Cúng Chay Tăng Có Ý Nghĩa Gì / Top 18 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 9/2023 # Top Trend | Apim.edu.vn

Ý Nghĩa Cúng Dường Trai Tăng

Xin chào các bác và các anh chị,

Hôm nay thầy xin nói về vấn đề cúng dường thức ăn cho đại chúng. Có nhiều khi ta còn gọi là cúng dường trai tăng, tức là ta cúng dường hết tất cả chư tăng, để thỉnh hết các chư tăng hộ niệm, hộ trì. Đó là một công đức rất lớn trong Phật giáo. Trường hợp không nhiều chư tăng thì ta cúng dường hết cho tất cả đại chúng tới cùng tu với ta. Những chuyện đó quan trọng ở chỗ nào?

Khi ta cúng dường cho một người tu tức là ta giúp cho họ tu hành. Đó là công đức hộ pháp. Nếu người đó có một giây phút thanh tịnh, thì giây phút đó sẽ được chia sẻ với người đã cúng dường cho họ. Ngày xưa ta cúng dường cho tất cả mọi người, không phải chỉ riêng đức Phât. Nếu đức Phật có 1000 người, ta cúng 1000 người, nếu 1500 thì cúng 1500 người. Phước đức đó không thể tưởng tượng được. Nhiều khi ta không tu được, nhưng ta lại làm cho người khác tu được, giúp cho người ta tu bằng cách, thí dụ, giúp họ một bữa ăn. Ngày xưa đức Phật rất tán thán việc làm này. Ngày nói “công đức cúng dường phần ăn là vô lượng vô biên; phước đức đó là vô lượng vô biên”. Một người có thể nhờ phần ăn đó mà đắc định, hoặc tu được một giây phút nhỏ thanh tịnh. Chỉ một giây phút nhỏ đó thôi mà được thanh tịnh, tức là vô lượng vô biên. Thời gian đó không thể tính đếm được. Giây phút thanh tịnh đó sẽ khiến ta vĩnh viễn nhớ mãi kinh nghiệm được gọi là giác ngộ. Cho nên việc giúp người ta tu rất quan trọng.

Ngày xưa người ta gọi là hành hạnh hộ pháp, tức là đi hộ pháp, hộ thất cho người ta tu 5, 7 ngày (nhập thất); hoặc nhập trường thất tức là dài lâu, khi người ta tu cả năm ở trong đó, mình ở bên ngoài nấu ăn cúng dường. Nhưng có nhiều khi mình cúng dường cho những người nhập thất 5 ngày, 7 ngày hoặc 1 ngày, ta ở ngoài hộ thất. Phổ biến nhất là ta cúng dường cho tất cả đại chúng trong một pháp hội khi mọi người cùng tu.

Nếu công đức nhiều như vậy, ta làm gì? Thưa các bác, có một điều mà vong linh rất cảm kích nếu ta đem công đức cúng dường trai tăng hay cúng dường đại chúng đó hồi hướng cho những vong linh. Vì sao? Bởi vì thức ăn nuôi dưỡng sinh mạng. Sinh mạng đây là thân thể, thân xác này. Những vong linh nhờ vào công đức ta nuôi dưỡng thân thể, thân xác vật chất này, mà họ được đầu thai để có một thân thể. Do đó phước đức cúng dường trai tăng hay phước đức cúng dường đại chúng, mua thức phẩm cho bà con ăn, không thể tưởng tượng được và các vong linh rất mong muốn. Khi ta cúng dường và hồi hướng cho họ, thì họ sẽ được cái thân và họ sẽ được vãng sanh.

Khi cúng dường, thí chủ phải rất khiêm nhường, ra trước đại chúng, quỳ xuống đảnh lễ mọi người. Rất khiêm nhường dù là mình cúng dường bữa ăn đó, dù là 1000 người hay 1500 người, mình vẫn khiêm nhường cúi đầu đảnh lễ, lạy ba lạy và nói “xin các bác, các anh chị, đại chúng, hôm nay xin đem tất cả công đức hồi hướng về cho người này, người này, người này…”. Các bác không thể tưởng tượng được công đức của 1000 hay 1500 người cùng tu, cùng cộng hưởng hồi hướng về cho những người đó. Có khi người mà ta muốn hồi hướng công đức cho, đang bệnh, đang gặp khó khăn hay có chuyện gì rắc rối; sự hồi hướng sẽ làm cho người đó được hoàn toàn giải trừ nghiệp chướng, gút thắt. Sức mạnh tập thể tu hành không thể tưởng tượng được. Sức mạnh cộng hưởng là gì?

