Cúng Cơm Người Chết Như Thế Nào / Top 10 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 9/2023 # Top Trend | Apim.edu.vn

Nên Cúng Cơm Cho Người Chết Như Thế Nào Và Trong Bao Lâu?

VẤN: Ba chồng con bị bệnh tai biến vừa qua đời. Chồng con là con cả nên phải lo việc cúng tế hậu sự, cúng cơm hàng ngày. Xin Sư cho con hỏi vì sao phải cúng cơm cho người đã mất? Nếu cúng phải cúng trong bao lâu? Sau thời gian đó chúng con nên làm gì? Con nghe nói nếu không cúng cơm người chết sẽ đói lạnh nhưng nếu người chết còn bị đói lạnh nghĩa là họ bị đọa, bị thác sanh vào đường dữ làm quỷ làm ma như vậy khác nào cầu mong cho người thân không được siêu sanh về cảnh giới lành. Hiện giờ chúng con đều phải đi làm khá bận rộn nên cũng không biết làm thế nào để có người ở nhà cúng cơm ba bữa. Nếu không cúng đủ ba bữa phải làm sao và cúng thế nào để đơn giản, nhanh chóng để cả người sống và người chết đều được lợi lạc. Người phương Tây hay các đạo khác con thấy họ đâu có cúng tế linh đình như người Phật tử nhưng con thấy họ vẫn bình an, phát đạt. Nếu chúng con không cúng thì có bị mang tội không? Con xin cảm ơn Sư. ĐÁP: I .

Theo nhà Phật giáo lý “sanh lão bệnh tử” là quy luật tự nhiên trong quá trình duyên khởi, giúp cho con người có ý thức hệ về cuộc sống ra sau cho tốt, sống như thế nào có ích lợi cộng đồng và theo quy luật tất yếu nghiên cứu tu hành giải thoát khổ đau sanh tử luân hồi. Sanh lão bệnh tử là quy luật tất yếu nhưng không có tín điều sắp sẳn, được áp dụng cho chúng sanh chung và con người trên hành tinh, có công năng giúp cho con người giác ngộ. Sanh trụ dị diệt là lực đẩy, không ai có thể tránh những quy luật cộng đồng. Sống chết là việc có sẵn trong cuộc đời, từ giáo lý nầy mà nhà Phật cân nhắc để chúng sanh giác ngộ, hướng dẫn chúng sanh nhất là con người có thể vượt quy luật sống chết bằng cách sống theo đời sống tâm linh. Vì tâm linh thì vô biên, vô bờ bến, không sanh không diệt, tức là không có sanh ra nên không có chết đi và không có tìm kiếm sự tồn tại nên không trốn chạy sự hủy diệt, bất sanh bất diệt là thường trụ niết bàn. Phật là tĩnh thức giác ngộ. giác ngộ thì không còn nằm trong quy luật sanh tử, thành, trú, họai, không nữa. Tuy nhiên, nhà Phật cũng dạy, con người do mang thân tứ đại, gồm đất, nước, lửa, gió, thêm cả thức đại, không đại, nên có hòa hiệp, có tan rã, có hiện tiền có họai diệt, tức có sống, có chết. Con người từ Vua đến Quan đến hàng thứ dân, dân giả giàu nghèo khi hưng thời thì oai phong lẫm liệt, lúc già cỗi hưu trí ngẫm nghĩ lại cuộc đời, có sự tiếc nuối sợ chết, sợ tử thần đến viếng nhà thì không ổn. Từ khi có giáo lý Đức Phật con người không còn kinh hoàng trước cái tham sống sợ chết nữa.

Phong tục tập quán

Phong là phong hóa, một thói quen nhất định của một dân tộc, của người địa phương trở thành nếp văn hóa chung của một dân tộc. Tục là tuc lệ những thói quen không bỏ được nhự tục ăn trầu, hút thuốc, tục đám ma chay rườm rà…Tuy nhiên, có thời điểm những phong tục trở thành lạc hậu, chỉ còn là một nếp văn hóa của một dân tộc địa phương nào đó trong đời người. Tập quán là thói quen của con người trong một vùng miền hay một quốc gia, tập quán con người trong một sớm một chiếu khó có thể bỏ được và nếu có bỏ chỉ là thời điểm lịch sử, ví như người dân quê Việt Nam đến mùa cấy thì có người đứng đầu trong “vạn cấy” thổi tù và để gom công, Tuy nhiên, ngày nay có thể bỏ khi người nông dân phục vụ cho nông trường làm tính giờ, không tính công.

Phong tục tập quán về việc tổ chức tang lễ của người Việt. Nói đến tang lễ là nói đến chết, nói đến chết là nói đến việc làm đám tang (tang lễ). Chúng ta sẽ tìm hiểu một số lễ tang của các nước lân bang và Việt Nam, sau đó sẽ bàn đến chi tiết khi gia đình hữu sự và hậu sự thực hiện các nghi cúng cho đủ lễ

Lễ tang cho gia đình Phật tử theo hệ thống Phật giáo Nam tông, cụ thể như ở vương quốc Lào là nước thuộc quốc giáo Phật giáo nguyên thủy. Trong gia đình có người qua đời tất cả đều vui, hát ca ngâm vịnh, rượi thịt, vui vì người thân sẽ chuyển sang kiếp khác sung sướng hơn, bà con hàng xóm láng giềng tụ tập phụ khâm liệm người chết, đặt áo quan vào một gốc nhà, cho hàng xóm láng giềng đến cúng lạy. Mọi người đến viếng lễ tang được mời sang nhà khác đãi ăn uống, lễ tang được tổ chức ba ngày, hoặc bốn ngày tùy theo quý Sư phán định. Ngày cuối cùng tang chủ và mọi người đem đi hỏa thiêu, sau đó hốt tro cốt đem vào chùa gần nhất phụng thờ. Từ đó mỗi năm gia đình đến thăm cúng giỗ, cúng dường chùa (Bài học thêm – sách địa lý Lớp Đệ Nhất 1969 – nói về phong tục lễ táng của người Lào)

Lễ tang xứ Tây Tạng-Trung Quốc, là xứ sở có đá không có đất, không có rừng, không có gỗ làm củi. Gia đình có người qua đời, sau khi làm lễ tang xong, đội mai táng đem người chết ra bãi tha ma, phân thây người chết bằng cách, chặt từng mảnh nhỏ thân thể người chết, bằm nhỏ cho loài chim kên kên đến tha mổ ăn cho đến khi hết những phần thịt xương của người chết mới thôi, phong tục nầy gọi là “điểu táng” (Ánh sáng Á châu – Đoàn Trung Còn)

Lễ tang theo Phật giáo Hòa Hảo ở An Giang, miền Tây Nam phần Việt Nam. Ban Tổ chức thường đến tụng kinh cầu an lúc sanh tiền, đến khi chết tụng kinh cầu siêu cho vong hồn người chết nghe kinh, nghe niệm Phật mà siêu thoát về với Phật A Di Đà. Lễ Tang chỉ tổ chức một ngày từ sáng đền chiều, thì động quan an táng gọi là “tử là táng”. Lễ tang theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Phật giáo Tứ Ân ở Ba Chúc, huyện Tri Tôn, Nhà Lớn Ông Trần ở Long Sơn, Bà Rịa thì con người sau khi chết thân xác được bó trong 7 “nẹp tre” khiêng đem đi chôn trong vòng một ngày đó. Điều ngày có nghĩ tang lễ cũng theo phung tục tập quán “tử là táng” chết là chôn cất, không coi ngày giờ năm tháng xấu hay tốt lành chi cả (Tổ đình Thành An – Thích Minh Tâm). Tục nầy giúp cho con người tự tin hơn vì không tin vào lý số, nên không có ngày kỵ, không hao tốn tiền của, không sát sanh hại vật.

