Cúng Duong / Top 3 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Apim.edu.vn

Cung Duong Nhu The Nao Dung Phap

Thí dụ, cha mẹ là hai đấng sanh thành mang nặng đẻ đau, nuôi ta khôn lớn, lo cho ta ăn học tới nơi tới chốn, dựng vợ gã chồng, tạo cho ta gia tài sự nghiệp, ta phải có trách nhiệm cha mẹ khi tuổi già hay lúc bệnh hoạn, ốm đau… (nghĩa là cung cấp và dưỡng nuôi cha mẹ.) Cung cấp những nhu cầu cần thiết để nuôi dưỡng cha mẹ là đạo lý “Uống nước nhớ nguồn; ăn trái nhớ kẻ trồng cây” trong tập quán của người Việt nam

Nhân đây đức phật cũng cho bà rõ là năm vị Tỷ-kheo được bà cúng dường đời trước không phải là thầy tu thật, mà năm vị giả làm Tỳ-kheo để ăn của cúng dường. Do vì nghiệp báo giả làm Tỷ-kheo, lạm dụngtài vật cúng dường của đàn-na tín thí để nuôi thân và gia đình. Cho nên, đời nay năm người ấy được sanh lại làm người phải chịu thân phận kẻ nghèo hèn. Năm người đó nay đang có mặt trong đoàn người giúp việc, phục dịch cho Hoàng hậu đang đứng bên ngoài.

Nghe đức Phật nói vậy, Hoàng hậu Mạc-lợi với lòng từ bi và đức khoan dung, muốn phóng thích năm người đó ra khỏi đoàn tùy tùng để tự do làm ăn, bà xin đức Phật cho biết danh tánh của năm người ấy. Đức Phật bảo, đó là bốn người khiêng kiệu và người lo vệ sinh riêng cho bà đấy.

Vừa nghe, bà giật mình, liền ra lệnh cho năm người ấy tự do đi tìm công việc làm ăn sinh sống, nhưng họ không biết phải làm gì và đi đâu, nên cả năm người đều xin ở lại phục vụ cho bà suốt đời. Đó là cách trả nợ theo luật nhân quả của người xuất gia không tu hành đàng hoàng.

Một thời, lúc Phật còn tại thế, gặp năm hạn hán mất mùa, dân chúng đói khổ, thiếu thốn, khó khăn, đức Phật cũng không ngoại lệ, một vị Tỳ-kheo thấy Phật thiếu ăn, liền đem chiếc y của mình đổi lấy bát cơm dâng lên cúng Phật.

-Bạch Phật, cha con chết rồi chỉ còn mẹ già.

– Mẹ ông dùng cơm chưa?

– Người xứng đáng nhận bát cơm này là mẹ ông chứ không phải Ta.

– Người xuất gia còn cha mẹ không ai nuôi dưỡng thì người đó có quyền khất thực đem về cúng dườngcha mẹ.

Ngoài việc cúng dường cha mẹ, người Phật tử còn có trách nhiệm và bổn phận cúng dường người tu hành chân chánh, có đạo đức, có nhân cách, suốt đời phục vụ vì Tam Bảo, vì lợi ích chúng sanh.

Tai sao ta phải cúng dường người tu hành chân chánh?

Từ ngữ “bố thí” được người Việt Nam sử dụng với nhiều ý nghĩa như: cho, tặng, biếu, giúp đỡ, chia sẻ…Tất cả đều mang ý nghĩa tốt đẹp của hành động cho.

Khi gặp người nghèo khổ ta thương tình giúp đỡ gọi là cho hay gọi là bố thí cũng được. Người có tâm từ bi rộng lớn không những biết bố thí, cúng dường, giúp đỡ, chia sẻ cho người mà còn giúp các loài vật nữa. Đó là người biết gieo trồng phước đức đúng pháp. Người tu hành theo đạo Phật rất cần thực tậpđể có được tâm từ bi rộng lớn này.

