Cúng Cơm Người Mới Chết / Top 9 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 5/2023 # Top View | Apim.edu.vn

Cách Cúng Cơm Người Chết Đúng Phong Tục

Tục thờ cúng người mới mất thể hiện tấm lòng hiếu kính của con cháu và của thế hệ sau giành cho người khuất. Trong vấn đề này cần lưu ý đến việc cúng cơm người chết và cách cúng như thế nào là đúng nhất.

Cách cúng người mới mất như thế nào

Đối với những người đã khuất thì cần phật pháp , giảng giải đạo lý và những điều liên quan đến phật, tâm linh hơn là đồ ăn và thức uống. Tuy nhiên với những gia đình có người đã quá cố thì việc dâng cúng cơm là cách biểu lộ sự yêu thương và mong nhớ. Vì thế nên trong cách cúng người mới mất thì nếu điều kiện gia đình có thì nên dâng lên vong linh của người đã khuất mỗi ngày cũng giống như đồ ăn trong gia đình của mình. Hoặc dâng lên hàng tuần hoặc hai tuần một lần theo điều kiện gia đình.

Khi còn sống thì có thể ăn theo sở thích hoặc bất kể món ăn nào, nhưng khi đã sang thế giới bên kia thì việc cúng cơm người chết chỉ nên đơn giản những món ăn chay, thanh nhẹ nhàng và tinh khiết. Đặc biệt cúng cơm người chết trong thời gian 49 ngày thì người chủ làm lễ buộc phải trường chay không được sử dụng thức ăn mặn.

Trong cách cúng người mới mất cần được khai yết hầu. Vì những người mất đi thì chỉ còn lại là những cái bóng rất nhẹ nên cần phải khai trì chú khai yết hầu thì vong linh của người mất mới có thể hấp thụ dễ dàng.

Trong thời gian mới này trong gia đình vẫn có cảm giác vong linh của người mất còn hiện hữu. Họ còn nhiều vấn vương với trần gian với những người thân yêu trong gia đình của mình nên mới có việc vong linh nhận thức được sự đói no hoặc lạnh. Vì thế khi cúng 3 ngày sau khi mất thì phải làm lễ khai yết hầu để khơi dậy nhận thức của các hương linh, giúp họ nhận ra đó chính là đồ ăn thức uống được dâng lên cho mình. Để họ hưởng và hấp thụ nếu không sẽ ngược lại.

Cúng 3 ngày sau khi mất cũng nên cầu siêu cho các linh hồn để họ nhận thức được rõ hơn về thế giới thực tại, rõ ràng hơn trong ý niệm của mình. Để nhận ra hướng đi của mình sao cho đúng đắn nhất đến với thế giới của cõi giới tốt đẹp hơn và lựa chọn tái sinh giữa 3 cõi: Phật, Trời và Người.

Những lễ vật dùng được cúng 3 ngày sau khi mất thường là lễ mặn được người nhà chuẩn bị để dâng lên. Tuy nhiên cũng chỉ nên làm đơn giản và chỉn chu gọn gàng như mâm cơm bình thường trong gia đình mình.

Nên Cúng Cơm Cho Người Chết Như Thế Nào Và Trong Bao Lâu?

VẤN: Ba chồng con bị bệnh tai biến vừa qua đời. Chồng con là con cả nên phải lo việc cúng tế hậu sự, cúng cơm hàng ngày. Xin Sư cho con hỏi vì sao phải cúng cơm cho người đã mất? Nếu cúng phải cúng trong bao lâu? Sau thời gian đó chúng con nên làm gì? Con nghe nói nếu không cúng cơm người chết sẽ đói lạnh nhưng nếu người chết còn bị đói lạnh nghĩa là họ bị đọa, bị thác sanh vào đường dữ làm quỷ làm ma như vậy khác nào cầu mong cho người thân không được siêu sanh về cảnh giới lành. Hiện giờ chúng con đều phải đi làm khá bận rộn nên cũng không biết làm thế nào để có người ở nhà cúng cơm ba bữa. Nếu không cúng đủ ba bữa phải làm sao và cúng thế nào để đơn giản, nhanh chóng để cả người sống và người chết đều được lợi lạc. Người phương Tây hay các đạo khác con thấy họ đâu có cúng tế linh đình như người Phật tử nhưng con thấy họ vẫn bình an, phát đạt. Nếu chúng con không cúng thì có bị mang tội không? Con xin cảm ơn Sư. ĐÁP: I .

Theo nhà Phật giáo lý “sanh lão bệnh tử” là quy luật tự nhiên trong quá trình duyên khởi, giúp cho con người có ý thức hệ về cuộc sống ra sau cho tốt, sống như thế nào có ích lợi cộng đồng và theo quy luật tất yếu nghiên cứu tu hành giải thoát khổ đau sanh tử luân hồi. Sanh lão bệnh tử là quy luật tất yếu nhưng không có tín điều sắp sẳn, được áp dụng cho chúng sanh chung và con người trên hành tinh, có công năng giúp cho con người giác ngộ. Sanh trụ dị diệt là lực đẩy, không ai có thể tránh những quy luật cộng đồng. Sống chết là việc có sẵn trong cuộc đời, từ giáo lý nầy mà nhà Phật cân nhắc để chúng sanh giác ngộ, hướng dẫn chúng sanh nhất là con người có thể vượt quy luật sống chết bằng cách sống theo đời sống tâm linh. Vì tâm linh thì vô biên, vô bờ bến, không sanh không diệt, tức là không có sanh ra nên không có chết đi và không có tìm kiếm sự tồn tại nên không trốn chạy sự hủy diệt, bất sanh bất diệt là thường trụ niết bàn. Phật là tĩnh thức giác ngộ. giác ngộ thì không còn nằm trong quy luật sanh tử, thành, trú, họai, không nữa. Tuy nhiên, nhà Phật cũng dạy, con người do mang thân tứ đại, gồm đất, nước, lửa, gió, thêm cả thức đại, không đại, nên có hòa hiệp, có tan rã, có hiện tiền có họai diệt, tức có sống, có chết. Con người từ Vua đến Quan đến hàng thứ dân, dân giả giàu nghèo khi hưng thời thì oai phong lẫm liệt, lúc già cỗi hưu trí ngẫm nghĩ lại cuộc đời, có sự tiếc nuối sợ chết, sợ tử thần đến viếng nhà thì không ổn. Từ khi có giáo lý Đức Phật con người không còn kinh hoàng trước cái tham sống sợ chết nữa.

Phong tục tập quán

Phong là phong hóa, một thói quen nhất định của một dân tộc, của người địa phương trở thành nếp văn hóa chung của một dân tộc. Tục là tuc lệ những thói quen không bỏ được nhự tục ăn trầu, hút thuốc, tục đám ma chay rườm rà…Tuy nhiên, có thời điểm những phong tục trở thành lạc hậu, chỉ còn là một nếp văn hóa của một dân tộc địa phương nào đó trong đời người. Tập quán là thói quen của con người trong một vùng miền hay một quốc gia, tập quán con người trong một sớm một chiếu khó có thể bỏ được và nếu có bỏ chỉ là thời điểm lịch sử, ví như người dân quê Việt Nam đến mùa cấy thì có người đứng đầu trong “vạn cấy” thổi tù và để gom công, Tuy nhiên, ngày nay có thể bỏ khi người nông dân phục vụ cho nông trường làm tính giờ, không tính công.