II . Lễ phạn hàm

Những việc làm trong lễ tang thì nhiều, thật là phức tạp. Một Thầy cúng khi lãnh đàm quý Thầy thực hiện từng chi tiết nhỏ không sai sót chút nào. Khi người thân trút hơi thở, gia quyến sẵn sàng làm các việc gần gũi người thân, như làm lễ hú hồn, lễ đốt đồ cũ. Người Phật giáo thì dọn dẹp hết tất cả các vật dụng của người chết, vật dụng của gia đình, ghế đẳng sắp xếp có thứ lớp để mọi người đi tới lui không dụng chạm khua động lớn, làm chấn động người chết, thần thức nổi sân sẽ bị đọa lạc. Gia đình thỉnh đạo tràng nam nữ Phật tử chùa gần nhất đến hộ niệm, niệm Phật đến qua khỏi 8 tiếng đồng hồ đến khi thân xác hoàn toàn không còn cảm giác “sống” đau đớn, hoặc cho đền khi làm lễ khâm liệm.

Lễ phạn hàm: Tiếp theo là làm lễ phạn hàm, hay ngậm hàm, phạn là lương thực cơm gạo, hàm là ngậm, tức là bỏ một nắm gạo và ba đồng tiền (đồng kẽm, đồng chinh) vào miệng người chết. Gạo để linh hồn người chết ăn, khỏi phải thành ma đói ( ngạ quỷ). Tiền dùng để đi đò hay qua cầu sang bên kia thế giới. Những người lúc sống ăn ở bạc ác thì lúc chết linh hồn phải qua cầu Nại hà. Người lương thiện được qua cầu Kim ngân. Ngày xưa nhà giàu dùng gạo và vàng, ngọc để làm lễ phạn hàm. Ở nông thôn miền Nam để trà, gạo, có khi là vài phân vàng, nếp sồng, đắp mặt người chết bằng tờ giấy trắng hoặc giấy quyền, loại giấy hút thuộc rê (vấn) (Phong tục tang ma – Nguyễn Dư)

Ba vắt cơm để trên đầu người chết

Cúng Phía đầu nằm người chết có đặt cúng 3 vắt cơm, 4 cây đền sáp đặt ở bốn gốc, không dâng hương. Có nơi dâng hương do người nhà không biết đó thôi vì dâng hương có mùi thơm bắt buộc mọi người phải ngửi, nếu ngửi thì ngửi luôn mùi xác chết, bất tiện mất vệ sinh quá, nên không dâng hương.

Lệ cúng 3 vắt cơm: Do quý Thầy cúng đã từng làm và chuyền nối nhau thực hiện từ lâu đời, 3 vắt cơm là biểu tượng của tam tài “Thiên Địa Nhơn” (theo Nho gia, Đạo gia), lúc người chết trở về với linh khí tinh nguyên của trời đất. Ba vắt cơm sau khi tẩm liệm xong đa phần các gia đình tin tưởng đem treo ở giàn bếp. Khi nào người nhà có bệnh hoạn hiểm nghèo đem ra đốt tán nhuyễn cho uống sẽ hết bệnh. Có nhiều nơi người thân quý mến người chết đem ăn luôn ba vắt cơm để thể hiện tình cảm với người chết, việc làm nầy quá mất vệ sinh dễ sanh bệnh đối với người ăn. Về sau những tu sĩ Phật giáo tiến bộ, tu sĩ chuyên tu lần lượt bỏ hình thức đặt ba vắt cơm cúng trên đầu người chết. (tác giả nhận định không phải truyền thống nhà Phật)

Đặt nải chuối xanh: Theo xưa có đặt nải chuối dằn bụng phòng linh miêu nhảy qua người chết sẽ hồi dương, người cõi âm nhập tràng, thành quỷ nhập tràng. Ở một thuyết khác câu chuyện bất đầu từ chàng trai sống chung với người mẹ già. Một ngày nọ chàng trai này lên rừng đốn và bất ngờ thấy cây chuối già xanh có hoài gần chín nên đã chặt đem về nhà để chín đem đi bán và ăn. Thế là chàng trai đã chặt buồng chuối này đèm về nhà. Khi đem về tới nhà thì không biết để đâu, cất đâu sợ mẹ già ở nhà thèm và đói ăn hết làm sau. Vì vậy chàng trai mới nghĩ ra cách là phải treo buồng chuối này lên cao để bảo quản. Thế là qua ngày hôm sau chàng trai lên rừng đốn củi tiếp thì ở nhà người mẹ chờ con về mà không thấy về trưa rồi nên cũng đói bụng thấy chuối con trai mình treo trên nhà bếp đã chín nên có ý định lấy chuối để ăn. Không ngờ là trèo lên thì bất ngờ ngã xuống bà cụ chết. Khi chàng trai về đến nhà thì gọi Mẹ ơi! Mẹ ơi! …Không nghe mẹ trả lời chàng trai mới vào nhà thì bất ngờ thấy mẹ mình đã chết vì trèo lên để lấy chuối ăn cho đỡ đói. Thế là chàng trai mới trách mình là tại mình mà mẹ mới chết. Khi mẹ chết trong nhà không cò gì hết chỉ có buồng chuối nên cậu ta mới lấy nải chuối còn xanh để trên bụng Mẹ mình nghĩ rằng mẹ mình đói bụng mà không ăn được nên bằng cách để trên bụng mẹ.. Sự tích về nải chuối để trên bụng người chết là vậy (trang mạng Văn hóa xã hội – tôn giáo, tâm linh – Đào Minh Định)

Lễ nhập quan, thành phục, thọ tang

Nhập quan: Linh cữu được khiêng ra đặt giữa nhà, người chết ngoài đời do nhà đồ làm tất cả các việc. Việc tẩn liệm bằng trà, cách đây 60 năm nhà đồ không có trà, nên đồ tẩn liệm bằng rơm quấn trong giấy mỏng gọi là giấy súc. Vật dụng nầy ngày nay không còn, mà để trà rồi để thêm những đồ cũ, vật dụng của người chết được đem theo. Kế đến đậy nắp áo quan, gắn sơn chai, đóng lại theo kiểu mang cá hoặc đóng đinh cho kín.

Thành phục: Là lễ phát tang, cũng là lễ chính thức của đám tang, phát tang, giúp cho các thành viên vợ chồng, dâu rể con cháu trực hệ trong gia đình thọ tang người chết, ông bà cha mẹ. Thọ tang là chịu tang đối với những người lớn hơn mình, hay ngang mình là vợ chồng không chịu tang với người chết thấp hơn mình và có lễ cúng cơm cho người chết.

Thọ tang: Tang ai nấy mặc. Có gia đình sang giàu thì may đồ tang bằng vải tốt. Có gia đình nghèo may đồ tang bằng vải bô, áo bả hài gai, vải mùng, vì nghĩ đồ tang chỉ có mặc trong thời gian ngằn rồi đốt, nên đa phần các gia đình không quan tâm vải tốt xấu lắm. Trong thập niên 50 Thầy cúng thường lấy đồ xả tang của gia chủ may quần áo rồi nhuộm lại màu đen rồi mặc.