Con cháu đem vật phẩm nuôi dưỡng ông bà cha mẹ thì gọi là cúng dường phẩm vật, còn ông bà cha mẹ đem của cải vật chất lo cho con cháu thì ta gọi bằng từ cho, giúp đỡ hay chia sẻ. Hoặc người dân bình thường muốn đem phẩm vật cho những người có địa vị trong xã hội thì gọi là kính biếu hay kính tặng…

Cùng một hành động “bố thí” mà tùy theo đối tượng, tùy theo hoàn cảnh, mà ta dùng từ ngữ sao cho phù hợp, để không làm mất đi sự tôn kính, lòng thương cảm của ta.

Là Phật tử, chúng ta phải học hiểu rõ ràng chỗ này, để dùng từ ngữ không bị sai lệch làm ảnh hưởngkhông tốt đến hành động bố thí của mình.

Hai từ này tuy viết khác, nói khác, nhưng nó cùng một ý nghĩa, tùy theo đối tượng của sự cho (người nhận) mà ta có cách gọi khác nhau để phù hợp, làm đẹp, làm hài lòng cả hai đối tượng cho và nhận mà thôi.

Để an vui hạnh phúc.

Trong các trường hợp giúp đỡ người nghèo, người bị thiên tai, hoạn nạn, bịnh tật … ta có thể gọi là cho, tặng hay biếu… Còn con cái giúp đỡ ông bà cha mẹ thì ta dùng từ ngữ “cúng dường” (đọc trại âm của chữ cung dưỡng). Đối với người có địa vị cao trong xã hội hoặc người cao niên, lớn tuổi thì ta dùng từ “kính tặng, kính biếu…” Chung quy, tất cả đều là hành động “bố thí” được triển khai bằng nhiều từ ngữkhác nhau để sử dụng rộng rãi, phù hợp cho nhiều đối tượng mà thôi.

Nếu biết người chúng ta định cúng sẽ sử dụng đồng tiền hợp lý, có lợi cho đạo hoặc cho chúng sinh thì mình được phước đầy đủ.

Thời đức Phật, có hai vợ chồng là Phật tử rất tín tâm Tam Bảo, nhưng hoàn cảnh gia đình lại nghèo khó, bữa đói, bữa no. Một hôm, người chồng đến chùa thấy nhiều người đem vật thực đến cúng dườngTam Bảo, anh phát tâm hoan hỷ vô cùng.

Về nhà, anh thấy nhà mình quá nghèo, không có cái gì có thể mang đến chùa để cúng dường, anh ta tủi thân, buồn rầu, đau khổ, đến nỗi anh ta không muốn ăn, chẵng muốn làm. Người vợ biết được, bèn đưa ra ý kiến: hay là anh đem em bán đi lấy tiền cúng dường, khi nào có tiền thì anh chuộc em về. Người chồng suy nghĩ, thấy làm như vậy thì quá nhẫn tâm, nên cả hai vợ chồng bàn nhau đi vay tiền cúng dường, nếu không trả nỗi thì đến ở đợ làm việc cho họ để trừ nợ.

Sau khi suy tính, chọn lựa, hai vợ chồng đến một nhà phú hộ trong làng trình bày sự việc, được nhà phú hộ đồng ý cho vay một số tiền với điều kiện trong bảy ngày phải mang tiền đến trả. Nếu không thì cả hai vợ chồng phải đến đây làm việc ở đợ suốt đời.

Thật là “nhân quả nhãn tiền,” người thực hành bố thí cúng dường với tâm thành kính, hoan hỷ, dám hy sinh như hai vợ chồng trong câu chuyện thật là hiếm thấy trong thời chúng ta.

Một là nghĩa hy hữu, tức là hiếm có, khó được như vàng, bạc, kim cương, ngọc quý… người nghèo không thể có được. Phật, Pháp, Tăng cũng vậy, dù người ở sát bên chùa, nhưng thiếu phước cũng khó gặp, không thể thân cận với Tam Bảo nên gọi là hy hữu.

Hai là nghĩa ly cấu, tức lìa xa những việc xấu ác hay làm những việc tốt lành, như châu báu thế gian, trong sáng, sạch đẹp không tỳ vết, khó vấy bẩn. Phật, Pháp, Tăng cũng vậy, hay xa lìa phiền não, xấu ác nên gọi là Ly cấu.

