Cúng Dường Đức Phật / Top 8 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 5/2023 # Top View | Apim.edu.vn

Công Đức Dâng Hoa Cúng Dường Phật

Phật Thích Ca Mâu Ni đang thuyết pháp tại núi Linh Thứu, Đại Phạm Thiên Vương dâng lên cành hoa Kim Sắc Ba La Mật, Phật liền nâng cành hoa lên để thị ý đại chúng, đại chúng đều ngơ ngác, chỉ có Ngài Ma Ha Ca Diếp “Phá nhan vi tiếu – mĩm miệng cười”. Ngài nói: “Đây là pháp môn không lập văn tự, truyền ngoài giáo điển, hiện tại giao cho Ma Ha Ca Diếp”. Nhân thế mà Thiền Tông tôn Ngài Ma Ha Ca Diếp làm Sơ Tổ. Thành ngữ “Phá nhan vi tiếu – miệng mỉm cười” nầy cũng nói rỏ việc dâng hoa cúng Phật, đã có từ thời Ngài còn tại thế.

Hoa dùng để cúng dường chư Phật Bồ Tát là chỉ cho các loại hoa thực vật, tiếng Phạn dịch là “Bổ Thệ Ba”, kinh Phật thường gọi là “Hoa”. Phật giáo Ấn Độ, hoa cúng dường là một trong sáu món dùng để dâng cúng Phật Bồ Tát, các món cúng dường nầy đều có sự biểu trưng.

Theo Du Già Diệm Khẩu (Bản khắc gỗ tại chùa Dũng Tuyền, Cổ Sơn):

– Hoa tiêu biểu cho bố thí, vì bố thí thì khiến người sanh hoan hỷ.

– Hương tiêu biểu cho trì giới, vì trì giới thì hạnh nghiệp thơm lừng.

– Đèn tiêu biểu cho nhẫn nhục, vì nhẫn nhục thì chuyển lửa sân hận thành ánh sáng lớn (đại quang minh).

– Đồ (Nước) là tiêu biểu cho tinh tấn, vì tinh tấn thì sẽ đượm nhuần pháp thân.

– Quả tiêu biểu cho thiền định, vì thiền định thì hay thành tựu được quả vị Phật.

– Nhạc tiêu biểu cho trí tuệ, vì trí tuệ thì hay sanh ra các pháp.

Đem hoa dâng lên chư Phật Bồ Tát còn gọi là hiến hoa, đem hoa rãi lên Phật đài, đạo tràng,… gọi là tán hoa.

Trong kinh điển Phật giáo thường đề cập đến hoa báu từ trên trời rơi xuống như phẩm Thí Dụ kinh Pháp Hoa: “Nếu lúc muốn đi thì có hoa báu đỡ chân”. Hoa báu là chỉ cho các loại trân bảo hợp thành.

– Hoa cúng: Hao là một trong sáu loại cúng dường trong Phật giáo. Tập tục Ấn Độ truyền thống khi xưa thường dùng vòng hoa, rải hoa để cúng dường Phật. Vòng hoa là dùng chỉ kết lại thành, rồi đem đeo lên trên cổ của Thánh tượng để trang sức cúng dường. Tỳ-kheo không được dùng hoa để trang sức trên thân, chỉ được treo trong thất, hoặc dùng để cúng dường Phật. Kinh Phật chép: Ở trước Phật khen ngợi, thường có trời người rải hoa năm màu để cúng dường Phật.

Kinh Vô Lượng Thọ chép: “Tất cả chư Thiên, đều dâng trăm ngàn hoa hương ở cõi trời, muôn thứ kỹ nhạc để cúng dường Đức Phật”.

Kinh Pháp Hoa chép: “Có đến 10 thứ cúng dường. Lại đem hoa để ở đầu tiên, nhân vì hoa rất thơm, đẹp dùng để trang nghiêm”.