Công đức một người tu là một. Công đức hai người ta không phải là 1 + 1, mà thành 100; công đức của 1000 người tu sẽ trở thành vô lượng. Do đó từ xưa đến nay, chuyện cúng dường trai tăng hay cúng dường hộ pháp, cúng dường hộ thất, cúng dường đại chúng, cúng dường pháp hội, cúng dường phần ăn, là một hạnh cực kỳ quan trọng để giúp hồi hướng công đức cho tất cả những người đang gặp khó khăn, kể cả các vong linh.

Món ăn không phải có giá trị một đồng, hai đồng hay mười đồng. Giá trị của phần ăn đó không những tăng theo tấm lòng của mình, mà cả số người cúng dường, khiến món ăn đó càng ngày càng có giá trị không thể tưởng tượng được. Không phải là món ăn ra chợ mua có giá trị $5.00, vậy tôi cúng dường $5.00. Nhiều khi giá trị của phần ăn đó không thể đếm biết được, vì ta cúng dường từ cõi lòng của mình. Nếu nhiều người cúng dường một món thì món đó càng có giá trị không thể đếm biết được, vì càng có giá trị.

Thầy rất tán thán công hạnh cúng dường trai tăng, cúng dường đại chúng vì đó là một trong những cúng dường rất kỳ cao. Thầy xin tùy hỷ. Tất cả bác nào cúng dường cho pháp hội, cúng dường cho đại chúng những bữa ăn như vậy, thì đó là công đức vô lượng vô biên.

Xin tùy hỷ với các bác.

Cúng Dường Chay Tăng Là Gì ?

Tôi thấy nhiều người Phật tử thiết lễ cúng dường Trai Tăng. Xin giải thích ý nghĩa và pháp thức của lễ cúng dường này.

là pháp tu quen thuộc, phổ biến của hàng Phật tử tại gia nhằm gieo trồng phước báo cho tự thân và gia đình trong hiện đời cũng như những đời sau.

Cúng dường Trai Tăng là gia chủ sắm sanh các lễ vật đúng như pháp, trong sạch và chay tịnh, thành tâm dâng lên cúng dường chư Tăng. Có thể thỉnh chư Tăng về tư gia của bạn để cúng dường hay bạn mang lễ phẩm lên chùa rồi cúng dường chư Tăng ngay tại chùa.

Có hai hình thức cúng dường là Trai Phạn và Trai Tăng :

Cúng dường Trai Tăng : thì gia chủ phải sắm sanh tứ sự (gồm thực phẩm, y phục, thuốc men, sàng tòa), ngày này có thêm tịnh tài để chư Tăng có thêm phương tiện tùy nghi sử dụng.

” Cúng dường Trai Tăng dựa trên nền tảng tự phát tâm, tự nguyện của gia chủ Phật tử. Do đó, “lễ bạc mà lòng thành” là một trong những nguyên tắc quan trọng, không thể thiếu trong khi thực thi Phật sự cúng dường này.”

Muốn cúng dường Trai Tăng, bạn hãy lên chùa gặp quý sư-thầy trình bày tâm nguyện và bạn sẽ được hướng dẫn cặn kẽ để thực hành cúng dường đúng Chánh pháp.

Cúng dường Trai Tăng và làm từ thiện, phước báu của hai việc trên như thế nào ? Nên cúng dường hay nên làm từ thiện hơn ?

và Làm từ thiện cúng dường Trai Tăng, cái tâm làm việc hai việc này khác nhau :

Có những người rất thù thắng về tâm đại bi nghĩa là họ xúc động mãnh liệt trước nổi đau khổ của chúng sanh khác, do đó họ dễ dàng phát tâm hoan hỷ, dễ dàng phát thiện tâm giúp đỡ cho những người khốn khó, thông qua các buổi làm từ thiện.

Có những người có tâm tín thành đối với Tam bảo muốn, duy trì Phật Pháp, đồng thời cũng có sự hiểu biết về Giáo pháp nên họ dễ dàng hoan hỷ cúng dường Chư Tăng qua các buổi lễ Trai Tăng.

Đây là hai cái nhìn, hai sự nhận thức, hai sự cảm nhận khác nhau. Sự quan trọng tùy thuộc quan niệm của mỗi người.

