Đại Hàn, Trung hoa,…Mỗi nước mặc một kiểu khác nhau. Y phục của Phật giáo Nam tông vẫn giữ truyền thống nguyên thủy, Phật đắp y như thế nào thì họ đắp ý như thế đó, nên rất dễ nhận biết. Khi đi qua Thái Lan, Tích Lan, Lào, Campuchia, Myanmar… chúng ta sẽ thấy, dù ở nơi đâu, các vị sư Nam Tông cũng đều đắp y giống nhau cả.

Như vậy, việc sinh hoạt, tu học của chư Tăng thời Phật và thời nay có sự khác biệt. Ngày xưa, vì chư Tăng phải đi bộ khắp nơi để hoằng dương Phật pháp nên không ở lâu một chỗ. Còn ngày nay, nhờ sự phát triển của khoa học kỹ thuật, chư tăng có thể thường trú một nơi mà vẫn hoằng pháp khắp thế giới. Ngày xưa, Phật tử xây dựng tinh xá để cúng dường đức Phật và chư Tăng. Còn ngày nay, việc này rất khó và rất hiếm, ít ai phát tâm xây hẳn một tinh xá, một ngôi chùa, một thiền viện để cúng dường, nên chư Tăng phải tự vận động để có tiền xây dựng. Ngày xưa, chư Tăng ăn ngày một bữa. Còn ngày nay, chư Tăng làm việc nhiều nên phải ăn ngày hai, ba bữa. Ví như chiếc xe, chạy nhiều phải đổ xăng nhiều, đổ ít xe không chạy được lâu, mà hết xăng thì xe nằm một chỗ. Cơ thể con người cũng vậy, nếu hoạt động nhiều thì phải ăn uống nhiều. Ngày xưa, chư Tăng đi bộ. Còn ngày nay chư Tăng phải sử dụng phương tiện giao thông, nếu đi bộ như đức Phật thì việc hoằng pháp sẽ gặp rất nhiều hạn chế. Chẳng hạn như, Phật tử ngoài miền bắc mời tôi ra đó giảng, nếu đi bộ chắc cũng phải mất mấy tháng trời, đi ra đi vào là hết nữa năm, tốn biết bao nhiêu thời gian. Trong khi đó, nếu đi máy bay thì cả đi lẫn về chỉ mất bốn giờ đồng hồ, còn nhiều thời gian để làm những việc khác.

Ngày nay, muốn độ chúng được đông, chúng ta phải có những cơ sở tu học rộng lớn và hiện đại. Ngay như hôm nay, quý vị về đây tu năm đến sáu nghìn người, chùa cũng phải có chỗ che mưa nắng, không thể để quý vị ngồi ngoài trời. Khi quý vị nghe giảng trực tiếp ở giảng đường chính này, phải có máy khuếch đại âm thanh thí tất cả mới nghe được. Còn những Phật tử ở các giảng đường khác, phải dùng máy quay phim truyền hình ảnh và âm thanh xuống dưới cho họ xem, nghe. Khi quý vị công phu, phải có chuông, mõ, kinh, kệ. Trong lúc ngồi tu học đông như thế này, chắc chắn là quý vị rất nóng, muốn mát thì phải có quạt hoặc máy điều hòa. Đó là chưa kể chùa chúng ta định kỳ có tổ chức khóa tu Phật thất, Phật tử về đây tham dự với số lượng hai đến ba nghìn người , phải có chỗ ăn, chỗ ngủ, chỗ tắm giặt, chỗ phơi đồ…Mà chỗ ăn phải có bàn ghế; chỗ ngủ phải có mùng, mền, chiếu, gối; chỗ tắm giặt phải có xô, chậu, bàn chải; chỗ phơi đồ phải có móc treo… Trong số người về tu, chắc chắn có những người đau bệnh, vì thế lại phải có bác sĩ, y tá để lo về thuốc men. Chưa nói đến những trường hợp bệnh nặng phải có xe đưa đi cấp cứu.