Phong tục tập quán về việc tổ chức tang lễ của người Việt. Nói đến tang lễ là nói đến chết, nói đến chết là nói đến việc làm đám tang (tang lễ). Chúng ta sẽ tìm hiểu một số lễ tang của các nước lân bang và Việt Nam, sau đó sẽ bàn đến chi tiết khi gia đình hữu sự và hậu sự thực hiện các nghi cúng cho đủ lễ

Lễ tang cho gia đình Phật tử theo hệ thống Phật giáo Nam tông, cụ thể như ở vương quốc Lào là nước thuộc quốc giáo Phật giáo nguyên thủy. Trong gia đình có người qua đời tất cả đều vui, hát ca ngâm vịnh, rượi thịt, vui vì người thân sẽ chuyển sang kiếp khác sung sướng hơn, bà con hàng xóm láng giềng tụ tập phụ khâm liệm người chết, đặt áo quan vào một gốc nhà, cho hàng xóm láng giềng đến cúng lạy. Mọi người đến viếng lễ tang được mời sang nhà khác đãi ăn uống, lễ tang được tổ chức ba ngày, hoặc bốn ngày tùy theo quý Sư phán định. Ngày cuối cùng tang chủ và mọi người đem đi hỏa thiêu, sau đó hốt tro cốt đem vào chùa gần nhất phụng thờ. Từ đó mỗi năm gia đình đến thăm cúng giỗ, cúng dường chùa (Bài học thêm – sách địa lý Lớp Đệ Nhất 1969 – nói về phong tục lễ táng của người Lào)

Lễ tang xứ Tây Tạng-Trung Quốc, là xứ sở có đá không có đất, không có rừng, không có gỗ làm củi. Gia đình có người qua đời, sau khi làm lễ tang xong, đội mai táng đem người chết ra bãi tha ma, phân thây người chết bằng cách, chặt từng mảnh nhỏ thân thể người chết, bằm nhỏ cho loài chim kên kên đến tha mổ ăn cho đến khi hết những phần thịt xương của người chết mới thôi, phong tục nầy gọi là “điểu táng” (Ánh sáng Á châu – Đoàn Trung Còn)

Lễ tang theo Phật giáo Hòa Hảo ở An Giang, miền Tây Nam phần Việt Nam. Ban Tổ chức thường đến tụng kinh cầu an lúc sanh tiền, đến khi chết tụng kinh cầu siêu cho vong hồn người chết nghe kinh, nghe niệm Phật mà siêu thoát về với Phật A Di Đà. Lễ Tang chỉ tổ chức một ngày từ sáng đền chiều, thì động quan an táng gọi là “tử là táng”. Lễ tang theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Phật giáo Tứ Ân ở Ba Chúc, huyện Tri Tôn, Nhà Lớn Ông Trần ở Long Sơn, Bà Rịa thì con người sau khi chết thân xác được bó trong 7 “nẹp tre” khiêng đem đi chôn trong vòng một ngày đó. Điều ngày có nghĩ tang lễ cũng theo phung tục tập quán “tử là táng” chết là chôn cất, không coi ngày giờ năm tháng xấu hay tốt lành chi cả (Tổ đình Thành An – Thích Minh Tâm). Tục nầy giúp cho con người tự tin hơn vì không tin vào lý số, nên không có ngày kỵ, không hao tốn tiền của, không sát sanh hại vật.

II . Lễ phạn hàm

Những việc làm trong lễ tang thì nhiều, thật là phức tạp. Một Thầy cúng khi lãnh đàm quý Thầy thực hiện từng chi tiết nhỏ không sai sót chút nào. Khi người thân trút hơi thở, gia quyến sẵn sàng làm các việc gần gũi người thân, như làm lễ hú hồn, lễ đốt đồ cũ. Người Phật giáo thì dọn dẹp hết tất cả các vật dụng của người chết, vật dụng của gia đình, ghế đẳng sắp xếp có thứ lớp để mọi người đi tới lui không dụng chạm khua động lớn, làm chấn động người chết, thần thức nổi sân sẽ bị đọa lạc. Gia đình thỉnh đạo tràng nam nữ Phật tử chùa gần nhất đến hộ niệm, niệm Phật đến qua khỏi 8 tiếng đồng hồ đến khi thân xác hoàn toàn không còn cảm giác “sống” đau đớn, hoặc cho đền khi làm lễ khâm liệm.

Lễ phạn hàm: Tiếp theo là làm lễ phạn hàm, hay ngậm hàm, phạn là lương thực cơm gạo, hàm là ngậm, tức là bỏ một nắm gạo và ba đồng tiền (đồng kẽm, đồng chinh) vào miệng người chết. Gạo để linh hồn người chết ăn, khỏi phải thành ma đói ( ngạ quỷ). Tiền dùng để đi đò hay qua cầu sang bên kia thế giới. Những người lúc sống ăn ở bạc ác thì lúc chết linh hồn phải qua cầu Nại hà. Người lương thiện được qua cầu Kim ngân. Ngày xưa nhà giàu dùng gạo và vàng, ngọc để làm lễ phạn hàm. Ở nông thôn miền Nam để trà, gạo, có khi là vài phân vàng, nếp sồng, đắp mặt người chết bằng tờ giấy trắng hoặc giấy quyền, loại giấy hút thuộc rê (vấn) (Phong tục tang ma – Nguyễn Dư)

Ba vắt cơm để trên đầu người chết

Cúng Phía đầu nằm người chết có đặt cúng 3 vắt cơm, 4 cây đền sáp đặt ở bốn gốc, không dâng hương. Có nơi dâng hương do người nhà không biết đó thôi vì dâng hương có mùi thơm bắt buộc mọi người phải ngửi, nếu ngửi thì ngửi luôn mùi xác chết, bất tiện mất vệ sinh quá, nên không dâng hương.

Lệ cúng 3 vắt cơm: Do quý Thầy cúng đã từng làm và chuyền nối nhau thực hiện từ lâu đời, 3 vắt cơm là biểu tượng của tam tài “Thiên Địa Nhơn” (theo Nho gia, Đạo gia), lúc người chết trở về với linh khí tinh nguyên của trời đất. Ba vắt cơm sau khi tẩm liệm xong đa phần các gia đình tin tưởng đem treo ở giàn bếp. Khi nào người nhà có bệnh hoạn hiểm nghèo đem ra đốt tán nhuyễn cho uống sẽ hết bệnh. Có nhiều nơi người thân quý mến người chết đem ăn luôn ba vắt cơm để thể hiện tình cảm với người chết, việc làm nầy quá mất vệ sinh dễ sanh bệnh đối với người ăn. Về sau những tu sĩ Phật giáo tiến bộ, tu sĩ chuyên tu lần lượt bỏ hình thức đặt ba vắt cơm cúng trên đầu người chết. (tác giả nhận định không phải truyền thống nhà Phật)

Đặt nải chuối xanh: Theo xưa có đặt nải chuối dằn bụng phòng linh miêu nhảy qua người chết sẽ hồi dương, người cõi âm nhập tràng, thành quỷ nhập tràng. Ở một thuyết khác câu chuyện bất đầu từ chàng trai sống chung với người mẹ già. Một ngày nọ chàng trai này lên rừng đốn và bất ngờ thấy cây chuối già xanh có hoài gần chín nên đã chặt đem về nhà để chín đem đi bán và ăn. Thế là chàng trai đã chặt buồng chuối này đèm về nhà. Khi đem về tới nhà thì không biết để đâu, cất đâu sợ mẹ già ở nhà thèm và đói ăn hết làm sau. Vì vậy chàng trai mới nghĩ ra cách là phải treo buồng chuối này lên cao để bảo quản. Thế là qua ngày hôm sau chàng trai lên rừng đốn củi tiếp thì ở nhà người mẹ chờ con về mà không thấy về trưa rồi nên cũng đói bụng thấy chuối con trai mình treo trên nhà bếp đã chín nên có ý định lấy chuối để ăn. Không ngờ là trèo lên thì bất ngờ ngã xuống bà cụ chết. Khi chàng trai về đến nhà thì gọi Mẹ ơi! Mẹ ơi! …Không nghe mẹ trả lời chàng trai mới vào nhà thì bất ngờ thấy mẹ mình đã chết vì trèo lên để lấy chuối ăn cho đỡ đói. Thế là chàng trai mới trách mình là tại mình mà mẹ mới chết. Khi mẹ chết trong nhà không cò gì hết chỉ có buồng chuối nên cậu ta mới lấy nải chuối còn xanh để trên bụng Mẹ mình nghĩ rằng mẹ mình đói bụng mà không ăn được nên bằng cách để trên bụng mẹ.. Sự tích về nải chuối để trên bụng người chết là vậy (trang mạng Văn hóa xã hội – tôn giáo, tâm linh – Đào Minh Định)