Theo quan điểm Phật giáo, trong tất cả sự bố thí, Tăng thí ( dakkhinadana) là phước báu tối thượng, người Phật tử nên hiểu rõ về điểm này.

Một cuộc bố thí thù thắng : nếu người cho (hoặc cúng dường) bằng tâm trong sạch (nghĩa là cho với lòng cung kính, cho nhưng không có hậu ý đòi hỏi điều gì và cho với tâm không có phiền não) với lễ phẩm (tịnh tài, tịnh phẩm) trang trọng và người nhận một cách trang nghiêm thanh tịnh (nghĩa là nhận một cách không tham lam, nhận không có sự đòi hỏi, và hồi hướng phước lành cho tất cả chúng sanh) thì gọi đó là ứng cúng (thành tựu).

Nếu vị Sa môn sống đời sống chân chánh giống như Đức Phật đề ra thì người Phật tử có bốn mục đích quan trọng để làm phước :

– Tăng là đối tượng nhận cúng dường.

– Nhận cúng dường một cách hợp đạo.

– Nhận dưới với tính cách đại chúng chứ không phải cá nhân.

– Nhận với mục đích cao cả để tu tập..

Bốn mục đích này làm cho đối tượng nhận cúng dường trở nên thù thắng.

Một nhà sư hiểu Pháp và Luật khi thọ thực vị ấy phải quán tưởng : “t hực phẩm này của tín thí cúng cho mình để mình tu tập và sự quán tưởng như vậy mang lại phước lạc lớn cho người thọ thí và cho cả người thí chủ”.

Về vấn đề Trai tăng và làm từ thiện chuyện nào nên làm hơn là hai chuyện hoàn toàn khác nhau tùy thuộc qua cảm tính hay qua bối cảnh sống cá nhân. Điểm này không nói được vì không ai giống ai. Người thích đi làm từ thiện cứ làm từ thiện, người nào thích thì cứ Trai Tăng. Chúng tôi không nói rằng quý vị đừng đi làm từ thiện nữa mà lo Trai Tăng đi. Hoặc nên làm từ thiện mà đừng làm Trai Tăng.

Khi mình làm phước không nên so đo như vậy. Chúng ta làm phước chỉ nên biết một điều tùy duyên nào làm được gì thì làm. Ví dụ khi chúng tôi sang hành hương Ấn độ, lần nào chúng tôi cũng tổ chức những buổi chẩn tế cho những người nghèo, những người đói khổ ở đó. Lúc nào Trai Tăng được thì chúng tôi làm Trai Tăng. Chúng tôi không nói rằng làm Trai Tăng mới có phước nên gặp người nghèo mình không để ý đến họ, hay nghĩ rằng Chư Tăng có cơm ăn rồi mình không nên mình khỏi cúng dường chỉ lo cho những người nghèo mà thôi. Thật ra làm phước như vậy làm cho tâm chúng ta nhỏ hẹp lại.

mình rót ly nước trà cho một người khách uống, đừng suy nghĩ tại sao lại cất công rót như vậy cho khách mà không làm cho cha cho mẹ mình hay một người nào khác xứng đáng hơn. Khi khách đến mình lo cho khách . Khi cha mẹ đến mình lo cho cha mẹ.

Trong cuộc sống, nếu người sống có hiểu biết, có đạo tâm thì họ làm việc tùy theo duyên, tùy theo hoàn cảnh. Cơ hội nào, nhân duyên nào đến chúng ta tùy duyên mà làm, giống như câu tục ngữ khéo ăn thì no khéo co thì ấm. Phước sự không có nhiều trong đời sống. Vì vậy trong từng trường hợp, nếu mình làm được gì thì cứ làm, làm Trai Tăng hay làm từ thiện xã hội , chuyện nào cũng nên làm, và nên tùy duyên mà làm bởi vì mai đây biết đâu không còn cơ hội để làm nữa.

chúng ta nên làm cả hai Còn vấn đề nên làm cái gì hơn thật sự rất khó nói vì không phải lúc nào cũng có cơ hội giống nhau. Khi sang Ấn Độ cho những người nghèo, họ giành giựt, nhiều khi chúng tôi phải mướn cảnh sát để ngăn ngừa những hành động khó chịu như họ xin thêm, hay gian lận như đã xin rồi còn xin thêm nữa, nhưng không vì lý do đó mình sợ mình không làm, vì mình biết họ nghèo họ mới làm như vậy. Vậy, ai có niềm tin vào Trai Tăng xin cứ làm và thật ra Trai Tăng và từ thiện, tùy duyên, tùy cơ hội.