Tất cả những vật dụng làm phương tiên tu học đều từ tiền mà ra. Vì không thể nào mỗi thế đều đêm đến chùa, cho nên quý vị cúng tiền, quý thầy sẽ lấy tiền đó mua những thứ cần thiết để đáp ứng nhu cầu tu học của đại chúng. Để tiện việc cúng dường, quý thầy nghĩ ra một cái thùng, gọi là thùng phước điền, thùng phước sương hoặc thùng công đức. Phước điền hay phước sương có nghĩa là ruộng phước. Khi cúng, chúng ta chỉ cần bỏ tiền vào thùng, rất là thuận lợi. Ở miền Bắc Việt Nam, một số thiện nam tín nữ đem theo tiền lẻ để cúng, nếu không có tiền lẻ, họ cũng sẽ đổi khi đến chùa. Ở phía trước chùa có dịch vụ đổi tiền lẻ, mình đổi mười nghìn thì người ta ăn hai nghìn, đưa lại cho mình tám nghìn. Các thiện nam tín nữ này cầm xấp giấy bạc hai trăm, năm trăm đồng vào chánh điện, thành kín để lên bàn thờ Thánh một tờ, bàn thờ Hộ pháp một tờ; có người để lên dĩa trái cây ở phía trước tượng thờ; người cẩn thận hơn nữa thì để trên bàn tay của Phật và Bồ Tát. Nói chung, tâm của họ rất chân thật, họ nghĩ rằng mình cúng như vậy Phật mới nhận được, còn bỏ vô thùng phước sương, sợ Phật không nhận được.

Thật ra, ngay khi còn tại thế, đức Phật đã không nhận tiền. Bây giờ, mình có cúng thì ngài cũng không nhận. Chúng ta đến chùa cúng dường, đó là cúng cho chư Tăng hiện tiền. Quý thầy lấy tiền đó sinh hoạt, tu học, đồng thời lấy tiền đó để hoằng pháp lợi sinh. Chúng ta bỏ tiền vào thùng phước sương cũng giống như gieo hạt giống xuống ruộng phước, sau này hạt giống đó sẽ lên cây và ra hoa, kết quả. Chúng ta phải hiểu rằng, người cúng có phước chứ không phải người nhận có phước, quý Thầy chỉ là những người làm những việc phước báu thay cho mình. Do vậy, khi cúng dường, chúng ta đừng mong quý thầy phải cám ơn mình, mà ngược lại, mình phải cảm ơn quý thầy đã thay mình tạo phước.

Chúng ta bỏ tiền vào thùng phước điền sẽ khỏi phải mất công đổi tiền lẻ. Mà chúng ta đổi như thế, tính ra cũng mất đi rất nhiều phước. Một người đổi mười nghìn thì mất hai nghìn, như vậy, mười người là mất hai mươi nghìn, một trăm người là mất hai trăm nghìn. Hãy tưởng tượng một nghìn đồng là một hạt giống, nếu bỏ mười nghìn vào thùng phước điền thì chúng ta có trọn vẹn cả mười hạt, bây giờ đổi ra chỉ còn tám nghìn, như vậy là mất đi hai hạt. Một hạt giống gieo xuống đất, gặp duyên tốt sẽ cho lên cây và cho ra rất nhiều quả. Mất đi hai hạt là mấy đi biết bao nhiêu lợi ích của mình trong tương lai.

Có một bà Phật tử đến gặp tôi tâm sự rằng: Trước đây, bà đến chùa cùng dường đều bắt Thấy ghi giấy công đức; một thời gian sau, hiểu được Phật pháp rồi, bà không còn làm như vậy nữa. Bà nói:”Nghĩ lại ngày xưa cũng tội cho quý Thầy. Phật tử ở miền Bắc mỗi lần cúng dường đều bắt quý thầy phải ghi phiếu công đức. Quý Thầy in phiếu công đức cũng phải tốn tiền. Mình nhận cái phiếu đó về nhà chẳng để làm gì, rồi mai mốt đem đi đốt cũng phí”. Cho nên, sau khi hiểu Phật Pháp, bà nghĩ được rằng mình chỉ cần cúng là có phước rồi, đâu phải lấy cái phiếu công đức về mới có phước.