Trong giới tu sĩ xuất gia thọ tang màu vàng để nói lên đây là việc thọ tang người xuất gia, xuất thế gian. Tang trong đạo không phải như con cháu thọ tang cha mẹ ngoài đời nữa, mà đệ tử thọ tang Thầy Tổ, những bậc Cao Tăng, do đó chư Tăng Ni thọ tang màu vàng là vậy.

Thứ bậc thọ tang: Theo thứ bậc trong gia đình mà thọ tang: – Con trai, con gái, rễ, dâu thọ tang trắng – Trai trưởng nam thọ tang trắng có chống gậy tang cha chống gậy trúc (tròn), tang mẹ chống gậy vông (vuông), đội bích cân – Anh hoặc các em của người mất thọ tang trắng – Cháu nội thọ tang trắng có chấm đỏ – Cháu ngọai thọ tang trắng có chấm xanh – Cháu cố thọ tang trắng có chấm vàng – Cháu kêu bằng chú thọ tang trắng. Trong thời gian thọ tang, con cháu đi làm ăn hay đi làm việc đều có mang tang màu đen hay màu trắng, tùy theo màu áo mậc trong mình kich thước 2 cm x 1,5 cm.

Cúng cơm trong lễ tang:

Cúng cơm: Phải cúng như thế nào cho đúng, tại bàn vong linh có cúng 3 chén cơm, đồ ăn, hương hoa trà quả. Cơm gồm một chén giữa đầy cúng cho vong linh người mới chết, hai chén hai bên thì hơi lưng để hai bên, biểu hiện hai bên vai giác, kiến cho những người hầu cận vong linh Thầy cúng gọi là Tả mạng thần quang, Hữu mạng thần quang. Có nơi cúng 3 chén, có nơi cúng 6 chén, không nên để 5 chén là sai. Ý nghĩa chén cơm ở giữa có cắm đôi đũa, hai chén cơm hai bên mỗi chén một chiếc đũa là cúng cơm cho vong linh (ma mới) mới ăn. Tuy nhiên, nếu hai bên để mỗi nơi một đôi đũa nữa thì các cô hồn (ma cũ) sẽ đến dành giựt, vong mới không được ăn, nên có thành ngữ “ma cũ ăn hiếp ma mới” là vậy. Theo quý Thầy cúng thì nghi thức nầy không phải của Phật giáo, mà chỉ làm theo tục lệ tín ngưỡng dân gian từ xa xưa lưu truyền lại.

Thuyết khác, ý nghĩa cúng 3 chén cơm chén giữa đầy dành cúng cho vong linh mới chết, có cắm một đôi đũa. Hai chén hai bên có cắm mỗi chén một chiếc đũa dành cho người giữ vong linh ăn chậm hơn vong linh chánh, nếu không thì vong linh chánh sẽ bị dành giựt, ăn không kịp. Đây cũng là tục lệ văn hóa vùng, tục cúng kiến riêng tại các địa phương trong dân gian Trung quốc có ảnh hưởng đến tục lệ Việt Nam (theo Đại Đức Thạc sĩ Thích Thiện Huy các tục lệ trên chỉ có truyền khẩu trong dân gian, xưa bày nay vẽ chứ không có trong nhà Phật)

Theo tuc miền Trung trên nóc áo quan bày một bát cơm úp, cắm một chiếc đũa vót cho sơ ra như gai nhọn (có nơi gọi là chiếc đũa bông), một quả trứng luộc, ba nén hương. Bát cơm, quả trứng, có thể là bữa ăn để linh hồn người chết khỏi trở thành ma đói. Nhưng chiếc đũa có gai nhọn thì chắc chắn không phải là để dùng ăn cơm. Không ai có thể ăn với một chiếc đũa như thế. Chiếc đũa bông nhiều gai nhọn có ý nghĩa không cho giặc cướp lấy cơm của người chết và trừ ma quỷ hiếp đáp vong linh (Phong tục tang ma – Nguyễn Dư). Đến ngày động quan, Thầy cúng kêu làm lại chén cơm có để trứng gà luộc mới, một đôi đũa bông, chén cơm mới để lại trên nắp áo quan, đến khi đem ra huyệt chôn cất xong, Thầy cúng hướng dẫn để chén cơm, trứng luộc, đôi đũa bông trên nấm mộ, nhiều nơi còn đặt thêm mớ bùi nhùi. Tục nầy mang ý nghĩa chúc tụng: “mớ bùi nhùi tượng trưng cho thế giới hỗn mang; trong hỗn mang hình thành nên thái cực (bát cơm); thái cực sanh ra lưỡng nghi (đôi đũa). Có lưỡng nghi (âm dương) là có sự sống (quả trứng)”.

Thầy cúng: Xưa chỉ một, nay có rất nhiều Thầy dự có tổ chức thành Ban gọi là Ban kinh sư từ 4 đến 6, hoặc 8 vị có trách nhiệm điều hành đám tang. Ban Kinh sư hướng dẫn như thế nào làm như thế nấy, Thầy cúng khi lãnh đám tang có trách nhiệm cúng cơm vào buổi sáng, trưa, chiều, có nơi cúng trưa và chiều.

Tu sĩ Phật giáo, người xuất gia, Sa môn viên tịch chỉ cúng cơm ngọ thời, không cúng cơm chiều.

III . Lo hậu sự là báo hiếu

Hậu sự là lo việc báo hiếu, cúng kiến người chết sau lễ tang. Trong đời dù Bạn có làm việc quan được trọng thị ở thế gian đến đâu, nhưng không thể bỏ bê việc cúng kiếng ông bà cha mẹ từ lúc người còn sống đến những ngày cuối cùng cho đến khi qua đời. Lễ tang tuy không bận rộn lắm nhưng được ràng buộc bởi đạo hiếu nghĩa, đạo làm con cháu với người trên trước, đạo làm người đối với người đã qua.

Ngoài đời những người có hiếu đạo bao giờ cũng được tôn kính trọng dụng, mọi người tin tưởng, là chỗ dựa tinh thần của gia đình. Đôi khi lan tỏa đến xã hội và là người tiêu biểu trong xã hội xóm làng. Người xưa tôn trọng đạo hiếu, ông bà cha mẹ qua đời, phận làm con có khi là con trai trưởng nam, hoặc con lớn, con trai con gái lớn cạo tóc để thọ tang thờ cúng người thân qua đời trong thời gian 3 năm. Có khi mỗi đêm trải chiếu, nằm cạnh bàn thờ vong để dâng hương cho vong linh, hoặc cũng có khi cao đầu, ăn chay trường ba năm để cầu cho người qua đời được gần gủi Phật, nghe kinh mau siêu thoát luân hồi, tái sanh vào chỗ tốt lành.

Theo Hiếu kinh của Mạnh Tử dạy: khi cha me qua đời, dù cho con có làm quan lớn ở cấp bậc nào đi nữa cũng phải mặc áo bả hài gai, cất chòi ngoài mộ để cúng kiếng, đêm nằm canh giữ quạt mồ cha mẹ đúng ba năm cho mồ khô ráo để tỏ lòng tôn kính (theo đạo hiếu. Khổng giáo, Lão giáo).

