Cúng Cơm / Top 6 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Apim.edu.vn

Nghi Cúng Cơm Vong

Tang Chủ tựu vì … Lễ tam bái … Bình thân giai quỳ.

Tây Phương Tịnh Độ bạch Liên khai, Linh giả tùng tư quy khứ lai. Nhất niệm hoa khai thân kiến Phật, vĩnh vô bát nạn cập vô xâm.

XƯỚNG:

I). HƯƠNG HUÊ THỈNH:

* Nam mô nhứt tâm phụng thỉnh …

– Tiền tràng phan hậu bảo cái, Quan Âm Như Lai tiếp dẫn Tây Phương nguyện. Đại Hùng, Đại Lực, Đại Thế Chí Bồ Tát giáng hạ chứng minh. Tiếp triệu phục vì Vong … Nhứt vị Thần (Chánh) Hồn.

– Duy Nguyện: Trăm năm ân ái nay ly biệt, hôm sớm vào ra bặt bóng hồng. Âm dương chia cách đành đôi ngã, nặng nợ tào khang một tấm lòng.

– Tang Chủ kiền thành, tửu châm sơ tuần … Lễ nhị bái … Bình thân giai quỳ.

II). HƯƠNG HUÊ THỈNH:

* Nam mô nhứt tâm phụng thỉnh …

– Bi nguyện sở tùng cứu thân khổ, phân thân biến độ thật nan lường. Địa Ngục vị không bất thành Phật, ngã kim khể thủ đại thệ vương. Tiếp triệu phục vì Vong … Nhứt vị Thần (Chánh) Hồn.

– Duy Nguyện: Sang cho mấy cũng rời thể xác, quý cho bao cũng biến mất ngày mai. Sướng cho bao cũng lao khổ đêm ngày, vui cho lắm cũng dường như sương tuyết.

– Tang Chủ kiền thành, tửu châm nhị tuần … “Xuân nữ”. Lễ nhị bái … Bình thân giai quỳ.

– Than ôi! Chiều xuống trên hoa thôn, người đi tê tái hồn. Bóng Trăng soi lờ lạt, tiếng dế khóc hoàng hôn.

– Hỡi ơi! Vinh hoa như tuyết giá, công danh giống hệt giấc mơ xa. Sanh bằng tỉnh ngộ nương về Đạo, Tu đắc Niết Bàn ấy thật là. Tiếp triệu phục vì Vong … Nhứt vị Thần (Chánh) Hồn.

– Tang Chủ kiền thành, tửu châm tam tuần … “Lớp nam”. Lễ nhị bái … Bình thân giai quỳ.

– Ô hô! Ơn xưa nhớ mãi, Tang mới đau hoài, than vì thể xác phôi pha, ngại thấy Kim Quan tàn tạ. Xuôi tay từ giả, thiêm thiếp ra đi. Tiếp triệu Hương Linh quay về bờ Giác.

* Tang Chủ tâm thành tấn phạn.

Nẳng mồ tát phạ đác tha nga đa, phạ lồ chỉ đế. Án tam bạt ra, tam bạt ra hồng. (3 lần).

Nẳng mồ tô rô bà da, đác tha nga đa da, đát điệt tha. Án tô rô, tô rô, bác ra tô rô, bác ra tô rô, ta bà ha. (3 lần).

Án nga nga nẳng tam bà, phạ phiệt nhựt ra hồng. (3 lần).

– Bát vàng cơm Hương Tích, Bình ngọc nước Triều Châu. Đầy vơi mùi Thiền vị, Con Cháu nguyện cúi đầu.

– Trăm hạnh Hiếu là gốc, muôn đức Hiếu là nguồn. Hay Thích tử Hiền tôn, Thần hay Người đồng trọng “Lớp trở” tâm thành, lễ vật, đủ đầy. Mong rằng, hồn Mẹ, về đây thọ dùng. Cơm canh lễ vật muôn trùng, chứng cho Con Cháu dâng cơm cúng dường.

– Tang Chủ kiền thành, trà châm chung tuần. Lễ nhị … bái.

– Tam tuần viên mãn, sở dĩ Kim Ngân phần hóa.