Năm là nghĩa tối thắng, như châu báu ở thế gian quý hơn tất cả mọi vật, nhưng xét cho cùng không quý bằng mạng sống con người. Tam Bảo cũng vậy, là pháp thù thắng hơn hết giúp người vượt qua nỗi khổ, niềm đau, sống được an vui, hạnh phúc nên gọi là tối thắng.

Sáu là nghĩa bất biến (không thay đổi) như vàng ròng ở thế gian, dù đập, nấu, mài, dủa vẫn không thay đổi bản chất. Tam Bảo cũng vậy, người thân cận Tam Bảo tất được an vui, hạnh phúc, không có gì cao hơn, hay hơn, không ai có thể làm tốt hơn, không bị vô thường chi phối, nước không thể cuốn trôi, lửa không thể thiêu đốt nên gọi là bất biến.

Văn Khấn Cúng Và Cách Cúng Trong Lễ Cúng Mụ

Lễ cúng Mụ (Đầy cữ, đầy tháng, đầy năm)

Ông bà ta xưa quan niệm rằng: Đứa trẻ được sinh ra là do các vị Đại Tiên (Bà chúa Đầu thai), Tiên Mụ mà trực tiếp là 12 bộ Tiên Nương (12 bà Mụ) nặn ra ban cho.

Ý nghĩa:

Ông bà ta xưa quan niệm rằng: Đứa trẻ được sinh ra là do các vị Đại Tiên (Bà chúa Đầu thai), Tiên Mụ mà trực tiếp là 12 bộ Tiên Nương (12 bà Mụ) nặn ra ban cho. Vì vậy, khi đứa trẻ đầy cữ (đứa trẻ chào đời được 3 ngày), đầy tháng (đứa trẻ chào đời được một tháng), đầy năm; bố mẹ, ông bà đứa trẻ phải bày tiệc cứng Mụ để tạ ơn các bà Mụ và cầu xin các Mụ ban cho đứa trẻ mọi điều may mắn tốt lành.

Sắm lễ:

Lễ cúng Mụ phải được làm cẩn thận chu đáo, với các lễ vật bao gồm: 1) 12 đôi hài xanh giống hệt nhau và một đôi hài cũng màu xanh nhưng to hơn 2) 12 nén vàng xanh giống nhau và một nén vàng xanh to hơn. 3) 12 bộ váy áo đẹp màu xanh giống hệt nhau và một bộ váy áo xanh cắt giống 12 bộ kia nhưng to hơn. 4) 12 miếng trầu cánh phượng giống hệt nhau và một miếng trầu têm cánh phượng to hơn. 5) 12 bộ đồ chơi: Bát,đũa, thìa, chén cốc, con giống, xe cộ, nón, mũ… giống hệt nhau và một bộ giống như vậy nhưng to hơn (những đồ lễ này có thể bằng nhựa, bằng sành sứ). 6) 12 con cua, 12 con ốc, 12 con tôm to nhỏ bằng nhau để sống (có thể đồ chín) là lễ vật dâng cúng 12 bà Mụ.Và mỗi loại một con to hơn hoặc nhiều con (ít nhất ba con) cũng để sống là lễ vật dâng cúng bà Mụ Chúa. (Các con này để vào bát to bày cúng, sau khi cúng xong thì đem cua, ốc thả ra ao, hồ; tôm có thể thụ lộc). 7) Phẩm oản, bánh kẹo, hoa quả chia đều thành 12 phần giống nhau và một phần có đủ phẩm oản, bánh kẹo, hoa quả nhưng lớn hơn (hoặc nhiều hơn). 8) Lễ mặn: Xôi, gà, cơm, canh, các món lễ mặn, rượu. . . 9) Bát hương, lọ hoa tươi nhiều màu, tiền vàng, cốc nước thanh tịnh (bày ở mâm trên cùng lễ mặn). Bày lễ: Bày lễ cúng Mụ mang tính chất thành kính, văn hoá và nghệ thuật, thường bàn lễ cúng Mụ được bày (trình bày) một cách hài hoà, cân đối. + Tất cả lễ vật dâng bà Mụ chúa để ở chính giữa phía trên của hương án + Lễ vật dâng 12 bà Mụ chia thành 12 phần giống nhau + Mâm lễ mặn cùng hương, hoa nước để trên cùng + Mâm tôm, cua, ốc để phía dưới