Lễ nhập quan, thành phục, thọ tang

Nhập quan: Linh cữu được khiêng ra đặt giữa nhà, người chết ngoài đời do nhà đồ làm tất cả các việc. Việc tẩn liệm bằng trà, cách đây 60 năm nhà đồ không có trà, nên đồ tẩn liệm bằng rơm quấn trong giấy mỏng gọi là giấy súc. Vật dụng nầy ngày nay không còn, mà để trà rồi để thêm những đồ cũ, vật dụng của người chết được đem theo. Kế đến đậy nắp áo quan, gắn sơn chai, đóng lại theo kiểu mang cá hoặc đóng đinh cho kín.

Thành phục: Là lễ phát tang, cũng là lễ chính thức của đám tang, phát tang, giúp cho các thành viên vợ chồng, dâu rể con cháu trực hệ trong gia đình thọ tang người chết, ông bà cha mẹ. Thọ tang là chịu tang đối với những người lớn hơn mình, hay ngang mình là vợ chồng không chịu tang với người chết thấp hơn mình và có lễ cúng cơm cho người chết.

Thọ tang: Tang ai nấy mặc. Có gia đình sang giàu thì may đồ tang bằng vải tốt. Có gia đình nghèo may đồ tang bằng vải bô, áo bả hài gai, vải mùng, vì nghĩ đồ tang chỉ có mặc trong thời gian ngằn rồi đốt, nên đa phần các gia đình không quan tâm vải tốt xấu lắm. Trong thập niên 50 Thầy cúng thường lấy đồ xả tang của gia chủ may quần áo rồi nhuộm lại màu đen rồi mặc.

Trong giới tu sĩ xuất gia thọ tang màu vàng để nói lên đây là việc thọ tang người xuất gia, xuất thế gian. Tang trong đạo không phải như con cháu thọ tang cha mẹ ngoài đời nữa, mà đệ tử thọ tang Thầy Tổ, những bậc Cao Tăng, do đó chư Tăng Ni thọ tang màu vàng là vậy.

Thứ bậc thọ tang: Theo thứ bậc trong gia đình mà thọ tang: – Con trai, con gái, rễ, dâu thọ tang trắng – Trai trưởng nam thọ tang trắng có chống gậy tang cha chống gậy trúc (tròn), tang mẹ chống gậy vông (vuông), đội bích cân – Anh hoặc các em của người mất thọ tang trắng – Cháu nội thọ tang trắng có chấm đỏ – Cháu ngọai thọ tang trắng có chấm xanh – Cháu cố thọ tang trắng có chấm vàng – Cháu kêu bằng chú thọ tang trắng. Trong thời gian thọ tang, con cháu đi làm ăn hay đi làm việc đều có mang tang màu đen hay màu trắng, tùy theo màu áo mậc trong mình kich thước 2 cm x 1,5 cm.

Cúng cơm trong lễ tang:

Cúng cơm: Phải cúng như thế nào cho đúng, tại bàn vong linh có cúng 3 chén cơm, đồ ăn, hương hoa trà quả. Cơm gồm một chén giữa đầy cúng cho vong linh người mới chết, hai chén hai bên thì hơi lưng để hai bên, biểu hiện hai bên vai giác, kiến cho những người hầu cận vong linh Thầy cúng gọi là Tả mạng thần quang, Hữu mạng thần quang. Có nơi cúng 3 chén, có nơi cúng 6 chén, không nên để 5 chén là sai. Ý nghĩa chén cơm ở giữa có cắm đôi đũa, hai chén cơm hai bên mỗi chén một chiếc đũa là cúng cơm cho vong linh (ma mới) mới ăn. Tuy nhiên, nếu hai bên để mỗi nơi một đôi đũa nữa thì các cô hồn (ma cũ) sẽ đến dành giựt, vong mới không được ăn, nên có thành ngữ “ma cũ ăn hiếp ma mới” là vậy. Theo quý Thầy cúng thì nghi thức nầy không phải của Phật giáo, mà chỉ làm theo tục lệ tín ngưỡng dân gian từ xa xưa lưu truyền lại.

Thuyết khác, ý nghĩa cúng 3 chén cơm chén giữa đầy dành cúng cho vong linh mới chết, có cắm một đôi đũa. Hai chén hai bên có cắm mỗi chén một chiếc đũa dành cho người giữ vong linh ăn chậm hơn vong linh chánh, nếu không thì vong linh chánh sẽ bị dành giựt, ăn không kịp. Đây cũng là tục lệ văn hóa vùng, tục cúng kiến riêng tại các địa phương trong dân gian Trung quốc có ảnh hưởng đến tục lệ Việt Nam (theo Đại Đức Thạc sĩ Thích Thiện Huy các tục lệ trên chỉ có truyền khẩu trong dân gian, xưa bày nay vẽ chứ không có trong nhà Phật)

Theo tuc miền Trung trên nóc áo quan bày một bát cơm úp, cắm một chiếc đũa vót cho sơ ra như gai nhọn (có nơi gọi là chiếc đũa bông), một quả trứng luộc, ba nén hương. Bát cơm, quả trứng, có thể là bữa ăn để linh hồn người chết khỏi trở thành ma đói. Nhưng chiếc đũa có gai nhọn thì chắc chắn không phải là để dùng ăn cơm. Không ai có thể ăn với một chiếc đũa như thế. Chiếc đũa bông nhiều gai nhọn có ý nghĩa không cho giặc cướp lấy cơm của người chết và trừ ma quỷ hiếp đáp vong linh (Phong tục tang ma – Nguyễn Dư). Đến ngày động quan, Thầy cúng kêu làm lại chén cơm có để trứng gà luộc mới, một đôi đũa bông, chén cơm mới để lại trên nắp áo quan, đến khi đem ra huyệt chôn cất xong, Thầy cúng hướng dẫn để chén cơm, trứng luộc, đôi đũa bông trên nấm mộ, nhiều nơi còn đặt thêm mớ bùi nhùi. Tục nầy mang ý nghĩa chúc tụng: “mớ bùi nhùi tượng trưng cho thế giới hỗn mang; trong hỗn mang hình thành nên thái cực (bát cơm); thái cực sanh ra lưỡng nghi (đôi đũa). Có lưỡng nghi (âm dương) là có sự sống (quả trứng)”.

Thầy cúng: Xưa chỉ một, nay có rất nhiều Thầy dự có tổ chức thành Ban gọi là Ban kinh sư từ 4 đến 6, hoặc 8 vị có trách nhiệm điều hành đám tang. Ban Kinh sư hướng dẫn như thế nào làm như thế nấy, Thầy cúng khi lãnh đám tang có trách nhiệm cúng cơm vào buổi sáng, trưa, chiều, có nơi cúng trưa và chiều.

Tu sĩ Phật giáo, người xuất gia, Sa môn viên tịch chỉ cúng cơm ngọ thời, không cúng cơm chiều.