Ngoài cúng dường tiền, nếu cúng các phẩm vật khác, cần phải lưu ý xem chùa cần thứ gì thì chúng ta cúng những thứ đó. Có lần, một Phật tử đến chùa thưa với tôi là xin cúng một tượng Phật. Tôi nói:”Chùa bây giờ tượng cũng đã đủ rồi, Phật tử nên cúng thứ khác có lợi hơn”. Phật tử đó hỏi lại rằng:”Vậy con nên cúng cái gì?”. Lúc đó, các khu vực giảng đường phía dưới thiếu ti vi, nên tôi khuyên rằng:”Chùa chúng ta một ngày tu có năm đến sáu nghìn người, các giảng đường khác phải truyền hình xuống, cần có ti vi để mọi người ngồi xem và nghe pháp, Phật tử nên cúng ti vi sẽ lợi ích hơn”. Phật tử đó nói:”Dạ”. Thế rồi, đi về và mất tiêu luôn, không còn thấy lên chùa nữa. Mặc dù cũng biết rằng cúng ti vi có lợi hơn cho chùa, nhưng chắc Phật tử đó quan niệm rằng mình đã phát tâm cúng tượng là phải cúng tượng cho bằng được, không chịu đổi thứ khác. Đây là một thứ chấp. Khi cúng dường, chúng ta phải cúng sao cho có lợi ích, không nên cố chấp như vậy. Chùa đủ tượng rồi, cúng nữa là dư, không để làm gì hết. Người ta nói:”Thờ thì dễ, giữ lễ thì khó”. Một tượng Phật nếu mình chăm sóc cẩn thận cũng đã mất nhiều thời gian, hằng ngày phải lau chùi cho sạch sẽ, rồi thắp nhang, trưng hoa, thay nước, bày đồ thờ cúng… Bây giờ, thờ thêm tượng nữa thì phải mất thêm càng nhiều thời gian. Trong chùa, không cần thiết phải thờ nhiều tượng, một tượng Phật Thích Ca là đủ rồi, làm gì mà tới hai, ba tượng Phật Thích Ca? Một lần khác, có Phật tử đến xin cúng ghế đá, tôi cũng nói:”Chùa đủ ghế đá rồi, Phật tử nên cúng cái gì cần thiết hơn, có lợi hơn”. Phật tử đó hỏi:”Vậy thì cúng cái gì ạ?”. Tôi trả lời:”Bây giờ các vùng sâu, vùng xa thiếu kinh sách, băng đĩa để tu học, mình dùng tiền cúng ghế đá đó để in kinh sách, băng đĩa, đêm về cùng sâu, vùng xa cho mọi người xem sẽ có lợi ích hơn”. Phật tử đó cũng dạ lấy dạ để, nhưng về rồi là một đi không trở lại. Họ cố chấp như vậy đó!

Lại có người đem đến chùa cả trăm cuốn kinh Cứu Khổ để ấn tống. Đây là những cuốn kinh photo, bìa rất xấu, giấy không được tốt, chất lượng in ấn cũng không đảm bảo. Những cuốn kinh như thế này, cách đây năm, mười năm (tính từ năm 2009), mình cho người ta rất thích nhận, nhưng thời buổi này thì không ai muốn nhận nữa. Nếu ấn tống kinh sách gì, quý vị nên liên lạc với chùa, chùa sẽ in ấn đàng hoàng, như vậy thì khi cho ai cũng muốn nhận, vì nhìn cái bìa đẹp là người ta đã thấy thích và muốn đọc rồi. Còn thời buổi này mà ấn tống kinh sách photo thì chỉ phí tiền, không có lợi ích gì hết, người ta mới nhìn đã mất cảm tình, mà không có cảm tình là không muốn đọc. Ấn tống kinh sách là điều tôi rất tán thán. Thế nhưng, trước khi ấn tống, quý vị nên đến chùa gặp quý thầy hỏi thăm xem chùa cần kinh sách gì thì mình ấn tống kinh sách đó. Như vậy mới có lợi ích thiết thực. Khi đi thỉnh kinh sách, quý vị nên đến các phòng phát hành hay các cửa hàng văn hóa phẩm Phật giáo. Những nơi này có kinh sách bảo đảm về chất lượng in ấn, mặc dù thỉnh tốn nhiều tiền, nhưng sẽ có giá trị hơn. Nếu quý vị vì tiết kiệm mà đem đi photo, lỡ như chữ không rõ, thừa chỗ này thiếu chỗ kia, hay các trang bị sắp xếp lộn xộn…thì sẽ mất đi giá trị của cuốn kinh, cuốn sách.

Ngoài ra, tôi lưu ý một điều nữa là quý vị phải biết rõ nội dung của kinh sách mà mình ấn tống. Nếu quý vị không hiểu, không biết thì khi nghe người ta nói ấn tống kinh sách có phước, quý vị lại đi thỉnh, đi photo những kinh sách không đúng với Phật Pháp và không có giá trị về nội dung. Đem những kinh sách đó đến chùa chưa chắc quý thầy đã nhận. Thành ra, mình có tâm tốt, muốn ấn tống kinh sách nhưng cuối cùng lại bị lãng phí. Cho nên, tốt hơn hết là quý vị đến chùa hỏi quý thầy trước để biết chùa đang cần kinh sách nào. Ấn tống những kinh sách cần thiết mới mang đến lợi ích thiết thực. Quý vị nhất định phải lưu ý điều này.