Sau khi bày lễ xong, bố hoặc mẹ cháu bé thắp 3 nén hương, rồi bế cháu bé ra trước án khấn:

Văn khấn cúng Mụ

– Con kính lạy Đệ nhất Thiên tỷ đại tiên chúa.

– Con kính lạy Đệ nhị Thiên đế đại tiên chúa.

– Con kính lạy Đệ tam Tiên Mụ đại tiên chúa.

– Con kính lạy Thập nhị bộ Tiên Nương

– Con kính lạy Tam thập lục cung chư vị Tiên Nương

Hôm nay là ngày…. Tháng….. năm….

Vợ chồng con là …………………………… sinh được con (trai, gái) đặt tên là …………..

Chúng con ngụ tại:………………………………………. …..

Nay nhân ngày đầy tháng (đẫy cữ, đầy năm) chúng con thành tâm sửa biện hương hoa lễ vật và các thứ cúng dâng bầy lên trước án, trước bàn tọa chư vị Tôn thân kính cẩn tâu trình:

Nhờ ơn thập phương chư Phật, chư vị Thánh hiền, chư vị Tiên Bà, các đấn g thần linh, Thổ công địa mạch, Thổ địa chính thần, Tiên tổ nội ngoại, cho con sinh ra cháu tên là………… sinh ngày…… được mẹ tròn con vuông.

Cúi xin chư vị tiên Bà, chư vị Tôn thần giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành thụ hưởng lễ vật, phù hộ độ trì, vuốt ve che chở cho cháu được ăn ngoan, ngủ yên, hay ăn chóng lớn, vô bệnh vô tật, vô tai, vô ương vô hạn, vô ách, phù hộ cho cháu bé được tươi đep, thông minh, sáng láng, thân mệnh bình yên, cường tráng, kiếp kiếp được hưởng vinh hoa phú quí. Gia đình con được phúc thọ an khang, nhân lành nảy nở, nghiệp dữ tiêu tan, bốn mùa không hạn ách nghĩ lo.

Xin thành tâm đỉnh lễ, cúi xin được chứng giám lòng thành.

Khi đã khấn xong thì bố hoặc mẹ chắp tay bé lại vái trước án 3 vái sau 3 tuần hương thì lễ tạ. Sau đó gia đình mang vàng mã, váy áo đi hoá, vẩy rượu lúc đang hoá; đem tôm, cua, ốc đi phóng sinh tại các ao, hồ, sông để cầu phúc; các đồ chơi bằng nhựa, sành sứ thì giữ lại cho cháu bé để lấy phước.

Cuối cùng cả gia đình và bạn bè cùng thụ lộc chúc cho bé mọi điều tốt lành.

Cùng Danh Mục :

Liên Quan Khác

Nghi Thức Cúng Thất (Cúng Tuần)

NGHI THỨC CÚNG THẤT

Chủ Lễ Xướng

Tang chủ tựu vi linh tiền nguyện hương Thượng hương Lễ hương linh tứ bái (4 lạy)  [ Đánh 3 hồi chuông ]

Chủ Lễ Thỉnh Linh

Tây phương Tịnh Độ hữu liên khai, linh giả tùng tư qui khứ lai; nhất niệm hoa khai thân kiến Phật, vĩnh vô bát nạn cập tam tai. Dĩ thử chấn linh thân triệu chư hương linh bất muội diêu văn tri trượng thừa Tam Bảo lực gia trì thử thực kim thời lai phó hội.

Hương hoa thỉnh, hương đăng triệu thỉnh. Tam thỉnh chư hương linh dĩ lai thọ thử trai tu phổ cúng dường y nhiên thỉnh tọa thính văn kinh, điển kinh văn Bồ Tát Ma Ha Tát.