III . Lo hậu sự là báo hiếu

Hậu sự là lo việc báo hiếu, cúng kiến người chết sau lễ tang. Trong đời dù Bạn có làm việc quan được trọng thị ở thế gian đến đâu, nhưng không thể bỏ bê việc cúng kiếng ông bà cha mẹ từ lúc người còn sống đến những ngày cuối cùng cho đến khi qua đời. Lễ tang tuy không bận rộn lắm nhưng được ràng buộc bởi đạo hiếu nghĩa, đạo làm con cháu với người trên trước, đạo làm người đối với người đã qua.

Ngoài đời những người có hiếu đạo bao giờ cũng được tôn kính trọng dụng, mọi người tin tưởng, là chỗ dựa tinh thần của gia đình. Đôi khi lan tỏa đến xã hội và là người tiêu biểu trong xã hội xóm làng. Người xưa tôn trọng đạo hiếu, ông bà cha mẹ qua đời, phận làm con có khi là con trai trưởng nam, hoặc con lớn, con trai con gái lớn cạo tóc để thọ tang thờ cúng người thân qua đời trong thời gian 3 năm. Có khi mỗi đêm trải chiếu, nằm cạnh bàn thờ vong để dâng hương cho vong linh, hoặc cũng có khi cao đầu, ăn chay trường ba năm để cầu cho người qua đời được gần gủi Phật, nghe kinh mau siêu thoát luân hồi, tái sanh vào chỗ tốt lành.

Theo Hiếu kinh của Mạnh Tử dạy: khi cha me qua đời, dù cho con có làm quan lớn ở cấp bậc nào đi nữa cũng phải mặc áo bả hài gai, cất chòi ngoài mộ để cúng kiếng, đêm nằm canh giữ quạt mồ cha mẹ đúng ba năm cho mồ khô ráo để tỏ lòng tôn kính (theo đạo hiếu. Khổng giáo, Lão giáo).

Trong Đại Luật mặc dù chuyên hoằng giới nhưng Đức Phật cũng thường cân nhắc môn đệ xuất gia cũng như tại gia giữ đạo hiếu. Kinh Phạm Võng Bồ Tát giới Đức Phật dạy: “Hiếu thuận đối với cha mẹ, Sư trưởng, chư Tăng, đối với Tam bảo, sự hiếu thuận phù hợp chánh pháp chí thượng, sự hiếu thuận ấy gọi là giới, cũng gọi là năng lực chế ngự, đình chỉ mọi sự tội lỗi”.

Con cháu nhà Phật muốn báo hiều trọn vẹn thì tự phát tâm tụng kinh Bộ cầu nguyện cho ông bà cha me tại gia lúc sanh tiền cũng như khi qua đời, phát nguyện ăn chay trường, hoặc phát tâm rước chư Tăng Ni đến tụng kinh Địa Tạng. Tùy theo hoàn cảnh kinh tế gia đình làm việc từ thiện xã hội giúp đỡ người nghèo giúp cho họ qua cơn họan nạn, làm việc phóng sanh, ấn tống kinh sách Phật giúp cho người cải ác tùng thiện, đi cúng thập tự cầu cho ông bà cha mẹ siêu sanh Tịnh độ đó mới là đạo hiếu của Nhà Phật và có kết quả thực tế. Đức Phật dạy: ” Hiếu với Mẹ Cha tức là kính Phật. Nếu ở đời không có Phật thì hãy khéo thờ cha mẹ. Khéo phụng thờ Cha mẹ như phụng thờ Phật vậy” (Kinh Đại Tập)

Nhân nói việc lễ tang và lo hậu sự là báo hiếu ông bà cha mẹ đã qua, Đức Phật còn quan tâm đến những lúc ông bà cha me tại tiền, khi cha mẹ còn làm con phải hết lòng hiếu thuận, niềm tin vững vàng với Thầy Tổ, Tam Bảo. Cho nên đạo Phật còn gọi là Đạo Hiếu…”

Cúng cơm sau lễ tang

Sau lễ tang mọi người đều mệt mỏi. Tuy nhiên, đối với người còn ở lại dù khổ đau bao nhiêu cũng phải tỉnh táo để lo việc cúng kiếng, các lễ cúng đối với vong linh. Nhất là lễ cúng cơm là lễ quan trọng trong đạo hiếu. Người có lòng hiếu thảo hay không phải xem cung cách đối xử của con cháu đối với người đã qua, ai hiếu thảo, ai không hiếu thảo. Lời Phật dạy: “vạn hạnh Bồ tát hiếu nghĩa vi tiên”, trong các hạnh Bồ tát thì hiếu đạo là việc trước tiên. Phật xưa thị hiện vao đời cứu chúng sanh, có khi thị hiện làm con, lúc cha mẹ mù lòa, muốn đi đâu con phải gánh cha gánh mẹ giúp cha me đi đây đi đó cho thỏa dạ. Cha mẹ đói khát con lóc thịt thân mình cho cha mẹ ăn, để đổ đói qua ngày (Kinh Đại phương tiện Phật Báo Ân – bản dịch HT Thích Trí Tịnh).

Việc lễ tang ngày nay dù chúng ta biết có nhiều hủ tục cần bỏ bớt, nhưng những việc còn lại phải làm, làm cho chí vóc, làm cho đầy đủ không được sai sót, như:

Cúng an sàng: Là an vị vong linh, sau khi hạ huyệt chôn cất xong, đem vong vị về tại nhà, thiết lập bàn thờ vong, an sàng linh vị, cũng gọi cúng an sàng. Bàn thờ nầy dành để cúng vong, cúng cơm sau lễ tang. Việc cúng kiếng nầy được thực hiện đến khi mãn tang (mãn khó), sau đó thỉnh vong linh thờ cúng chung với bàn thờ cửu huyền (thờ cúng ông bà) và mọi năm cúng giỗ tưởng niệm người đã qua.

Cúng mở cửa mộ: Còn gọi là mở cửa mả hay khai mộ, sau lễ an sàng, tức là từ khi chôn cất đến ngày thứ ba mọi người trong gia đình ra thăm mộ có đem theo lễ vật cúng, như: thang 9 bậc đối với người nữ, thang 7 bậc đối với người nam. Cây thang 5 tấc tượng trưng cho ngũ thường, 3 ống trúc đựng gạo nước tượng trưng cho tam cang, gà con kêu chi chít, tiếng kêu của gà con làm cho vong linh đã chết sau 3 ngày tỉnh thức biết đường lên khỏi mộ, cây mía lau tượng trưng cho công lao của cha mẹ lo cho con cái đến ốm o gầy mòn như cây mía, nhưng vẫn ngọt ngào với con. Ngoài các vật dụng đặc biệt trên còn có chè xôi, tam sên (hay tam sanh, gồm thịt, tôm, trứng luộc), trái cây, rượu, trà, gạo, muối, giấy tiền vàng bạc, trầu cau…Ở nhà cúng 4 mâm cơm, cúng ông bà, đất đai, cô hồn, cúng vong.

Cúng thất: lấy dấu mốc ngày người chết là ngày thứ nhất đến ngày thứ bảy làm lễ cúng thất, cúng tuần thất, 7 ngày, Nghi thức cúng thất bắt đầu từ buổi chiều ngày trước khoảng 16 giờ, tức ngày còn sống, rước Thầy đến cúng khai kinh, có sắm hương hoa trà quả, chè xôi, cúng tất cả các bàn thờ trong nhà, như cúng ông bà, cúng đất đai, cúng vong linh người chết và một mâm cúng cô hồn. Ngày hôm sau huờn kinh, không có cúng cơm. Nghi thức các lễ cúng thất đều giống nhau.

