Cúng Dâng Sớ / Top 10 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Apim.edu.vn

Dâng Sớ Cầu An &Amp; Cúng Sao Giải Hạn

Trong đời sống này, dù đông hay tây, Việt Tàu Phi Ấn, Anh Pháp Mỹ Nga, hễ là người ta, không hề phân biệt, dù nam hay nữ, biết chữ hoặc không, tông môn giáo phái, tín đồ tu sĩ, bác sĩ luật sư, xuất xứ ngành nghề, trẻ già bé lớn, thường dân quan chức, học thức ít nhiều, không điều riêng tư, da trắng da đen, da vàng da đỏ, không bỏ một ai, thảy đều thường gặp: những chuyện may rũi, chuyện được chuyện mất, chuyện hên chuyện xui, chuyện vui chuyện buồn, luôn luôn thay đổi, trong mỗi phút giây, lúc được tán thán, khi bị phỉ báng, nhiều khi chán ngán, cái cảnh tình đời, lúc được lên voi, khi bị xuống chó, không ai thèm ngó, vợ bỏ con chê, lúc được lên hương, khi bị lọt mương, hết đường chạy chọt, lúc được hiển vinh, khi bị tủi nhục, ở tù rục xương, lúc được sung sướng, khi bị khổ đau, không sao kể xiết.

Những lúc vui sướng, cuộc đời lên hương, chỉ biết thụ hưởng, phủ phê hỉ hả, không nhớ gì cả. Nhưng khi quá khổ, chịu đựng không thấu, tranh đấu đảo điên, khổ nạn liên miên, bấy giờ mới nhớ, đến chuyện cầu nguyện,khấn vái thần linh, van xin bồ tát, khẩn cầu thượng đế, ban cho phép lành, dành cho phép lạ, hy vọng cầu may, đổi thay vận mệnh.

Bởi vậy cho nên, mỗi dịp đầu năm, sau tết nguyên đán, mùng tám tháng giêng, người ta thường hay, chạy ngay vào chùa, nhân mùa thượng ngươn, dâng sớ cầu an, cúng sao giải hạn,cầu cho nạn khỏi, cầu cho tai qua, cầu cho toàn gia, bình an vô sự, kể từ đầu năm, chí những cuối năm. Sẵn dịp trăng rằm, cầu luôn đủ thứ: nào được buôn may, gặp hên bán đắt, một vốn bốn lời, nhất bổn vạn lợi, không đợi kiếp sau, kiếp này trúng số, con cháu đỗ đạt, tiền bạc như nước, sắm xe tậu nhà, tha hồ sung sướng. Các chuyện cầu nguyện, van xin cầu khẩn, khấn vái như vậy, có thực hay không, có được gì không?

Người thì nói có, hễ cầu thì được, linh ứng vô cùng, nên tin là có, mất mát gì đâu. Kẻ lại nói không, trông chi chuyện đó, nằm mơ thì có, mở mắt tay không, không vẫn hoàn không, uổng công dâng sớ, mất tiền cúng sao, mau mau tỉnh thức! Tại sao như vậy? Bởi vì, thử hỏi: Sớ kia ai đọc? đọc cho ai nghe? chấp nhận hay không? thực không ai biết! Sao nọ ở đâu? ảnh hưởng thế nào? thực không ai biết! Hãy nhân dịp này, chúng ta cùng nhau, xét thử xem sao, cái chuyện đầu năm, dâng sớ cầu an, cúng sao giải hạn,có đúng chánh pháp, có ích lợi gì, thực tế hay không?

Thực ra nếu như, người ta tu nhân, tích phước nhiều đời, từ trước đến nay, thì được gặp may, không cần cầu nguyện, chẳng cần van vái, dâng sớ cầu an, cúng sao giải hạn. Những người đạo khác, đâu có bận tâm, dâng sớ cầu an, cúng sao giải hạn, nhưng họ có phước, họ vẫn gặp may, tiêu tai khỏi nạn, tam tai đại hạn, chẳng nghĩa lý gì, chẳng cần cúng sao, Hãy thử suy nghĩ: Tại sao như vậy?

Bởi theo thông lệ, từ xưa tới nay, nhiều người thường hay, vào chùa đầu năm, dâng sớ cầu an, cúng sao giải hạn, nhưng mà tai nạn, vẫn tới ào ào, làm sao giải thích?Theo đúng chánh pháp, chúng ta phát tâm, giúp đời giúp người, gặp chuyện khó khăn, khốn khó khổ đau, cùng nhau tu tập, hạnh nguyện bố thí, tài thí pháp thí, cùng vô úy thí, cứu nhân độ thế, giúp đỡ tiền của, giúp công giúp sức, giúp lời chỉ dẫn, khuyên lơn an ủi, cho người bớt lo, cho đời bớt khổ, bớt cơn sợ hãi, thấy đâu là phải, việc đúng thì làm, đúng với chánh đạo. Làm được như vậy, chúng ta được phước, dù không mong cầu, chắc chắn không nghi. Khi tích được phước, dù ít hay nhiều, phước báo lai đáo, nghiệp báo tiêu trừ, chúng ta gặp may, tai qua nạn khỏi, gặp thầy gặp thuốc, tưởng như phép lạ.

Thử xét thí dụ:trên chuyến phi cơ, xe hơi xe lửa, xe đò tàu thủy, chỉ khi gặp nạn, mới biết người nào, có phước bao nhiêu. Người nào phước nhiều, thoát nạn hiểm nguy, đường tơ kẻ tóc, một cách lạ lùng, hoàn toàn an ổn, người đời cho là: phép lạ hiển linh, thần linh cứu độ, người đó số hên, cho nên mạng lớn. Người nào kém phước, cũng được người cứu, chậm hơn một chút, xây xát ít nhiều, người đời cho là: người đó cũng hên, nên còn cứu kịp. Người nào vô phước, rước họa vào thân, các kẻ ác nhân, làm việc thất đức, không chịu tích phước, chẳng chịu tu nhân, thân không giữ được, người đời cho là: tới số mạng vong, không ai cứu nổi!

Lúc gặp hiểm nguy, người cầu Đức Mẹ, kẻ khấn Quán Âm, lâm râm cầu nguyện. Nếu như cả hai, cùng được thoát hiểm, vị nào cứu họ? Còn nếu cả hai, đều bị thảm tai, chúng ta thử hỏi: Hai ngài ở đâu, chẳng nghe kêu cứu? Bác ái từ bi, sao nghe chẳng cứu? Thực ra đó là: chẳng có vị nào, cứu hay không cứu, các người gặp nạn. Chúng ta nên biết, sự thực chính là: chỉ có phước báu,do ở thiện tâm, cứu giúp con người, khi gặp tai biến, dù ở nơi đâu, trên đất trên không, trên sông trên biển. Còn phước thì sống, hết phước mạng vong, đừng mong cầu khẩn, hãy mau giác ngộ.

Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy:Chỉ có phước báo, mới có thể làm, giảm thiểu nghiệp báo. Phước báo là do, việc làm phước thiện, chính mình tạo ra, chứ không phải do, thượng đế ban cho, hay do cầu nguyện. Nếu cầu nguyện được, tại sao nhiều người, cùng cầu cùng nguyện, kẻ chết người sống? kẻ qua người vướng?

Chúng ta nên biết, sự thực chính là: người nào tích phước, từ trước đến nay, không cần cầu nguyện, cuộc đời cũng an,ít gặp nguy nan, ít có sóng gió, ít có trắc trở, đở bớt phiền muộn, tai qua nạn khỏi, chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không, chuyện khó hoá dễ. Khi tích phước đức, dù ít hay nhiều, đều được hưởng phước, rước được điều may, không hay thất bại, tại thế an vui, tai qua nạn khỏi, gặp thầy gặp thuốc, không chuốc ưu phiền, người hiền thường gặp, bệnh tật tiêu trừ, tưởng như phép lạ. Còn như cầu nguyện, mà không tích phước, thì cũng như không, chẳng nên trông mong, phép lạ xảy đến! Nghiệp báo cũng do, chính mình tạo ra, chứ không phải do, thượng đế thần linh, hay bất cứ ai, xúi bảo mình làm.