Rồi lại có Phật tử cúng dường cho tôi một xâu chuỗi có hạt lớn bằng ngón chân cái. Chẳng lẽ từ nay đi đâu tôi cầm cái chuỗi đó đi? Chuỗi hạt tôi đang sử dụng cũng đã lớn hơn chuỗi của nhiều người, tôi cầm trên tay thấy như vậy là vừa rồi. Phật tử đó rất có tâm, nhưng cúng xâu chuỗi lớn như thế, tôi chỉ để treo chơi thôi chứ không thể sử dụng được.

Còn có trường hợp này nữa: nhiều thầy ở các chùa tâm sự với tôi rằng, những tháng khác không thấy ai cúng gì , cứ tới tháng bảy là Phật tử đem gạo đến cúng rất nhiều, chùa ăn không hết, đem đi bán thì ngại, để lâu thì mốc. Chúng ta cúng dường phải tùy theo nhu cầu, chùa cần cái gì thì mình cúng cái đó, như vậy việc cúng dường mới thực sự đem lại lợi ích. Có lần, tôi đến thăm một vị sư thấy trong phòng của sư có rất nhiều gói quà. Tôi thắc mắc hỏi:”Những gói quà này sư chuẩn bị cúng dường trai Tăng ở đâu:”. Sư cười nói:”Không phải, những gói quà này là do Phật tử cúng cho tôi”. Vào ba tháng an cư kết hạ, quý Phật tử thường đến cúng dường trai tăng; ngoài tiền và vật thực, mỗi vị còn cúng thêm một gói quà, trong đó có bàn chải, kem đánh răng, bột giặt, xà bông cục, khăn mặt… Tôi lại hỏi:”Số quà nhiều thế này sư dùng có hết không?”. Sư lắc đầu cười nói:”Không”. Tôi hỏi tiếp:”Vậy, sư để làm gì?”. Sư đáp:”Sau này có dịp đi từ thiện ở các vùng sâu vùng xa sẽ đem đến những nơi đó biếu cho dân nghèo”. Khi nghe sư nói vậy, tôi suy nghĩ rằng, cúng dường cũng phải có trí tuệ, nếu dồn vào ba tháng an cư mà cúng thì chư Tăng không thể dùng hết được. Quý Phật tử không nhận thức được là phải cúng những thứ cần thiết, để rồi những phẩm vật mình dâng cúng lên chư Tăng, mong muốn chư Tăng sử dụng lại bị đem đi biếu tặng cho người khác.

Những ngôi chùa ở thành phố lớn dã sung mãn, dư thừa về vật chất. Chúng ta nên đem tiền về cúng cho những ngôi chùa ở vùng sâu, vùng xa, nơi mà kinh tế còn khó khăn, dân chúng còn đói khổ. Những ngôi chùa đó chắc chắn rất thiếu thốn về điều kiện sinh hoạt và đời sống, cũng không có đủ phương tiện để hoằng pháp lợi sinh. Cho nên, thay vì tập trung cúng cho những chùa ở thành phố lớn, chúng ta nên cúng cho những chùa ở vùng sâu, vùng xa, góp phần giúp chư Tăng, Ni ở đó có điều kiện sinh sống và hoằng Pháp, như vậy thì đồng tiền của mình sẽ có nhiều giá trị.

Về vấn đề cúng dường tiền, quý Phật tử cũng phải sáng suốt. Khi cúng dường cho chư Tăng trong một ngôi chùa nào, ví dụ như chùa Hoằng Pháp, tốt nhất là quý vị nên bỏ vào thùng phước điền, quý thầy sẽ lấy tiền đó ra giao cho thủ quỹ của chùa. Vì chư Tăng sống chung, tất cả mọi sự ăn, mặc, ở, bệnh, học đều do chùa chi, nên việc cúng riêng cho một vị thầy nào đó sẽ gây ra sự bất hòa, ganh đua trong chư Tăng. Như quý vị đã biết, tiền bạc, sắc đẹp , danh lợi, ăn ngon, ngủ kỹ là năm thứ ham muốn, chúng có thể làm cho con người hư hỏng, ai mêm đắm vào chúng sẽ bị sa đọa và dễ gây ra tội lỗi. Chúng giống như miến mồi gắn vào lưỡi câu, ai cắn vào miếng mồi đó thì sẽ bị mắc câu. Người chăm chỉ càng có nhiều tiền thì càng làm ra của cải. Người làm biếng càng có nhiều tiền thì càng hư hỏng, sa đọa. Các vị xuất gia cũng vậy.