– Nẳng mồ a di đá bà dạ, đá tha già đá dạ, đá địa dạ tha, a di lị đô bà tỳ, a di lỵ đá tất đam bà tỳ, a di lỵ đá tỳ ca lan đế, a di lỵ đá tỳ ca lan đá, già di nhị già già na, chỉ đá ca lệ ta bà ha.

Mâm Cơm Cúng Đầy Tháng

Sau khi đứa bé ra đời và để khẳng định sự tồn tại và vai trò của thành viên mới trong gia đình, dòng họ, thì những ông bố bà mẹ sẽ chuẩn bị một mâm cơm cúng đầy tháng cho đứa con mới sinh của mình lúc bé đã tròn 1 tháng tuổi. Đây là một nghi lễ vô cùng có ý nghĩa đối mỗi con người.

Theo cách tính truyền thống của Ông Bà và phương pháp tính truyền thống thì ngày đầy tháng của bé được căn cứ và lịch âm và tùy thuộc vào giới tính (bé trai hay bé gái), nếu như bé gái thì ngày cũng sẽ sụt lại 2 ngày còn bé trai thì sẽ sụt lại 1 ngày, “Gái sụt 2, Trai sụt 1”. Còn giờ cúng thì lễ cúng thường được cúng vào khi sáng sớm hoặc chiều tối.

Theo tín ngưỡng dân gian từ khi bé trong bụng mẹ và đến khi bé sinh ra là được 12 Bà Mụ và một Bà Chúa chăm sóc, do đó trong mâm cúng cần đầy đủ 12 chén chè nhỏ, 12 dĩa xôi nhỏ, 12 chén cháo nhỏ, và một xôi lớn, một chè lớn, 1 cháo lớn. Ngoài ra còn những lễ vật khác để cúng Đức Ông và 3 Đức Thầy như trái cây, hoa, nhang, đèn cầy, gạo muối, trà, rượu, nước, giấy cúng, tràu têm cánh phượng…. Cùng những lễ vật này thì có thêm chén, đũa, muỗng và 1 đôi đũa hoa vì theo quan niệm thì Bà chúa chỉ thích dùng đũa này.

Cũng theo quan niên dân gian từ xưa đến giờ thì mâm cúng được gần theo nguyên tắc “Đông bình Tây quả” nghĩa là ở phía đông đặt bình bông còn phía tây đặt lễ vật. Mâm cúng đầy tháng được chia thành 2 bàn, 1 bàn trên và một bàn dưới cách 10 cm

Người xưa tin rằng, mỗi 1 đứa trẻ khỏe mạnh ra đời là công lao vô cùng to của bà Mụ, người được cho là có công nặn và giúp mẹ tròn con vuông. Trên hết, đây còn là nghi lễ để ra mắt một thành viên mới trong gia đình với họ hàng, bà con trong dòng tộc.

Sau khi đặt hết lễ vật lên trên bàn cúng thì 1 người lớn trong gia đình, cái họ (ông, bà, bố, mẹ) sẽ đại diện một người lên thực hiện lễ thức thắp nhang và khấn.

Nam mô A Di Đà Phật!

Nam mô Đại Bi Quan Thế Âm Bồ tát

– Con lạy Đệ nhất Thiên tỷ đại tiên chúa

– Con kính lạy Đệ nhị Thiên đế đại tiên chúa

– Con kính lạy Đệ tam Thiên Mụ đại tiên chúa

– Con kính lạy Tam thập lục cung chư vị Tiên Nương

Hôm nay là ngày ….. tháng ….. năm ……Vợ chồng con là ……………………………………… sinh được con (trai, gái) đặt tên là……………………………Chúng con ngụ tại ………………………

Nay nhân ngày đầy tháng chúng con thành tâm sửa biện hương hoa lễ vật và các thứ cúng dâng bày lên trước án, trước bàn toạ chư vị Tôn thần kính cẩn tâu trình:

nhờ ơn thập phương chư Phật, chư vị Thánh hiền, chư vị Tiên Bà, các đấng Thần linh, Thổ công địa mạch, Thổ địa chính thần, Tiên tổ nội ngoại, cho con sinh ra cháu,tên………………………….. sinh ngày ………………… được mẹ tròn, con vuông.