Tán Dương Chi

Dương chi tịnh thủy biến sái tam thiên Tánh không bát đức lợi nhân thiên Pháp giới quãng tăng diên Diệt tội tiêu khiên, hoả diệm hoá hồng liên Nam mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)

Tụng Chú Đại Bi

Nam-mô Ðại-Bi Hội-Thượng Phật Bồ-Tát. (3 lần)

Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại-bi tâm đà-la-ni.

Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da.

Nam-mô a rị da, bà lô yết đế, thước bát ra da, Bồ-đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da, án, tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tỏa.

Nam-mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà.

Nam-mô na ra cẩn trì hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ-đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na a ra sâm Phật ra xá-lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ-đề dạ bồ-đề dạ, bồ-đà dạ, bồ-đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha.

Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da.

Nam-mô a rị da, bà lô yết đế, thước bàng ra dạ, ta bà ha.

Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. (3 lần)

Tang chủ kiền thiền trà châm sơ tuần Lễ hương linh nhị bái (2 lạy)

Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Ða Tâm Kinh.

Khi Quán Tự Tại Bồ-Tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều không và vượt qua hết thảy khổ ách.

Này Xá-lợi Tử! Sắc chẳng khác không; không chẳng khác sắc. Sắc tức là không; không tức là sắc. Thọ tưởng hành thức cũng đều như thế.

Này Xá-lợi Tử! Các pháp đều không tướng: không sanh không diệt, không dơ không sạch, không tăng không giảm. Cho nên trong không: không có sắc, không có thọ tưởng hành thức; không có mắt tai mũi lưỡi thân ý; không có sắc thanh hương vị xúc pháp; không có nhãn giới, cho đến không có ý thức giới; không có vô minh, cũng không có hết vô minh, cho đến không có già chết, cũng không có hết già chết. Không có khổ tập diệt đạo; không có trí tuệ và cũng không có chứng đắc.

Vì không có chỗ chứng đắc, nên Bồ-Tát y theo Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tâm không ngăn ngại. Do không ngăn ngại, nên không sợ hãi, xa hẳn điên đảo mộng tưởng, và đạt tới cứu cánh Niết-bàn.

Chư Phật ba đời đều y theo Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Phải biết Bát-nhã Ba-la-mật-đa là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú. Có thể diệt trừ hết thảy khổ, chân thật bất hư.

Cho nên chú Bát-nhã Ba-la-mật-đa đã tuyên nói . Chú thuyết như vầy:

Yết-đế yết-đế, ba-la-yết-đế, ba-la-tăng-yết-đế, bồ-đề tát-bà-ha. (3 lần)

Vãng Sinh Tịnh Ðộ Thần Chú

Nam-mô a di đa bà dạ, đa tha dà đa dạ, đa điệt dạ tha. A di rị đô bà tỳ, a di rị đa, tất đam bà tỳ. A di rị đa, tì ca lan đế. A di rị đa, tì ca lan đa, dà di nị, dà dà na, chỉ đa ca lệ, ta bà ha.(3 lần)

Tang chủ kiền thiền hiến phạn cập châm trà (tang chủ dâng cơm, dâng trà)

Biến Thực – Biến Thủy Chơn Ngôn

Nam mô tát phạ đát tha, nga đa phạ lồ chỉ đế, án tam bạt ra tam bạt ra hồng. (3 lần hoặc 7 lần)

Nam mô tô rô bà da, Đát tha nga đa da, đát điệt tha, Án tô rô tô rô, bát ra tô rô, Bát ra tô rô ta bà ha. (3 lần)

Chủ Lễ Xướng

Đây bát cơm đầy chư tang chủ kính dâng, chư hương linh ơi, đây ngọc với đây lòng, đây tình còn động trong thương nhớ, dương trần âm cảnh đã cách ngăn. Thượng phạn – Hiến trà

Tang chủ kiền thiền lễ hương linh nhị bái (2 lạy)

Cúng Vong

Nam mô Đa Bảo Như Lai Nam mô Bảo Thắng Như Lai Nam mô Diệu Sắc Thân Như Lai Nam mô Quảng Bác thân Như Lai Nam mô Ly Bố Úy Như Lai Nam mô Cam lồ Vương Như Lai Nam mô A Di Đà Như Lai

