Cúng Chay Cho Người Mất / Top 15 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 9/2023 # Top Trend | Apim.edu.vn

Cúng Chay, Ăn Chay Ngày Tết Tích Phúc Cho Cả Người Còn Lẫn Kẻ Mất

Ngày Tết cúng chay, ăn chay là nét văn hóa mang đậm giá trị tâm linh và bản sắc dân tộc Việt. Theo quan kiến của đạo Phật, ăn chay tránh được nghiệp báo sát sinh, phát khởi tâm từ bi trước nỗi khổ đau của chúng sinh. Đối với người Phật tử, ă n chay ngày Tết là một pháp thực hành, còn đối với nhiều người, ăn chay chỉ đơn giản là để được lắng lòng, thanh lọc cơ thể, chay tịnh tinh thần để chiêm nghiệm cuộc đời nhân lúc Xuân sang. Đạo Phật chủ trương ăn chay giúp con người bớt sát sinh, tạo nghiệp ác để trưởng dưỡng lòng từ bi, hướng thiện. Trong Ngũ giới cấm của nhà Phật có giới cấm sát sinh. Do đó, cấm sát sinh và ăn chay có mối quan hệ thống nhất, chặt chẽ với nhau.

Do cả năm bề bộn công việc mưu sinh, một số người chỉ ăn chay vào ngày Tết để bù cho cả năm, nhằm cầu phúc đức, may mắn cho năm mới và sám hối những gì đã làm không phải trong năm cũ. Với những ngày đầu năm, người ta ăn món gì thì cúng ông bà tổ tiên món nấy. Cúng chay, ăn chay ngày Tết mang ý nghĩa cầu mong cho cửu huyền thất tổ được nhiều phúc lành, hướng về Phật pháp, hướng về điều lành được thanh thản và sớm siêu thoát. Trong thời khắc giao hòa của năm cũ và năm mới, bữa cơm chay thực sự mang đến cho con người sự an lạc và thanh tịnh.

Ngày lễ Tết là dịp đoàn tụ gia đình, vì vậy phong tục cúng chay, ăn chay thể hiện tinh thần nhân văn của người Việt và xuất phát từ Bồ đề tâm của những hành giả Phật giáo. Ðã là loại hữu tình, loài nào cũng biết đau đớn buồn khổ và ham sống sợ chết. Làm sao ta lại nỡ an nhiên vui vẻ, ăn uống trên sự đau khổ vô hạn của chúng sinh? Chính mình khi sắp bị giết đã khóc thương sợ hãi, hoặc người thân bị giết thì cũng xót xa, oán hận, đau buồn. Làm sao ta lại nỡ vì sự đoàn tụ của gia đình mình mà lại làm cho chúng sinh khác phải sợ hãi đau thương và bị chia ly quyến thuộc?

Ở Việt Nam, phong tục ăn chay có từ thời nhà Lý, triều đại cực thịnh của dân tộc và của đạo Phật Việt Nam. Hàng năm, ngay từ những ngày đầu năm mới, người ta thường ăn chay, đi chùa lễ Phật. Vì vậy, ăn chay ngày lễ Tết mang đậm màu sắc ý nghĩa tâm linh, là nét văn hóa đặc biệt của người Việt Nam.

Tại nhiều vùng miền trên khắp đất nước ta, do cả năm vất vả mưu sinh, nên người ta thường ăn chay ngày Tết để cầu phúc đức, an lành, may mắn cho năm mới và sám hối những điều không phải đạo làm người đã làm trong năm cũ.

Lời dạy của Bồ tát Địa Tạng về việc cúng chay gia tiên

Trong Kinh Địa Tạng Bồ tát Kinh Địa tạng Bồ tát bản nguyện – Phẩm thứ bảy, Ngài Ðịa Tạng Bồ tát đã chỉ dạy cho Trưởng giả Đại Biện như sau:

“Như có người nam cùng người nữ nào lúc sinh tiền không tu tạo phước lành mà lại gây lấy những tội ác, sau khi người mạng chung, hàng thân quyến kẻ lớn người nhỏ vì người chết mà tu tạo phước lợi làm tất cả việc về Thánh đạo, thời trong bảy phần công đức người chết nhờ đặng một phần, còn sáu phần công đức thuộc về người thân quyến hiện lo tu tạo đó.