Cúi xin chư vị tiên Bà, chư vị Tôn thần giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành thụ hưởng lễ vật , phù hộ độ trì, vuốt ve che chở cho cháu được ăn ngon, ngủ yên, hay ăn chóng lớn, vô bệnh vô tật, vô ương, vô hạn, vô ách, phù hộ cho cháu bé được tươi đẹp, thông minh, sáng láng, thân mệnh bình yên, cường tráng, kiếp kiếp được hưởng vinh hoa phú quý. Gia đình con được phúc thọ an khang, nhân lành nảy nở, nghiệp dữ tiêu tan, bốn mùa không hạn ách nghĩ lo.

Xin thành tâm đỉnh lễ, cúi xin được chứng giám lòng thành.

Nam mô A Di Đà Phật!

(Khi đã khấn xong thì bố hoặc mẹ tay bé lại vái trước án 3 vái sau 3 tuần hương thì tạ lễ. sau ấy gia đình hóa vàng mã, váy áo đi hoá, vẩy rượu lúc đang hoá. Các đồ chơi thì giữ lại cho cháu bé lấy khước.

Cuối cùng cả gia đình và bạn bè cùng thụ lộc chúc cho cháu bé mọi điều tốt lành).

“Mở miệng ra cho có bông, có hoa,Mở miệng ra cho kẻ thương, người nhớ,Mở miệng ra cho có bạc, có tiền,Mở miệng ra cho xóm giềng quý mến…”

Sau lúc cầu chúc điều tốt lành tới có đứa trẻ, người chủ lễ sẽ tiếp tục nghi tiết Xin Keo. Theo đó, chủ lễ sẽ lấy 2 đồng tiền cổ bằng bạc thật và gieo vào 1 cái đĩa sâu lòng. Nếu có một mặt úp, 1 mặt ngửa thì chứng tỏ mẫu tên đã được tổ tông chứng giám và ưng thuận. Ngược lại, thí dụ đều là 2 mặt úp hoặc 2 mặt ngược thì bắt buộc tiến hành gieo đồng tiền này lại.

Nếu đã 3 lần mà vẫn chưa được thì phải đặt tên khác cho trẻ. Tuy nhiên, 1 số gia đình vẫn còn giữ tục này như một truyền thống gia tộc.Ngoài ra, theo tục xưa, sau Xin Keo người mẹ cũng phải được làm phép để tẩy uế và chấm dứt thời kì ở cữ. Theo đó, mẹ buộc phải bồng trẻ bước qua một nồi nước sôi với đặt đinh nung đỏ rộng rãi lần “trai 7 lần, gái 9 lần” và sau đấy đi vòng quanh nhà.

Trong lúc đi, mẹ cố tình làm rơi tiền để cầu mong cuộc sống của con sau này dư dả, đủ đầy. Dù ngày nay, việc tẩy uế cho người mẹ sau sinh đã được coi là hũ tục và không còn tồn tại nhưng chút sót lại của việc đánh rơi tiền từ tục tẩy uế này vẫn còn được duy trì ở số ít gia đình.

Sau toàn bộ những nghi thức này là lời cầu chúc và lì xì của các người họ hàng trong dòng tộc cũng như những vị khách tham gia tiệc mừng.

Nghi Cúng Cơm Quý Hòa Thượng

CHÍ TÂM BÁI THỈNH

– Chùa Ấn Quang Tôn sư Hòa-thượng THIỆN HÒA giác linh (3 lễ).

– Chùa Ấn Quang Tôn sư Hòa-thượng THIỆN HOA giác linh (3 lễ).

– Phương Liên xã Tôn sư Hòa-thượng THIỀN TÂM giác linh (3 lễ).

– Phó pháp Tôn sư TUỆ NHUẬN giác linh (3 lễ).

– Chùa Thanh Xuân Tôn sư Hòa-thượng Ni TỊNH UYỂN giác linh (3 lễ).