Cám Ơn Các Bạn Đã Ghé Thăm Website. Chúc Các Bạn An Lạc, Có Thêm Nhiều Kiến Thức Bổ Ích…

( Đã Xem : 12548 )

Ý Nghĩa Của Việc Cúng Dường Trai Tăng

Cúng dường Trai Tăng là gia chủ sắm tất cả các lễ vật đúng như pháp, trong sạch và chay tịnh với lòng thành tâm dâng lên cúng dường chư Tăng.

Trong cuộc sống nếu như những người sống có hiểu biết và có đạo tâm thì họ làm việc tùy theo duyên, tùy theo hoàn cảnh. Cơ hội hay nhân duyên nào đến thì chúng ta hãy tùy duyên mà làm, giống như câu tục ngữ khéo ăn thì no khéo co thì ấm. Phước sự không có nhiều trong đời sống. Vì vậy trong từng trường hợp nếu mình làm được gì thì cứ làm, làm Trai Tăng hay làm từ thiện xã hội chuyện nào cũng nên làm và nên tùy duyên mà làm bởi vì mai đây biết đâu không còn cơ hội để làm nữa.

Cúng dường Trai Tăng là gì?

Cúng dường Trai Tăng là gia chủ sắm tất cả các lễ vật đúng như pháp, trong sạch và chay tịnh với lòng thành tâm dâng lên cúng dường chư Tăng. Có thể thỉnh chư Tăng về tư gia của bạn để cúng dường hay chính bạn mang lễ phẩm lên chùa rồi cúng dường chư Tăng ngay tại chùa cũng được.

Nguồn gốc nghi thức cúng dường Trai Tăng

Việc cúng dường trai tăng là việc người Phật tử noi theo tấm gương chí hiếu của tôn giả Ðại Hiếu Mục Kiền Liên khi xưa. Vì chính Tôn giả là người đứng ra tổ chức thiết lễ trai tăng cúng dường đầu tiên để cầu siêu cho thân mẫu của Ngài. Ðó là Ngài đã vâng theo lời Phật dạy. Buổi đại lễ trai tăng được các chùa theo hệ phái Phật giáo Bắc Tông được thực hiện vào ngày rằm tháng bảy âm lịch hằng năm, sau khi chư tăng ni làm lễ tự tứ mãn hạ. Từ đó mới có lễ cúng dường trai tăng truyền thống này.

Ý nghĩa cúng dường trai tăng

Cúng dường và bố thí là pháp tu quen thuộc, phổ biến của hàng Phật tử tại gia nhằm gieo trồng phước báo cho tự thân và gia đình trong hiện đời cũng như những đời sau. Mục đích của buổi lễ này là để thân quyến có dịp bày tỏ dâng lên nỗi lòng thương kính báo hiếu tri ân đối với người đã mất. Ðồng thời cũng thành tâm dâng lên phẩm vật để cúng dường Tam bảo và hiện tiền tăng. Nhờ sức chú nguyện của chư Tôn đức tăng ni mà hương linh của người quá cố chóng được siêu sinh thoát hóa. Hiện nay các Phật tử phát tâm cúng dường trai tăng rất phổ biến. Muốn cúng dường trai tăng bạn hãy lên chùa gặp quý sư thầy trình bày tâm nguyện và mình thì sẽ được hướng dẫn cặn kẽ để thực hành cúng dường đúng chánh pháp.

Hình thức cúng dường

Cúng dường trai phạn

Có nghĩa là chỉ dâng cúng thức ăn hay đồ uống cho chư Tăng.

Cúng dường Trai Tăng

Hình thức cúng dường này được gia chủ phải sắm gồm thực phẩm, y phục, thuốc men, sàng tòa ngày này thì có thêm tịnh tàiđể chư Tăng có thêm phương tiện tùy nghi sử dụng. Cúng dường Trai Tăng dựa trên nền tảng tự phát tâm, tự nguyện của gia chủ Phật tử. Do đó lễ bạc mà lòng thành là một trong những nguyên tắc quan trọng không thể thiếu trong khi thực thi Phật sự cúng dường này.