Con quỉ dữ vô thường kia không hẹn mà đến, thần hồn vơ vẩn mịt mờ chưa rõ là tội hay phước, trong bốn mươi chín ngày như ngây như điếc, hoặc ở tại các ty sở để biện luận về nghiệp quả, khi thẩm định xong thời cứ y theo nghiệp mà thọ lấy quả báo.

Trong lúc mà chưa biết chắc ra làm sao đó thời đã nghìn muôn sầu khổ, huống là phải bị đọa vào các ác đạo. Thần hồn người chết đó khi chưa được thọ sinh, ở trong bốn mươi chín ngày, luôn luôn trông ngóng hàng cốt nhục thân quyến tu tạo phước lành để cứu vớt cho.

Qua khỏi bốn mươi chín ngày thời cứ theo nghiệp mà thọ lấy quả báo. Người chết đó, nếu là kẻ có tội thời trải qua trong nghìn năm không có ngày nào được thoát khỏi.

Còn nếu là kẻ phạm năm tội vô gián thời phải đọa vào đại địa ngục chịu mãi những sự đau khổ trong nghìn kiếp muôn kiếp.

Lại vầy nữa, này ông Trưởng giả! Sau khi những chúng sinh gây phạm tội nghiệp như thế mạng chung, hàng cốt nhục thân quyến có làm chay để giúp thêm phước lành cho người chết đó.

Thời khi sắm sửa rồi, cùng trong lúc đương làm chớ có đem nước gạo, lá rau v.v… đổ vãi ra nơi đất, cho đến các thứ đồ ăn chưa dùng cúng cho Phật cùng Tăng thời chẳng được ăn trước.

Nếu như ăn trái phép và không được tinh sạch kỹ lưỡng, thời người chết đó trọn không được mảy phước nào cả.

Nếu có thể kỹ lưỡng giữ gìn tinh sạch đem dùng cúng cho Phật cùng Tăng, thời trong bảy phần công đức người chết hưởng được một phần.

Này ông Trưởng giả! Vì thế nên những chúng sinh trong cõi Diêm Phù, sau khi cha mẹ hay người thân quyến chết, nếu có thể làm chay cúng dường, chí tâm cầu khẩn thời những người như thế, kẻ còn lẫn người mất đều đặng lợi ích cả”.

Nếu ăn chay hợp cách, với lòng thanh tịnh hoan hỷ, phát triển tâm từ bi đến tất cả chúng sinh sẽ tạo ra một từ trường an lành, mát mẻ, từ đó gây ra ít bệnh tật, mang lại lợi ích cho thân tâm. Đặc biệt, trong những ngày Tết đoàn tụ sum vầy gia đình, năng lượng an lành ấy sẽ cùng cộng hưởng để cả gia đình được sống trong bầu không khí đầm ấm, hòa hợp và thanh tịnh.

Mâm Cỗ Chay Cúng 49 Ngày Cho Người Mất: Ý Nghĩa Và Cách Làm

1500 ml nước xương hầm

200 g giò sống

25 chiếc nấm hương

25 quả trứng cút

60 g bóng

15 g tôm nõn

2 cây cải trắng, xanh

2 quả Susu

1 củ cà rốt

100 g Đậu Hà Lan

Bột nêm, hạt tiêu, gia vị, mình chính

Nấm hương ngâm muối, cắt chân, bọc giò sống vào đuôi. Sau đó, đem hấp cho giò chín hẳn

Trứng cút rửa sạch, luộc chín rồi đem để nguội. Bắc chảo lên bếp, cho dầu ăn vào đun sôi. Dầu nóng, đổ trứng vào chiên vàng thì tắt bếp