Từ số tiền mà Phật tử tại gia cúng dường, vị nào tu giỏi sẽ làm được nhiều điều lợi ích cho bản thân, cho thí chủ và cho tất cả mọi người; ngược lại, vị nào tu kém rất dễ dẫn đến hư hỏng sa đọa. Tiền bạc không có lỗi mà lỗi ở người sử dụng. Người xuất gia giữ tiền mà biết sử dụng thì nó là một tên đầy tớ tốt, còn không biết sử dụng thì nó sẽ là một ông chủ xấu. Bản thân tôi cũng đã thấy rõ sự tai hại của tiền bạc. Vì tiền là một trong năm thứ ham muốn làm say đắm con người, nên ngày xưa đức Phật đã ngăn cấm, không cho đệ tử xuất gia giữ tiền. Nhưng hiện nay, trên thực tế, cả tu sĩ Nam tông lẫn Bắc tông đều cất giữ tiền bạc. Theo tôi nghĩ, nếu tất cả người xuất gia bây giờ làm đúng như lời Phật dạy, không chất chứa tiền bạc thì chắc chắn sẽ được an lạc và giải thoát.

Ngoài ra, khi bỏ tiền vào thùng phước điền, người cúng sẽ không bị vướng mắc tình cảm với một vị thầy nào và người nhận cũng không bị lệ thuộc vào một cá nhân nào. Đối với người nữ, nếu cùng tiền riêng cho một vị Thầy quá nhiều lần sẽ gây bất lợi cho cả đôi bên. Lúc đầu, họ cúng cho quý thầy với lòng tôn kính; lâu dần sẽ sinh ra ái kính; lâu nữa sẽ phát sinh ái dục; lúc đó, lửa đã bén vào rơm rồi thì khó mà dập tắt được. Những phụ nữ còn trẻ đã có gia đình càng không nên quá chăm lo hoặc cúng dường riêng nhiều lần cho một vị thầy nào. Vì làm như vậy chồng mình sẽ nghi ngờ, rồi dẫn đến ghen tuông, phiền não, thậm chí sẽ coi các vị thầy như là kẻ thù. Do đó, chúng ta cúng dường phải có trí tuệ, nếu không hậu quả có thể sẽ cô cùng nghiêm trọng.

Trong kinh Tăng Chi Bộ, đức Phật dạy:”Có năm loại bố thí xứng đáng bậc chân nhân là bố thí có lòng tin, bố thí có kính trọng, bố thí đúng thời, bố thí với tâm không gượng ép, bố thí không làm thương tổn mình và người”. Thứ nhất, bố thí có lòng tin. Tức là khi làm việc bố thí, chúng ta phải tin tưởng rằng việc mình làm đã có nhân thì phải có quả. Thứ hai, bố thí có kính trọng. Tức là, khi bố thí cho một người nào đó, chúng ta phải làm với tâm kính trọng, nghĩ rằng họ cũng là vị Phật tương lai, không nên mang tâm cống cao ngã mạn, coi kinh người mình cho. Nói đúng ra, nếu trong cuộc sống này không có những người nghèo khổ thì làm sao mình có cơ hội để tạo phước. Giờ ai cũng giàu có thì mình cho người ta cũng không nhận. Có khi họ còn chửi mình nữa:”Tôi như vầy mà bà lại đem tiền cho tôi à?”. Vì thế, khi bố thí cho ai, mình phải cám ơn, phải cung kính, phải coi người ta như một vị Phật. Thứ ba, bố thí đúng thời. Tức là bố thí vào những lúc người ta đói khát, bệnh tật, tai nạn… Bố thí vào những lúc đó gọi là đúng thời. Thứ tư, bố thí với tâm không gượng ép. Tức là, chúng ta phải hoan hỷ, không bố thí một cách gượng ép. Thế nào là gượng ép? Ví dụ, mình đang ngồi đây, tự nhiên có ai đó kêu gọi mọi người bỏ tiền ra cúng dường, thật ra mình không muốn, nhưng biết bao nhiêu người ngồi xung quanh, mình không cúng thì cũng thấy ngại, nên vẫn bỏ tiền ra nhưng trong lòng thấy hơi xót. Đó gọi là gượng ép. Thứ năm, bố thí không làm thương tổn đến mình và người. Loại bố thí này chúng ta cần đặc biệt lưu ý. Như vừa nãy tôi có nói đến tình trạng người nữ cúng dường riêng cho quý thầy, nếu không khéo thì họ sẽ làm thương tổn cả mình và người. Bởi thế khi bố thí chúng ta phải làm được hết cả năm loại mà đức Phật đã dạy ở trên, như vậy thì việc làm của mình mới được viên mãn.