– Chùa Linh Quang Tôn sư Hòa-thượng Ni ĐÀM TIẾN giác linh (3 lễ).

– Chùa Liên Hoa Cố Tỳ-kheo-ni TUỆ KHOÁT, ĐÀM TỪ, DIỆU HUẤN giác linh(3 lễ).

– Cố Tỳ-kheo-ni DIỆU HÒA, NHƯ NGUYỆÂN, PHÁP CHÂU giác linh (3 lễ).

– Thức xoa ma na MINH KIẾN giác linh (3 lễ).

– Sadini THIỆN MINH, HẠNH TU, DIỆU BẢO giác linh (3 lễ).

– Sadini KIM QUANG, DIỆU NHÃ, HUỆ THỌ giác linh (3 lễ).

– Sadini NGUYÊN ĐANG, DIỆU QUỲNH, DIỆU HIỀN giác linh (3 lễ).

– Sadini MINH THÀNH, TỊNH HÒA, TUỆ CHIẾU giác linh (3 lễ).

Quỳ đọc : Ngưỡng cầu giác linh chư tôn Hòa-thượng, tánh hải lặng trong, đèn tuệ sáng chiếu, dự hải hội liên trì, ngự trai tiệc cơm thơm, tự tại ứng chân, thấy nghe không ngại, thần thông tự tại giáng lai đạo tràng, quang minh biến chiếu, nhiếp thủ chúng con xót thương phù hộ, khiến được thành tựu Bồ-đề nguyện hạnh.

Khắp nguyện Tăng Ni Phật tử Việt Nam, thấm nhuần mưa pháp, muôn tội tiêu tan, bốn mùa an vui, chánh pháp lưu truyền, Phật nhật quang huy. Âm dương đồng lợi, pháp giới chúng sanh trọn thành Phật đạo.

– Chí tâm đảnh lễ : Nam mô tiền hiền hậu bối liệt vị Tổ sư (3 lễ).

Huệ Hải đọc : Có sanh có diệt, chư Hòa-thượng nay thị tịch Niết-bàn. Sắc tức thị không, huyễn chất đâu còn mãi mãi. Bao nhiêu năm hành đạo, nay lên đường về cảnh Niết-bàn. Duy tâm lạc quốc phổ biến mười phương. Tự tánh Di Đà viên dung một trí. Sáng quang chói lọi, phản vọng quy chân, trực hạ bội trần hợp giác.

Ngưỡng lao đại chúng chuyển thân bái thỉnh kiền thành thượng hương.

Chúng hòa : Hương hoa thỉnh.

Bảo Tâm đọc : Nhất tâm phụng thỉnh:

Năm ấm chưa thoát, khó trốn bốn tướng sanh, già, bệnh, chết. Thuận thế gian thị hiện vô thường, nay trở về báo địa diệu cực trang nghiêm. Tư lương công đức phụng vì Hòa-thượng… giác linh.

Duy nguyện ngôi cao thượng phẩm quả chứng nhị nghiêm. Ngộ sắc không chẳng phải sắc không. Rõ sanh diệt thật không sanh diệt.

Thành tâm sơ thỉnh, phục vong lai lâm. Chúng con kiền thành dâng hương bái thỉnh.

Chúng hòa : Hương hoa thỉnh.

Huệ Hải đọc : Nhất tâm phụng thỉnh:

Từ dung lặng lẽ biến tan mà lời Thầy dạy còn vang nơi này. Chúng con phấn khởi chốn chân thừa. Cùng nhau trang nghiêm con đường giác tỉnh. Tư lương công đức phụng vì Hòa-thượng… giác linh.

Duy nguyện mở khai bảo tạng, gắng phá vô minh, đưa chúng con về Vô-thượng Bồ-đề.

Nhất tâm tái thỉnh, phục vọng lai lâm. Chúng con kiền thành dâng hương bái thỉnh.

Chúng hòa : Hương hoa thỉnh.

Bảo Tâm đọc : Nhất tâm phụng thỉnh:

Thân chẳng phải cây Bồ-đề,

Tâm chẳng phải đài gương sáng,

Xưa nay không một vật

Chỗ nào vướng trần ai.