Chính do tâm tham, xui khiến người ta, nổi lên tâm ma, cầu xin tiền tài, giàu sang sung sướng, một chút phẩm vật, nhỏ nhoi chút xíu, dâng cúng cho chùa, nhà thờ đền miếu, cầu xin bạc triệu, liệu còn chưa đủ, ngủ nghỉ ăn uống, muốn danh muốn lợi, tài sắc phù du, muốn tu nên bỏ. Chính do tâm sân, xui khiến người ta, nổi lên tâm ma, cầu xin thắng kiện, tàn hại kẻ thù, triệt hạ đối thủ, người họ không ưa, vui mừng khi thấy, kẻ thù thê thảm, sống trong khổ nhục, chết cũng không xong, họ mới hài lòng.Chính do tâm si, xui khiến người ta, nổi lên tâm ma, cầu nguyện vãng sanh, tây phương cực lạc, mà không cần tu, không gìn giữ giới, ngay trong hiện đời, đợi lúc hấp hối, nói với người nhà, rước nhiều ông bà, đến nhà hộ niệm, chỉ niệm mười tiếng, liền khiến được lên, cảnh giới Di Đà: thiệt là vô minh!

Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy,thí dụ như sau: Nếu một người nào, phải bị trừng phạt, nuốt một nắm muối, thì sẽ đau khổ, biết là dường nào. Nếu bỏ nắm muối, vào một tô nước, rồi mới phải uống, thì sẽ dễ chịu, hơn một chút xíu. Nếu bỏ nắm muối, vào một lu nước, rồi mới phải uống, thì sẽ dễ chịu, nhiều hơn chút nữa. Nếu bỏ nắm muối, vào một hồ nước, rồi mới uống vào, thì dễ như không, không còn lớn chuyện.

Nắm muối tượng trưng, cho các nghiệp nhân, bất thiện chẳng lành, con người đã tạo, từ trước đến nay, bây giờ phải lãnh, nghiệp quả nghiệp báo, nói chung đó là: quả báo khổ đau, không sao tránh khỏi.

Chỉ có phước báo, ít hay là nhiều, tượng trưng tô nước, lu nước hồ nước, mới có thể giúp, con người vượt qua, sóng gió ba đào, nạn tai đau khổ, như vậy mà thôi. Đó mới thực là: chí công vô tư. Mình làm mình hưởng.Mình làm mình chịu.

Con người nên lo, dừng nghiệp chuyển nghiệp, tự mình suy xét, chính bản thân mình, đừng nhìn người khác, tu sửa ba nghiệp: thân khẩu và ý, đừng làm bậy bạ, đừng nói tốt xấu, đừng nghĩ vẫn vơ, ngay từ bây giờ, đừng đợi đến khi, nghiệp báo xảy ra, dù có rên la, không còn kịp nữa, nghiệp báo vay trả, chẳng ai thoát cả, van xin cầu khẩn, thì cũng muộn màng! Cầu nguyện van xin, dù tin hay không, thực sự chẳng giúp, chẳng ích gì đâu. Hãy thử suy nghĩ: Tại sao như vậy?

Bởi vì các vị, giáo chủ giáo phẩm, giáo quyền cao cấp, giáo hội trung ương, giáo sĩ địa phương, một khi tai ương, đến lúc xảy ra, là ai cũng vậy, cũng phải trả nghiệp, đã tạo trước kia, nhiều đời nhiều kiếp, hoặc trong kiếp này, cũng bị nguyền rủa, vu khống cáo gian, xử án khổ nạn, bắt bớ giam cầm, ám sát giết hại, dù là người thân, cũng không thay được.

Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy:Dù cho lên non, xuống biển vào hang, nghiệp báo đã mang, vẫn theo con người, như hình với bóng, không ai có thể, tránh được thoát được.

Tóm lạixưa nay, cuộc đời đổi thay, vui buồn sướng khổ, cũng tại con người, tạo phước cũng có, tạo nghiệp cũng có, tạo phước hưởng phước, hưởng phước báo lành, tạo nhân lãnh quả, nhân thiện quả hiền, nghiệp ác quả dữ. Đúng luật nhân quả, áp dụng ba đời: quá khứ hiện tại, và cả vị lai, chẳng hề sai chạy, chẳng vị nể ai, bất cứ người nào, dù tin hay không, nếu đã gieo nhân, cũng đều gặt quả. Trong sách có câu, cổ nhân thường dạy: Lưới trời tuy thưa, mà chưa ai thoát. Chữ “trời” có nghĩa: nghiệp báo đã mang, đến giờ phải trả, chưa ai thoát được.

Thượng đế thần linh, ơn trên thiêng liêng, chí công vô tư, không bao giờ làm, theo lời cầu nguyện, van xin khấn vái, của những con người, chẳng tích phước đức, lại gây ác nhân, thất đức vô cùng. Chẳng hạn như là: nay đâm bị thóc, mai thọc bị gạo, vu khống cáo gian, khai man lý lịch, lợi dụng pháp luật, xúi người kiện tụng, lợi dụng thần thánh, kiếm tiền bất chánh, giựt hụi quịt nợ, sang đoạt tài sản, chiếm hữu tác quyền, làm tiền trắng trợn, hung tợn hiếp người, bần cùng cô thế, bất kể khổ đau, của bao người khác.

Ngày xưa chư Tổ, có lòng dạy dỗ, con người phát tâm, làm lành lánh dữ, tạo nên phương tiện, dâng sớ cầu an, cúng sao giải hạn. Mục đích khuyến dụ, mọi người về chùa, cúng kiến lễ lạy, mong cầu an tâm, gia đạo hòa bình, tánh tình hướng thiện, rồi nhân dịp đó, truyền bá chánh pháp, thuyết giảng giáo lý, chỉ bát chánh đạo, đó là:chánh kiến, và chánh tư duy, chánh ngữ chánh nghiệp, cùng là chánh mạng, và chánh tinh tấn, chánh niệm chánh định, giảng luật nhân quả, giải lý vô thường, phước đức công đức, phước báo quả báo, đọc tụng kinh điển, chí tâm tu tập, dạy các pháp môn, niệm Phật ngồi thiền, hiền lành tạo phước, việc thiện làm trước, từ khước ác nhân, tu tâm dưỡng tánh, giúp đỡ con người, giác ngộ chân lý, thấy được sự thực, giải thoát khổ đau, xây dựng cuộc sống, an lạc hạnh phúc.

Ngày nay chúng ta, tâm Phật tâm ma, lẫn lộn khó phân, cho nên tạm dùng, phương tiện thiện xảo, cúng sao giải hạn, dâng sớ cầu an, khi còn hoang mang, tâm thường bất an, gian nan khốn khổ, không chỗ nương tựa, vì chưa hiểu đạo, chẳng biết làm sao, thực hành thế nào, cho đúng chánh pháp.

Giờ đây thấu hiểu, rõ ràng không nghi, đâu là chánh pháp, chúng ta phát nguyện: dừng nghiệp chuyển nghiệp, quày đầu hướng thiện, quyết tâm trì chí, ý hướng tu hành, tu tâm dưỡng tánh, tránh làm điều ác, chỉ làm điều thiện, giữ tâm thanh tịnh, tích cực chuyển hóa, cuộc sống tâm linh, của bản thân mình, ngày được tốt hơn, tâm được an hơn, cuộc sống tốt hơn, an lạc hạnh phúc. Như vậy thực tế, những người xung quanh, cùng chung phúc lạc, cho đến một ngày, ngộ được chánh đạo, đạt được đỉnh cao: niết bàn giải thoát.

Sớ Văn Dâng Cúng Tại Điện Thờ Phật Mẫu (Bài 1)

SỚ TẾT NGUYÊN ĐÁN

A/. NGUYÊN VĂN BÀI SỚ:

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

(Bát thập……..niên)

TAM GIÁO QUI NGUYÊN, NGŨ CHI PHỤC NHỨT

Thời duy

Thiên vận……niên, Chánh ngoạt, Sơ nhứt nhựt,……thời, hiện tại Việt Nam quốc, ……tỉnh, ……huyện, ……xã, cư trụ Điện Thờ Phật Mẫu chi trung.

Kim Đệ tử: …………………………, cộng đồng Chư Thiện nam, Tín nữ đẳng, quì tại Điện tiền thành tâm trình tấu:

HUỲNH KIM KHUYẾT NỘI

HUYỀN KHUNG CAO THƯỢNG ĐẾ NGỌC HOÀNG ĐẠI THIÊN TÔN.

DIÊU TRÌ KIM MẪU VÔ CỰC THIÊN TÔN.

TAM TÔNG CHƠN GIÁO

TÂY PHƯƠNG GIÁO CHỦ THÍCH CA MÂU NI THẾ TÔN.

THÁI THƯỢNG ĐẠO TỔ TAM THANH ỨNG HÓA THIÊN TÔN.

KHỔNG THÁNH TIÊN SƯ HƯNG NHO THẠNH THẾ THIÊN TÔN.