Cúng 21 ngày: tức là cúng thất thứ ba, 7 x 3 = 21 ngày gọi là tuần tam thất

Cúng 49 ngày gọi là cúng thất thứ bảy 7 x 7 = 49 ngày gọi là cúng 49 ngày hay gọi cúng tuần chung thất

Cúng 100 ngày trong thời gian nầy từ khi người thân qua đời đến ngày thứ 100. Trong những lúc gia đình ăn cơm vào buổi trưa và chiều con cháu có để bát cơm trên bàn ăn và một đôi đũa, mời ông bà về ăn rồi mới ăn, gọi là trả hiếu ông bà cha mẹ, cho đến khi nào phôi pha sự đau buồn cuộc tử biệt sanh ly mới thôi.

Cúng giáp năm cũng gọi là cúng Tiểu tường.

Cúng mãn tang, cũng gọi mãn khó, cũng gọi là Đại tường… Các nghi cúng 21 ngày, 49 ngày, 100 ngày, cúng giáp năm, cúng mãn tang vẫn y như lễ cúng mỗi tuần thất, có khai kinh và huờn kinh.

Nghi thức cúng dành cho người xuất gia viên tịch hình thức như nhau, nhưng có khác nội dung do Ban kinh sư chịu trách nhiệm biên soạn.

Việc cúng cơm cho người chết ngoài thế gian ông bà già xưa quy định con cháu phải cúng cơm hằng ngày, trưa, chiều đủ 3 năm mới hết cúng. Ngày nay các Thầy cúng giảm chế bớt lý do con cháu đi làm ăn xa, người ở ngoai quốc, nhà đơn chiếc, nên chỉ còn cúng cơm đến 100 ngày thì ngưng. Rồi đến cúng tiểu tường, tròn một năm đối cha mẹ, người thân qua đời. Người Phật giáo, hoặc tu sĩ xuất gia, hàng giáo phẩm Tăng Ni trong chốn thiền môn, việc cúng kiếng dành cho các tu sĩ có phần trịnh trọng hơn nhiều. Các đệ tử thay phiên lo việc cúng cơm, làm các việc báo ân Thầy Tổ, nên việc cúng cơm được duy trì đến 3 năm mới không còn cúng nữa. Tuy nói 3 năm nhưng chỉ có 24 tháng là tới ngày cúng mãn khó, mãn tang, đại tường..Chúng ta cũng cần nên biết thêm việc tính ngày mãn tang, ngày giỗ chạp. Ngày cúng 100 ngày, cúng giáp năm, cúng mãn tang thì tính tháng nhuần, mặc dù có dư một tháng nhưng vẫn tính là 24 tháng, đàm giỗ thì tính nhuần, nhơn gian có câu : “đám giỗ tính nhuần, làm tuần tính đủ” là vậy.

IV . Lời bạt:

Lễ tang là công việc quan trọng. Nhà có lễ tang thì mọi việc đều tạm ngưng, giảm bớt công việc ngoài xã hội để lo lễ tang cho ông bà cha mẹ. Đạo hiếu ở thế gian rất cần được phổ cập trong nhân gian thật nhiều, đem lại đạo đức hấp thụ thật nhiều cho con người, nhất là người hung ác hiện nay ngày càng nhiều. Phật giáo còn quan trọng hơn, nhất là đối với các bậc tôn túc Thầy Tổ, hàng giáo phẩm, nhưng không chú trọng nhiều về hình thức lễ tang mà chú trọng đến việc thác sanh cao đăng thượng phẩm, cao đăng bảo địa, cao đăng Phật quốc.

Việc tín ngưỡng các tập tục ma chay có ảnh hưởng nhiều theo tập tục từng vùng văn hóa của xứ sở Trung Hoa rộng lớn, ảnh hưởng mấy nghìn năm theo Mật giáo, đạo thờ cúng, tang chay của Khổng giáo, Đạo giáo cũng xuất phát từ Trung Hoa. Vì vậy, việc tổ chức lễ tang hiện nay ảnh hưởng nhiều tập tục của Trung Hoa kết hợp với tập tục của người Việt…Như vậy một lễ tang dành cho một người chết là một tập hợp những tập tục văn hóa nhiều miền vùng văn hóa khác nhau của các quốc gia đuợc giới thiệu tại một lễ tang “đúng nghĩa”. Chúng ta thấy có một sự áp đặt nặng nề bất công quá, rườm rà, tốn kém, tổn hao công sức tài sản tiền bạc của gia đình thật vô lý vô cảm.

Đối với Phật giáo khi trong nhà có người thân qua đời thì nên thực hiện lễ tang cho chu đáo giản dị nhưng không kém phần trang nghiêm, không giết mổ heo, trâu, bò, gà vịt, giảm bớt những hủ tục rườm rà hao tốn thời gian kinh phí, nên cúng cơm chay cho vong linh. Những nghi lễ vô lý như đốt vàng mã, để nải chuối xanh trên bụng người chết, khóc mướn, leo lên nóc nhà hú hồn, nhất là không nên để thời gian lễ tang quá lâu, không mở cửa mộ theo hủ tục vác mía lau, kéo gà, làm than 7 nấc, 9 nấc, cúng tam sên…. Những tôn giáo khác và các tôn giáo nội sinh như Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo, Phật giáo Tứ Ân cũng làm tròn đạo hiếu, nhưng tổ chức lễ tang rất đơn giản.

Từ thập niên 60 đến nay, các Giáo hội Phật giáo tại Việt Nam, tông cũng như giáo từng kêu gọi thống nhất các nghi lễ trong cả nước, tiến đến giản dị hóa những tập tục lễ tang, những nghi không có trong Đạo Phật. Tổ chức lễ tang theo nghi lễ Nhà Phật gọn, giản đơn gọi là “tam nhựt bất cấm” hay “tử là táng” trong hai ngày nầy là nhanh gọn, không phải xem lịch số ngày giờ tốt xấu.

Từ lễ tang đến các việc cúng hậu sự theo xưa bày nay vẽ thì quá rườm rà, Sư có lời khuyên gia đình Phật tử chúng ta nên gởi vong linh vào chùa nghe kinh được siêu thoát. Thỉnh thoảng quý vị đến thăm ông bà vào các ngày lễ cúng tuần đầu, tuần tam thất, tuần chung thất, 100 ngày, giáp năm, mãn khó mà thôi chứ không đi cúng kiếng hằng ngày, hay hằng tuần trở ngại nhiều việc

Việc sanh là đến, đến đây từ mình, mang gánh nặng tham sân si, những gì hiện nay ta có, như: hạnh phúc khổ đau, nhiễm ô, bệnh hoạn, có đủ tiền tài danh vong, quyền thế, chức vị, vợ chồng con cái, gia cang sự nghiệp một gánh tình tang nặng nề vô cùng như núi tu di. Tử là đi, đi về với vĩnh cửu vô biên, đi về với không ta, bỏ tham sân si, không còn hình bóng của ta, không còn thân tứ đại giả danh của ta, đi về với hư vô, không cần phải xây lâu đài dưới âm phủ như các vua chúa, quan tham sợ mất của…Cuối đời phải để cho nhẹ nhàng mà quẳng gánh ra đi về cố quán, về với chính mình, về với Cực lạc Tây phương.

Hủ tục lễ cũ xưa bày

Nay xin đừng vẽ lại ngày tháng qua.

Chúng sanh: sanh, tử, bệnh, già,

Theo chi lệ cũ rườm rà tốn hao.

HT Thích Giác Quang

Việc Cúng Người Chết Sau 100 Ngày Thì Người Chết Thường Sẽ Đi Về Đâu

Chuyên gia ơi, tôi có đôi chút thắc mắc về tang ma hiếu sự muốn được chia sẻ và hỏi nhỏ như sau: Chúng ta đều biết, sinh lão bệnh tử là quy luật khó tránh của con người. Cha mẹ sinh ra ta, lao lực vất vả chăm nuôi ta, đến khi về già thì suy yếu mệt mỏi bệnh tật rồi cũng sẽ ra đi. Nhưng cha mẹ ông bà đã chết thì không phải là hoàn toàn mất hẳn, mà vẫn còn lui tới cõi dương gian để thăm nom, gia hộ cho con cháu được khỏe mạnh, làm ăn tấn phát. Vậy cho tôi hỏi người đã khuất sau nghi thức cúng 100 ngày sẽ ra sao và người chết sau 100 ngày hồn sẽ hóa thành con gì? Tính 100 ngày người mất như thế nào?