Trong Đại Luật mặc dù chuyên hoằng giới nhưng Đức Phật cũng thường cân nhắc môn đệ xuất gia cũng như tại gia giữ đạo hiếu. Kinh Phạm Võng Bồ Tát giới Đức Phật dạy: “Hiếu thuận đối với cha mẹ, Sư trưởng, chư Tăng, đối với Tam bảo, sự hiếu thuận phù hợp chánh pháp chí thượng, sự hiếu thuận ấy gọi là giới, cũng gọi là năng lực chế ngự, đình chỉ mọi sự tội lỗi”.

Con cháu nhà Phật muốn báo hiều trọn vẹn thì tự phát tâm tụng kinh Bộ cầu nguyện cho ông bà cha me tại gia lúc sanh tiền cũng như khi qua đời, phát nguyện ăn chay trường, hoặc phát tâm rước chư Tăng Ni đến tụng kinh Địa Tạng. Tùy theo hoàn cảnh kinh tế gia đình làm việc từ thiện xã hội giúp đỡ người nghèo giúp cho họ qua cơn họan nạn, làm việc phóng sanh, ấn tống kinh sách Phật giúp cho người cải ác tùng thiện, đi cúng thập tự cầu cho ông bà cha mẹ siêu sanh Tịnh độ đó mới là đạo hiếu của Nhà Phật và có kết quả thực tế. Đức Phật dạy: ” Hiếu với Mẹ Cha tức là kính Phật. Nếu ở đời không có Phật thì hãy khéo thờ cha mẹ. Khéo phụng thờ Cha mẹ như phụng thờ Phật vậy” (Kinh Đại Tập)

Nhân nói việc lễ tang và lo hậu sự là báo hiếu ông bà cha mẹ đã qua, Đức Phật còn quan tâm đến những lúc ông bà cha me tại tiền, khi cha mẹ còn làm con phải hết lòng hiếu thuận, niềm tin vững vàng với Thầy Tổ, Tam Bảo. Cho nên đạo Phật còn gọi là Đạo Hiếu…”

Cúng cơm sau lễ tang

Sau lễ tang mọi người đều mệt mỏi. Tuy nhiên, đối với người còn ở lại dù khổ đau bao nhiêu cũng phải tỉnh táo để lo việc cúng kiếng, các lễ cúng đối với vong linh. Nhất là lễ cúng cơm là lễ quan trọng trong đạo hiếu. Người có lòng hiếu thảo hay không phải xem cung cách đối xử của con cháu đối với người đã qua, ai hiếu thảo, ai không hiếu thảo. Lời Phật dạy: “vạn hạnh Bồ tát hiếu nghĩa vi tiên”, trong các hạnh Bồ tát thì hiếu đạo là việc trước tiên. Phật xưa thị hiện vao đời cứu chúng sanh, có khi thị hiện làm con, lúc cha mẹ mù lòa, muốn đi đâu con phải gánh cha gánh mẹ giúp cha me đi đây đi đó cho thỏa dạ. Cha mẹ đói khát con lóc thịt thân mình cho cha mẹ ăn, để đổ đói qua ngày (Kinh Đại phương tiện Phật Báo Ân – bản dịch HT Thích Trí Tịnh).

Việc lễ tang ngày nay dù chúng ta biết có nhiều hủ tục cần bỏ bớt, nhưng những việc còn lại phải làm, làm cho chí vóc, làm cho đầy đủ không được sai sót, như:

Cúng an sàng: Là an vị vong linh, sau khi hạ huyệt chôn cất xong, đem vong vị về tại nhà, thiết lập bàn thờ vong, an sàng linh vị, cũng gọi cúng an sàng. Bàn thờ nầy dành để cúng vong, cúng cơm sau lễ tang. Việc cúng kiếng nầy được thực hiện đến khi mãn tang (mãn khó), sau đó thỉnh vong linh thờ cúng chung với bàn thờ cửu huyền (thờ cúng ông bà) và mọi năm cúng giỗ tưởng niệm người đã qua.

Cúng mở cửa mộ: Còn gọi là mở cửa mả hay khai mộ, sau lễ an sàng, tức là từ khi chôn cất đến ngày thứ ba mọi người trong gia đình ra thăm mộ có đem theo lễ vật cúng, như: thang 9 bậc đối với người nữ, thang 7 bậc đối với người nam. Cây thang 5 tấc tượng trưng cho ngũ thường, 3 ống trúc đựng gạo nước tượng trưng cho tam cang, gà con kêu chi chít, tiếng kêu của gà con làm cho vong linh đã chết sau 3 ngày tỉnh thức biết đường lên khỏi mộ, cây mía lau tượng trưng cho công lao của cha mẹ lo cho con cái đến ốm o gầy mòn như cây mía, nhưng vẫn ngọt ngào với con. Ngoài các vật dụng đặc biệt trên còn có chè xôi, tam sên (hay tam sanh, gồm thịt, tôm, trứng luộc), trái cây, rượu, trà, gạo, muối, giấy tiền vàng bạc, trầu cau…Ở nhà cúng 4 mâm cơm, cúng ông bà, đất đai, cô hồn, cúng vong.

Cúng thất: lấy dấu mốc ngày người chết là ngày thứ nhất đến ngày thứ bảy làm lễ cúng thất, cúng tuần thất, 7 ngày, Nghi thức cúng thất bắt đầu từ buổi chiều ngày trước khoảng 16 giờ, tức ngày còn sống, rước Thầy đến cúng khai kinh, có sắm hương hoa trà quả, chè xôi, cúng tất cả các bàn thờ trong nhà, như cúng ông bà, cúng đất đai, cúng vong linh người chết và một mâm cúng cô hồn. Ngày hôm sau huờn kinh, không có cúng cơm. Nghi thức các lễ cúng thất đều giống nhau.

Cúng 21 ngày: tức là cúng thất thứ ba, 7 x 3 = 21 ngày gọi là tuần tam thất

Cúng 49 ngày gọi là cúng thất thứ bảy 7 x 7 = 49 ngày gọi là cúng 49 ngày hay gọi cúng tuần chung thất

Cúng 100 ngày trong thời gian nầy từ khi người thân qua đời đến ngày thứ 100. Trong những lúc gia đình ăn cơm vào buổi trưa và chiều con cháu có để bát cơm trên bàn ăn và một đôi đũa, mời ông bà về ăn rồi mới ăn, gọi là trả hiếu ông bà cha mẹ, cho đến khi nào phôi pha sự đau buồn cuộc tử biệt sanh ly mới thôi.

Cúng giáp năm cũng gọi là cúng Tiểu tường.

Cúng mãn tang, cũng gọi mãn khó, cũng gọi là Đại tường… Các nghi cúng 21 ngày, 49 ngày, 100 ngày, cúng giáp năm, cúng mãn tang vẫn y như lễ cúng mỗi tuần thất, có khai kinh và huờn kinh.

Nghi thức cúng dành cho người xuất gia viên tịch hình thức như nhau, nhưng có khác nội dung do Ban kinh sư chịu trách nhiệm biên soạn.