Tôn sư ngôi ở lục hòa. Giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, năm đức tỏa hương thơm ngát. Tư lương công đức phụng vì Hòa-thượng… giác linh.

Duy nguyện ngã pháp đốn không, diệu dụng thần thông vô quải ngại. Mười thân đầy đủ, đất tịnh cõi uế nhậm ngao du.

Ba lần chúng con đầu thành cung thỉnh, phục vọng lai lâm.

Chúng hòa : Hương hoa thỉnh.

Huệ Hải đọc : Tam thỉnh giác linh đã giáng lâm, thọ nhận hương hoa kính cúng dường.

Diệu Mỹ : Tiến trà, rót trà, dâng trà (3 lạy).

Chúng hòa : Nam mô Diễn Kinh Văn Bồ-tát ma-ha-tát (3 lần).

Huệ Hải tiếp :

Danh thơm muôn thuở Triệu Châu trà

Hương ngát, nước trong, làn hổ phách.

Từ quang khó thấu, đức hóa không lường

Linh giác Tôn sư chứng tâm thành.

Diệu Mỹ : Tiến cơm, xới cơm, dâng cơm (3 lạy).

Chúng hòa : Nam mô Thiền Duyệt Tạng Bồ-tát ma-ha-tát (3 lần).

Huệ Hải tiếp : Tín căn nhất niệm, linh giác văn tri, ngưỡng mong cảm ứng. Đủ có sớ văn cẩn y tuyên đọc.

SỚ VĂN

Mây sớm mưa chiều, dòng sông nước chảy mang mang. Một chiếc thuyền đưa chúng sanh lên bờ kia, nay không còn nữa. Đèn thiền, trăng tuệ, dạ đài vắng tịch.

THIẾT NIỆM

Bổn Sư thoát lồng ba cõi, trở về đất tịnh. Vì đã tỉnh mộng huyễn hữu vi. Một đời chăm tu thắng nhân vô lậu.

Hôm nay, Việt Nam, tỉnh Lâm Đồng, thôn Phú An, tịnh viện Hương Sen, phụng Phật cúng dường, báo ân Tôn Sư sự. Hiếu đồ chúng con tâm thành đảnh lễ mười phương Tam-bảo, cung vì Tôn sư… giác linh.

Di ảnh huyễn tượng bày suông trên án. Gậy tích trượng luống chống trước linh đường. Tưởng dung nghi, cùng nhau rơi lệ. Nhớ tâm từ bi như còn phảng phất. Cảm thâm hậu đức thấm nhuần đại chúng Phú An. Việt Nam toàn quốc khắc ghi ân sâu pháp nhũ.

Hôm nay ngày 6 tháng 2 năm Quý Dậu, chúng con đảnh lễ kính dâng trai soạn. Vạn bái đức hùng tôn, tụng diệu điển tam thừa, niệm Phật A Di Đà vô thượng pháp vương.

Cung duy ngàn Phật rủ soi, tiếp dẫn Tôn sư đạt liên cung thượng phẩm, ngự cảnh An Dưỡng quê hương, phước tuệ nghiêm thân, ấn Tổ lưu truyền, đèn Phật sáng trưng mãi mãi.

Tấc dạ đan thành thống thiết, đệ tử chúng con khấu đầu đảnh lễ trăm bái thượng sớ.

– Đốt sớ.

– Đại chúng tụng chú vãng sanh.

– Diệu Khiết, Thiện Đức chuông trống Bát Nhã.

Huệ Hải phục nguyện :

Gương tuệ sáng vô biên

Hương đức thơm ngào ngạt

Rừng Bồ-đề bát ngát

Hoa giác ý nở tươi.

Trong biển giác tánh đãng phiêu một mảnh trần lao.

Đèn giác ngộ lung linh

Hương trầm một đỉnh

Phụng tống vân trình

Thỉnh quy Tịnh-độ.

Đại chúng đồng tụng :

Tiêu dao chân thế giới,

Khoái lạc bảo liên đài,

Chắp tay trước Thế Tôn,

Được Như Lai thọ ký.