Cho nên đem hương thơm thanh khiết của hoa dâng lên trang nghiêm cúng dường Phật. Ngoài ra, hoa còn là một biểu pháp, nhân vì những khí vật trong nhà Phật đều có hàm ý tiêu biểu. Trước Phật cúng hoa tiêu biểu cho nhân, sau khi hoa nở thì kết trái, hoa tiêu biểu cho 6 độ muôn hạnh. Hoa tiêu biểu cho thiền định, đem công đức tu thiền định để cúng dường Phật. Tất cả công đức đều là từ trong thiền định mà khơi mở, chỉ có công đức thiền định mới hay đoạn trừ phiền não, sạch hết sanh tử, cuối cùng chứng được quả Phật. Đem hoa cúng Phật sẽ được nhiều công đức phước báu thù thắng.

Soạn Tập Bách Dụ Kinh chép: “Có một người hái hoa, gom những bông hoa lại rồi kết thành tràng hoa cúng dường tháp Phật, sau khi chết đi được phước báu sanh về cõi trời”.

Kinh Phật Vị Thủ Ca Trưởng Giả Thuyết Nghiệp Báo Sai Biệt Kinh chép: “Đâng hoa cúng Phật được 10 thứ công đức:

1. Ở thế gian thường tốt đẹp như hoa.

2. Trên thân không có mùi hôi dơ.

3. Phước đức và giới hạnh lan tỏa khắp nơi.

4. Sanh ở chỗ nào lỗ mũi không hư hoại hay phân biệt được mùi của các loài hương.

5. Ở thế gian mà vượt hơn thế gian được mọi người kính ngưỡng.

6. Thân thường giữ được mùi hương thơm sạch.

7. Ưa thích nghe chánh pháp, thọ trì đọc tụng.

8. Có phước báu rộng lớn.

9. Mạng chung sanh về cõi trời.

10. Mau chứng được đạo Niết Bàn.

Hoa cúng dường Phật trong kinh điển ghi rằng: Thường thấy có hoa Ưu Bát La (hoa sen xanh), Bát đầu Đặc Ma Hoa (hoa sen hồng), Câu Vật Đầu Hoa (hoa sen trắng), Phân Đà Lợi Hoa (hoa sen trắng lớn) có 4 loại như thế. Hoặc Mạn Đà La Hoa, Ma Ha Mạn Đà La Hoa, Mạn Thù Sa và Ma Ha Mạn Thù Sa hoa, có 4 loại như thế.

Theo kinh Vô Lượng Thọ chép: “Bốn loại hoa trước được trang nghiêm ở cõi Cực Lạc”.

Theo kinh Pháp Hoa chép: “Bốn loại hoa sau từ trên cõi trời rơi xuống, là thứ 3 trong sáu tướng lành. dùng hao cúng Phật trong kinh cũng xác định rỏ ràng, không phải hoa gì cũng cúng được”.

Đà La Ni Tập Kinh, quyển 6 chép: “Hoa cây cúng dường thì có cành liễu, bá diệp, trúc, hoa tạp, quả chi,… hoa có mùi hôi, cây gai sanh hoa hoa có vị đắng cay, hoa không có tên,… đều không nên đem cúng.

Hiện tại trong chùa, ngoài việc dùng hoa tươi cúng Phật, còn có dùng giấy, lụa, vàng để chế thành hoa cúng ở trước Phật. Việc cúng hoa trong Phật giáo biểu đạt được tấm lòng kiền thành, lại cũng là việc gieo trồng công đức phước báu, trí huệ tốt đẹp trong cuộc sống hiện tại và tương lai, từ đó cũng tự trang sức cho hoàn cảnh tự viện tốt đẹp.

(Nguồn chuahoiphuoc.net)

Tôn Kính Và Cúng Dường Đức Phật

Buổi nói chuyện của Đức Đạt Lai Lạt Ma chiều Thứ Ba 7-7-2015 không nằm trong các chương trình có công bố trên truyền thông dòng chính. Tôi cũng không ngờ, rằng chương trình này nói toàn tiếng Tây Tạng. Tất cả mọi người trên sân khấu đều nói tiếng Tây Tạng, chỉ trừ ban đầu cô Ann Curry trong cương vị MC nói vài câu tiếng Anh.