Việc cúng cơm cho người chết ngoài thế gian ông bà già xưa quy định con cháu phải cúng cơm hằng ngày, trưa, chiều đủ 3 năm mới hết cúng. Ngày nay các Thầy cúng giảm chế bớt lý do con cháu đi làm ăn xa, người ở ngoai quốc, nhà đơn chiếc, nên chỉ còn cúng cơm đến 100 ngày thì ngưng. Rồi đến cúng tiểu tường, tròn một năm đối cha mẹ, người thân qua đời. Người Phật giáo, hoặc tu sĩ xuất gia, hàng giáo phẩm Tăng Ni trong chốn thiền môn, việc cúng kiếng dành cho các tu sĩ có phần trịnh trọng hơn nhiều. Các đệ tử thay phiên lo việc cúng cơm, làm các việc báo ân Thầy Tổ, nên việc cúng cơm được duy trì đến 3 năm mới không còn cúng nữa. Tuy nói 3 năm nhưng chỉ có 24 tháng là tới ngày cúng mãn khó, mãn tang, đại tường..Chúng ta cũng cần nên biết thêm việc tính ngày mãn tang, ngày giỗ chạp. Ngày cúng 100 ngày, cúng giáp năm, cúng mãn tang thì tính tháng nhuần, mặc dù có dư một tháng nhưng vẫn tính là 24 tháng, đàm giỗ thì tính nhuần, nhơn gian có câu : “đám giỗ tính nhuần, làm tuần tính đủ” là vậy.

IV . Lời bạt:

Lễ tang là công việc quan trọng. Nhà có lễ tang thì mọi việc đều tạm ngưng, giảm bớt công việc ngoài xã hội để lo lễ tang cho ông bà cha mẹ. Đạo hiếu ở thế gian rất cần được phổ cập trong nhân gian thật nhiều, đem lại đạo đức hấp thụ thật nhiều cho con người, nhất là người hung ác hiện nay ngày càng nhiều. Phật giáo còn quan trọng hơn, nhất là đối với các bậc tôn túc Thầy Tổ, hàng giáo phẩm, nhưng không chú trọng nhiều về hình thức lễ tang mà chú trọng đến việc thác sanh cao đăng thượng phẩm, cao đăng bảo địa, cao đăng Phật quốc.

Việc tín ngưỡng các tập tục ma chay có ảnh hưởng nhiều theo tập tục từng vùng văn hóa của xứ sở Trung Hoa rộng lớn, ảnh hưởng mấy nghìn năm theo Mật giáo, đạo thờ cúng, tang chay của Khổng giáo, Đạo giáo cũng xuất phát từ Trung Hoa. Vì vậy, việc tổ chức lễ tang hiện nay ảnh hưởng nhiều tập tục của Trung Hoa kết hợp với tập tục của người Việt…Như vậy một lễ tang dành cho một người chết là một tập hợp những tập tục văn hóa nhiều miền vùng văn hóa khác nhau của các quốc gia đuợc giới thiệu tại một lễ tang “đúng nghĩa”. Chúng ta thấy có một sự áp đặt nặng nề bất công quá, rườm rà, tốn kém, tổn hao công sức tài sản tiền bạc của gia đình thật vô lý vô cảm.

Đối với Phật giáo khi trong nhà có người thân qua đời thì nên thực hiện lễ tang cho chu đáo giản dị nhưng không kém phần trang nghiêm, không giết mổ heo, trâu, bò, gà vịt, giảm bớt những hủ tục rườm rà hao tốn thời gian kinh phí, nên cúng cơm chay cho vong linh. Những nghi lễ vô lý như đốt vàng mã, để nải chuối xanh trên bụng người chết, khóc mướn, leo lên nóc nhà hú hồn, nhất là không nên để thời gian lễ tang quá lâu, không mở cửa mộ theo hủ tục vác mía lau, kéo gà, làm than 7 nấc, 9 nấc, cúng tam sên…. Những tôn giáo khác và các tôn giáo nội sinh như Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo, Phật giáo Tứ Ân cũng làm tròn đạo hiếu, nhưng tổ chức lễ tang rất đơn giản.

Từ thập niên 60 đến nay, các Giáo hội Phật giáo tại Việt Nam, tông cũng như giáo từng kêu gọi thống nhất các nghi lễ trong cả nước, tiến đến giản dị hóa những tập tục lễ tang, những nghi không có trong Đạo Phật. Tổ chức lễ tang theo nghi lễ Nhà Phật gọn, giản đơn gọi là “tam nhựt bất cấm” hay “tử là táng” trong hai ngày nầy là nhanh gọn, không phải xem lịch số ngày giờ tốt xấu.

Từ lễ tang đến các việc cúng hậu sự theo xưa bày nay vẽ thì quá rườm rà, Sư có lời khuyên gia đình Phật tử chúng ta nên gởi vong linh vào chùa nghe kinh được siêu thoát. Thỉnh thoảng quý vị đến thăm ông bà vào các ngày lễ cúng tuần đầu, tuần tam thất, tuần chung thất, 100 ngày, giáp năm, mãn khó mà thôi chứ không đi cúng kiếng hằng ngày, hay hằng tuần trở ngại nhiều việc

Việc sanh là đến, đến đây từ mình, mang gánh nặng tham sân si, những gì hiện nay ta có, như: hạnh phúc khổ đau, nhiễm ô, bệnh hoạn, có đủ tiền tài danh vong, quyền thế, chức vị, vợ chồng con cái, gia cang sự nghiệp một gánh tình tang nặng nề vô cùng như núi tu di. Tử là đi, đi về với vĩnh cửu vô biên, đi về với không ta, bỏ tham sân si, không còn hình bóng của ta, không còn thân tứ đại giả danh của ta, đi về với hư vô, không cần phải xây lâu đài dưới âm phủ như các vua chúa, quan tham sợ mất của…Cuối đời phải để cho nhẹ nhàng mà quẳng gánh ra đi về cố quán, về với chính mình, về với Cực lạc Tây phương.

Hủ tục lễ cũ xưa bày

Nay xin đừng vẽ lại ngày tháng qua.

Chúng sanh: sanh, tử, bệnh, già,

Theo chi lệ cũ rườm rà tốn hao.

HT Thích Giác Quang

Mâm Cơm Thờ Cúng Của Người Miền Bắc Như Thế Nào?

Để chuẩn bị và làm mâm cơm cúng giỗ ông bà đơn giản hay giỗ đầu người thân trong gia đình, bạn cần lưu ý chuẩn bị những gì? Đây chắc hẳn là câu hỏi được nhiều người quan tâm và mong muốn tìm được câu trả lời chi tiết, đầy đủ nhất. Thế nên để có được những kinh nghiệm hữu ích trong vấn đề này, các bạn có thể tham khảo những lưu ý quan trọng sau đây:

Bạn tuyệt đối không được nếm hoặc ăn thử các món ăn được dùng để thắp hương lên bàn thờ trong ngày giỗ

Trong mâm cơm cúng, không được đặt những món như gỏi hay thức ăn sống có mùi tanh bởi nó sẽ làm ô uế ý nghĩa tâm linh trong thờ cúng

Không nên sử dụng hoa ly để thắp hương lên bàn thờ trong ngày giỗ của người đã khuất bởi hoa ly mang ý nghĩa tượng trưng cho sự mất mát, chia ly

Bát, đĩa dùng để bày thức ăn trên mâm cơm cúng giỗ phải là đồ mới, không sử dụng những loại bát đĩa dùng thường ngày

Để thể hiện lòng thành kính của mình, gia chủ nên tự tay chuẩn bị những món đồ cúng mà không nên mua đồ sẵn ngoài hàng hay đồ đóng hộp để bày lên mâm cỗ cúng

Mâm cơm cúng giỗ luôn luôn phải có bắt cơm đầy có ngọn cùng với trứng gà luộc và một ít muối, gạo

Đèn nhang trên bàn thờ phải được thắp trước khi bày thức ăn lên và gia chủ phải ăn mặc quần áo chỉnh tề, gọn gàng, sạch sẽ, kín đáo

Những ngày giỗ quan trọng trong gia đình Ngày giỗ đầu thường còn được gọi là giỗ tiểu đường

Đối với ngày giỗ này thì con cháu vẫn mặc áo và đeo khăn tang vì quan niệm truyền thống cho rằng thời gian 1 năm vẫn chưa đủ để xoa dịu đi nỗi đau mất người thân. Thậm chí có những gia đình, con cháu vì quá thương nhớ người đã khuất mà trong ngày giỗ tiểu đường này vẫn khóc như ngày đưa tang.