TAM KỲ PHỔ ĐỘ TAM TRẤN OAI NGHIÊM

THƯỜNG CƯ NAM HẢI QUAN ÂM NHƯ LAI.

LÝ ĐẠI TIÊN TRƯỞNG KIÊM GIÁO TÔNG ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

HIỆP THIÊN ĐẠI ĐẾ QUAN THÁNH ĐẾ QUÂN.

GIA TÔ GIÁO CHỦ CỨU THẾ THIÊN TÔN.

THÁI CÔNG TƯỚNG PHỤ QUẢN PHÁP THIÊN TÔN.

TAM CHÂU BÁT BỘ HỘ PHÁP THIÊN TÔN.

THẬP PHƯƠNG CHƯ PHẬT, VẠN CHƯỞNG CHƯ TIÊN, LIÊN ĐÀI CHI HẠ.

Kim vì: NGUYÊN ĐÁN chi lương thần Chư Thiện nam, Tín nữ đẳng nghiêm thiết Đàn tràng: Hương, Đăng, Hoa, Trà, Quả, Thanh chước chi nghi thành tâm hiến lễ.

NGƯỠNG VỌNG: KIM BÀN PHẬT MẪU dĩ đức Từ bi chuyển họa vi phước, thoát ách tiêu tai, thế giới an ninh, cộng hòa nhơn loại, Tổ Quốc Việt Nam đoạt vinh quang, sanh chúng an cư lạc nghiệp, phục hồi Đường Ngu chi phong hóa.

NGƯỠNG VỌNG: KIM BÀN PHẬT MẪU phát hạ hồng ân, hoằng khai Đại Đạo, độ tận Chúng sanh, hiệp trí hòa tâm, tinh thần qui nhứt, vĩnh sùng Chánh Giáo, giải thoát tiền khiên, triêm ngưỡng Mẫu Ân tứ phước.

NGƯỠNG VỌNG KIM BÀN PHẬT MẪU cứu độ các đẳng Chơn linh quá vãng tảo đắc siêu thăng, an nhàn Cực Lạc.

Chư Đệ tử đồng thành tâm khẩn nguyện, cúc cung khấu bái Thượng tấu

DĨ VĂN

B/.VIẾT RA HÁN TỰ:

大 道 三 期 普 度

(八十…….年 )

三 教 歸 源 五 支 復 一

時 維

天 運 …….年, 正 月, 初 一 日, …..時, 現 在 越 南 國, ……省, ……縣, ……社, 居 住 佛 母 殿 之 中.

今 弟 子:……………………共 同 諸 善 男 信 女 等, 跪 在 殿 前 誠 心 呈 奏:

黃 金 闕 內

玄 穹 高 上 帝 玉 皇 大 天 尊

瑤 池 金 母 無 極 天 尊

三 宗 真 教

西 方 教 主 釋 迦 牟 尼 世 尊

太 上 道 祖 三 清 應 化 天 尊

孔 聖 仙 師 興 儒 盛 世 天 尊

三 期 普 度 三 鎮 威 嚴

常 居 南 海 觀 音 如 來

李 大 仙 長 兼 教 宗 大 道 三 期 普 度

協 天 大 帝 關 聖 帝 君

耶 蘇 教 主 救 世 天 尊

太 公 相 父 管 法 天 尊

三 洲 八 部 護 法 天 尊

十 方 諸 佛 萬 掌 諸 仙 蓮 臺 之 下

今 為 元 旦 之 良 辰 諸 善 男, 信 女, 等 嚴 設 壇 場: 香, 燈, 花, 茶, 果, 清 酌 之 儀 誠 心 獻 禮.

仰 望 金 盤 佛 母 以 德 慈 悲 轉 禍 為 福, 脫 厄 消 災, 世 界 安 寧, 共 和 人 類, 祖 國 越 南 奪 榮 光, 生 眾 安 居 樂 業, 復 回 唐 虞 之 風 化.

仰 望 金 盤 佛 母 發 下 洪 恩 弘 開 大 道, 盡 度 眾 生, 協 智 和 心, 精 神 歸 一, 永 崇 正 教, 解 脫 前 愆, 霑 仰 母 恩 賜 福.

仰 望 金 盤 佛 母 救 度 各 等 真 靈 過 往 早 得 超 升, 安 閒 極 樂.

諸 弟 子 同 誠 心 懇 願 鞠 躬 叩 拜 上 奏

以 文

C/. CHÚ THÍCH:

Kim vì: NGUYÊN ĐÁN chi lương thần Chư Thiện nam, Tín nữ đẳng nghiêm thiết Đàn tràng

今 為 元 旦 之 良 辰 諸 善 男 信 女 等 嚴 設 壇 場

Nguyên đán 元 旦: Tháng đầu và ngày đầu tiên của một năm, tức là ngày tết Âm lịch.

Thiện nam tín nữ 善 男 信 女: Trong Đạo Phật hay Cao Đài, những người tu xuất gia hay tại gia thì được gọi chung là Thiện nam tín nữ.

Dĩ đức Từ bi chuyển họa vi phước, thoát ách tiêu tai, thế giới an ninh, cộng hòa nhơn loại

以 德 慈 悲 轉 禍 為 福 脫 厄 消 災 世 界 安 寧 共 和 人 類

Thoát ách tiêu tai 脫 厄 消 災: Lìa khỏi họa ách chấm dứt nạn tai.

Cộng hòa nhơn loại 共 和 人 類: Loài người cùng sống chung hòa bình với nhau.

Tổ Quốc Việt Nam đoạt vinh quang, sanh chúng an cư lạc nghiệp, phục hồi Đường Ngu chi phong hóa.

祖 國 越 南 奪 榮 光 生 眾 安 居 樂 業 復 回 唐 虞 之 風 化

Đoạt vinh quang 奪 榮 光: Đạt được vẻ vang rực rỡ

Đường Ngu 唐 虞: Hai triều đại của vua Nghiêu, Thuấn là Đào Đường (vua Nghiêu) và Hữu Ngu (vua Thuấn).

Xem chú thích Nghiêu Thuấn ở phần sớ Tân Xuân Nguyên Đán cúng tại Thánh Thất.

Phong hóa 風 化: Phong tục và sự giáo hóa.

Hiệp trí hòa tâm, tinh thần qui nhứt, vĩnh sùng Chánh Giáo, giải thoát tiền khiên, triêm ngưỡng Mẫu Ân tứ phước.

協 智 和 心 精 神 歸 一 永 崇 正 教 解 脫 前 愆 霑 仰 母 恩 賜 福

Hiệp trí hòa tâm 協 智 和 心: Hòa hiệp tâm và trí.

Vĩnh sùng chánh giáo 永 崇 正 教: Vĩnh viễn sùng tín nền chánh giáo, tức là mãi mãi tin và thờ một nền chánh Đạo.

Triêm ngưỡng Mẫu ân 霑 仰 母 恩: Ngẫng lên nhờ ân Đức Mẹ nhuần gội.

Cứu độ các đẳng Chơn linh quá vãng tảo đắc siêu thăng an nhàn Cực Lạc.

救 度 各 等 真 靈 過 往 早 得 超 升 安 閒 極 樂

Chơn linh quá vãng 真 靈 過 往: Linh hồn của những người đã qui liễu.

Cực lạc 極 樂: Còn gọi là Tây Phương Cực Lạc, Cực Lạc Thế Giới, Tây Phương Tịnh Độ hay An Lạc Quốc là một cõi Tịnh độ do Đức Phật A Di Đà 阿 彌 陀 giáo hóa. Theo Phật, Cực Lạc là nơi hoàn toàn trong sạch, đẹp đẽ, an vui và hạnh phúc, không có phiền não, ô uế, thọ mạng dài lâu…Đây cũng chỉ nơi cõi Thiêng Liêng.

D/. GIẢI NGHĨA:

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

(Năm Đạo thứ …)

TAM GIÁO QUI NGUYÊN, NGŨ CHI PHỤC NHẤT

Nay thời:

Vận Trời năm………., tháng……….., ngày………, ……giờ, hiện tại nước Việt Nam, tỉnh………., huyện…………., xã…………., đang ở nơi Điện Thờ Phật Mẫu.

Nay có vị đệ tử……………………………, cùng chung các Thiện nam Tín nữ quì trước Điện thờ Phật Mẫu, thành tâm tâu trình:

TRONG HUỲNH KIM KHUYẾT

Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn.

Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn.

GIÁO CHỦ TAM GIÁO

Tây Phương Giáo Chủ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn.

Thái Thượng Đạo Tổ Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn.

Khổng Thánh Tiên Sư Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn.