Đó cũng là lần đầu tiên tôi được nghe hoàn toàn, một sự kiện nhiều giờ, trong tiếng Tây Tạng — cầu nguyện, ca hát, và rồi Đức Đạt Lai Lạt Ma thuyết giảng, kể cả khi ngài nói giỡn (dĩ nhiên, tôi không hiểu, nhưng rồi thấy Ngài và rồi cả ngàn người cười phá lên). Không khí huyền ảo như dưòng siêu thực, khó gặp lần thứ nhì trong kiếp này. Buổi lễ có tên là Tibetan Long Life Prayers to His Holiness The Dalai Lama, trên nguyên tắc chỉ giành cho cộng đồng người Tây Tạng lưu vong và những người Mỹ biết nóí tiếng Tây Tạng.

*

Đặc biệt, nhà nước Trung Quốc gây chia rẽ thêm, đã ra lệnh cho các tu viện trong vùng Tây Tạng phải dựng tượng và thờ phượng vị thần Shugden. Chính phủ TQ cũng cung cấp tiền, hỗ trợ các bộ pháí thờ Shugden tại Ấn Độ, Nepal, toàn cầu để làm suy yếu vị trì của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Từ tháng 12-2-12, nhà sư Lama Jampa Ngodrup được chính phủ TQ giao nhiệm vụ ra hải ngoại, cổ vũ thờ vị thần Shugden.

Tôi hoàn toàn không thể hiểu được tại sao những người tự nhận là Phật Tử này có thể đánh trống, hô hào la hét, chỉ trích Đức Đạt Lai Lạt Ma. Vì sao Phật Tử hung hăng như thế? Trước giờ, tôi đã không dám nặng lời với bất kỳ ai, ngay cả một người khác đạo đang hung hăng tấn công mình. Có cái gì rất bệnh ở kiểu như thế. Thêm nữa, trong cương vị nhà báo ngồi giữa Little Saigon, tôi đã quen với nhiều sóng gió. Đôi khi, có những người gọi điện thoạị vào tòa soạn, mắng tôi xối xả vì dung chữ không thích nghi, hay vì lỗi chính tả nào đó, hay vì bản tin dịch thiếu sót… Ra phố, gặp mục sư hay linh mục, tôi cũng chắp tay kính lễ.

Tôi rất ít khi tranh luận… phần lớn vì nhớ lời dặn của thầy tôi, rằng chuyện gì cũng có nhân quả. Đặc biệt nên tránh tranh cãi, vì nếu mình nói đúng Phật Pháp, mà người kia nhất định cãi bướng, kiếp sau họ khó gặp lại Phật Pháp. Thêm nữa, Thầy dạy, ra đường, thấy một em nhỏ cũng chớ xem thường, vì em bé đó có thể là một vị thánh tái sinh, hay một vị bồ tát tái sinh…

Tôi thấy anh Tenzin đứng sau một chiếc bàn. Tôi đưa tay lên hét, “Mr. Tenzin Dorjee.” Anh bước ra, bắt tay chào, nhận 12 số báo gói sẵn, và đưa một vé vào cửa cho tôi. Anh nói rằng bây giờ cons ớm, vì một giờ rưỡi chiều mới vào hội trường. Những người giữ an ninh mặc đồng phục giăng dây để làm mọi người xếp hàng chờ sẵn. Thế rồi, anh Tenzin biến mất dạng. Cũng nên nói thêm, anh nguyên là nhà sư Tây Tạng ra đời, bây giờ vẫn độc thân (và có lẽ, sẽ độc thân suốt kiếp này, vì có một số vị lạt ma được chỉ thị ra đời để hoằng pháp), học xong Tiến sĩ và bây giờ dạy ở đạị học CSU Fullerton. Bản thân anh là Hội trưởng của hội Tibetan Association of Southern California.