Ngày giỗ đại tường (giỗ hết tang)

Ngày giỗ đại tang là ngày giỗ được tổ chức sau 2 năm ngày mất của người đã khuất. Ngày giỗ hết tang được tổ chức với ý nghĩa đánh dấu sự kết thúc của một tang kỳ đầy đau thương, mất mát. Lúc này, bàn thờ vong của người đã khuất sẽ được bỏ đi đồng thời bài vị của người đã mất này sẽ chính thức được chuyển lên thờ cùng với tổ tiên.

Trong ngày đại tường này, các gia đình thường đốt nhiều vàng mã cho người đã khuất và thậm chí nó còn được đốt nhiều hơn cả ngày giỗ đầu. Bởi trong người dân hiện nay vẫn quan niệm rằng mã đốt năm trước (ngày giỗ đầu) là mã biếu. Cùng với đó, trước khi tiến hành đốt mã, gia chủ phải đốt lễ cũng như đốt mã ngay trước mộ. Với những gia đình có điều kiện tốt, gia chủ còn làm một mâm cơm chay tại mộ rồi sau đó mờ cả tăng ni tới cúng để tụng kinh niệm Phật cho người đã khuất sau đó mới tiến hành đốt vàng mã.

Ngày giỗ thường còn được xem là 3 năm kể từ ngày người thân mất thì nỗi đau mất mát cũng đã vơi đi phần nào dù ít dù nhiều. Thế nên, ngày giỗ này không chỉ là nghi lễ dành cho người đã mất mà nó còn là dịp đặc biệt mỗi năm để con cháu sum vầy, quây quần bên nhau, giúp gắn kết sợi dây tình cảm bền chặt hơn.

Các thủ tục cúng bái hay nghi lễ trong ngày giỗ thường này cũng có phần khác biệt hơn so với ngày giỗ tiểu đường và ngày giỗ đại tường. Vì vậy, thường thì lễ cúng trong ngày giỗ này sẽ đơn giản hơn và được duy trì đến hết 5 đời. Sau 5 đời này, người xưa cho rằng vong linh của người quá cố sẽ được siêu thoát và đầu thai hóa kiếp trở lại làm người nên hậu thế về sau không cần cúng lễ nữa.

Làm mâm cơm cúng giỗ miền Bắc đúng chuẩn

Mâm cơm cúng giỗ miền Bắc theo truyền thống được người dân thực hiện khá đơn giản và tiết kiệm. Thế nhưng, sự đơn giản và tiết kiệm này vẫn luôn đảm bảo sự thành tâm của con cháu dâng lên người đã khuất. Theo đó, mâm cơm cúng giỗ của người miền Bắc đầy đủ sẽ bao gồm những món sau đây:

Gà luộc hoặc thịt heo

Xôi gấc, xôi đỗ lạc và đỗ xanh

Cơm trắng và trứng gà luộc

Giò chả

Bánh chưng

Chân giò hầm với măng khô, mộc nhĩ

Ngoài ra gia chủ còn có thể chuẩn bị thêm nem rán, tôm tẩm bột chiên giòn

Thịt đông cùng với dưa chua

Một số món xào như: giá đỗ xào, miến xào lòng gà

Các món rau củ quả dễ ăn như: rau luộc hay nộm

Thế nhưng, tùy vào điều kiện kinh tế cụ thể của mỗi gia đình mà gia chủ có thể chế biến thêm một số món ăn khác hoặc giảm bớt một số món ăn sao cho phù hợp. Dù vậy, gia chủ luôn cần phải đảm bảo yếu tố sạch sẽ, tươm tất cho mâm cơm cúng để thể hiện lòng biết ơn và sự thành kính của mình dành cho người đã khuất.

Bài văn khấn trong ngày cúng giỗ miền Bắc

Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.

Con kính lạy Đức Hoàng Thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.

Con kính lạy ngài Đông Trù Tư mệnh Táo phủ Thần Quân.

Con kính lạy các ngài Thần linh, Thổ địa cai quản trong xứ này.

Con kính lạy Tổ Tiên nội ngoại họ………………………………………………….

Tín chủ (chúng) con là……………………………………Tuổi………………………

Ngụ tại………………………………………………………………………………….

Hôm nay là ngày ………tháng ………năm…………………………( m lịch).

Là chính ngày Cát Kỵ của……………………………………………………………

Thiết nghĩ…………………. vắng xa trần thế, không thấy âm dung.

Năm qua tháng lại ngày húy lâm. Ơn võng cực xem bằng trời biển, nghĩa sinh thành không lúc nào quên. Càng nhớ công ơn gây cơ tạo nghiệp bao nhiêu, càng cảm thâm tình, không bề dãi tỏ.

Ngày Cát Kỵ, hôm nay chúng con và toàn gia con cháu thành tâm sắm lễ, quả cau, lá trầu, hương hoa trà quả, thắp nén tâm hương dâng lên trước án thành khẩn kính mời…………………………………………………………

Mất ngày ……..tháng…….năm…………………………( m lịch).

Mộ phần táng tại…………………………………………………………………

Cúi xin linh thiêng giáng về linh sàng, chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật, độ cho con cháu an ninh khang thái, vạn sự tốt lành, gia cảnh hưng long thịnh vượng.

Con lại xin kính mời các vị Tổ Tiên nội ngoại, Tổ Khảo, Tổ Tỷ, Bá Thúc, Huynh Đệ, Cô Di, Tỷ Muội và toàn thể các Hương hồn gia tiên đồng lai hâm hưởng.

Tín chủ con lại xin kính mời ngài Thổ Công, Táo Quân và chư vị Linh thần đồng lai giám cách thượng hưởng.

Tín chủ lại mời các vị vong linh Tiền chủ, Hậu chủ nhà này, đất này cùng tới hâm hưởng.

Chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin được phù hộ độ trì.

Phục duy cẩn cáo!

Lễ Cúng Cơm 100 Ngày Cho Người Mất Như Thế Nào

1. Lễ phát dẫn (Lễ đưa tang): là ngày đưa tang

2. Lễ an táng: giờ hạ huyệt

6. Giỗ đầu: sau ngày giỗ đúng 1 năm

7. Giỗ hết: ngày giỗ sau ngày người mất 2 năm

8. Giỗ thường: là ngày giỗ sau 3 năm trở lên

Lễ cúng cơm 100 ngày cho người mất

Ở một số vùng miền chỉ làm lễ cúng 49 ngày không có làm lễ cúng 100. Tuy nhiên theo phật giáo thì qua 7 lần phán xét, mỗi lần 7 ngày đi qua một điện ở âm ty(tức 1 tuần, nhưng không phải tuần lễ theo dương lịch); sau 7 tuần vong hồn đã siêu thoát. Có nơi cúng hết 100 ngày. Lễ cúng 100 ngày được gọi là lễ tốt khốc tức là thôi khóc. Theo các cụ ngày xưa dạy rằng thời gian này âm hồn vẫn còn phảng phất luẩn quẩn trong nhà chưa đi xa.