Ý nghĩa cúng 100 ngày cho người chết

Trong quan niệm tâm linh từ thời xa xưa thì cách tính 100 ngày người mất như thế nào và nghi thức làm lễ 100 ngày người mất cực kỳ quan trọng và có ý nghĩa sâu xa. Tùy theo vị trí địa lý, phong tục từng vùng miền thì nghi thức này đều có sự khác nhau. Tuy nhiên dù khác nhau về cách thức nhưng đều có chung mục đích đó là thể hiện lòng kính trọng và tưởng nhớ người đã nằm xuống, giúp linh hồn người đó sớm siêu thoát và được đầu thai chuyển kiếp. Tính 100 ngày người mất như thế nào thì thưa rằng phép tính được bắt buộc kể từ ngày người đó trút hơi thở cuối cùng.

Trước ngày giỗ đầu, người theo Phật giáo ở Việt Nam thông thường sẽ cúng cho người vừa mất vào ngày 49 và 100. Phần lớn mọi người đều đã biết tục cúng 49 ngày có ý nghĩa như thế nào và làm khá trọng thể, mời họ hàng làng xóm đến dùng cỗ to, thịnh soạn.

Nhưng đến khi cúng 100 ngày, thường ít người để tâm tìm hiểu và đều chỉ mời người đã mất về quây quần tụ họp, hưởng bữa cơm gia đình với người trong nhà mà thôi.

Có người nói rằng con người bất phân nam nữ đều có 7 vía, cúng 49 ngày là bởi 7×7, mỗi 7 ngày trôi qua linh hồn người đã mất sẽ vượt qua một cửa ngục. Khi vừa qua cửa thứ 7, trọn 49 ngày thì người nhà cần sửa soạn đồ lễ để vừa là cầu siêu cho người ấy, vừa giúp linh hồn sớm được đầu thai, siêu thoát hoặc sẽ hóa thành con vật.

Khi đến trọn 100 ngày sau khi giã từ cõi đời, con cháu thân nhân chỉ cần làm lễ cúng, sắp sửa đồ trên ban thờ để tỏ lòng thương nhớ, tưởng niệm cốt ở lòng thành chứ không cần thương khóc, đốt vàng mã nhiều như lễ 49 ngày.

Nhờ những lần cúng lễ này, người đã mất sẽ rất cảm kích tấm lòng mà con cháu hay người thân dành cho mình. Đồng thời họ nương nhờ Phật lực, nhờ quý Tăng ni có đức độ và đạo lực mà hương linh được hưởng sự no vui thù thắng vi diệu.

Vậy xin hỏi, tại sao lại phải làm lễ cúng cơm cho người mất sau 100 ngày? Khi làm lễ cúng nên tính theo lịch âm hay lịch dương, cần chuẩn bị lễ cúng như thế nào mới phải đạo?

Tôi tìm hiểu thì được biết, nhiều nơi dân ta chỉ quan niệm có lễ 49 chứ không có lễ 100 ngày. Nhiều nơi gọi lễ cúng 100 ngày là tốt khốc và chọn đó làm ngày nhập chung bàn thờ người đã mất vào bàn thờ tổ tiên ông bà, liệu cách làm này có đúng chăng?

Chẳng phải nhà Phật nói: “Lễ Phật một lễ, tội diệt hà sa”. Thực hiện những nghi lễ tức là học Phật trực tiếp, không ngang qua phương tiện sách sở kinh điển; thực hiện các nghi lễ cũng là tu Phật trực tiếp. Như vậy, lễ 100 ngày là lợi nhiều hơn hại phải không?

Và cũng xin được hỏi thêm chuyên gia rằng, sau lễ cúng lễ 100 ngày, linh hồn người đã mất sẽ đi đâu? Bởi có người nói, linh hồn phải trải qua 10 cửa địa ngục mới thực sự đầu thai, nên há chăng tròn 100 ngày chưa được siêu thoát, người thân của chúng ta sẽ lưu lạc chốn nào?

Đàm Đức Bình (Tây Hồ, Hà Nội)

Vì sao phải thắp nhang 100 ngày sau khi đặt ban thờ Thần Tài – Ông Địa?

Chuyên gia tư vấn Hoàng Dương Bình:

Bạn thân mến

Ta thường thấy có những người khi sống bị coi như bát nước bỏ đi, nhưng khi chết lại được tang lo cũng lễ linh đình. Ngược lại có nhiều người khi chết được lo lắng nhớ thương, lo cho người chết không biết được lên thiên đường hay xuống địa ngục, có nhiều gia đình có tổ chức cúng 100 ngày với mong muốn hành động đó trợ giúp cho người mới khuất. Còn trợ giúp được gì thì đúng là không mấy ai biết.

Chuyên gia cũng đã chứng kiến có trường hợp không cúng cơm 100 ngày hay 49 ngày. Tất cả chỉ gói gọn trong 3 ngày là xong. Theo thầy thì việc cúng lễ mà thầy hay làm chỉ đóng vai trò chia sẻ, hỗ trợ, nâng đỡ. Còn thức tỉnh, giải thoát được hay không phụ thuộc vào nội lực của chính người đã khuất.

Và tất cả đều phải tôn trọng luật tự nhiên, tôn trọng nhân quả người đã khuất, trường hợp cúng 3 ngày xong này, theo thầy đó là do người ấy đã đi nhẹ, cũng chẳng biết về những chuyện người sống đang làm. Nếu có cúng thêm cho đúng bài thì cũng chỉ là thỏa mãn ý muốn người nhà thôi.

Quay trở lại với những câu hỏi của bạn, chuyên gia cẩn thận tham vấn một bậc thiện tu, người cho biết là các hiện thực sau khi chết là quá kỳ vĩ và rộng lớn nên mô tả bằng lời để hiểu là không thể, vậy chỉ gợi ý nôm để qua đó chúng ta tham khảo, từ đó ngộ sâu hơn:

* Tại sao phải làm lễ cúng người mất sau 100 ngày?

Theo bậc thiện tu thì đây là làm theo phong tục. Mà phong tục là do con người đặt ra căn cứ vào bối cảnh xã hội, tâm lý cụ thể, đúng ở thời điểm này nhưng sai ở thời điểm khác. Ý nghĩa cúng 100 ngày còn được biết với cái tên khác là lễ tốt khóc hay thôi khóc. Trong quan niệm xưa thì linh hồn của người đã khuất vẫn còn vương vấn và luẩn quẩn trong nhà. Vì thế để linh hồn được an nghỉ và siêu thoát thì lễ 100 ngày được ra đời với mục đó cao thượng đó.

Lễ 100 ngày giúp linh hồn người đó thoải mái, không còn ý niệm vương vấn cõi trần gian. Đặc biệt trong nghi thức cổ xưa này thì con cháu không được khóc thương cho người đó nữa. Nên mới được gọi với cái tên lễ thôi khóc.

Cũng theo người, tác động của việc làm lễ cúng cơm cho người mất 100 ngày (kể cả 49 ngày) là làm cho người sống an tâm, chứ khó làm thay đổi vấn đề của người mất . Các cụ chọn ngày này cũng rất khoa học, giúp con cháu, người thân thôi khóc, dứt ra để về với thế giới lao động, sinh hoạt bình thường. Chứ ngày xưa có những nhà cúng đến 3 năm, nhiều đêm ra đồng ấp mộ (ngủ ôm mộ), khóc ròng mãi thì cũng hại sức khỏe.

