Cổ nhân quan niệm: Sống trên trần thế ai cũng từng mắc lỗi lầm, tạo nghiệp chướng. Do vậy muốn được siêu thoát, chuyển kiếp thì sau khi chết, vong người mất phải đi qua mười “Điện” 殿 và mỗi điện do 1 ông vua cai quản, gọi là “Thập Điện Minh Vương” (H: 十殿簷王 , A:地府 , A: The ten Kings of Hell, P: Les dix rois de l’Enfer) ở Địa phủ (H: The Hell, P: L’Enfer). Các ông Vua này có các trách nhiệm phán xét, trừng phạt các loại tội lỗi khác nhau của người đó khi tại thế.
Vong người mất muốn đi qua một Điện phải mất 1 Tuần nên Mười điện tương ứng với mười Tuần. Trong đó:
– B ảy bảy bốn chín ngày đầu ( Chung thất) tương ứng với 7 điện đầu tiên ( từ Tần Quảng Vương đến Thái Sơn Vương);
– Tuần thứ 10 chính là giỗ năm thứ hai ( Đại tường) tương ứng với điện thứ 10 ( Chuyển Luân Vương).
Thông thường người thân sau khi mất được con cháu rước vong về gia đình tiến hành các lễ:
Trên ban thờ của người mới mất xưa , không được thắp hương vòng vì nếu thắp hương vòng, hồn người chết sẽ quẩn quanh, không thể siêu thoát (!?). Thực ra, xưa quy định trong những ngày để tang cha mẹ, người con trưởng không được phép đi xa, thường gọi là “cư tang” ( 居喪 ở nhà chịu tang) nếu thắp hương vòng, có thể ra khỏi nhà suốt ngày nên chỉ thắp hương nén. Trước khi đi ngủ, thay hương nén bằng hương sào ( que hương lớn và dài hơn, có thể cháy trong 4, 5 giờ, đủ qua đêm).
Cổ nhân cho rằng, người mới chết, chưa sạch sẽ nên chưa thể đưa lên bản thờ chung mà đợi sau ngày Tốt khốc có nơi sau giỗ Đại tường hay sau khi Cải táng. Việc này là do đợi thời gian, cùng với sự mất đi của hình hài, những lời thị phi của thiên hạ về người mất đã phai nhạt thì họ mới được gia nhập thế giới thiêng liêng, xứng với các bậc tiên hiền, trở thành đối tượng được lớp cháu con ngưỡng vọng, tôn vinh, sống trong tâm linh các thế hệ sau.
Thờ cúng vong linh cũng giống như đang sống, cũng là để thoả nguyện tâm linh, ” Lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương “.
Trong các Lễ, công việc trên thì trừ ngày làm lễ An táng và ngày làm lễ Trừ phục, Cải táng , cần chọn ngày lành còn Lễ Chung thất, Tốt khốc, Tiều tường, Ðại tường, Kị nhật cứ theo đúng ngày mà làm. Khi đó con cháu ở xa nhớ ngày về làm lễ, thân nhân ở chỗ khác sắm sửa lễ đúng ngày tới dự. Lưu ý tang tế theo ngày định sẵn nên thân bằng, cố hữu ai lưu luyến đến thăm viếng, không đợi mời như lễ mừng, lễ cưới và không chuỵện “Hữu thỉnh hữu lai, vô thỉnh bất đáo” ( 有請有來無請不到 mời thì đến, không thì thôi) được. Ngoài ra, con thứ, con gái, cháu phải đến từ ngày hôm trước để “góp giỗ” trong buổi Tiên thường 先嘗 .