BA TRẤN OAI NGHIÊM TAM KỲ PHỔ ĐỘ

Thường Cư Nam Hải Quan Âm Như Lai.

Lý Đại Tiên Trưởng kiêm Giáo Tông Đ. Đ. T. K. P. Đ.

Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân.

Gia Tô Giáo Chủ Cứu Thế Thiên Tôn.

Thái Công Tướng Phụ Quản Pháp Thiên Tôn.

Tam Châu Bát Bộ Hộ Pháp Thiên Tôn.

Thập phương chư Phật, vạn chưởng chư Tiên, Liên đài chi hạ.

Hôm nay vì giờ lành ngày tết nguyên đán chư Thiện nam Tín nữ nghiêm trang thiết lễ nơi đàn cúng tế : Nhang, đèn, bông, trái cây, rượu tinh khiết, lập thành nghi thức, thành tâm dâng lễ.

Ngưỡng mong Đức Kim Bàn Phật Mẫu lấy đức từ bi, chuyển họa thành phước, thoát khỏi họa ách chấm dứt nạn tai, Thế giới an ninh, nhơn loại sống chung hòa hiệp, Tổ Quốc Việt Nam được rực rỡ vẻ vang, sanh chúng an cư lạc nghiệp, phục hồi trở lại nền phong hóa Đường Ngu.

Ngưỡng mong Đức Phật Mẫu ban xuống hồng ân, hoằng khai Đại Đạo, độ tận nhơn sanh, chung hiệp tâm trí, qui nhứt tinh thần, vĩnh viễn sùng bái nền chánh giáo, giải thoát khỏi các tội lỗi trong kiếp trước, thấm nhuần ơn phước của Đức Mẹ ban cho.

Ngưỡng mong Đức Phật Mẫu cứu độ các cấp chơn linh quá vãng, sớm được siêu thăng, an nhàn nơi cõi Cực Lạc.

Chư đệ tử đồng thành tâm cầu khẩn, cung kính cúi lạy, và kính cẩn dâng sớ tâu lên.

Kính trình.

A/. NGUYÊN VĂN BÀI SỚ:

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

(Bát thập……..niên)

TAM GIÁO QUI NGUYÊN, NGŨ CHI PHỤC NHỨT

Thời duy

Thiên vận……niên, Chánh ngoạt, Sơ cửu nhựt, ……thời, hiện tại Việt Nam quốc, tỉnh……, huyện……, xã……, cư trụ Điện Thờ Phật Mẫu chi trung.

Kim Đệ tử: …………………………, cộng đồng Chư Thiện nam, Tín nữ đẳng, quì tại Điện tiền thành tâm trình tấu:

HUỲNH KIM KHUYẾT NỘI

HUYỀN KHUNG CAO THƯỢNG ĐẾ NGỌC HOÀNG ĐẠI THIÊN TÔN.

DIÊU TRÌ KIM MẪU VÔ CỰC THIÊN TÔN.

TAM TÔNG CHƠN GIÁO

TÂY PHƯƠNG GIÁO CHỦ THÍCH CA MÂU NI THẾ TÔN.

THÁI THƯỢNG ĐẠO TỔ TAM THANH ỨNG HÓA THIÊN TÔN.

KHỔNG THÁNH TIÊN SƯ HƯNG NHO THẠNH THẾ THIÊN TÔN.

TAM KỲ PHỔ ĐỘ TAM TRẤN OAI NGHIÊM

THƯỜNG CƯ NAM HẢI QUAN ÂM NHƯ LAI.

LÝ ĐẠI TIÊN TRƯỞNG KIÊM GIÁO TÔNG ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

HIỆP THIÊN ĐẠI ĐẾ QUAN THÁNH ĐẾ QUÂN.

GIA TÔ GIÁO CHỦ CỨU THẾ THIÊN TÔN.

THÁI CÔNG TƯỚNG PHỤ QUẢN PHÁP THIÊN TÔN.

TAM CHÂU BÁT BỘ HỘ PHÁP THIÊN TÔN.

THẬP PHƯƠNG CHƯ PHẬT, VẠN CHƯỞNG CHƯ TIÊN, LIÊN ĐÀI CHI HẠ.

Kim vì: DƯƠNG XUÂN CHÁNH LỊNH thời tự điều hòa, Thiên Địa giao thới, khai hóa chi nguyên, vạn vật giai đắc phát sanh.

Chư Thiện nam tín nữ nghiêm thiết Đàn tràng: Hương, Đăng, Hoa, Trà, Quả, thanh chước chi nghi thành tâm hiến lễ.

NGƯỠNG VỌNG

DIÊU TRÌ KIM MẪU phát hạ hồng ân, khôn ngươn chí đức, bố hóa chư Thiện nam tín nữ thuần nhứt thiên lương, chí thành đức tánh, phụng thừa Thánh ý, giáo hóa Nhơn sanh, ôn nhu hòa thuận, lễ độ khiêm cung, phục hồi Thượng ngươn Thánh đức, Nghiêu Thuấn lương dân, an cư lạc nghiệp, cộng hưởng thạnh trị thái bình, thanh nhàn hạnh phước.

Chư Thiện nam tín nữ đồng thành tâm khấu bái cẩn sớ Thượng tấu

DĨ VĂN

B/.VIẾT RA HÁN TỰ:

大 道 三 期 普 度

(八十…….年 )

三 教 歸 源 五 支 復 一

時 維

天 運 …….年, 正 月, 初 九 日, …..時, 現 在 越 南 國, ……省, ……縣, ……社, 居 住 佛 母 殿 之 中.

今 弟 子:……………………共 同 諸 善 男 信 女 等, 跪 在 殿 前 誠 心 呈 奏 :

黃 金 闕 內

玄 穹 高 上 帝 玉 皇 大 天 尊

瑤 池 金 母 無 極 天 尊

三 宗 真 教

西 方 教 主 釋 迦 牟 尼 世 尊

太 上 道 祖 三 清 應 化 天 尊

孔 聖 仙 師 興 儒 盛 世 天 尊

三 期 普 度 三 鎮 威 嚴

常 居 南 海 觀 音 如 來

李 大 仙 長 兼 教 宗 大 道 三 期 普 度

協 天 大 帝 關 聖 帝 君

耶 蘇 教 主 救 世 天 尊

太 公 相 父 管 法 天 尊

三 洲 八 部 護 法 天 尊

十 方 諸 佛 萬 掌 諸 仙 蓮 臺 之 下

今 為 陽 春 正 令, 時 序 調 和, 天 地 交 泰, 開 化 之 元, 萬 物 皆 得 發 生.

諸 善 男 信 女 嚴 設 壇 場: 香, 花, 茶, 果, 清 酌 之 儀 誠 心 獻 禮.

仰 望

金 盤 佛 母 發 下 洪 恩, 坤 元 至 德, 布 化 諸 善 男 信 女 純 一 天 良, 至 誠 德 性, 奉 承 聖 意, 教 化 人 生, 溫 柔 和 順, 禮 度 謙 恭, 復 回 上 元 聖 德, 堯 舜 良 民, 安 居 樂 業, 共 享 盛 治 太 平, 清 閒 幸 福.

諸 善 男 信 女 同 誠 心 叩 拜, 謹 疏 上 奏

以 文.

C/. CHÚ THÍCH:

Lòng sớ vía Đức Chí Tôn cúng tại Điện Thờ Phật Mẫu cũng giống như lòng sớ vía Đức Chí Tôn cúng tại Thánh Thất.

Xem chú thích trong phần Sớ văn Đại lễ Đức Chí Tôn cúng tại Thánh Thất.

D/. GIẢI NGHĨA:

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

(Năm Đạo thứ Tám mươi….)

TAM GIÁO QUI NGUYÊN, NGŨ CHI PHỤC NHỨT

Hôm nay thời:

Vận Trời năm……, tháng giêng, ngày Mùng chín, …..giờ, hiện tại nước Việt Nam, tỉnh………, huyện………, xã……, ở trong Điện Thờ Phật Mẫu.

Nay có vị đệ tử……………………….., cùng chung các Thiện nam Tín nữ quì trước Điện thờ Phật Mẫu, thành tâm tâu trình:

TRONG HUỲNH KIM KHUYẾT

Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn.

Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn.

GIÁO CHỦ TAM GIÁO

Tây Phương Giáo Chủ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn.

Thái Thượng Đạo Tổ Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn.

Khổng Thánh Tiên Sư Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn.

BA TRẤN OAI NGHIÊM TAM KỲ PHỔ ĐỘ

Thường Cư Nam Hải Quan Âm Như Lai.