HỒI HƯỚNG – TAM QUY

Cúng Cơm Cho Người Thân Mới Mất

Cổ nhân quan niệm: Sống trên trần thế ai cũng từng mắc lỗi lầm, tạo nghiệp chướng. Do vậy muốn được siêu thoát, chuyển kiếp thì sau khi chết, vong người mất phải đi qua mười “Điện” 殿 và mỗi điện do 1 ông vua cai quản, gọi là “Thập Điện Minh Vương” (H: 十殿簷王 , A:地府 , A: The ten Kings of Hell, P: Les dix rois de l’Enfer) ở Địa phủ (H: The Hell, P: L’Enfer). Các ông Vua này có các trách nhiệm phán xét, trừng phạt các loại tội lỗi khác nhau của người đó khi tại thế.

Vong người mất muốn đi qua một Điện phải mất 1 Tuần nên Mười điện tương ứng với mười Tuần. Trong đó:

– B ảy bảy bốn chín ngày đầu ( Chung thất) tương ứng với 7 điện đầu tiên ( từ Tần Quảng Vương đến Thái Sơn Vương);

– Tuần thứ 10 chính là giỗ năm thứ hai ( Đại tường) tương ứng với điện thứ 10 ( Chuyển Luân Vương).

Thông thường người thân sau khi mất được con cháu rước vong về gia đình tiến hành các lễ:

Trên ban thờ của người mới mất xưa , không được thắp hương vòng vì nếu thắp hương vòng, hồn người chết sẽ quẩn quanh, không thể siêu thoát (!?). Thực ra, xưa quy định trong những ngày để tang cha mẹ, người con trưởng không được phép đi xa, thường gọi là “cư tang” ( 居喪 ở nhà chịu tang) nếu thắp hương vòng, có thể ra khỏi nhà suốt ngày nên chỉ thắp hương nén. Trước khi đi ngủ, thay hương nén bằng hương sào ( que hương lớn và dài hơn, có thể cháy trong 4, 5 giờ, đủ qua đêm).

Cổ nhân cho rằng, người mới chết, chưa sạch sẽ nên chưa thể đưa lên bản thờ chung mà đợi sau ngày Tốt khốc có nơi sau giỗ Đại tường hay sau khi Cải táng. Việc này là do đợi thời gian, cùng với sự mất đi của hình hài, những lời thị phi của thiên hạ về người mất đã phai nhạt thì họ mới được gia nhập thế giới thiêng liêng, xứng với các bậc tiên hiền, trở thành đối tượng được lớp cháu con ngưỡng vọng, tôn vinh, sống trong tâm linh các thế hệ sau.

Thờ cúng vong linh cũng giống như đang sống, cũng là để thoả nguyện tâm linh, ” Lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương “.

Trong các Lễ, công việc trên thì trừ ngày làm lễ An táng và ngày làm lễ Trừ phục, Cải táng , cần chọn ngày lành còn Lễ Chung thất, Tốt khốc, Tiều tường, Ðại tường, Kị nhật cứ theo đúng ngày mà làm. Khi đó con cháu ở xa nhớ ngày về làm lễ, thân nhân ở chỗ khác sắm sửa lễ đúng ngày tới dự. Lưu ý tang tế theo ngày định sẵn nên thân bằng, cố hữu ai lưu luyến đến thăm viếng, không đợi mời như lễ mừng, lễ cưới và không chuỵện “Hữu thỉnh hữu lai, vô thỉnh bất đáo” ( 有請有來無請不到 mời thì đến, không thì thôi) được. Ngoài ra, con thứ, con gái, cháu phải đến từ ngày hôm trước để “góp giỗ” trong buổi Tiên thường 先嘗 .