Dân gian cho rằng, con người sau khi chết, linh hồn mà Phật giáo gọi là thần thức ( thân trung ấm) hầu hết trải qua giai đoạn trung gian trong khoảng 49 ngày để tìm cảnh giới tái sinh. Khi chưa tái sinh thì hàng ngày thân nhân dâng cúng cơm nước thần thức đều được hưởng mùi vị mà chữ là “xúc thực”. Trong khi người chết mới xuống âm phủ cũng như người mới ra ở riêng, chưa có vốn làm ăn lại không quen biết ai, chưa có lương thực. Hơn nữa, trong gia đình Việt, bữa cơm là giờ phút đầm ấm, hạnh phúc và nếu có người về muộn, mọi người cũng cố chờ. Nay, bỗng nhiên nhà có người đi xa không bao giờ trở lại nên hình thành tục cúng cơm nước hàng ngày cho người chết trong vòng 49 (100) ngày để họ được no đủ, đặc biệt vào những ngày cúng tuần thường trang trọng hơn.
Sau 7 tuần, vong hồn người mất đã tái sinh vào một cảnh giới trong lục đạo luân hồi (H: 六道輪迴 , A: Six ways of Karma, P: Six voies de Karma) gồm 3 đường lành ( trời, thần, người)và 3 đường dữ(thú vật, ma đói, địa ngục) tùy nghiệp lực từng người. Khi đó chỉ có người tái sinh vào loài quỷ thần mới thọ dụng các thực phẩm do con người dâng cúng. Nhưng chúng ta là người trần mắt thịt nên không biết được thân nhân của mình sau khi chết tái sinh về cõi nào. Do vậy, thể hiện tấm lòng thành của con cháu đối với người đã khuất nên sau 49 ngày ( có nơi 100 ngày) không cúng cơm nước hằng ngày như trước đây nhưng vào các ngày lễ tiếp theo như tiểu tường, đại tường hay ngày kỵ giỗ hàng năm thì thân nhân cần phải làm mâm cơm cúng giỗ.
Trong việc thờ cúng người mới mất bao giờ cũng có mâm cúng gia tiên. Ngày xưa, quanh năm dưa muối chỉ dịp giỗ tết mâm cơm mới có nhiều thịt cá. Lễ phẩm cúng giỗ biểu trưng cho tấm lòng hiếu thuận của con cháu, lễ bạc mà lòng thành 禮薄心誠 là quan trọng nhưng ngoài hoa, trái, hương, đèn, chén nước, đĩa trầu cau thì nên có mâm cỗ.
– Trong mâm cơm cần có đầy đủ các móm luộc, sào , rau, thịt, canh, 5 bát cơm kèm 5 đôi đũa ( xưa các cụ ngồi cỗ 5), đĩa muối, đĩa trà….. tùy tâm từng nhà.
Việc cúng cơm trong vòng 100 ngày sau mất chữ là “Triêu tịch diện” 朝夕面 . Khi cúng vong cần có ba bát cơm để ngang nhau: bát ở giữa đơm đầy để một đôi đũa ( cúng cho hương linh mới chết), còn 2 bát cơm 2 bên ( cúng tả mạng thần quang và hữu mạng thần quang), thì chỉ để mỗi bát 1 chiếc đũa ( để các cô hồn không tranh cướp thức ăn hương linh mới mất).
Phổ biến các dịp kị nhật có thể là: 1 bát cơm lồng chắc vì thế mới có tên cúng giỗ là “cúng cơm”,1 quả trứng gà luộc bóc vỏ dẹt ra trên đĩa với một ít muối trắng,1 bát canh ( có thìa), 1 đĩa thức ăn mặn hay món mà sinh thời người đó ưa, 1 cái bát, 1 đôi đũa, Mấy lát gừng ( 9 lát cho nữ, 7 lát cho nam), một chén nước lã, đặt lên bàn thờ rồi thắp hương, đặt đôi đũa vào giữa bát cơm. Nhà nghèo không có trứng cũng không sao nhưng phải đầy đủ cơm, muối và chén nước.
Nghi thức (H: 儀式 , A: The protocol, P: Le protocole) là cách thức làm lễ cho đúng phép trong thờ cúng tuy không quá cầu kỳ. Trong đó đáng chú ý là ngày Tiên thường, Tiểu tường, Đại tường, Chính kị, các vấn đề về Gửi giỗ, Phẩm vật, Văn khấn, Hóa vàng.
Khi có thầy thìtiến hành theo nghi thức của thầy pháp.
– Con lạy Chín phương Trời, Năm phương Đất, Chư phật mười phương;