Thần  chú gia trì tịnh pháp thực Phổ thí hà sa chư hương linh Nguyện giai bảo mãn xả san tham Tốc thoát u minh sanh tịnh độ Quy y Tam bảo phát bồ đề Cứu cánh đắc thành vô thượng đạo Công đức vô biên tận vị lai Nhứt thiết hương linh đồng pháp thực

Thần chú gia trì pháp thí thực Phổ thí hà sa chư hương linh Nguyện giai bảo mãn xả san tham Tốc thoát u minh sanh tịnh độ Quy y Tam bảo phát bồ đề Cứu cánh đắc thành vô thượng đạo Công đức vô biên tận vị lai Nhứt thiết hương linh đồng pháp thực

Thần chú gia trì cam lồ thủy Phổ thí hà sa chư hương linh Nguyện giai bảo mãn xả san tham Tốc thoát u minh sanh tịnh độ Quy y Tam bảo phát bồ đề Cứu cánh đắc thành vô thượng đạo Công đức vô biên tận vị lai Nhứt thiết hương linh đồng pháp thực

Án nga nga nẳng tam bà phạ phiệt nhựt ra hồng (3 lần)

Tang chủ kiền thiền trà châm tam tuần Lễ hương linh nhị bái (2 lạy)

Hồi Hướng

Di Đà giáo chủ Địa Tạng năng nhân, thơ kim sắc túng vị đề huề phóng ngọc hào quang thùng tứ tiếp độ chư hương linh… (đọc sớ cúng linh kỳ siêu) tên họ… pháp danh… hưởng thọ… quá vãng ngày… tháng… năm… thất… Nguyện hương linh, hồn siêu cõi tịnh, nghiệp dứt chốn trần ai, hoa sen chin phẩm vừa khai, Phật bèn thọ ký cho nghe nhứt thừa. Cầu xinh chư Phật tiếp đưa hồn về Cực Lạc say sưa pháp mầy.

Phổ nguyện: Nhất thành thượng đạt, vạn tội băng tiêu, nguyện chư hương linh đắc độ cao siêu, kỳ gia quyến hàm triêm lợi lạc. Âm siêu dương thới pháp giới chúng sanh giai cộng thành Phật đạo.

Nam mô A Di Đà Phật

Tam Tự Quy

Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sinh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng.

Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sinh, thấu rõ kinh tạng, trí tuệ như biển.

Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại.

Chủ Lễ Xướng

Tang chủ kiền thiền trà châm chung tuần. Lễ chư hương linh tứ bái (4 lạy).

Văn kinh dĩ mãn

Thỉnh hương linh tọa vị linh sàn

Nam Mô A Di Đà Phật

Linh Tự Toạ Bồ Tát (3 lần)

Share this:

Twitter

Facebook

Nghi Cúng Cô Hồn (Cúng Cháo)

Nghi cúng cháo này đươc áp dụng trong những trường hợp sau khi tụng kinh cầu an hay cầu siêu đã hoàn mãn. Lễ này được đặt bàn cúng giữa cửa chính, hướng mặt vào nhà, tín chủ lạy hướng ra cửa, cách thức cúng lạy đều như nghi cúng linh.

Tả chức: Lễ tứ bái.

Chủ lễ cử tán: Cát tường hội khởi, cam lồ môn khai, cô hồn Phật tử gián lai lâm lai, văn pháp phú hương trai, vĩnh thoát luân hồi, u ám nhất thời khai.

Nam mô Vân Lai Tập Bồ Tát (3 lần).

Tụng:

Tùy duyên phú cảm mỵ bất châu

Tầm thanh cứu khổ độ quần mê

Thị tắc danh vi Quán Tự Tại.

Nam mô Diện Diên Vương Bồ tát (tán 3 lần).

Tán: Hộ ngạn bộ bộ đế rị, già rị (a) đa rị, đát tha nga đa gia.

Cô hồn (a) văn triệu, văn triệu thỉnh lai lâm (3 lần).