Thực phẩm sắp đặt sẵn

Chỉ nên cúng dường bằng thực phẩm chay tịnh hay thực phẩm dinh dưỡng. Sắp đặt sẵn thức ăn ra khay và cần nắm rõ số lượng chư Tăng là bao nhiêu để dâng cúng vừa đủ không nên quá nhiều thành ra dư thừa thì không tốt.

Dâng thực phẩm cúng dường

Thực phẩm được sắp đặt sẵn trên bàn. Các tu sĩ nhận thức ăn tuần tự theo nghi thức khất thực trong tự viện.

Cúng trai Tăng là đúng pháp hay phi pháp?

Cúng trai tăng bây giờ khác hơn so với thời Phật Thích Ca còn tại thế. Ai cũng biết, các Phật tử thời Phật cúng trai tăng chủ yếu là dâng cúng thực phẩm mà không hề cúng tiền mặt. Còn ngày nay một lễ cúng trai tăng thông thường ngoài thực phẩm ra thì tiền mặt là một trong những lễ phẩm căn bản. Tuy nhiên sự khác biệt này cũng có lý do của nó. Trải qua hơn 25 thế kỷ xã hội có vô vàn thay đổi, sinh hoạt của chư Tăng cũng có vô vàn thay đổi nên cách thức cúng trai tăng có khác xưa cũng là điều tất nhiên. Dù cách thức có khác nhau nhưng tựu trung vẫn không ngoài mục đích hộ trì cho chư Tăng có đủ phương tiện tu hành giải thoát và làm Phật sự lợi đạo, ích đời. Nhưng chúng ta phải biết rằng không một vị Tăng Ni nào hiểu biết giáo pháp mà hướng dẫn Phật tử cúng trai tăng để cho người chết được vãng sanh cực lạc cả. Nếu vậy thì người giàu vãng sinh hết rồi. Tam bảo là ruộng phước nên cúng trai tăng trong lễ cầu siêu là chỉ để tạo phước, rồi đem phước lành đó hồi hướng cho hương linh cùng gia đình. Chắc chắn hương linh sẽ được phước báo cùng với sự khai thị của chư Tăng khiến tâm họ thức tỉnh, xả ly tham ái và chấp thủ nên được siêu sanh. Như vậy tâm hương linh thức tỉnh mới là động lực chính yếu để siêu sinh, còn cúng dường cốt để trợ duyên tăng thêm phước đức. Không chỉ lễ cầu siêu mà cầu an cũng vậy muốn cho các thiện sự của mình thành tựu thì phải có phước và cúng trai tăng được xem là việc làm có phước báo thù thắng nhất.Tất nhiên cúng dường trai tăng thì có phước báo, quả lành không trổ ở hiện đời thì đời sau. Dù người cúng có cầu hay không cũng đều được phước .Về phương diện giá trị thì tiền cũng chính là dạng khác của tứ sự. Ngày nay chư Tăng Ni không đi khất thực như thời Phật mà tự tổ chức nấu ăn tại chùa, tự mua sắm những vật dụng cần thiết thì thay vì cúng hiện vật, hàng Phật tử cúng tiền để chư Tăng tự mua sắm cho phù hợp, phương tiện này có lợi ích thiết thực hơn. Cho nên tiền do mồ hôi và công sức của Phật tử làm ra đem cúng dường chắc chắn được phước, chư Tăng sử dụng tiền làm phương tiện sống để tu hành cũng không có gì phạm giới. Chỉ riêng cá nhân ai sử dụng tiền sai mục đích phí phạm của đàn na tín thí thì người ấy mắc tội mà thôi.

Việc cúng dường trai tăng tùy theo hoàn cảnh sinh sống của phật tử mà phật tử có thể tùy nghi linh động thiết cúng bất cứ nơi đâu cũng được. Tuy nhiên làm nơi nào có đông thân nhân tang quyến thì tốt hơn. Vì ngày đó cũng là dịp để cho mọi người về chùa gieo thiện duyên với Tam bảo. Ðồng thời sự sum họp có mặt đông đủ của con cháu làm cho linh hồn người mất cũng được an vui hơn.

Lễ Phật Đản Có Ý Nghĩa Gì?