Tôi nhìn chung quanh. Hầu hết đứng để chờ vào, vì ai cũng mặc trang phục lễ hội, màu sặc sỡ như trang phục thổ cẩm của người Hmong tại miền núi Việt Nam.. Thấy rõ đấy: gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma, đối với dân Tây Tạng là lễ hội lớn. Trẻ em cũng mặc trang phục lễ hội nữa, có em khóc, có em chạy giỡn và bị mẹ nắm tay ghìm lại, bắt chờ. Những người Mỹ trắng cũng đông…

Tôi tới các bàn đang bày bán kỷ vật, khăn quàng, trang phục, chuông, mõ… kiểu Tây Tạng. Phải mua cái gì chớ, vì Ngài Đạt Lai Lạt Ma sau năm nay, không chắc gì tới Quận Cam nữa. Năm nay, Ngài 80 tuổi, và sẽ được sắp xếp tới các thành phố khác sau này.

*

Tôi luôn luôn nhìn Đức Đạt Lai Lạt Ma như một hóa thân của Đức Quan Âm. Tôi đã dự pháp hội của ngài nhiều năm nay, ở Pasadena, ở Long Beach, ở Quận Cam… Lần họp báo giành cho rất ít phóng viên ở Long Beach mấy năm trước, tôi nhường cho hai bạn phóng viên – Tâm Huy Huỳnh Kim Quang và Quảng Trà Nguyễn Thanh Huy – tham dự, vì biết là sẽ có cơ duyên đứng bên Đức Đạt Lai Lạt Ma chụp hình. Hóa ra, hai anh này lúng túng, không được chụp hình gần, lại thành ra chụp hình giùm cho mấy người khác; tôi còn nhớ và còn giữ mấy tấm ảnh chụp hình một vài nhà báo gốc Việt đứng kế bên Đức Đạt Lai Lạt Ma.

Tôi tham dự các pháp hội chỉ vì lòng tôn kính, thuần túy vì lòng tôn kính. Không phảỉ vì nghe pháp. Tôi đã mua qua Amazon sách của ngài, nhiều tới để sách chất ở đầu giường, ở bên giường để ban đêm hễ mở mắt là thấy có sách của Đức Đạt Lai Lạt Ma để đọc, và tin rằng mình đọc kỹ hơn rất nhiều người. Đó là đọc, dĩ nhiên là đọc bản Anh ngữ, còn nói rằng mình hiểu Phật pháp tới đâu thì, dĩ nhiên, có thể gọi rằng chẳng tới đâu – hay để nói cho gọn kiểu người xưa, rằng chỉ nhớ có mỗi chữ Như. Nếu không nhầm.

Anh bạn Giáo sư Tenzin Dorjee ngôì trên sân khấu, cách Đức Đạt Lai Lạt Ma một ghế trống. Tôi không hiểu ý nghĩa ghế trống để bên Đức Đạt Lai Lạt Ma có ý nghĩa gì. Có thể tượng trưng cho Đức Ban Thiền Lạt Ma đang bị Trung quốc giam cầm? Không hiểu nổi. Cô MC Ann Curry đứng ở bục, nói vài câu tiếng Anh là thôi. Từ đó trở đi, là nói toàn tiếng Tây Tạng. Tôi nghe dĩ nhiên không hiểu, nhưng bầu không khí tuy rộng tới khoảng 2,000 người ngồi, nhưng vẫn đậm chất thân thương.

Vài hôm sau, Bảo cảm ơn về tấm ảnh, cho biết cô bạn kia là học cùng ở Đại học Naropa, nay về Quận Cam dự pháp hội. Nghĩa là, cũng chung một làng Phật Giáo Tây Tạng.