Lý Đại Tiên Trưởng kiêm Giáo Tông Đ. Đ. T. K. P. Đ.

Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân.

Gia Tô Giáo Chủ Cứu Thế Thiên Tôn.

Thái Công Tướng Phụ Quản Pháp Thiên Tôn.

Tam Châu Bát Bộ Hộ Pháp Thiên Tôn.

Thập phương chư Phật, Vạn chưởng chư Tiên, Liên đài chi hạ.

Nay vì: Đang vào thời tiết ngày xuân, bốn mùa theo thứ tự điều hòa, nguyên khí Trời Đất đã giao nhau, phân định theo ngươn khai hóa, nên vạn vật đều được phát sanh.

Chư Thiện nam tín nữ trang nghiêm thiết lễ Đàn cúng gồm: Hương, hoa, trà, quả, rượu tinh khiết đúng theo nghi thức xin thành tâm hiến dâng lễ này.

Chúng con ngẫng mong nhờ:

DIÊU TRÌ KIM MẪU ban phát hồng ân xuống cho chúng con, nhờ đức lớn của Ngài cảm hóa chư Thiện nam tín nữ được thuần nhứt tính Thiện lương, tánh đức được thành thật để thể theo Thánh ý của Ngài mà dạy dỗ Nhơn sanh, được hòa nhã nhu thuận, lễ độ nhún nhường, hầu trở về với đời Thượng ngươn Thánh đức, làm người dân tốt trong thời Nghiêu Thuấn mà sống yên nơi vui nghiệp, cùng hưởng cảnh thái bình thạnh trị, an nhàn và hạnh phước.

Chư Thiện nam tín nữ đồng thành tâm cúi đầu bái lạy và kính cẩn dâng sớ này tâu lên.

Kính trình

A/. NGUYÊN VĂN BÀI SỚ:

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

(Bát thập……..niên)

TAM GIÁO QUI NGUYÊN, NGŨ CHI PHỤC NHỨT

Thời duy

Thiên vận……niên, Chánh ngoạt, Thập ngũ nhựt, ……thời, hiện tại Việt Nam quốc,……tỉnh, ……huyện, ……xã, cư trụ Điện thờ Phật Mẫu chi trung.

Kim Đệ tử: …………………………, cộng đồng Chư Thiện nam, Tín nữ đẳng, quì tại Điện tiền thành tâm trình tấu:

HUỲNH KIM KHUYẾT NỘI

HUYỀN KHUNG CAO THƯỢNG ĐẾ NGỌC HOÀNG ĐẠI THIÊN TÔN.

DIÊU TRÌ KIM MẪU VÔ CỰC THIÊN TÔN.

TAM TÔNG CHƠN GIÁO

TÂY PHƯƠNG GIÁO CHỦ THÍCH CA MÂU NI THẾ TÔN.

THÁI THƯỢNG ĐẠO TỔ TAM THANH ỨNG HÓA THIÊN TÔN.

KHỔNG THÁNH TIÊN SƯ HƯNG NHO THẠNH THẾ THIÊN TÔN.

TAM KỲ PHỔ ĐỘ TAM TRẤN OAI NGHIÊM

THƯỜNG CƯ NAM HẢI QUAN ÂM NHƯ LAI.

LÝ ĐẠI TIÊN TRƯỞNG KIÊM GIÁO TÔNG ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

HIỆP THIÊN ĐẠI ĐẾ QUAN THÁNH ĐẾ QUÂN.

GIA TÔ GIÁO CHỦ CỨU THẾ THIÊN TÔN.

THÁI CÔNG TƯỚNG PHỤ QUẢN PHÁP THIÊN TÔN.

TAM CHÂU BÁT BỘ HỘ PHÁP THIÊN TÔN.

THẬP PHƯƠNG CHƯ PHẬT, VẠN CHƯỞNG CHƯ TIÊN, LIÊN ĐÀI CHI HẠ.

NGƯỠNG VỌNG KIM BÀN PHẬT MẪU từ bi hỷ xả oan khiên, thoát ách tiêu tai, chuyển họa vi phước, trục kiết nghinh tường, dân an quốc thới.

PHỤC VỌNG KIM BÀN PHẬT MẪU phát hạ hồng ân đại xá, xá dữ Đệ tử Thiện nam tín nữ đẳng viễn tịnh quá khứ Phụ Mẫu tiền vãng tông thân, cá cá danh hạ vô lượng hoang kiếp vĩ lai, chí ư kim nhựt sở tạo vô biên, đẳng đẳng oan nghiệt, tội quá sai thố bất đáo chi xứ, cẩn khất tắc xá trí chi, nhứt thiết quá khứ sự hữu quân đắc thoát ly khổ não, tất đăng Đạo ngạn, cao siêu tam giái, vĩnh hưởng Cực Lạc chi cảnh, hiện kim tại trần, biện đạo chi hỷ, thưởng tứ kiếp nạn bất xâm, bình an kiết khánh, thiền công kỉnh tấu, kiến tánh minh tâm, thật sự thuận ư quả tự, công thành vi quí.

Đệ tử Thiện tín đẳng thiệt triêm thiện oai bất thắng khẩn khất chi chí, cẩn biểu khấu bái, Thượng tấu

DĨ VĂN

B/.VIẾT RA HÁN TỰ:

大 道 三 期 普 度

(八十…….年 )

三 教 歸 源 五 支 復 一

時 維

天 運 …….年, 正 月, 十五 日, …..時, 現 在 越 南 國, ……省, ……縣, ……社, 居 住 佛 母 殿 之 中.

今 弟 子:……………………共 同 諸 善 男 信 女 等, 跪 在 殿 前 誠 心 呈 奏:

黃 金 闕 內

玄 穹 高 上 帝 玉 皇 大 天 尊

瑤 池 金 母 無 極 天 尊

三 宗 真 教

西 方 教 主 釋 迦 牟 尼 世 尊

太 上 道 祖 三 清 應 化 天 尊

孔 聖 仙 師 興 儒 盛 世 天 尊

三 期 普 度 三 鎮 威 嚴

常 居 南 海 觀 音 如 來

李 大 仙 長 兼 教 宗 大 道 三 期 普 度

協 天 大 帝 關 聖 帝 君

耶 蘇 教 主 救 世 天 尊

太 公 相 父 管 法 天 尊

三 洲 八 部 護 法 天 尊

十 方 諸 佛 萬 掌 諸 仙 蓮 臺 之 下

今 為 時 歲 上 元, 天 官 賜 福, 佳 期 說 維 佛 母 博 愛 之 心, 欲 得 普 通 真 道, 布 極 四 方, 盡 度 人 生 脫 於 業 障, 勸 眾 回 頭, 改 惡 從 良, 自 治 正 月 望 日 考 績 勝 會 佳 期, 弟 子 與 善 男 信 女 等 須 設 壇 場: 香, 燈, 花, 茶, 果, 清 酌 之 儀 誠 心 獻 禮.

仰 望 金 盤 佛 母 慈 悲 喜 捨 冤 愆, 脫 厄 消 災, 轉 禍 為 福, 逐吉 迎 祥, 民 安 國 泰.

伏 望 金 盤 佛 母 發 下 洪 恩 大 赦, 赦 與 弟 子 善 男 信 女等, 遠 靖 過 去 父 母 前 往 宗 親, 個 個 名 下 無 量 荒 劫 尾 來, 至 於 今 日, 所 造 無 邊 等 等 冤 孽, 罪 過 差 錯 不 到 之 處, 謹 乞 則 赦 致 之, 一 切 過 去 事 有 均 得 脫 離 苦 惱, 必 登 道 岸 高 超 三 界, 永 享 極 樂 之 境, 現 今 在 塵, 辦 道 之 喜, 賞 賜 劫 難 不 侵, 平 安 吉 慶, 禪 功 敬 奏, 見 性 明 心, 實 事 順 於 果自, 功 成 為 貴.

弟 子 善 信 等 實 霑 善 威 不 勝 懇 乞 之 至 謹 表 叩 拜 上 奏

以文

C/. CHÚ THÍCH:

今 為 時 歲 上 元 天 官 賜 福 佳 期 說 維 佛 母 博 愛 之 心

Thời tuế 時 歲: Chỉ về thời gian năm tháng ngày giờ.

Giai kỳ 佳 期: Một thời kỳ tốt đẹp.

Dục đắc phổ thông Chơn Đạo, bố cực tứ phương, tận độ Nhơn sanh, thoát ư nghiệp chướng

欲 得 普 通 真 道 布 極 四 方 盡 度 人 生 脫 於 業 障

Dục đắc 欲 得: Muốn được.