Tả chức: Chuyên thân triệu thỉnh, cung vọng quan lâm, sám chủ thượng hương, cẩn đương triệu thỉnh.

Chủ lễ thỉnh: Nam mô Nhất tâm phụng thỉnh

Thủ kình phan cái, thân quải hoa mang, đạo chúng sanh quy Cực Lạc chi ban, dẫn cô hồn phú đạo tràng chi hội. U minh lộ thượng dẫn hồn vương Bồ Tát Ma Ha Tát. Duy nguyện bất vi bổn thệ, lân mẫn hữu tình, thử dạ kim thời, quang lâm pháp hội.

Sơ tái tam thỉnh, nhất tâm phụng thỉnh:

Nam mô Tiếp dẫn Đạo sư A Di Đà Phật,

Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát,

Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát,

Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát,

Nam mô khởi giáo A Na Đà tôn giả,

Nam mô ốc tiêu sơn hạ Diên Diên, đại sĩ Diêm khẩu quỷ vương, tả hữu đầu, hữu mã diện, nhị vị đại tướng quân thỉnh quang gián đạo tràng, chứng minh tiếp độ.

Phụng vị, Pháp giới lục đạo, tam thập lục bộ, hà sa nam nữ, đa sanh phụ mẫu, tự tha tiên vong, gia thân quyến thuộc, viễn cập tha phương, cận ư thử xứ, nội gia viên trạch, ngoại gia viên cư, mê linh khô cốt, châm chợ mọi rợ man di, ly mỵ vọng lượng, trệ phách cô hồn, oan hồn uổng tử, nam nữ thương vong, tướng soái du hồn, trận vong binh tốt, khách thương cái giả, hình lục tù nhơn, thị tỉnh giang hồ, lộ đồ tán mạng, quân dân sĩ tốt, phủ huyện đồn dinh, hoặc bị đao thương, hoặc tao cơ tuế, hoặc ngộ xà thương nhi thất mạng, hoặc hổ giảo dĩ tán thân, thương vong hoạnh tử chi lưu, cơ khát cô hồn chi chúng, thượng tự vương hầu tướng tướng, hạ chí nông công thương, tôn ty nam nữ, hoặc u tù lỉnh ngộ, hoặc bộ hảm sa trường, hoặc nịch hà đọa trảm, trúng than trúng dược, tự vận tự ải, sản nạn chung thân, ôn hoàn yểu thệ, hoặc thiên lôi chấn kích, vương pháp gia hình, trú trớ vong thân, như tư đẳng loại, hà sa vô tự âm linh cô hồn đẳng chúng.

Phổ cập Việt Nam quá khứ, đương thời chiến tranh nạn vong binh sĩ nhân dân, nam phụ lão ấu, oan hồn uổng tử cô mộ hoang mộ, âm hồn liệt vị.

Thiết niệm, chúng sanh nghiệp cảm, nhất thiết trầm luân, hành thủy lục trung, bắc khứ đông trì vân ám ám, tận hư không giới, hàng lai thử vãng nhật du du. Túng phi giáo điển chơn thừa, na đắc hồn quy Cực Lạc. Kim tiêu hạnh ngộ, cam lồ môn khai, thừa Tam bảo lực, triệu đáo đàn diên, thính diệu pháp âm, thọ cam lồ vị, tỷ đắc viên minh trạm tịch, chơn như diệu lý cơ quan, một linh tri thanh tịnh, đại giác Thế Tôn chi chánh giáo, bất sanh bất diệt, vô khứ vô lai, trường y bát nhã chi hương, cọng chứng bồ đề chi quả, khuôn phò tín chủ dĩ bình an, tỷ hộ hoàn gia chi cát khánh.

Đồng thanh: Triệu thỉnh cô hồn dĩ lai lâm, thọ thử hoa hương phổ cúng dường, y nhiên thỉnh tọa thính kinh văn, diễn kinh văn Bồ Tá Ma Ha Tát (3 lần).

Tả chức: Điểm trà. Hữu chức: Lễ nhị bái, bình thân quỳ.