*

Tôi luôn luôn nhìn Đức Đạt Lai Lạt Ma như hóa thân của Đức Quan Thế Âm. Nghĩa là, nhìn chúng sinh như mẹ nhìn con, lòng lúc nào cũng muốn bảo bọc chúng sinh. Mỗi lần nghĩ tới Ngài, lòng tôi tự nhiên thấy ấm lại, như khi nghĩ tới ba, tới mẹ.

Anh bạn nhạc sĩ Trần Chí Phúc một hôm gọi điện thoại, lúc 10 giờ khuya, nói rằng cần một bài thơ để anh phổ nhạc, để sang hôm sau anh sẽ hát trong Đạo Tràng Nhân Quả của quý thầy phái khất sĩ Quận Cam, còn gọi là hệ phái Minh Đăng Quang, nơi anh thân với một số vị sư.

Tôi nói, tôi không có thơ thiền, thơ đạo nào có sẵn, vì trước giờ mỗi năm chỉ làm thơ một lần cho báo Xuân, và do vậy chỉ có thơ tình, vì muốn bán báo là phải làm thơ tình mới chiều lòng độc giả được.

Bạn Phúc nói, rằng có vào Google, tìm thơ đạo để phổ nhạc, nhưng thấy thơ quý thầy không hợp, mới nghĩ tới bạn, vậy thì làm ngay một bài thơ trong vòng một giờ đồng hồ, giử cho mình để phổ nhạc.

Tôi nói, cúng dường Tam Bảo là phải lẽ, xin chờ một giờ, tôi làm xong sẽ gửi qua email.

Bài thơ cúng dường các bà mẹ như sau:

Rồi mẹ như sương, tan vào nắng trưarồi mẹ như hương, ẩn hiện trong mơrồi mẹ như mây, tóc trắng cuối trời

rồi mẹ như nắng, bóng khuất sau đồi

(Thơ Phan Tấn Hải)

Xin mời nghe ở đây:

*

Chữ vàng trên giấy, lời Phật năm xưa, khởi từ bi dậy, chỉ qua kia bờ Thương ơi ba cõi, bè pháp cứu người, qua sông còn gọi, hoa bay khắp trời

(thơ Phan Tấn Hải)

Anh bạn Trần Chí Phúc phổ thành nhạc, và hát nháp như sau:

*

Tôi không biết rằng mình có sẽ in được CD nhạc và tập nhạc hay không, vì có mời ai hát cũng là tốn tiền, có ghi âm ở studio nào rồi cũng phải tốn kém. Nhưng ít ra, là phải làm cho đủ 10 bài thơ, để phổ thành nhạc. Trong đó, tất nhiên sẽ phải có một bài thơ ngợi ca Đức Quan Thế Âm… Chỉ hy vọng, từ từ các pháp sẽ thành tựu.

Nguyên Giác

Cúng Dường Lên Đức Phật Đúng Cách Là Làm Những Gì?