Tôm chay ngâm nước nóng để nó mềm ra, rửa sạc rồi ráo nước

Bóng ngâm nước gạo để hết cứng, rửa sạch. Dùng gừng và rượu tẩy, bóp bóng để hết mùi hôi. Thái miếng vừa ăn

Cà rốt, susu, cải trắng, xanh rửa cho sạch, khắc tỉa hình hoa. Tiếp đến, cắt miếng cho vừa. Luộc qua nước sôi thêm ít gia vị. Vớt ra để trong bát đổ đá lạnh để chúng còn độ tươi, ngon

Đổ nước hầm xương vào nồi, đun thật nhỏ lửa tới khi sôi. Thêm tôm nõn, nêm gia vị và đảo đều cho vừa ăn.

Sau đó, thả bóng, mọc ( giò sống) đã bọc nấm vào.

Sắp xếp rau củ, nấm mọc, trứng cút vào bát tô cho thật bắt mắt, chan nước canh vào

300g bột mì căn

40g bột quinoa

40g men dinh dưỡng

Gia vị chay : Tiêu, muối, ớt bột, đường, dầu hào, xì dầu.

2 cây boa rô

Lá chuối

Cho lần lượt bột mỳ căn, bột quinoa, men dinh dưỡng + 1 muỗng cafe tiêu + 1 muỗng cafe muối + 1 muỗng ớt bột vào một tô lớn sau đó trộn đều.

Sử dụng 1 bát lớn khác cho 250ml nước ấm + 1 muỗng đường + 1 muỗng canh tiêu hột + 2 muỗng canh dầu hào chay + 2 muỗng canh dầu mè + 100ml nước tương (xì dầu) + ½ chén boaro phi với dầu cho thơm vào trộn đều.

Cho hỗn hợp nước trên vào nguyên liệu chuẩn bị phần 1 sau đó trộn đều cho hỗn hợp thật dẻo thật mịn là được.

Bạn trải lá chuối ra một mặt phằng sau đó cho hỗn hợp trên vào cuộn tròn thật chặt tay sau đó buộc bằng lạt.

150 – 200g miến

1 gói bánh đa nem

1/2 mỗi củ cà rốt, hành tây

100g nấm hương

100g mộc nhĩ

120 giá đỗ

100g hành hoa

1 mớ rau mùi

Dầu ăn, gia vị, mì chính, hạt tiêu

Hành tây bóc vỏ, rửa sạch, thái mỏng

Cà rốt nạo vỏ, sửa sạch, thái sợi chỉ.

Mộc nhĩ, nấm hương ngâm muối, cắt chân, thái chỉ

Hành hoa, rau mùi ngâm muối, rửa sạch, thái nhỏ.

Đổ tất cả nguyên liệu vào bát lớn, cho miến đã cắt sợi nhỏ cùng. Thêm gia vị, mì chính, hạt tiêu, trộn đều cho gia vị ngấm kĩ.

Trải bánh đa nem ra cho phẳng, dùng thìa xúc nhân vào bánh. Cuộn tròn bánh đa lại. Tiếp tục cuốn đến khi hết nhân.

Bắc chảo lên bếp. Đun sôi dầu ngập chảo. Khi dầu nóng, thả nem vào rán cho se, vàng giòn hai mặt thì được

Bày rau mùi, hành hoa ra đĩa to, gắp nem lên phía trên. Rắc ít tiêu vào. Thưởng thức nem nóng với nước chấm chua cay.

600g gạo nếp

60g nấm mèo

60g nấm rơm

1/2 củ cà rốt, thái chỉ

2 bìa đậu mơ

60g chả chay

Hành hoa

Hạt nêm chay, dầu ăn

Hấp gạo nếp, thổi thành xôi sao cho thơm, dẻo

Ngâm nấm mèo, rơm với muối, cắt bỏ chân, thái thật nhỏ

Cà rốt nạo vỏ, rửa sạch, thái hạt lựu

Đậu rửa sạch, bóp nát

Bắc chảo lên bếp, đun dầu cho sôi. Phi hành cho thêm. Cho nhân vào đảo chín tới. Nêm hạt nêm chay cho vừa ăn

Đổ tất nhân vào xôi, đảo đều tay. Xới ra đĩa, rắc rau mùi lên trên cho thơm, hấp dẫn hơn.