Do đó, người nhà cần phải cúng 100 ngày để đưa tiễn vong hồn người đã mất có thể về nơi an nghỉ. Giúp linh hồn người mất có thể thoải mái ra đi, không còn vươn vấn trần tục. Sau khi làm lễ cúng 100 ngày đã qua đi thì có nghĩa là hồn của người mất đã về với thế giới bên kia, con cháu người thân thôi không khóc nữa.

Tuần tốt khốc thì con cháu cũng làm lễ để cúng và làm cỗ bàn mời họ hàng thân thuộc. Sau lễ trăm ngày, hằng năm con cháu lấy ngày chết là ngày làm giỗ.

Trước bữa ăn, trong vòng 100 ngày sau mất, người thân dâng lên bàn thờ một bát cơm úp, một vài món ăn bình thường, thường là tinh khiết, không đòi hỏi cầu kỳ, nhà nghèo thì lưng cơm, đĩa muối cũng xong. Thắp hương xong, dựng đôi đũa vào giữa bát cơm, có rượu thì rót chén rượu. Khấn vái xong cũng rót chén nước.

Văn khấn cúng 100 ngày cho người mất

Nam mô a di Đà Phật! ( đọc 3 lần)

– Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư phật mười phương.

Hôm nay là ngày….tháng….năm….., âm lịch tức ngày…..tháng….năm…………….dương lịch.

Tại (địa chỉ):……………………………………………………

Con trai trưởng (hoặc cháu đích tôn) là………vâng theo lệnh của mẫu thân (nếu là mẹ hoặc phụ mẫu nếu là cha), các chú bác, cùng anh rể, chị gái, các em trai gái dâu rể, con cháu nội ngoại kính lạy.

Nay nhân ngày lễ Chung Thất (lễ Tốt Khốc) theo nghi lễ cổ truyền, có kính cẩn sắm các thứ lễ vật gồm:…………………………..

Kính dâng lễ mọn biểu lộ lòng thành.

Trước linh vị của Hiển:………………… chân linh

Xin kính cẩn trình thưa rằng:

Núi Hỗ sao mờ, nhà Thung bóng xế. (Nếu là cha)/ Núi Dĩ sao mờ, nhà Huyên bóng xế. (nếu là mẹ)

Tình nghĩa cha sinh mẹ dưỡng, biết là bao;

Công ơn biển rộng, trời cao khôn xiết kể.

Mấy lâu nay: Thở than trầm mộng mơ màng;

Tưởng nhớ âm dương vắng vẻ.

Sống thời lai lai láng láng, hớn hở chừng nào!

Thác thời kể tháng kể ngày, buồn tênh mọi lẽ!

Ngày qua tháng lại, tính đến nay Tốt Khốc tới tuần;

Lễ bạc tâm thành gọi là có nén nhang kính tế.

Xin mời: Hiển………………………………………………

Hiển……………………………………………………………..

Hiển………………………………………………………………

Cùng các bị Tiên linh, Tổ Bá, Tổ Thúc, Tổ Cô và các vong linh phụ thờ theo Tiên Tổ cùng về hâm hưởng.

Kính cáo; Liệt vị Tôn thần: Táo Quân, Thổ Công, Thánh sư, Tiên sư, Ngũ tự Gia thần cùng chứng giám và phù hộ cho tòangia được mọi sự yên lành tốt đẹp.

Nam mô a di Đà Phật! ( đọc 3 lần)

Cúng Cơm Cho Người Mới Mất Như Thế Nào Cho Đúng Cách?

Sinh lão bệnh tử là quy luật ở trời, ai đến cuối đời cũng phải trải qua chữ “tử”. Nhờ vào những tín ngưỡng về tâm linh mà giúp con người ta bớt sợ hãi khi nghĩ đến cái chết hơn. 

Ý nghĩa của phong tục cúng cơm

Từ xa xưa, ông cha ta đã truyền lại rất nhiều phong tục cho con cháu đời này mang rất nhiều ý nghĩa sâu sắc và thiêng liêng, tục cúng cơm cho người đã mất là một ví dụ điển hình! Sau khi người thân mất và đã được an táng chu đáo cẩn thận xong xuôi, gia quyến sẽ theo lệ làm bữa cơm cúng thường ngày cho vong linh.

Tùy theo tôn giáo mà người ta sử dụng cơm cúng chay hay cơm cúng mặn, và lựa chọn có đốt tiền vàng mã cho người mất hay không. Bữa cơm dâng lên sẽ đầy đủ sắc vị, bát cơm úp đầy với ý nghĩa thương tiếc, nhớ nhung người đã khuất thể hiện những điều chưa nói với người đã mất mong muốn người ra đi sẽ hiểu được tấm lòng của mình. 

Thông thường, các gia đình theo Phật giáo sẽ đốt vàng mã cho người mất trong đó có đầy đủ tiền vàng, áo quan, mũ miện, ngựa xe,…với mong muốn người mất xuống dưới quan tuyền sẽ được sung sướng không phải chịu khổ nữa.

Bên cạnh đó người nhà cũng sẽ khấn vái mong người khuất mặt phù hộ độ trì cho gia đình con cái hoà thuận bình an, nhiều may mắn thành công.

Cúng cơm cho người đã mất như thế nào?

Bài khấn đọc

Còn với những ai không theo đạo nào,cách khấn của họ rất đơn giản chỉ xin ông thổ công cho vong linh được vô nhà ăn cơm, chắp hai tay khấn bằng miệng không có mõ chiêng. 

Đối với người mới mất

Cách cúng cơm cho người mới mất trong 100 ngày đầu không quá phức tạp. Gia đình sẽ làm bữa cơm nhỏ, chuẩn bị 3 bát cơm, dàn thành hàng ngang, đặt đôi đũa lên bát cơm ở giữa, bát này thường sẽ đầy nhất bởi vì bát này sẽ dành cho người mất, hai bát bên cạnh dành cho tả hữu thần quang. Hai chiếc bát hai bên để mỗi bát một chiếc đũa bởi theo quan niệm nếu để hai chiếc cô hồn dã quỷ có thể tranh cơm với người đã mất.

Gia chủ luộc lên 1 quả trứng, bóc sạch vỏ, thêm 1 thìa muối trắng, 1 bát canh kèm thìa đặt, 1 chén nước sạch lên mâm cơm cúng. Xắt 7 lát gừng đặt lên đối với người mất là nam giới, 9 lát gừng cho nữ giới. 

Theo quan niệm, mâm cơm phải đủ cơm, muối và nước thì mới đúng chuẩn. Trứng có thể có có thể không cũng được.

Cách cúng cơm hàng ngày

Sau khi cúng 100 ngày, người Việt cũng vẫn tiếp tục cúng cơm hàng ngày cho người đã mất để tỏ lòng thành kính, sự thương tiếc nhớ nhung, tiễn đưa người mất trên con đường đi xuống cửu tuyền. Hành động này có ý nghĩa rất cao đẹp, bởi vậy cần tìm hiểu để cúng cơm được đúng cách giúp người đã mất sớm siêu thoát.