Vào buổi chiều ngày rằm tháng tư, Đức-Thế-Tôn ngự đến khu rừng Sāla tại Kusinārā, nơi nghỉ ngơi của hoàng tộc Malla, Đức-Thế-Tôn truyền bảo Ngài Trưởng-lão Ānanda rằng: – Này Ānanda! Con nên đặt chiếc giường quay đầu về hướng Bắc, giữa hai cây Sāla (song long thọ). Khi ấy, Đức-Thế-Tôn nằm nghiêng bên phải, đầu quay về hướng Bắc, hai chân duỗi thẳng so le, chân phải duỗi thẳng, chân trái đầu gối hơi co, hai bàn chân đặt không đều nhau, có chánh-niệm trí-tuệ tỉnh-giác, không định trước giờ xả.Cúng dường Đức-Thế-Tôn Hai cây Sāla trổ hoa trái mùa, những đóa hoa rơi xuống kim thân để cúng dường Đức-Thế-Tôn. Các cây hoa trong rừng đều nở rộ, những đóa hoa trời, hương trời, … từ cõi trời rơi xuống như mưa để cúng dường Đức-Thế-Tôn. Những tiếng nhạc trời trỗi lên để cúng dường Đức-Thế-Tôn. Khi ấy, Đức-Thế-Tôn truyền dạy Ngài Trưởng-lão Ānanda rằng: – Này Ānanda! Hai cây Sāla trổ hoa trái mùa, những đóa hoa rơi xuống kim thân của Như-Lai, để cúng dường Như-Lai. Các cây hoa trong rừng đều nở rộ, những đóa hoa trời, hương trời từ các cõi trời rơi xuống, những tiếng nhạc trời từ các cõi trời cũng trỗi lên để cúng dường Như-Lai. – Này Ānanda! Sự cúng dường đến Như-Lai bằng phẩm vật như vậy không gọi là cách cúng dường cao thượng. Người nào là tỳ-khưu hoặc tỳ-khưu-ni, hoặc cận-sự- nam, hoặc cận-sự-nữ, là người thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, thực-hành đúng theo pháp-hành bát-chánh-đạo, hành theo chánh-pháp, người ấy được gọi là người có lòng tôn kính, lễ bái, cúng dường Như-Lai bằng cách cúng dường cao thượng. – Này Ānanda! Các con luôn luôn tâm niệm rằng: “Chúng ta là hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, thực-hành đúng theo pháp-hành bát-chánh-đạo, thực-hành theo chánh-pháp.” Sở dĩ, Đức-Phật đề cao sự cúng dường bằng cách thực-hành chánh-pháp là cao thượng hơn sự cúng dường bằng phẩm vật, là vì, chỉ có sự cúng dường bằng thực-hành chánh-pháp mới có thể giữ gìn, duy trì giáo- pháp của Đức-Phật trường tồn trên thế gian. Trích: Tam Bảo – Tỳ Khưu Hộ Pháp

Công Đức Cúng Dường Trai Tăng

HSĐV – Trong một phước sự gọi là bố thí, nếu người cho bằng tâm trong sạch với lễ phẩm trang trọng và người nhận một cách xứng đáng thì gọi đó là ứng cúng thì sẽ thành tựu một cuộc bố thí thù thắng.

Thế nào là người cho bằng tâm trong sạch? Có nghĩa là cho với lòng cung kính, cho nhưng không có hậu ý đòi hỏi điều gì và cho với tâm không có phiền não, tâm thí đó rất thù thắng.

Đối tượng nhận thí là người biết nhận, có nghĩa là nhận một cách không tham lam, nhận không có sự đòi hỏi và thật sự rất khó tìm

được một đối tượng như vậy trong cuộc đời này. Chúng ta cho một người và thường tạo cho họ lòng tham. Ví dụ gặp người bạn bị túng thiếu, ta giúp cho người bạn đó thứ gì đó, tiền chẳng hạn. Người đó có thể nghĩ rằng, “À người này mình có thể lợi dụng được đây, mai mốt mình sẽ xin nữa” và tìm cách để xin giúp đỡ thêm. Đây là chuyện thường xảy ra trong đời.

Hiếm khi trong đời này có đối tượng phù hợp với quy định của Đức Phật về đời sống của một vị Sa môn: Thí chủ cúng dường cho mình, vị Sa môn đón nhận bằng tâm trang trọng và hoan hỷ chú nguyện cho vị đó, không nuôi hậu ý tìm cách để bòn rút thêm, kêu gọi thêm. Đây là trường hợp cho một người mà người đó biết cách nhận. Biết cách nhận là nhận một cách phải chăng, nhận một cách có hiểu biết, nhận một cách không có hậu ý, không có mưu đồ , không có sự toan tính: Đây là sự bố thí thù thắng.

Nếu vị Sa môn sống đời sống chân chánh giống như Đức Phật đề ra thì người Phật tử có bốn mục đích quan trọng để làm phước:

– Tăng là đối tượng nhận cúng dường

– Nhận cúng dường một cách hợp đạo

– Nhận dưới với tính cách đại chúng chứ không phải cá nhân

– Nhận với mục đích cao cả để tu tập.