Cúng Tết, Người Mới Mất Nên Cúng Chay Hay Mặn?

Ý nghĩa phong tục thờ cúng

Theo truyền thống của dân tộc Việt, phong tục thờ cúng được xem là nét đẹp văn hóa được lưu giữ từ thế hệ này sang thế hệ khác. Phong tục này không chỉ thể hiện lòng thành kính uống nước nhớ nguồn. Nó còn mang một giá trị giáo dục sâu sắc dành cho bao thế hệ con cháu.

Tục thờ cúng vào ngày tết, ngày giỗ một phần thể hiện lòng kính trọng với người đã khuất, ông bà tổ tiên đã qua đời. Một phần giúp các thành viên trong gia đình vây quần bên nhau, càng thắt chặt thêm sợi dây huyết thống.

Mặc khác, việc thờ cúng người mất nhằm tưởng nhớ vào người quá cố, giúp linh hồn của người mất được ra đi thanh thản, sớm siêu thoát đầu thai. Song đó cầu mong linh hồn người mất phù hộ con cháu được bình an, gặp nhiều may mắn trong cuộc sống.

Tùy theo vùng miền mà cách thờ cúng khác nhau. Mỗi nhà mỗi cảnh, không phải so sánh hay phân biệt về m âm cơm cúng người mất. Chủ yếu là lòng thành kính mà con cháu dâng lên gia tiên, người đã khuất. Trong tâm linh, việc thờ cúng giúp người chết ra đi thanh thản, giúp linh hồn siêu thoát, sớm đầu thai.

Ngày tết, người mất nên cúng chay hay mặn?

Mâm cơm ngày tết luôn được mọi người chuẩn bị tươm tất và đầy đủ. Nhằm dâng lên gia tiên nhân dịp đầu năm mới, mong tổ tiên phù hộ cả nhà bình an, mạnh khỏe, gặp nhiều may mắn.

Tùy theo vùng miền, kinh tế mỗi gia đình mà mâm cơm cúng ngày tết khác nhau. Đặc biệt không yêu cầu hay bắt buộc cúng chay hay cúng mặn. Tùy theo gia đình mà mâm cơm cúng gia tiên khác nhau, nhất là mâm cơm cúng người mới mất.

Với những người theo đạo thường ngày tết sẽ chọn mâm cơm chay để cúng người mới mất. Điều này giúp gia chủ cảm thấy tâm tịnh, gia đạo bình an, cuộc sống thoải mái và thanh bình.

Vì sao phải cúng chay? Trong tâm linh, cúng chay có nghĩa là không sát sinh. Điều này tạo phước phần cho người mất. Giúp linh hồn người mất không phạm tội cõi âm. Mong linh hồn an nghỉ, sớm siêu thoát đầu thai. Mặc khác giúp người thờ cúng tâm thêm tịnh, tạo phúc phần cho con cháu mai sau.

Ngược lại một số gia đình chọn mâm cơm mặn cúng người mất ngày tết. Thường là những món ăn ưa thích mà người mất thích ăn lúc còn sống. Điều này thể hiện lòng kính trọng và tưởng nhớ đến những kỉ niệm về người quá cố.

Một số gia đình lại chọn cúng chay đãi mặn. Một phần thể hiện sự thanh tịnh, mong linh hồn người mất được thanh thản nơi chín suối. Sớm tìm nơi an nghỉ và đầu thai kiếp khác. Một phần tạo không khí đoàn kết, vây quần bên nhau bên mâm cơm ngày tết có đủ thịt cá. Đây cũng là dịp để các thành viên thắt chặt bên nhau, thêm sợi dây huyết thống.