Thật lòng chính là phải đạo, chính là tu Phật. Còn người ở thế giới vô hình thì vẫn đi theo nhân quả đã làm khi còn sống, theo đúng luật trời định. Nếu khi sống mà thiện, làm nhiều việc tốt thì họ vẫn về nơi nước chúa, đất Phật, hoặc đầu thai làm người có cuộc sống tốt và ngược lại.

* Khi làm lễ cúng 100 ngày có phải chọn ngày đẹp không?

Bạn hỏi, khi làm lễ có phải chọn ngày đẹp không? Chọn ngày âm hay ngày dương? Theo vị thiện tu thì không cần thiết, nhưng đã là người đời thì còn “cái tôi”, còn lo lắng, vậy hãy cứ chọn ngày âm và ngày đẹp theo phong tục, khi chọn rồi, chịu khó quan sát hiện thực sẽ thấy có đúng, có sai và từ đó mà hiểu hơn, ngộ ra.

Ngộ ra rồi, cái Ngã tan đi thì Tâm trong sẽ mở, sẽ thấy ngày ngày âm hay ngày dương đều được, không có ngày đẹp ngày xấu. Về lễ cũng cũng vậy, làm đơn sơ hay mâm cao cỗ đầy đều được miễn là thật lòng.

Cúng 100 ngày mà diễn, giả khóc giả cười, hối lộ thần linh thì còn có hại. Ta có khi chỉ cần quả chuối củ khoai được rửa sạch sẽ, dâng cúng trân trọng cũng xong. Đừng đi tìm đạo ở những lý thuyết xa xôi, thật tâm chính là phải Đạo, thật lòng chính là tu Phật.

Trong thư bạn có hỏi rằng, lễ 100 ngày chính là sự học Phật trực tiếp, không đi ngang qua kinh điển vậy lợi nhiều hơn hại? Theo bậc hiền tu thì cái gì cũng có 2 mặt, tốt nhất là khi làm lễ hãy bình tâm, yêu thương, không luyến ái đau khổ. Không giả tạo hình thức, không mê tín dị đoan, không báng bổ bậy bạ thì người lễ cũng thêm phước phần, người chết cũng cảm thấy được quan tâm chăm sóc, vậy thôi.

* Người chết sau lễ cúng 100 ngày linh hồn đi về đâu, lưu lạc phương nào?

Bạn đừng quá lo lắng về việc người chết sau 100 ngày đi về đâu. Bậc hiền tu đã cười và nói rằng đừng quá lo lắng, lá đều rơi về cội, sau khi mất hoặc sau 100 ngày thì hồn sẽ về gặp tổ tiên. Những hồn còn mê lầm thì sẽ tha phương cầu thực không nơi nương tựa.

Đại sư chia sẻ thông điệp về linh hồn là bất tử, không có cái chết và không phải lo lắng về cái chết. Chúng ta cần mạnh dạn đối diện, quan sát và tìm hiểu “cái chết” để nhận ra “cái sống”, nhận ra sự sống. Từ đó liên hệ được với tổ tiên, cội nguồn trong sâu tận lòng mình, trở thành người có Tâm, có tổ tiên trong lòng.

Mình sống đấy nếu không có Tâm (hoặc tâm bị khóa) , hồn mình không có Linh, thì các thế lực bóng tối dễ điều khiển, dễ làm điều dại dột, không hạnh phúc. Sống đấy mà hồn vía, tâm trí phiêu bạt lang thang, chạy theo những mục tiêu ảo vọng

Theo bậc hiền tu, ai cũng có vấn đề của riêng mình. Nếu mình có tục lệ cúng người chết sau 100 ngày, thì nên vận dụng lễ cúng ấy để hoàn thiện bản thân. Cách làm như đã nói đó là hãy cúng lễ bình tâm, giản dị, chân thành, người khuất cảm nhận được sự ấm áp, người sống cúng có hạnh phúc tại tâm.

Người chết sau 100 ngày hồn sẽ hóa thành con gì?

Theo Hoàng Dương Bình(Tuổi Trẻ Thủ Đô)

Cúng Dường Thay Cho Người Chết Chưa Siêu Thoát

Cúng dường chư Tăng thay cho người chết chưa siêu thoát là một phương pháp do Đức Phật dạy từ Kinh Tirokudda Sutta.

Chúng ta sẽ dễ ngộ nhận về nhóm chữ “người chết chưa siêu thoát,”  vì có thể liên tưởng tới một “cái tôi” nào bất bíến từ người đã lìa đời. Thực sự, không hề có cái tôi nào bất biến, vì các pháp vô thường, liên tục biến diệt; nhưng rất nhiều chúng sinh vẫn chấp rằng có một “cái tôi” bất biến, và chấp này sẽ trói buộc họ. Thân này nằm xuống, là tứ đại tan rã, sắc thọ tưởng hành thức khi qua thân mới sẽ không như cũ. Và ngay trong trung ấm thân, cái lưu chuyển được Đức Phật gọi là “thức” cũng không phải như những ngày sinh tiền.

Người chết chưa siêu thoát có thể hiểu là hai dạng: thứ nhất là trung ấm thân, hay thần thức, trong bài “Đức Phật dạy cầu nguyện cho thân trung ấm” (1) đã ghi lời Đức Phật chỉ dẫn cách cầu siêu; thứ hai là thành phần chúng sinh chữ Pali gọi là peta, thường dịch là ma đói, cũng có nghi thức giải thoát do Đức Phật dạy qua Kinh Tirokudda Sutta.

Chữ peta thường được dịch là spirits (vong linh), the departed (người đã chết), hungry ghosts (ma đói). Quý Thầy Bắc Tông thường dù chữ ngạ quỷ là tương đương.

Nói cúng đây cũng không nên hiểu là chuyện vàng mã, vì Phật giáo không có chuyện cúng với vàng mã hay tiền âm phủ. Thực ra không có gì huyền bí, vì trong Kinh này Đức Phật dạy người thân của vong linh làm lễ cúng dường chư Tăng và hồi hướng phước để vong linh được siêu thoát.

Peta là những người chết, đã sinh vào cõi ma đói, nhưng vẫn chấp là còn thân cũ và cứ tìm lẩn quẩn ở nơi người thân trong kiếp vừa qua. Họ có thể thọ khổ ở cõi ma đói nhiều ngàn năm, thậm chí từ thời Đức Phật này tới thời Đức Phật kia, cho tới khi hết nghiệp dữ, trong đó có một loại ma đói có thể được siêu thăng khi người thân cúng dường chư Tăng nhân danh họ, và hồi hướng phước cho họ.

Theo Piya Tan, có tranh luận bộ phái từ thời xa xưa: một số thầy nói rằng oai lực người thân cúng dường chư Tâng sẽ giải thoát cho người thân thoát cõi ma đói, trong khi đó nhiều thầy khác nói rằng chính tâm hoan hỷ của ma đói khi thấy người thân nhân danh mình cúng dường chư Tăng sẽ làm nghiệp dữ tan biến. Nơi đây, bài này không đi sâu vào lý luận tranh biện, vì phức tạp và không cần thiết.

**

Duyên khởi của Kinh này được kể như sau. Đức Phật sau khi thành đạo, trước tiên là tới thuyết pháp cho 5 vị đầu tiên là nhóm ngài Kiều Trần Như, rồi tới gặp 3 ba giáo sĩ  khổ hạnh và đồ chúng của ba vị này. Sau đó, Đức Phật đi cùng ba vị này tới gặp vua Bimbisara.  Vị vua này sau khi nghe Đức Phật thuyết pháp, tức khắc chứng quả Nhập Lưu.