Trong kinh Tứ Thập Nhị Chương, đứt Phật có dạy rằng:”Cho một trăm người ác ăn, không bằng cho một người lành ăn, cho một ngàn người lành ăn, không bằng cho một người trì ngũ giới ăn; Cho mười ngàn người trì ngũ giới ăn, không bằng cúng dường cho một vị Tu Đà Hoàn ăn; cúng dường cho một trăm vị Tu Đà Hoàn ăn, không bằng cúng cho một vị Tư Đà Hàm ăn, Cúng dường cho một ngàn vị Tư Đà Hàm ăn, không bằng cúng dường cho một vị A Na Hàm ăn; cúng dường cho 100 000 vị A Na Hàm ăn không bằng cúng dường cho một vị A La Hán ăn; cúng dường cho 1000 000 vị A La Hán ăn, không bằng cúng dường cho một vị Bích Chi Phật ăn; cúng dường cho 10 000 000 vị Bích Chi Phật ăn không bằng cúng dường cho một Tam Thế Chư Phật ăn; cúng dường cho 100 000 000 Tam Thế Chư Phật ăn, không bằng cúng dường cho một vị Vô Niệm, Vô Trụ, Vô Tu, Vô Chứng Ăn.

Qua đoạn kinh trên, chúng ta thấy, đức Phật khẳng định rằng cho người ác ăn cũng vẫn có phước, nhưng không bằng cho người thiện ăn. Ví như chúng ta gieo hạt giống xuống một thửa ruộng cằn cỗi thì nó sẽ khó lên cây và khó ra quả. Ngược lại, nếu gieo hạt giống xuống một thửa ruộng màu mỡ thì nó sẽ lên cây dễ dàng và ra quả rất nhiều. Tương tự như vậy, chúng dường cho những vị tu hành chân chính chắc chắn sẽ có ích nhiều hơn là cúng dường cho những vị phá giới, phạm luật. Cũng qua đoạn kinh trên, đức Phật khuyên chúng ta nên bố thí cho mọi thành phần, nhưng để được lợi ích lớn cho mình và cho người thì chúng ta phải có trí tuệ. Nếu chúng ta biết gieo hạt giống vào đúng nơi, đúng chỗ thì phước báu có được sẽ nhiều vô lượng.

Trong kinh Tăng nhất A hàm, đức Phật dạy rằng:”Có ba căn lành chẳng thể cùng tận, tiến dần đến niết bàn. Thế nào là ba? Nghĩa là trồng công đức ở Như Lai, căn lành này chẳng thể cùng tận. Trồng công đức ở chánh Pháp, căn lành này chẳng thể cùng tận. Trồng công đức ở thánh chúng, căn lành này chẳng thể cùng tận”. Như vậy, theo lời Phật dạy, nếu chúng ta gieo hạt giống vào ruộng phước Tam Bảo, trồng căn lành đối với đức Phật, đối với chánh Pháp và đối với chư Tăng thì phước báu này là không cùng tận. Ngoài ra, trong kinh Pháp Cú, đức Phật còn dạy rằng: Có người bố thí nhiều mà phước ít, có người bố thí ít mà phước nhiều. Người nào bố thí cho người khác cũng tế thần linh, ăn nhậu, ca múa,… sẽ hao tốn nhiều tiền mà phước báu lại ít. Người nào cúng dường chư Tăng với tâm cung kính, giúp chư Tăng yên tâm tiến tu và làm lợi ích cho chúng sinh thì bỏ ra ít tiền mà phước báu rất nhiều.

Tóm lại, tất cả chúng ta, khi sinh ra và lúc từ giã cõi đời này đều chỉ có hai bàn tay trắng. Những gì của thế gian sẽ trả lại cho thế gian, không ai đem theo được một thứ gì. Tuy nhiên, bằng cách bố thí, cúng dường, người Phật tử và người có trí tuệ có thể giữ gìn và đem theo tất cả của cải mà mình làm ra. Chính bố thí, cúng dường là gieo cái nhân để mình hưởng quả về sau. Chúng ta gửi tiền vào ngân hàng của thế gian thì khi chết không thể mang theo, mà tiền lãi cũng chỉ được một vài phần trăm. Còn nếu biết đem số tiền đó bố thí, cúng dường, gởi vào ngân hàng nhân quả thì từ một nhân có thể tạo ra rất nhiều quả. Ví dụ như, gieo một hạt xoài, nếu chăm sóc tốt, nó sẽ lên cây, ra hoa, kết quả, từ một hạt xoài chúng ta có thể thu hoạch được hàng trăm, hàng nghìn, hàng vạn quả xoài. Do đó, gửi tiền vào ngân hàng nhân quả là bảo đảm nhất, không những thế cái quả nhận được còn gấp trăm ngàn lần cái nhân mà chúng ta đã gửi. Cuối lời, tôi sẽ đọc cho quý nghe một câu nói của vua Harsha, vị hoàng đế trị vì miền bắc Ấn Độ từ năm 606 đến năm 647. Quý vị nên lắng nghe và chiêm nghiệm câu nói rất hay này của ông:”Ngày xưa, khi góp nhặt những của cải này, lúc nào trẫm cũng áy náy, e sợ, phải tìm cách cất giấu vào những nơi vững chãi, kín đáo. Nhưng ngày nay, do bố thí, trẫm có thể gởi gắm tất cả những thứ đó trên cánh đồng của phước lạc, và trẫm coi như những của cải ấy được giữ gìn mãi mãi.”