Những điều cần lưu ý khi thờ cúng người mất

– Thường xuyên thắp hương cho người mới mất, tốt nhất là 2 lần/ ngày vào sáng, tối. Điều này giúp linh hồn sớm siêu thoát đầu thai.

– Tùy theo tín ngưỡng mỗi nhà mà mâm cơm cúng người mới mất ngày tết chay hay mặn. Tốt nhất tránh chọn đồ sống, chưa qua chế biến.

– Chọn hoa quả tươi để dâng lên người quá cố. Mong linh hồn sớm an nghỉ, một phần mong linh hồn người chết phù hợp gia chủ bình an và gặp nhiều may mắn.

– Đặc biệt, bàn thờ người mới mất tuyệt đối không dọn dẹp trước ngày tết. Điều này tránh phạm vào các đại kỵ xui xẻo.

– Song đó hãy đi chùa thắp hương trong ngày tết, làm nhiều việc thiện hồi hướng công đức, cầu cho vong hồn người mất được tiêu nghiệp tăng phước.

Qua bài viết bên trên, chắc hẳn bạn đã biết ngày tết, người mới mất nên cúng chay hay mặn rồi phải không? Tùy theo phong tục tập quán mỗi vùng miền và mỗi gia đình mà mâm cơm cúng gia tiên ngày tết chay hay mặn. Quan trọng là lòng thành kính, uống nước nhớ nguồn mà con cháu gửi đến ông bà tổ tiên, người đã khuất.

Cúng 49 Ngày Nên Chay Hay Mặn Cho Người Mới Mất? Gồm Món Gì?

Cúng 49 ngày có ý nghĩa như thế nào?

Lễ cúng 49 ngày hay còn có tên khác là lễ Chung Thất là một buổi cúng lễ sau khi người mất được 49 ngày. Phong tục này của người Việt Nam được hình thành dựa trên thuyết Phật giáo như sau: khi người chết xuống cõi âm, thì linh hồn sẽ phải trải qua 7 cửa ải, mỗi ải sẽ mất 7 ngày. Do đó sau 49 ngày thì linh hồn đã được phán xử xong và được siêu thoát. Trong vòng 49 ngày trước khi siêu thoát thì người nhà vẫn chuẩn bị cơm nước để cúng cho người chết, sợ người chết bị đói.

Theo quan điểm Phật giáo con người khi chết sẽ được phân làm 2 phần: phần thân xác và phần linh hồn, phần thân xác sau chết sẽ bị phân hủy còn phần linh hồn thì tùy theo phúc đức, nghiệp báo khi còn sống mà sẽ được tái sinh về các cõi như: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, atula, nhân và thiên…. Việc tái sinh của linh hồn sớm hay muộn phụ thuộc vào nghiệp của người đó, khi còn sống càng năng làm việc thiện, không sát sinh thì càng sớm được siêu sinh vào cõi người, cõi trời. Còn khi sống không làm được chút việc thiện lành mà còn sát hại chúng sinh thì sẽ vào địa ngục.

Còn đối với những người đã mất mà nghiệp và phúc đức đều có, con chưa phân xử được về cõi nào, việc cúng 49 ngày sẽ có ảnh hưởng đến người chết do việc cúng 49 ngày gợi cho người chết những việc thiện đã làm, những tâm nguyện hướng thiện còn chưa thực hiện được, giúp linh hồn có thêm phước đức, nhờ đó linh hồn có thể được tái sinh về cõi tốt hơn. Khi cũng 49 ngày, người cúng niệm và người thân nên thành tâm. Được vậy thì người chết cũng được an yên mà người thân cũng tích thêm phúc đức.

Nên cũng chay hay cúng mặn 49 ngày cho người mới mất?