Bốn mục đích này làm cho đối tượng nhận cúng dường trở nên thù thắng.

Nói đến sự biết nhận có nghĩa là khi nhận thực phẩm hay nhận sự cúng dường từ tín thí, vị Sa môn không làm phiền lòng đến họ. Có nhiều người nhận và họ gây phiền não lắm. Quý vị để ý trong cuộc sống, mình cho con cháu hay bạn bè thứ gì đó, họ một họ đòi tới mười. Khi được gửi tiền, nếu mình gửi ít họ đòi hỏi thêm chẳng hạn. Cái đó rất là phiền. Người nhận như vậy gọi là người không biết nhận, và lắm khi họ còn nhận bằng tâm không trong sạch, có nghĩa là họ nhận để hưởng thụ, chứ không phải nhận để sử dụng cho mục đích cao cả.

Nhận với tính cách cá nhân không thù thắng bằng nhận với tính cách đại chúng. Giả sử quý vị thấy một nhà sư đi bát, quý vị cúng một nắm xôi, quý vị đặt vật thực vào trong bát. Khi cúng dường cho một nhà sư, quý vị nghĩ rằng cúng dường cho chư Tăng để chư Tăng sống và tu tập để hộ trì Phật Pháp lâu dài. Điều đó hoàn toàn không mang tính cá nhân. Bởi vì sao? Nhà sư đó mang hình ảnh của Tăng già và đi ngang nhà mình, mình cúng dường mà không biết nhà sư đó lạ hay quen . Thường khi cúng dường mình hay lựa chọn cá nhân vì vậy sự cúng dường như vậy nó vượt ngoài cá nhân tuyển thí. Nếu một nhà sư hiểu Pháp và Luật khi thọ thực vị ấy phải quán tưởng: Thực phẩm này của tín thí cúng cho mình để mình tu tập và sự quán tưởng như vậy mang lại phước lạc lớn cho người thọ thí và cho cả người thí chủ. Bốn khía cạnh này chỉ tìm thấy được trong sự cúng dường Tăng thí chúng gọi là dakkhinadana.

Chúng ta tạo phước hay tạo nghiệp do tác ý. Trong việc Tăng thí, ngoài tác ý còn có đối tượng, vật cúng dường và hành động: Tâm mình trước, trong khi và sau khi làm phước như thế nào, đối tượng mà mình hướng đến như thế nào, lễ phẩm, và cung cách mình cúng dường thế nào. Mỗi cái đều là một yếu tố hết. Vì vậy, Tăng thí thù thắng nhất ở trong những điều mà chúng ta gọi là phước vật.

Với một người Phật tử hiểu đạo sẽ thấy được sự vi diệu khi mình cho một chén cơm cho một người mà người nhận nó với tấm lòng cảm kích thay vì nghĩ rằng “Cuộc đời phải có bổn phận với mình, hay người khác phải cho mình.” Sống trong chùa, chúng tôi nghiệm ra một điều: Người cho xem ra rất dễ tìm, rất dễ tìm những người thí chủ, những người cho, nhưng người biết nhận thì khó tìm lắm. Người biết nhận tạo cho người cho sự an lạc vì họ nhận không để lại phiền phức về sau cho người cho, và họ biết sử dụng vật cúng dường vào việc chánh đáng. Điều đó mới khó. Riêng về điểm này Đức Phật đã hướng dẫn một cách đầy đủ và Ngài muốn rằng chư Tăng và Phật tử, tức là những đệ tử xuất gia và tại gia của Ngài, hiểu rõ giá trị đó.

Khi chúng ta hiểu rõ việc gì mình làm sẽ tìm thấy sự hoan hỷ trong điều đó.

Đạo Hạnh Theo Liễu Quán Huế