Phổ thông Chơn Đạo 普 通 真 道: Đem mối Chơn Đạo truyền rộng rãi khắp mọi nơi.

Bố cực tứ phương布 極 四 方: Bày ra cùng khắp bốn phương.

Nghiệp chướng 業 障: Chướng ngại do nghiệp quả gây ra.

Khuyến chúng hồi đầu , cải ác tùng lương, tự trị Chánh ngoạt Vọng nhựt khảo tích thắng hội giai kỳ

勸 眾 回 頭 改 惡 從 良 自 治 正 月 望 日 考 績 勝 會 佳 期

Khuyến chúng 勸 眾: Khuyên đông đảo mọi người.

Hồi đầu 回 頭: Quay đầu trở lại, ý chỉ quay đầu về nẻo thiện lương.

Cải ác tùng lương 改 惡 從 良: Sửa điều hung ác để theo điều thiện lương.

Tự trị 自 治: Tự mình sửa trị.

Khảo tích 考 績: Khảo là xem xét. Tích là công lao.

Theo thời hạn định sẵn, hội đồng họp xem xét công lao để tưởng thưởng.

Thắng hội 勝 會: Hội hè thịnh lớn.

Đệ tử dữ Thiện nam tín nữ đẳng tu thiết Đàn tràng

弟 子 與 善 男 信 女 等 須 設 壇 場

Tu thiết 須 設: Nên đặt ra, bày ra.

Phục vọng 伏 望: Cúi mình mong nhờ.

Từ bi hỷ xả oan khiên, thoát ách tiêu tai, chuyển họa vi phước, trục kiết nghinh tường, dân an quốc thới.

慈 悲 喜 捨 冤 愆 脫 厄 消 災 轉 禍 為 福 逐 吉 迎 祥 民 安 國 泰

Hỷ 喜: Là vui, nhưng không phải vui riêng mình, mà là vui thích khi thấy người khác hạnh phúc, thành công. Muốn có tâm hỷ, chúng ta phải diệt trừ lòng ganh tị. Chính lòng ganh tị khiến tâm hồn ta xấu xa, đê hèn, khiến ta ghét người khi họ vui hay họ thành công.

Xả 捨: Là buông thả ra, bỏ đi, nhưng không có nghĩa là lãnh đạm, lạnh lùng trước mọi việc. Xả ở đây là giữ cái tâm bình thản, an tịnh, không bị xúc động khi vui, buồn, hay được đề cao, khen tặng, hoặc bị khinh rẻ, phỉ báng.

Oan khiên 冤 愆: Oan ức và tội lỗi.

Trục kiết nghinh tường 逐 吉 迎 祥: Theo đuổi điều tốt, tiếp nghinh việc lành.

Phát hạ hồng ân đại xá, xá dữ Đệ tử Thiện nam tín nữ đẳng viễn tịnh quá khứ Phụ Mẫu tiền vãng tông thân

發 下 洪 恩 大 赦, 赦 與 弟 子 善 男 信 女 遠 靖 過 去 父 母 前 往 宗 親

Viễn tịnh 遠 靖: Xa xôi lặng lẽ.

Tông thân 宗 親: Thân thuộc cùng một ông tổ.

Cá cá danh hạ vô lượng hoang kiếp vĩ lai chí ư kim nhựt sở tạo vô biên, đẳng đẳng oan nghiệt, tội quá sai thố bất đáo chi xứ

個 個 名 下 無 量 荒 劫 以 來 至 於 今 日 所 造 無 邊 等 等 冤 孽 罪 過 差 錯 不 到 之 處

Cá cá 個 個: Mọi người.

Vô lượng 無 量: Không thể lường được.

Hoang kiếp 荒 劫: Kiếp hư không.

Oan kiếp 冤 劫: Kiếp sống oan trái.

Dĩ lai 以 來: Trở lại, đến nay.

Vĩ lai 尾 來: Theo sau đến.

Chí ư kim nhựt 至 於 今 日: Cho đến ngày hôm nay.

Tội quá 罪 過: Tội lỗi

Sai thố 差 錯: Hay sai thác là lầm lộn.

Bất đáo chi xứ 不 到 之 處: Không đến nơi.

Cẩn khất tắc xá trí chi, nhứt thiết quá khứ sự hữu quân đắc thoát ly khổ não, tất đăng Đạo ngạn cao siêu tam giái, vĩnh hưởng Cực Lạc chi cảnh

謹 乞 則 赦 致 之 一 切 過 去 事 有 均 得 脫 離 苦 惱 必 登 道 岸 高 超 三 界 永 享 極 樂 之 境

Cẩn khất 謹 乞: Cung kính xin.

Tắc xá 則 赦: Ắt được tha thứ.

Trí chi 致 之: Hết.

Nhứt thiết 一 切: Tất cả, hết thảy.

Quân đắc 均 得: Đều được, cùng được.

Tất đăng Đạo ngạn 必 登 道 岸: Ắt là được lên con đường Đạo.

Tam giới 三 界: Ba cảnh giới. Do nghiệp lực sai biệt của chúng sanh, nên thế gian chia làm ba cõi giới: Dục giới, sắc giới, vô sắc giới.

Vĩnh hưởng 永 享: Mãi mãi được hưởng.

Cực Lạc chi cảnh 極 樂 之 境: Cảnh Cực Lạc.

Hiện kim tại trần, biện đạo chi hỷ , thưởng tứ kiếp nạn bất xâm, bình an kiết khánh

現 今 在 塵 辦 道 之 喜 賞 賜 劫 難 不 侵 平 安 吉 慶

Hiện kim tại trần 現 今 在 塵: Hiện nay ở cõi trần.

Biện Đạo chi hỷ 辦 道 之 喜: vui làm việc đạo.

Thưởng tứ 賞 賜: Ban thưởng.

Thường tứ 常 賜: Thường ban cho.

Kiếp nạn 劫 難: Tai nạn.

Bất xâm 不 侵: Không xâm phạm.

Kiết khánh 吉 慶: Hay cát khánh là việc vui mừng.

Thiền công kỉnh tấu , kiến tánh minh tâm, thật sự thuận ư quả tự công thành vi quí.

禪 功 敬 奏 見 性 明 心 實 事 順 於 果 自 功 成 為 貴

Thiền công 禪 功: Thiền có nghĩa Phật Đạo ví như: Thiền gia, thiền môn, thiền định,. Ở đây chỉ Đại Đạo, như từ “Rạng môn thiền” hoặc “Giáng thiền minh” trong bài kinh Dâng hoa và Dâng rượu. Công là công quả hay công đức.

Kính tấu 敬 奏: Kính cẩn tâu trình.

Thiền công kính tấu 禪 功 敬 奏: Lấy công đức kính cẩn tâu trình lên.

Kiến tánh minh tâm 見 性 明 心: Thấy tánh sáng tâm.

Kiến tánh 見 性: “Thấy tánh”, là thấy được tự tánh của mình, thấy được bản thể chân thật của mình vốn sáng suốt trong lặng, tức là thấy được Thiên tánh, Phật tánh hay Viên minh tánh.

Chúng ta hiện diện trên cõi đời này mỗi người đều mang sẵn một “Chơn tánh”, nhưng vì xa rời nó để đi vào sanh tử rồi thì cứ theo dòng mê mà trôi nổi bềnh bồng chịu mọi khổ đau như lời Sám “Quy mạng” của Phật viết: “Đệ tử chúng đẳng tự di chơn tánh, uổng nhập mê lưu, tùy sanh tử dĩ phiêu trầm…”. Từ bỏ Chơn tánh là mất tánh sáng suốt thì phiền não trần lao sẽ phát sinh làm khổ lụy thân tâm và mãi mãi luân hồi.

Minh tâm 明 心: Rèn luyện cho tâm sáng suốt.

Thuận ư quả 順於果: Thuận theo quả, tức là an vui theo quả.

Đệ tử Thiện tín đẳng thiệt triêm thiện oai bất thắng khẩn khất chi chí, cẩn biểu khấu bái, Thượng tấu

弟 子 善 信 等 實 霑 善 威 不 勝 懇 乞 之 至 謹 表 叩 拜 上 奏

Thiệt triêm 實 霑: Thành thật được thấm nhuần.

Thiện oai: Hay thiện uy 善 威: Oai linh thiện lành.

Bất thắng: Hay bất thăng 不勝 là không nổi được, không xiết.

Khẩn khất 懇 乞: Thành khẩn cầu xin.

Cẩn biểu 謹 表: Kính cẩn bày tỏ.

D/. GIẢI NGHĨA:

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

(Năm Đạo thứ Tám mươi….)