Ðức Phật Thích Ca đản sinh tại vườn Lâm Tỳ Ni thuộc xứ Ca Tỳ La Vệ, được gọi là Thái tử Tất Ðạt Ða (hay Sĩ Ðạt Tha), con của đức vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma Gia. Ngài lớn lên trong hoàng cung, vâng lệnh song thân lập gia đình với công chúa Gia Du Ðà La, và hạ sinh Thái tử La Hầu La. Trong các chuyến xuất cung du ngoạn ngoại thành, Ngài chứng kiến các cảnh: sinh, lão, bệnh, tử trong nhân gian. Từ đó, Ngài luôn luôn trầm tư mặc tưởng, muốn tìm phương tự độ và cứu giúp chúng sinh thoát khỏi cảnh trầm luân sinh tử, cho nên Ngài lìa bỏ hoàng cung, lên đường tìm đạo giải thoát. Sau sáu năm tu khổ hạnh ở chốn rừng già, và 49 ngày đêm ngồi thiền định dưới cội cây bồ đề, tâm trí thanh tịnh, Ngài hoát nhiên giác ngộ, thành Phật, thành bậc vô thượng chánh đẳng chánh giác, vào năm Ngài được 30 tuổi. Sau đó, Ngài đi khắp nơi thuyết pháp, đem chân lý giác ngộ giảng dạy cho mọi người trong 50 năm ròng rã, và Ngài thị tịch, nhập Niết bàn, năm 80 tuổi tại khu rừng ta la song thọ.

Toàn bộ lịch sử của đức Phật Thích Ca từ ngày đản sinh, đến thành đạo và nhập Niết bàn, cũng như toàn bộ giáo lý của Phật giáo, không phân biệt tông phái, nêu lên những điểm quan trọng như sau:

1) Mọi người trên thế gian đều có thể trở thành một vị Phật, một bậc sáng suốt giác ngộ, không phân biệt nam nữ, xuất xứ, đẳng cấp, trẻ già, thời đại, đã có gia đình hay chưa, nếu người đó biết tu tập theo đúng chính pháp, theo đúng bản đồ tu học. Ðây là ưu điểm nổi bậc của đạo Phật: Có hằng hà sa số các vị Phật, từ quá khứ, đến hiện tại và vị lai, chứ không phải chỉ có một vị Phật duy nhất làm giáo chủ là đức Phật Thích Ca, còn tất cả các loài chúng khác đều phải thờ lạy theo tinh thần van xin, cầu khẩn một cách tiêu cực.

2) Ðức Phật không phải là vị thần linh hay thượng đế tưởng tượng chuyên ban phước ra ơn hay giáng họa trừng phạt. Cho nên những ai cúng kiến, tin tưởng, thờ lạy đức Phật theo tinh thần van xin, cầu khẩn một cách tiêu cực, dù ở chùa hay ở nhà, đều không đạt được những ước muốn như ý. Bởi vậy, xin xỏ nhiều thì thất vọng nhiều, cúng kiến nhiều thì buồn phiền nhiều, tin tưởng nhiều thì đau khổ nhiều. Trái lại, những người sống đúng theo tinh thần những lời dạy của đức Phật, dù tại gia hay xuất gia, dù có thờ lạy đức Phật hay không, cũng đều được an lạc và hạnh phúc hiện thời, giác ngộ và giải thoát mai sau.

3) Từ trước thời đức Phật xuất hiện trên thế gian này, cuộc đời vẫn thường đầy dẫy những sự đau khổ, bất trắc, đấu tranh, lừa đảo, chứ không phải chỉ có thời hiện tại mà thôi. Do đó, giáo lý của đạo Phật thường được ví như chiếc thuyền, gọi là thuyền bát nhã, giúp đỡ con người vượt qua bể khổ, sông mê, lướt qua bát phong của cuộc đời, đến bến bờ giác ngộ và giải thoát. Ðức Phật vẫn sống ngay trên thế gian này, vẫn gặp bao nhiêu khổ nạn của cuộc đời, nhưng tâm trí của Ngài vẫn an nhiên tự tại, không cần phải đợi đến lúc về tây phương cực lạc hay thẳng lên thiên đàng! Ðây mới chính là cốt tủy của đạo Phật.

4) Ðạo Phật là một tôn giáo, cho nên cũng có những hình thức cúng kiến, lễ lạy, cầu nguyện, để giúp đỡ những người đang đau khổ trên thế gian này tìm đến với đạo, trong những bước ban đầu. Nếu như con người, dù tại gia hay xuất gia, đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiến, lễ lạy, cầu nguyện mà thôi, cứ đứng ở đó bao nhiêu năm trời, cho rằng như vậy là đủ rồi, không chịu bước thêm bước nữa, bước đó là: tìm hiểu xem đức Phật dạy những gì để áp dụng trong cuộc sống hằng ngày, chính pháp ở đâu, thì đau khổ vẫn hoàn khổ đau, có khác chi bao nhiêu người khác đâu?