Chủ lễ: Diễn linh văn Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Tả chức xướng điệp: (nếu có) Sở hữu điệp tiến cô hồn, cẩn y tuyên độc.

Tụng tiểu mông sơn: Nam mô Diện Diên Vương Bồ Tát (3 lần)…

Đến hết câu: Án ngan nga nẳng, tam bà phạ phiệt nhật ra hộc (3 lần).

Tán:

Gia trì chú thực diệu già đà

Biến thiểu thành đa giai bảo mãn.

Nam mô Xả Xang Tham Bồ Tát (3 lần)

Đồng niệm: A Di Đà Phật và Tứ thánh.

Hồi hướng: Nhất tâm hay thập phương (tùy ý).

Đốt điệp: Thượng lai điệp tiến cô hồn, trượng bằng phần hóa.

Tụng: Bát Nhã và Vãng Sanh (3 biến).

Án ta ma ra… vạn loại hữu tình đăng Thập địa.

Nam mô Siêu Thập địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Tán trạo: Tu thiết trai diên, A Nan nhơn duyên khởi, cứu khổ Quan Âm, thị hiện tiêu diện quỷ, niệm Phật tuyên dương, bí mật công đức lực, bạt tế cô hồn, lai thọ cam lồ vị. A Di Đà Phật, túc hữu vô biên thệ, quán kiến mê đồ, khổ hải thường phiêu nịch, thùy thủ ân cần đặt giá từ bàn tế, phổ tải chúng sanh, đồng phú liên trì hội.

Nam mô Liên trì Hải hội Phật Bồ Tát (3 lần).

Pháp ngữ:

Thí thực công đức thù thắng hạnh

Vô biên thắng phước giai hồi hướng

Phổ nguyện pháp giới đa sanh phụ mẫu, lụy thế oan thân tùng tư nhập thánh siêu phàm. Nhất thế Phật tử, hữu tình, cô hồn tự thử thừa ân giải thoát.

Nguyện sanh Tây phương…

Tả chức: Phục vị. Hữu chức: Lễ tạ tứ bái.

Chủ lễ:

Nam Kha nhất mộng đoạn

Tây Vức cửu liên khai

Phiên thân quy Tịnh độ

Hiệp chưởng lễ Như Lai.

Đồng thanh: Nam mô A Di Đà Phật (1 lần).

HẾT

PHỤ LỤC NGHI CÚNG THÍ: Phần thỉnh trên này là áp dụng cho trường hợp có đọc điệp tiến. Nếu không có điệp thì thỉnh theo cách thức sau đây để thay thế cho điệp cô hồn:

Dẫn đầu: Hương vân thỉnh (2 lần).

Chủ lễ thỉnh: Ư kim… niên… nguyệt… nhật. Tư hữu Việt Nam quốc… tỉnh… quận… xã… thôn. Gia cư phụng Phật phúng kinh kỳ an (hoặc kỳ siêu ) sự dĩ hoàn long, tịnh thiết cúng thí thực cô hồn nhất diên, vị minh dương kỳ phước sự. Kim tín chủ… đẳng, cẩn dĩ hương hoa trai bàn thứ phẩm chi nghi, ngưỡng trượng Tăng già, chuyên thân phụng thỉnh…

Nam mô Nhất tâm phụng thỉnh (đều y theo nghi trên).

Ý nghĩa lễ cúng thí này rất quan trọng. Nguyên do chính nhờ ngài A Nan khởi giáo bạch Phật, sau Phật bảo đức Quan Âm thị hiện tiêu diện quỷ, để thống lãnh phát chẩn cho cô hồn.

Cách thức: Nếu là đại trai đàn thì có lễ chẩn tế gồm có 8 kinh sư, một vị chủ sám, hành trì theo khoa du già. Trần thiết bản giác ba, ngũ châu Phật, bàn Địa Tạng (hộc thực) và bàn tiêu diện, trước trai đàn có dương phan, phướng. Nếu cúng một lễ nhỏ thì theo nghi này, cúng theo tiểu mông sơn. Đây là việc làm phước rất lớn về vấn đề bố thí cho kẻ âm.