TAM GIÁO QUI NGUYÊN, NGŨ CHI PHỤC NHỨT

Hôm nay thời:

Vận Trời năm……, tháng giêng, ngày Mùng chín, …..giờ, hiện tại nước Việt Nam, tỉnh………, huyện………, xã……, ở trong Điện Thờ Phật Mẫu.

Nay có vị đệ tử……………………….., cùng chung các Thiện nam Tín nữ quì trước Điện thờ Phật Mẫu, thành tâm tâu trình:

TRONG HUỲNH KIM KHUYẾT

Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn.

Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn.

GIÁO CHỦ TAM GIÁO

Tây Phương Giáo Chủ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn.

Thái Thượng Đạo Tổ Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn.

Khổng Thánh Tiên Sư Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn.

BA TRẤN OAI NGHIÊM TAM KỲ PHỔ ĐỘ

Thường Cư Nam Hải Quan Âm Như Lai.

Lý Đại Tiên Trưởng kiêm Giáo Tông Đ. Đ. T. K. P. Đ.

Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân.

Gia Tô Giáo Chủ Cứu Thế Thiên Tôn.

Thái Công Tướng Phụ Quản Pháp Thiên Tôn.

Tam Châu Bát Bộ Hộ Pháp Thiên Tôn.

Thập phương chư Phật, Vạn chưởng chư Tiên, Liên đài chi hạ.

Hôm nay vì: Đến buổi Thượng Ngươn, gặp thời kỳ tốt đẹp: Trời ban phước đức, nói lên lòng bác ái của Đức Phật Mẫu vì muốn phổ thông nền Chơn Đạo, ban bố cùng khắp bốn phương, độ hết tất cả Nhơn sanh thoát lìa hết nghiệp chướng, khuyên chúng sanh quay đầu về nẻo thiện, bỏ ác theo lành, tự mình sửa trị. Ngày rằm tháng giêng, cũng là lúc mở hội lớn để xem xét công lao, nên chúng Đệ tử cùng với Thiện nam Tín nữ thiết Đàn tràng gồm: Nhang, đèn, bông, trà, trái cây, và rượu tinh khiết theo nghi thức xin thành tâm hiến lễ.

Cúi mình mong nhờ Đức KIM BÀN PHẬT MẪU từ bi hỷ xả tất cả oan nghiệt tội lỗi, giải thoát ách nạn, tiêu trừ tai ương, chuyển họa thành phước, theo đuổi điều tốt nghinh tiếp việc lành, dân được yên ổn, Nước nên giàu mạnh.

Cúi mình mong nhờ KIM BÀN PHẬT MẪU ban xuống hồng ân Đại xá và xá cho chư Đệ tử Thiện nam Tín nữ xa xôi lặng lẽ về quá khứ, trong đó cha mẹ, những bậc tiền vãng, tông thân, mọi người từ vô lượng hoang kiếp theo sau mà đến, cho tới ngày hôm nay, tạo vô cùng oan nghiệt, tội lỗi và sai lầm không biết đến đâu, con kính cẩn cầu xin ắt được xá dứt hết, tất cả những việc quá khứ đều được thoát lìa khổ não, tất theo con đường Đạo, siêu thăng cõi Tam giái, vĩnh viễn hưởng cảnh Cực Lạc. Hiện nay ở tại trần, vui làm việc đạo, xin thưởng ban cho tai nạn không đến, bình yên và gặp việc tốt lành, và kính cẩn tâu trình công đức để được ban cho sáng tâm mà thấy tánh, thực sự là an vui theo quả và tự thành công là quý.

Đệ tử, chư thiện nam tín nữ thành thật thấm nhuần oai linh thiện lành, không xiết thành khẩn cầu xin Đức Phật Mẫu, và kính cẩn tỏ bày, cúi lạy tâu trình dâng lên sớ văn này.

Kính trình.

Hiền Tài QUÁCH VĂN HÒA

Share this:

Twitter

Facebook

Like this:

Số lượt thích

Đang tải…

Sớ Cúng Phật Sám Hối – Phần Mềm Viết Sớ – Phần Mềm Viết Sớ Hán Nôm

Cúng phật sám hối nghĩa là để tạ lỗi, chuộc lỗi hay rửa tội khi mình làm sai với người khác, phạm tội với triều đình, có lỗi với ông (bà), cha (mẹ), dòng họ làng nước.

Mẫu lòng sớ:

Phục dĩ

Đại tạo nguy nguy đản bố hảo sinh chi đức tiêu tâm dực dực cung trần bộc bạch chi hoài phủ lịch thành ngưỡng can

Viên hữu:………………………………

Thượng phụng

Phật thánh hiến cúng…thiên kỳ an giải hạn tập phúc nghênh tường nguyện cầu bản mệnh bình an gia môn hưng vượng sự

Kim thần

Tín chủ:………………………………………………….

Đại giác phủ giám phàm tâm ngôn niệm thần đẳng sinh cư trung giới mệnh chúc

Thượng thiên hà kiền khôn phúc tái chi ân cảm tam quang chiếu lâm chi đức tư phùng tiết lễ đảo kỳ an ách vận gia lâm

Ký lại khuông phù chi lực hung tinh sở chiếu cung kỳ bảo hữu chi công kiền thân kỳ đảo kích thiết đan thành sám khiên

Hối quá phù mệnh vị dĩ an ninh giải hạn trừ tai bảo đồng gia nhi cát khánh cẩn thủ kim nguyệt cát nhật thỉnh mệnh

Thiện tăng tựu vu tịnh xử tu thiết kỳ an pháp đàn nhất diên nhi tán kim tắc án đăng bạc cúng kệ chấn triêu âm

Hội phạm hành chi thiện hòa chuyển cát tường chi kinh chú cẩn tương chử sớ bái khải

Cung duy

Nam mô thập phương vô lượng thường trụ tam bảo nhất thiết chư vị bồ tát

Nam mô đại từ đại bi linh cảm ngũ bách danh quan thế âm bồ tát

Tam giới thiên chủ tứ phủ vạn linh công đồng đại đế

Phục nguyện

Phật đức thùy từ hoàng thiên tích phúc bảo thần đẳng thân cung khang thái mệnh vị duyên trường tòng tư vô bán điểm chi ngu tự thử

Nạp thiên tường chi khánh cầu chi quả toại ngưỡng tích như ngôn đãng thần hạ tình vô nhâm kích thiết bình doanh chi chí

Thiên vạn…niên…nguyệt …nhật thần khấu thủ bách bái thượng sớ

Ý nghĩa:

Sám hối những giới đã phạm:

Nếu tội lỗi mà có hình tướng thì dẫu cả hư không vô tận kia cũng không chứa hết tội lỗi của chúng sanh đã tạo tác từ vô thủy đến nay. Đúng vậy, chúng ta đã từ vô lượng kiếp trôi lăn, tội lỗi chất chồng, lớp này lớp kia, truyền nối nhiều đời thật không kể xiết được.

Vừa lọt lòng mẹ, chúng ta đã mang sẵn nhiều chủng nghiệp khác nhau, tạo nên những cá tính khác nhau. Ai ai cũng chứa đầy những giống loại tâm lý, tính tình, khả năng, thói quen, ác tật phức tạp. Những tham, sân, mạn, tật đố, hiềm hận, bạc ơn, phản phúc, bỏn xẻn…đã có đầy đủ ở trong mỗi chúng ta. Các hạt giống này đã có sẵn, do duyên sanh, hiện hành… làm nhân, làm quả tương tục, liên miên, bất tận. Tất cả những“tiền khiên tội lỗi” ấy, chúng đã đâm chân mọc rễ nhiều đời, mọi phương cách sám hối đều không thể rửa sạch. Chỉ có tu tuệ quán mới có thể bứng nhổ được một phần nào. Và cũng có thể, có một số chúng tử xấu ác trong vô thức, chúng ta không tạo nhân tham sân để cho nó duyên khởi, như ngũ cốc để trong kho lâu ngày thì mầm giống sẽ tự tiêu hoại.

Tuy nhiên, những tội lỗi chúng ta làm trong hiện tại, sau khi sám hối, nguyện ăn năn chừa bỏ, chúng ta sẽ thấy thân tâm thư thái, nhẹ nhàng, sẽ không còn bị ám ảnh về tội lỗi nữa. Thoát khỏi ám ảnh tội lỗi là ý nghĩa rất quan trọng, rất có lợi ích do nhờ sám hối đúng đắn mang lại.

Nguyện từ nay về sau xin chừa bỏ:

Khi đã xin từ bỏ thì sẽ không còn dám tái phạm, từ nay về sau cố gắng sống cho tốt hơn, cố gắng phát triển những hạnh lành, những đức tính thanh cao.