5) Các buổi lễ của Phật giáo, quan trọng nhất là lễ Phật Ðản, đều nhằm mục đích dẫn dắt con người đến với đạo, xoa dịu bớt những nỗi khổ đau của cuộc đời. Và mục đích quan trọng hơn hết là: “Hãy bước vào cửa đạo”, chứ không phải chỉ bước vào cửa chùa rồi thôi, hay vẫn cứ đi lang thang, lòng vòng bên ngoài, bằng lòng với các hình thức cúng kiến, lễ lạy, các buổi văn nghệ xổ số, các cuộc hành hương thương mại, các cuộc vận động in sách cầu vãng sinh lưu xá lợi, kêu gọi đóng góp tạo chùa to tượng lớn, mà không quan tâm việc tu học, tu tâm dưỡng tính, không biết đến chính pháp là gì? Bước vào cửa đạo nghĩa là phải biết tu học theo lời đức Phật dạy trong các kinh sách, để đạt giác ngộ và giải thoát, chứ không phải tu mù, ai bảo sao làm vậy, ai nói sao nghe vậy, hết sức mê tín dị đoan!

Thích Chân Tuệ Nguồn: http://www.tuvienquangduc.com.au/phatdan/85hopthuphathoc.html

Tìm kiếm

Phong Tục Cúng Gạo Muối Có Ý Nghĩa Gì?

Gạo muối gắn với sự sống của con người

Muối và gạo là 2 loại gắn với cuộc sống của con người. Nếu như gạo là lương thực con người ăn uống hằng ngày, là thực phẩm chính của hơn phân nửa dân tộc thế giới và cung cấp hơn 20% tổng năng lượng hấp thụ hàng ngày của nhân loại. Riêng hơn 2 tỉ người châu Á, lúa gạo cung cấp từ 60 đến 70% calorie. Gạo cung cấp một lượng tinh bột, protein và nhiều vitamin khác cho cơ thể con người. Thì muối lại tham gia vào việc điều chỉnh độ chứa nước của cơ thể ( cân bằng chất lỏng). Vị của muối là một trong những vị cơ bản.

Mặt khác, muối và gạo là một liệu pháp phong thủy mang lại may mắn, sức khỏe, tài lộc cho con người. Và đặc biệt là theo phong tục giân gian, con người thường sử dụng gạo và muối để cúng. Cúng muối gạo trở thành một tục lệ không thể thiếu đối với toàn dân.

Dân gian ta có câu ” đầu năm mua muối, cuối năm mua vôi”. Theo quan niệm của người xưa muối có thể xua đuổi tà ma đem lại nhiều may mắn cho gia đình.

Lý do tại sao phải cúng gạo muối

Trong khóa lễ cúng thí thực các Phật tử thường hay bày gạo, muối để cúng cho chúng sinh.

Muốn vong linh được no đủ

Thực ra ở thế giới ngạ quỷ đó họ ăn bằng hương hoặc bằng tâm tưởng, việc chúng ta cúng gạo và muối là vì 2 thứ đó là căn bản sự sống của chúng ta. Hay có người họ cúng ngũ cốc đó là ý nghĩa nói về tâm của mình muốn cho vong linh đó được đầy đủ. Chứ thực sự họ không ăn như mình.

Cho nên cúng cơm buổi trưa các Thầy chỉ cần một ít cơm rồi sau đó vận tưởng và chú quán lấy công đức tu hành của mình nguyện cho họ được no đủ chứ không phải là họ ăn gạo, muối.

Là một cách biết ơn

Cúng muối gạo là là cách nhớ ơn những tiền nhân khai sinh ra nền văn minh lúa nước, rải gạo muối có hai cách hiểu. Có người thì hiểu rải chia cho cô hồn các thụ bác hưởng, cách thứ hai là động tác gieo mùa của truyền thống nền văn minh lúa nước.

Quan niệm rấy muối gạo quanh nhà

Còn rẩy ra đất để trừ xúi quẩy là lại càng không phải. Gạo muối chỉ là thực phẩm làm sao trừ được xúi quẩy gì. Cho nên nhiều người nằm mơ thấy điều gì dữ thì lấy gạo muối rẩy xung quanh nhà bảo là cho đuổi hết xúi quẩy đi đó là một quan niệm mê tín.