Nếu gia chủ theo Phật Giáo có thể mời sư thầy về đọc kinh tại nhà, điều này rất tốt cho người đã mất, tương truyền rằng nếu đọc đủ các bộ kinh người mất sẽ không còn cảm thấy khổ đau, nhẹ nhàng siêu thoát, trước khi đi sẽ báo mộng cho gia chủ để cảm ơn.

Đối với mâm cơm cúng lưu ý rằng, mâm cơm hàng ngày khác với cơm cúng 100 ngày bởi sẽ có đầy đủ các món mặn nhạt, nên chuẩn bị các món mà khi còn sống người mất ưa thích để dâng lên. Nếu quá bận không thể chuẩn bị hàng ngày hoặc không có điều kiện làm cơm cúng, hãy sắp xếp làm cơm cúng hàng tuần hoặc hàng tháng.

Nếu mời sư thầy về giảng kinh phật thì nên kèm theo các bữa cơm cúng chay với đồ ăn nhẹ nhàng, bữa cơm chay mang ý nghĩa giúp người mất được thanh tịnh, dễ dàng siêu thoát và ít tội nghiệp hơn.

Lưu ý quan trọng đó là trong 49 ngày đầu nhất định không được cúng đồ mặn chỉ cúng đồ chạy, sau buổi lễ 49 ngày cho người đã khuất mới bắt đầu làm cơm cúng mặn.

Lễ khai yết hầu cho người mất

Theo quan niệm, người đã mất chỉ là bóng mờ sương khói bởi vậy cần phải làm lễ khai yết hầu cho người đã mất thì người mất mới có thể mở miệng hấp thụ thưởng thức món ăn, tiền vàng áo quan gia đình khi cúng gửi cho mình. 

Thông thường sau 3 ngày đầu tiên người mất, gia đình sẽ làm lễ khai yết hầu bởi lúc này vong linh vẫn còn vưởng vất xung quanh nơi họ sống. Điều này đúng hơn với những người mất còn nhiều lưu luyến với trần gian, và lưu luyến với gia đình. Việc làm lễ đúng cách sẽ giúp người mất nhận thức được rằng họ đã mất, cảm nhận được lạnh, no, đói,…nhận thức được hương linh mới đón nhận được nhang hương người sống thắp.

Sau lễ khai yết hầu, lúc cúng cơm người mất sẽ cảm nhận được mùi hương thức ăn của mình và hấp thụ nó. Bên cạnh đó, nên cầu siêu cho vong linh người mất, để người mất nhận thức rõ ràng về sự ra đi của họ, giúp họ nhìn thấy con đường dát vàng để siêu thoát.

Quan trọng nhất khi cúng cơm cho người mất đó là lòng thành tâm của gia chủ. Bởi người đã khuất sẽ nhìn thấy được tất cả điều đó, bạn không cần chuẩn bị  mâm cơm cúng quá cao sang mà chỉ cần làm bằng cả tấm lòng là được. 

Những lưu ý khi cúng cơm cho người mới mất

Mâm cơm cúng không được đặt trực tiếp lên bàn thờ người mất cũng không được đặt dưới đất nơi người qua lại giẫm đạp lên, phải chuẩn bị đặt một chiếc bàn thấp hơn bàn thờ. Lau rửa bằng nước cốt gừng để sạch sẽ rồi mới sắp xếp các thứ lên bàn.

Trong cơm cúng 100 ngày liên tục cần đầy đủ cơm, muối, nước, có thể có trứng hoặc không. Sau 49 ngày, có thể thêm đồ mặn vào như rượu, thịt, đồ xào, luộc, đĩa trà,…

Thức ăn đem lên cúng không được nêm nếm, chỉ cho gia vị tương đối rồi mang lên, tuyệt đối không được bốc nhón các món ăn này. Trong khi thắp hương cần cắt cử người trông để tránh chó mèo làm xáo trộn mâm cúng. Sau khi hương tàn, gia chủ mới được đem đồ xuống ăn.

Một số món không thể mang lên thắp hương đó là xôi đậu đen, riêu cua, riêu ốc,… Có thể sử dụng bánh chưng xôi trắng hoặc xôi đậu xanh.

Bài viết này chia sẻ cách cúng cơm cho người mất như thế nào cho đúng cách và thành tâm nhất. Hãy lưu lại những chú ý để làm mâm cơm cúng cho người thân tùy từng giai đoạn 49 ngày, 100 ngày hay xa hơn. Việc cúng kiếng đúng cách cũng là cách giúp người mất có thể phù hộ cho những người còn sống được bình an hạnh phúc, che chở trải qua những kiếp nạn và mở đường cho công danh tài lộc của gia chủ được hanh thông.

Cách Cúng Cơm Người Chết Đúng Phong Tục

Tục thờ cúng người mới mất thể hiện tấm lòng hiếu kính của con cháu và của thế hệ sau giành cho người khuất. Trong vấn đề này cần lưu ý đến việc cúng cơm người chết và cách cúng như thế nào là đúng nhất.

Cách cúng người mới mất như thế nào

Đối với những người đã khuất thì cần phật pháp , giảng giải đạo lý và những điều liên quan đến phật, tâm linh hơn là đồ ăn và thức uống. Tuy nhiên với những gia đình có người đã quá cố thì việc dâng cúng cơm là cách biểu lộ sự yêu thương và mong nhớ. Vì thế nên trong cách cúng người mới mất thì nếu điều kiện gia đình có thì nên dâng lên vong linh của người đã khuất mỗi ngày cũng giống như đồ ăn trong gia đình của mình. Hoặc dâng lên hàng tuần hoặc hai tuần một lần theo điều kiện gia đình.

Khi còn sống thì có thể ăn theo sở thích hoặc bất kể món ăn nào, nhưng khi đã sang thế giới bên kia thì việc cúng cơm người chết chỉ nên đơn giản những món ăn chay, thanh nhẹ nhàng và tinh khiết. Đặc biệt cúng cơm người chết trong thời gian 49 ngày thì người chủ làm lễ buộc phải trường chay không được sử dụng thức ăn mặn.

Trong cách cúng người mới mất cần được khai yết hầu. Vì những người mất đi thì chỉ còn lại là những cái bóng rất nhẹ nên cần phải khai trì chú khai yết hầu thì vong linh của người mất mới có thể hấp thụ dễ dàng.

Trong thời gian mới này trong gia đình vẫn có cảm giác vong linh của người mất còn hiện hữu. Họ còn nhiều vấn vương với trần gian với những người thân yêu trong gia đình của mình nên mới có việc vong linh nhận thức được sự đói no hoặc lạnh. Vì thế khi cúng 3 ngày sau khi mất thì phải làm lễ khai yết hầu để khơi dậy nhận thức của các hương linh, giúp họ nhận ra đó chính là đồ ăn thức uống được dâng lên cho mình. Để họ hưởng và hấp thụ nếu không sẽ ngược lại.

Cúng 3 ngày sau khi mất cũng nên cầu siêu cho các linh hồn để họ nhận thức được rõ hơn về thế giới thực tại, rõ ràng hơn trong ý niệm của mình. Để nhận ra hướng đi của mình sao cho đúng đắn nhất đến với thế giới của cõi giới tốt đẹp hơn và lựa chọn tái sinh giữa 3 cõi: Phật, Trời và Người.

Những lễ vật dùng được cúng 3 ngày sau khi mất thường là lễ mặn được người nhà chuẩn bị để dâng lên. Tuy nhiên cũng chỉ nên làm đơn giản và chỉn chu gọn gàng như mâm cơm bình thường trong gia đình mình.