Thích Chân Tính

Phật Giáo: Cúng Dường Đúng Chánh Pháp

Hỏi: Kính bạch Thầy! Từ khi đọc bài của Thầy dạy rằng: “cúng dường một đồng cho các thầy tu phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới, dùng miệng lưỡi lý luận mơ hồ trừu tượng gây mê tín và thần thông, bùa chú lừa đảo người còn nhẹ tội hơn là một người cúng dường một tỷ đồng”. Nhất là nhớ đến đạo đức nhân quả thì chị Nghiêm không dám cúng dường hàng tháng cho các tu viện nữa. Trước đó anh chị có hứa hằng tháng bảo trợ cho các tăng ni Tây Tạng tu học. Bây giờ chị ấy ngưng vì sợ tạo thêm tội. Anh em chúng con có người cho rằng: “các tu sĩ Tây Tạng đâu có lỗi gì. Họ chẳng may tu phải một pháp môn không phải của đức Phật. HT Thanh Từ bảo rằng cúng dường cho người tu là gieo duyên, cho họ mắc nợ mình để kiếp sau còn gặp nhau để họ dạy dỗ, nhắc nhở mình tu hành. Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con.

Đáp: Những người dùng tôn giáo và tà pháp dạy những điều mê tín, phi đạo đức, tạo ra những điều kỳ lạ quyến rũ những người nhẹ dạ để đem tiền bạc hoặc thực phẩm cúng dường cho những người đó ăn không ngồi rồi mà chẳng làm ích lợi gì cho ai cả. Khi đã học xong họ lại còn đem những sở học tà giáo ngoại đạo ra phổ biến rộng khắp dạy mọi người làm những điều mơ hồ, trừu tượng không chân chánh “Tiền mất tật mang”, không có nghĩa lý và đạo đức gì cho cuộc sống làm người.

Chúng ta đã biết pháp của họ là những pháp mê tín, trừu tượng, ảo giác, lừa đảo lường gạt thiên hạ mà cứ đem tiền bạc cúng dường cho những người đó ăn thì chúng ta tự xét lại mình có phải mình là người khờ dại hay là người thông minh? Cúng dường như vậy có được phước báo gì? Đức Phật dạy: “cúng dường không đúng chánh pháp như đem hạt giống tốt gieo trên đất chai xấu, chẳng có phước báo mà còn tổn phước”. Tại sao vậy? Vì giúp người làm ác.

Cúng dường gieo duyên như Hòa Thượng Thanh Từ bảo là cúng dường đúng chánh pháp, nhờ cúng dường đúng chánh pháp mà chúng ta gặp được chánh pháp, còn cúng dường cho tà pháp thì đời đời sẽ gặp tà pháp, mà gặp tà pháp thì làm sao chúng ta sống có đạo đức làm người làm Thánh và làm sao tu hành được giải thoát sanh tử luân hồi thì kiếp kiếp đời đời chúng ta sẽ thọ khổ vô lượng vô biên biết chừng nào cho chấm dứt.

Vả lại, cúng dường cho những người tu theo tà pháp mê tín phi đạo đức, là nối giáo cho kẻ khác diệt nền đạo đức của Phật giáo. Bằng chứng là quý phật tử từ xưa đến giờ đã bị kinh sách phát triển dẫn dắt mà quý vị không biết nên cúng dường, do đó chúng duy trì và phát triển, nên diệt sạch Phật giáo, khiến cho loài người 25 thế kỷ nay đã đánh mất nền đạo đức nhân bản – nhân quả làm người tuyệt vời. Bây giờ khắp trên thế giới con người sống bất an thường xâu xé chà đạp lên nhau vì cuộc sống, cho nên chiến tranh thế giới không lúc nào yên, lần lượt con người sẽ thoái hóa trở thành những loài thú dữ và còn tệ hơn là trở thành ác quỷ. Bởi vậy cúng đường không đúng chánh pháp tức là cúng dường cho tà pháp, cúng dường tà pháp là quý vị có tội, tội là vì xã hội con người không có đạo đức nên cuộc sống bất an, cuộc sống bất an thì quý vị cũng đang sống trong cảnh bất an đó.