Sang ngày hôm sau, những thân nhân đã chết của vua Bimbisara trong cõi ma đói trước đó hy vọng rằng vua sẽ cúng dường để hồi hướng phước cho họ, nhưng vua bận tâm về việc xây một tự viện cho Đức  Phật. Các vong linh thất vọng, mới quậy phá, la hét suốt đêm trong cung điện vua. Hôm sau, vua Bimbisara hỏi Đức Phật về các chuyện xảy ra. Đức Phật bảo vua là chớ sợ hãi gì, vì những người thân chưa siêu thoát của vua muốn được cúng Tam Bảo để siêu thăng vào cõi lành.

Vua mới hiểu rằng vua có thể giúp người thân đang ở cõi ma đói, nên thỉnh Đức Phật tới hôm sau để cúng dường. Vừa khi vua dâng nước cúng Phật và làm nghi thức cúng dường, phát nguyện rằng lễ cúng này là cho thân nhân quá cố của vua, các hồ sen hiện ra để các ma đói tắm và uống. Khi vua cúng dường cháo, thực phẩm mềm và đoàn thực, thức ăn này hiện ra thanh tịnh trước mặt các ma đói để họ thọ thực.  Khi vua cúng dường trang phục và nơi ở, các thức này hiện ra thanh tịnh cho các ma đói. Kết thúc lễ cúng để giúp siêu thăng các ma đói, Đức Phật mới đọc lên các câu thơ, và đó là Kinh này.

Trong tác phẩm biên khảo “The Four Planes of Existence in Theravada Buddhism” của Tiến sĩ Sunthorn Na-Rangsi, dẫn theo các tích Petavatthu trong Tạng Pali, nói rằng các ma đói không có nơi đặc biệt nào để cư trú, họ sống chung thế giới với người, như ở rừng, núi, đảo, nghĩa địa, vân vân. Nhưng mắt người không thấy họ được. Người thấy được ma đói là chỉ khi ma đói muốn được thấy. Một số người tu thiền định có thể thấy được ma đói.

Sách Petavatthu trong Pali Canon có một truyện kể rằng Đại sư Sariputta (Xá Lợi Phất) gặp một nữ ma đói hiện ra trong thân gầy gò, xấu xí, trần truông. Đại sư hỏi và nữ ma đói  này kể khi mang thân người, ba mẹ và thân nhân không ai chỉ cho bà nghiệp lành như cúng dường Tam Bảo, giữ giới, vân vân. Do vậy, chết đi mới thọ sanh làm ma đói, đã đói và khát cả 500 năm rồi. Bà xin Đại sư Sariputta làm nghi thức cúng dường thay mặt bà. Ngài Sariputta ưng thuận, mới cúng một số thực phẩm, một miếng vải nhỏ và nước cho một tỳ kheo. Ngài hồi hướng phước cúng dường cho nữ ma đói kia. Lập tức, ma đói này được thọ thực, trang phục đẹp, và siêu thăng vào cõi trời, trở thành thiên nữ. Vị thiên nữ này hiện ra trước mặt Ngài Sariputta. Không nhận ra, Đại sư hỏi đó là ai vậy. thiên nữ mới kể nguyên là ma đói, vừa được ngài cứu.(2)

**

The Beyond the Walls Discourse They stand beyond the walls, they stand at the door-posts, having come to their former homes.

Kinh Bên Ngoài Bức Tường Họ đứng bên ngoài các bức tường và nơi các điểm gặp và giao lộ, họ đứng nơi các mép cửa, tìm tới những căn nhà cũ của họ.

But when abundant food and drink, both staple and non-staple, is prepared, no one remembers these beings, because of their past unwholesome deeds,

Nhưng khi nhiều thức ăn và nước uống cả thức chính và phụ, được dọn ra không ai nhớ tới các chúng sinh này vì việc dữ họ làm thời quá khứ.

Thus those who are compassionate give to their departed relatives, at the right time, pure, excellent, suitable drink and food.

Do vậy, những người có tâm từ bi cúng cho các người thân quá cố những thức ăn và thức uống thích nghi thanh tịnh, vào đúng thời.

Thinking: “May this go to our relatives, may our relatives be happy!” Those who have gathered, the departed relatives who have assembled around the food and drink, respectfully offer their thanks:

Nghĩ  rằng: “Nguyện các phẩm vật này tới người thân của chúng tôi

Nguyện người thân của chúng tôi hạnh phúc!” Những người tới tụ họp đây Người thân quá cố đã tới hội họp đây Quanh thức ăn và thức uống này Thành kính cúng dường lời tạ ơn của họ.

saying: “ May our relatives live long! Those to whom we owe this gain, for we have been honoured, those who give are not without reward!”

nói rằng: “Nguyện người thân của chúng tôi trường thọ Những người mà chúng tôi nợ phước lành này Vì chúng tôi đã được tôn kính trong lễ cúng Những người cho đi sẽ được đón nhận phước!”

For in that place there is no ploughing, and cattle-rearing is not found there, similarly there is no trading, or buying and selling of gold.

Vì ở nơi này (cõi peta) không có việc cày bừa Không có việc nuôi gia sức nơi đây Tương tự, không có trao đổi Không cả mua hay bán vàng.

The departed in that place who have died, have to subsist on gifts. Just as water that rains on the highlands, flows down to the lowlands, so too what has been given here is of benefit to the departed.

Những người đã chết đang ở nơi này phải dựa vào đồ cúng cũng như nước mưa từ vùng cao, chảy xuống nơi đất thấp Y như vậy, đồ cúng nơi đây sẽ lợi ích cho người đã chết.

Just as rivers that are full flow and fill up the ocean, so too what has been given here is of benefit to the departed.

Y như sông khi đầy sẽ chảy  và tràn vào đại dương, y như vậy, những đồ cúng này sẽ làm lợi ích cho những người đã chết.

Thinking: “He gave to me, he worked for me, he was my relative, my friend, my companion,” he should give gifts for the departed, remembering what they have done before.

Nghĩ rằng: “Y đã cho tôi, y đã làm việc cho tôi, y là người thân của tôi, là bạn tôi, là đồng hành của tôi.” Hãy nên cúng cho người đã chết nghĩ tới những gì họ đã làm trước đó [khi còn sống ở cõi người].

For no tears, or grief, or any other lamentations, are of any use to the departed, as long as their relatives continue grieving in this way.

Vì không nước mắt nào, không đau đớn nào, cũng không lời than khóc nào có lợi ích gì cho người quá cố khi người thân của họ cứ mãi đau đớn như thế.

But that gift that has been given, and well placed in the Sangha, is of benefit to them for a long time, immediately it is of benefit.

Nhưng khi phẩm vật cúng dường đưa ra và khéo dâng lên Tăng Đoàn sẽ có lợi ích lâu dài cho người chết tức khắc có lợi ích.

This then is the definition of a relative’s duties— and by this great honour has been done to the departed, strength has also been given to the monks, and no little merit has been produced by you!

Đây là bổn phận của người thân và bằng cách tôn kính lớn lao này thực hiện cho người chết sức mạnh cũng được dâng lên chư Tăng phước đức lớn vô cùng đã được quý vị thực hiện. (Hết bản Việt dịch)

Links của hai bản Anh dịch và bản Việt dịch của HT Thich Minh Châu sẽ đặt ở (3).

Nguyên Giác

GHI CHÚ:

(1) Xem: http://thuvienhoasen.org/a25024/duc-phat-day-cau-nguyen-cho-than-trung-am

(2) Xem: http://www.bps.lk/olib/wh/wh462-p.html

(3) Bản của Bhikkhu Anandajoti: https://suttacentral.net/en/kp7

Bản của Thanissaro Bhikkhu: http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/kn/pv/pv.1.05.than.html

Bản của HT Thích Minh Châu:http://thuvienhoasen.org/p15a1271/2/kinh-tieu-tung-viet-anh