Dân gian cho rằng, con người sau khi chết, linh hồn mà Phật giáo gọi là thần thức ( thân trung ấm) hầu hết trải qua giai đoạn trung gian trong khoảng 49 ngày để tìm cảnh giới tái sinh. Khi chưa tái sinh thì hàng ngày thân nhân dâng cúng cơm nước thần thức đều được hưởng mùi vị mà chữ là “xúc thực”. Trong khi người chết mới xuống âm phủ cũng như người mới ra ở riêng, chưa có vốn làm ăn lại không quen biết ai, chưa có lương thực. Hơn nữa, trong gia đình Việt, bữa cơm là giờ phút đầm ấm, hạnh phúc và nếu có người về muộn, mọi người cũng cố chờ. Nay, bỗng nhiên nhà có người đi xa không bao giờ trở lại nên hình thành tục cúng cơm nước hàng ngày cho người chết trong vòng 49 (100) ngày để họ được no đủ, đặc biệt vào những ngày cúng tuần thường trang trọng hơn.

Sau 7 tuần, vong hồn người mất đã tái sinh vào một cảnh giới trong lục đạo luân hồi (H: 六道輪迴 , A: Six ways of Karma, P: Six voies de Karma) gồm 3 đường lành ( trời, thần, người)và 3 đường dữ(thú vật, ma đói, địa ngục) tùy nghiệp lực từng người. Khi đó chỉ có người tái sinh vào loài quỷ thần mới thọ dụng các thực phẩm do con người dâng cúng. Nhưng chúng ta là người trần mắt thịt nên không biết được thân nhân của mình sau khi chết tái sinh về cõi nào. Do vậy, thể hiện tấm lòng thành của con cháu đối với người đã khuất nên sau 49 ngày ( có nơi 100 ngày) không cúng cơm nước hằng ngày như trước đây nhưng vào các ngày lễ tiếp theo như tiểu tường, đại tường hay ngày kỵ giỗ hàng năm thì thân nhân cần phải làm mâm cơm cúng giỗ.

Trong việc thờ cúng người mới mất bao giờ cũng có mâm cúng gia tiên. Ngày xưa, quanh năm dưa muối chỉ dịp giỗ tết mâm cơm mới có nhiều thịt cá. Lễ phẩm cúng giỗ biểu trưng cho tấm lòng hiếu thuận của con cháu, lễ bạc mà lòng thành 禮薄心誠 là quan trọng nhưng ngoài hoa, trái, hương, đèn, chén nước, đĩa trầu cau thì nên có mâm cỗ.

– Trong mâm cơm cần có đầy đủ các móm luộc, sào , rau, thịt, canh, 5 bát cơm kèm 5 đôi đũa ( xưa các cụ ngồi cỗ 5), đĩa muối, đĩa trà….. tùy tâm từng nhà.

Việc cúng cơm trong vòng 100 ngày sau mất chữ là “Triêu tịch diện” 朝夕面 . Khi cúng vong cần có ba bát cơm để ngang nhau: bát ở giữa đơm đầy để một đôi đũa ( cúng cho hương linh mới chết), còn 2 bát cơm 2 bên ( cúng tả mạng thần quang và hữu mạng thần quang), thì chỉ để mỗi bát 1 chiếc đũa ( để các cô hồn không tranh cướp thức ăn hương linh mới mất).

Phổ biến các dịp kị nhật có thể là: 1 bát cơm lồng chắc vì thế mới có tên cúng giỗ là “cúng cơm”,1 quả trứng gà luộc bóc vỏ dẹt ra trên đĩa với một ít muối trắng,1 bát canh ( có thìa), 1 đĩa thức ăn mặn hay món mà sinh thời người đó ưa, 1 cái bát, 1 đôi đũa, Mấy lát gừng ( 9 lát cho nữ, 7 lát cho nam), một chén nước lã, đặt lên bàn thờ rồi thắp hương, đặt đôi đũa vào giữa bát cơm. Nhà nghèo không có trứng cũng không sao nhưng phải đầy đủ cơm, muối và chén nước.

Nghi thức (H: 儀式 , A: The protocol, P: Le protocole) là cách thức làm lễ cho đúng phép trong thờ cúng tuy không quá cầu kỳ. Trong đó đáng chú ý là ngày Tiên thường, Tiểu tường, Đại tường, Chính kị, các vấn đề về Gửi giỗ, Phẩm vật, Văn khấn, Hóa vàng.

Khi có thầy thìtiến hành theo nghi thức của thầy pháp.

– Con lạy Chín phương Trời, Năm phương Đất, Chư phật mười phương;