Quý vị cứ suy ngẫm lại xem, từ lâu con người không theo tôn giáo này thì lại theo tôn giáo khác, không theo triết học này thì cũng theo triết lý khác, các tôn giáo dạy người cầu khẩn cúng tế cầu cho quốc thái dân an, thế giới hoà bình bằng cách này hoặc bằng cách khác, nhưng chúng ta có thấy quốc thái dân an bao giờ chưa? Có thấy thế giới hòa bình không chiến tranh chưa? Hay phải muốn quốc thái dân an thì phải bằng sức lực của con người và thế giới muốn có hòa bình thì cũng phải bằng sức lực của con người chứ không có một đấng siêu hình nào của các tôn giáo mà đem lại sự hòa bình cho loài người được. Do đó, bằng những hình thức cầu khẩn, cúng tế lạy cầu hoặc tam bộ nhất bái để cầu quốc thái dân an và hòa bình thế giới thì đó là một kiểu lừa đảo lường gạt thiên hạ. Vậy mà chúng ta đem tiền của cúng dường cho những hạng người này là làm một việc làm phi đạo đức, nghĩa là không có phước báo mà còn có tội đối với loài người, nhờ chúng ta cúng dường mà những người lừa đảo mới tiếp tục sống lừa đảo, còn nếu chúng ta không cúng dường thì chúng không thể sống lừa đảo được buộc chúng phải sống lương thiện làm bằng mồ hôi nước mắt của mình làm ra để mà sống như chúng ta vậy.

Ví dụ: Mọi người đều biết pháp môn của kinh sách phát triển là pháp môn lừa đảo thì không ai còn cúng dường thì mấy ông thầy của kinh sách phát triển không còn nói láo được nữa và nhờ đó các ông sống trở lại đời sống lương thiện đời sống không làm khổ mình, khổ người.

Đức Phật dạy: “Cúng dường đúng chánh pháp, là cúng dường cho cá nhân thanh tịnh và tập thể thanh tịnh”. Cá nhân thanh tịnh và tập thể thanh tịnh như thế nào?

Cá nhân thanh tịnh và tập thể thanh tịnh là cá nhân và tập thể phải sống đúng giới luật. Người sống đúng giới luật có nói láo không? Quý phật tử hãy nhìn lại quý thầy của kinh sách phát triển và các Thiền Sư Trung Hoa có sống đúng giới luật chưa? Có nhập định làm chủ sự sống chết được chưa? Có hết tham sân, si chưa? Nếu chưa sống đúng giới luật, chưa làm chủ sự sống chết, chưa hết tham, sân, si thì quý Thầy đó thuyết giảng dạy người khác tu là nói sai, có đúng không? Mình tu chưa được mà dạy người khác tu là những người đó có xạo không? Mà người xạo, người nói láo thì có nên cúng dường không?

Vì thế cúng dường cho người lừa đảo, người nói láo là mình có tội thêm và tội rất lớn, do thế cúng dường một đồng ít tội hơn người cúng một tỷ đồng là vậy.

Hòa Thượng Thanh Từ bảo rằng: “Cúng dường cho những người tu chân chánh là gieo duyên, cho họ mắc nợ mình để kiếp sau còn gặp nhau để họ dạy dỗ, nhắc nhở mình tu hành”. Lời dạy này của Hòa Thượng rất đúng, đúng là đúng với chánh Pháp của đức Phật, vì pháp của đức Phật là đạo đức làm người không làm khổ mình khổ người, còn như chúng ta đã biết Thiền, Mật, Tịnh là tà pháp ngoại đạo thường dạy người mê tín, phi đạo đức, phi nhân quả và có những điều dạy rất mơ hồ, trừu tượng chỉ hiểu bằng tưởng tri. Nếu chúng ta thường đem tứ sự cúng dường cho những bậc thầy này để họ mắc nợ chúng ta, để kiếp sau còn gặp nhau để họ dạy dỗ nhắc nhở mình tu hành những điều mê tín, phi đạo đức, thì chúng ta có nên cúng dường gieo duyên với những người này hay không? Gieo duyên với họ đã tốn tiền của và công sức, nhưng cuối cùng được những gì? Hãy nhìn các bậc Thầy Tổ của chúng ta họ giải thoát được những gì hay chỉ lừa đảo chúng ta mà thôi.

Tóm lại, quý phật tử phải sáng suốt trong lúc cúng dường hay bố thí, phải chọn cho đúng đối tượng, bậc tu hành giới luật phải nghiêm túc và người được bố thí thật sự phải trong cảnh khổ.