Quả vậy, nếu xấu ác là quá nhiều như hư không vô tận không thể chứa hết thì những hạnh lành, những đức tính tốt đẹp, cao cả ở trong tâm chúng ta có được từ “vô thỉ dĩ lai”  cũng nhiều đến vô biên vô lượng. Những đức tính ấy, những thiện pháp thanh lương và cao sáng ấy ví dụ như: Chân thật, nhẫn nại, từ ái, đức tin, tấn, niệm, vô tham, vô sân, tàm, quý…

Ý nghĩa sám hối không chỉ đơn thuần là chừa bỏ ác xấu mà còn phát triển những hạnh lành nữa vậy. Phải làm cho những cái xấu ác không có cơ hội nẩy nở, tăng trưởng; mà chúng ta phải tạo duyên, điều kiện tốt cho những mầm giống thiện nẩy sinh, đâm chồi, ra hoa, kết trái nữa.

Nhờ sám hối, con người có thể cải hóa được những cái xấu ác trong lòng mình, có thể được an vui, thanh thản do si mê đã lỡ tạo tác ác nghiệp, phạm giới trong quá khứ. Ngoài ra, ta còn có cơ hội phát triển những đức tính tốt đem lại hạnh phúc cho mình và người.

Cách cúng sám hối:

– Vào những ngày 14 và 30 mỗi tháng, Phật tử đến chùa làm phước, bố thí, xin giới và làm lễ sám hối, nghe pháp… Dịp này, Phật tử tụng kinh Tam Bảo, đối trước điện Phật hoặc đối trước Tăng đọc lời sám hối hoặc tụng bài kinh sám hối. Họ cũng thường xin chư Tăng truyền thọ lại Ngũ giới hoặc Bát quan trai giới. Xin thọ trì giới trở lại, có thể bất cứ lúc nào, trong các lễ trai tăng, cúng dường, nghe pháp hoặc các lễ chúc phúc an lành…

Nếu không đến chùa được thì Phật tử có thể sám hối và xin giới ngay bàn thờ Phật ở trong nhà rồi nguyện thọ trì giới cho được trong sạch từ nay về sau.

– Với hàng xuất gia thì có 227 điều luật, tùy theo nặng nhẹ mà trục xuất, cấm phòng hay sám hối. Những giới có thể sám hối được đều tương tợ nhau, nghĩa là vị tỳ-khưu phạm giới trình giới tội của mình với vị tỳ-khưu cao hạ. Và sự đối đáp xẩy ra như nhau: Hiền giả đã “thấy rõ tội” chưa? Vị phạm giới đáp: Thưa vâng, bạch tôn giả, con “đã thấy rõ tội” rồi! Sau đó vị sư cao hạ khuyên pháp đệ của mình cố gắng giữ giới cho trong sạch.

Cách thức sám hối này rất trong sáng, không mang màu sắc tín ngưỡng, mà trái lại; tỏ lộ tình cảm đạo lý, giúp người phạm giới sau khi “thấy tội” của mình rồi, nguyện chừa bỏ để nỗ lực tu tập cho tốt hơn.

                                                                                                                                                          Theo: Kim Dung

                                                                                                                                                           Nguồn: Sưu tầm

Sớ Là Gì? Viết Sớ Như Thế Nào?

SỚ là gì? Viết SỚ như thế nào?

SỚ LÀ GÌ? VIẾT SỚ NHƯ THẾ NÀO?

I. Sớ là một loại văn bản cổ dùng để trình bày ước vọng của người dưới dâng lên bề trên mọng được y chuẩn. Vì là một loại văn bản hành chính nên sớ cũng có những quy định chặt chẽ. Ứng dụng của sớ rất rộng rãi, nhưng thời nay chỉ còn sử dụng trong việc cúng lễ. Mỗi khoa cúng khi hành trì đều có đoạn phải tuyên sớ, khoa cúng nào có loại sớ đó, riêng trong việc cúng lễ thôi cũng có tới vài trăm loại sớ. Ngoài việc gắn liền với các khoa cúng, thì trong sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng người ta cũng hay sử dụng sớ khi tự thân lễ lạt nơi đền chùa miếu mạo, bởi người ta quan niệm sớ là một loại đơn từ giấy trắng mực đen gửi lên các đấng siêu hình, mong các ngài ban cho được sở cầu như ý, sở nguyện tòng tâm, sớ thay cho lời khấn khi đi lễ, nên trên mâm lễ vật có tờ sớ thêm phần tố hảo, viên mãn.

– THỂ THỨC MỘT LÁ SỚ: Để phân biệt sớ với các loại công văn khác: – Bắt đầu lá sớ bao giờ cũng có hai chữ “phục dĩ” và dòng cuối cùng thì hai chữ trên đầu ghi là “thiên vận”

Sớ được thiết kế văn bản theo thể thức sau: 1/ Phần giấy trắng (tức là lưu không- ngày nay gọi là canh lề) đầu tờ sớ rất hẹp (cỡ vừa 1 ngón tay), cuối tờ sớ bằng “nhất chưởng” tức khoảng rộng tương đương 4 ngón tay, như thế gọi là ” tiền lưu nhất chưởng, hậu yêu không đa”. 2/ Lưu không Trên đầu tờ sớ rất rộng, chân tờ sớ thì rất hẹp chỉ vừa cho con kiến chạy – “thượng trừ bát phân, hạ thông nghĩ tẩu”. 3/ Các cột chữ rất thưa nhưng khoảng cách chữ lại rất mau – “sơ hàng mật tự”. 4/ Một chữ không bao giờ được đứng riêng một cột – “nhất tự bất khả nhất hàng”. 5/ Khi viết họ tên người phải đứng cùng 1 cột – “bất đắc phân chiết tính danh”

4/ Phần ghi họ tên người dâng sớ: Phần này được mở đầu bằng câu: “kim thần tín chủ (hoặc đệ tử)” tiếp theo viết họ tên người dâng sớ, có vài loại sớ thì ghi thêm cả tuổi, bản mệnh, sao gì, cung bát quái nào… (ví dụ sớ cúng sao đầu năm). Nếu sớ ghi nhiều người, hoặc thay mặt cho cả gia đình thì bao giờ cũng có chữ “đẳng”. ví dụ “hiệp đồng toàn gia quyến đẳng”. Kết thúc phần này là mấy chữ: “tức nhật mạo (hoặc ngương) can”… Mấy chữ này, cùng hai chữ “y vu” ở trên nhà in sớ không in mà người viết phải tự điền vào. Lý do là mấy chứ đó có thể thay đổi cho phù hợp hơn hoặc văn vẻ hơn theo sở học của người viết sớ. 5/ Phần tán thán: Ở phần này là những câu văn giải thích rộng hơn lý do dâng sớ. Kết thúc phần này là câu “do thị kim nguyệt cát nhật, sở hữu sớ văn kiền thân thượng tấu” 6/ Phần thỉnh Phật Thánh: Phần này mở đầu bằng 2 chữ “cung duy” tiếp theo là Hồng danh của các ngài. Dưới mỗi hồng danh là các chữ “tòa hạ” dành cho Phật, “vị tiền” dành cho Thánh, Thần cùng các bộ hạ các ngài. Đôi khi với các vị Tiên thì dung “cung khuyết hạ” 7/ Phần thỉnh cầu: Phần này được mở đầu bằng hai chữ “phục nguyện” Tiếp theo là đoạn văn biền ngẫu (thường là rất hay) nói về sự mong mỏi được các bề trên ban ân huệ cho bản thân và gia đình. Kết thúc bằng câu “đãn thần hạ tình vô nhậm, kích thiết bình doanh chi chí, cẩn sớ. 8/ Phần cuối cùng, là ghi năm tháng ngay (có khi cả giờ). Kết thúc bằng mấy chữ “….thần khấu thủ thượng sớ”. – Nguồn st –

* * Website: chúng tôi chuyên cung cấp số lượng lớn hàng nghìn / vài chục nghìn và rất rất nhiều các loại phục vụ quý các thầy với các khóa lễ lớn tại Chùa, tại điện hay đáp ứng nhu cầu sớ sách cho các đoàn hành hương đi lễ. Hoan hỷ liên hệ Hotline 0985 819 848 (zalo) để được tư vấn cụ thể.

* Địa chỉ: ĐỒ THỜ MINH HUỆ Building, Ngõ 203 Đường Lâm Tiên, Tổ 14, Thị trấn Đông Anh, Huyện Đông Anh, Hà Nội.