Theo kinh Địa Tạng và quan điểm Phật giáo trong khoảng thời gian 49 ngày sau khi mất, linh hồn người chết vẫn thọ dụng (hưởng) được tất cả những lễ vật được người thân cúng lễ : cơm, nước, rượu, hoa, hương nhưng chỉ hưởng mùi vị của thức ăn mà thôi. Cho nên trong vòng 49 ngày sau ngày mất, người thân vẫn nên cúng cơm nước hàng ngày cho người chết để họ được no đủ, thường đến 49 ngày thì nên cũng bái trang trọng hơn, thỉnh các sư về cầu siêu hoặc lên chùa cầu siêu cho người chết.

Vào ngày cúng 49 ngày nên tích cực phóng sinh, bố thí, làm điều thiện, tránh hoang phí, sát sinh…đây chính là món quà quý giá nhất chúng ta có thẻ làm cho người chết và cũng chính là tích đức cho bản thân. Về chọn người tụng kinh cầu siêu nên chọn người có nhân phẩm đạo đức tốt, con cái người thân trong thời gian này nê kiêng làm các việc ô uế.

Về việc cúng 49 ngày nên chay hay mặn cho người mới mất thì tốt nhất nên cũng chay vì quan điểm đạo phật rất kỵ sát sinh. Khi sát sinh người sống thì tạo them nghiệp cho thân còn người chết cũng gián tiếp bị ảnh hưởng, do việc sát sinh là để cúng tế cho người chết nên vô tình người chết lại bị cộng thêm nghiệp, làm cho họ phải liên lụy, chậm được siêu thoát về cõi lành. Còn nếu người chết đó khi sống chỉ toàn làm việc ác thì việc sát sinh này sẽ khiến họ bị đầy vào cõi ác thú.

Hiện nay chúng ta có thể thay việc dùng cỗ mặn bằng cỗ chay để cúng lễ và thiết đãi thực khách, điều này tạo duyên tốt lành, gieo duyên đạo phật cho khách và cho gia đình, các món chay hương vị cũng khá ngon và đa dạng. Vậy cúng 49 ngày cho người mới mất nên làm lễ chay, không nên sát sinh, đó là giúp người đã mất dễ siêu thoát và không tích thêm nghiệp cho họ mà người thân cũng không tự tạo nghiệp cho bản thân.

Sau 49 ngày, thì linh hồn đã được tái sinh vào một cõi nào đó tùy theo duyên và nghiệp của họ. Khi linh hồn đã vào các cõi này thì thọ dụng của họ sẽ khác với chúng ta, do đó cũng không ăn được các thức ăn, vật phẩm mà chúng ta cúng tế, riêng chỉ có các linh hồn được tái sinh vào ngả quỷ thì vẫn có thể “ăn” được những phẩm vật do người thân dâng cúng.

Chúng ta không thể biết được họ được tái sinh vào cõi nào, và cũng không cần cúng cơm hằng ngày như trong giai đoạn 49 ngày nữa nhưng vào các ngày rằm, ngày mùng 1, lễ tết, giỗ kỵ vẫn nên cúng lễ cho linh hồn người chết để tỏ lành thành kính với người đã khuất, đó cũng là phong tục truyền thống đáng quý của người Việt, uống nước nhớ nguồn, luôn nhớ ơn công lao dưỡng dục của ông bà cha mẹ. Tuy nhiên việc cúng bái không nên quá nặng nề, mà hãy thành tâm, cái chính đó là ngày con cháu quây quần, cùng nhau tưởng nhớ về người đã mất.

Trong những ngày cũng giỗ sau này, con cái cũng không nên sát sinh, vì sát sinh sẽ tạo nghiệp cho chính người sống. Theo tinh thần đạo phật chúng ta những người đang sống cũng nên hạn chế sát sinh, năng làm việc thiện, năng tích đức để tâm hướng thiện, cũng chính tạo cho chính mình và con cháu quả tốt, có cơ hội được về cỗi trời hoặc được tiếp tục đầu thai làm người. Còn khoa học hiện đại cũng chứng minh rằng ăn chay cũng rất có lợi cho sức khỏe.

Những điều kiêng kị nên tránh khi nhà có tang không nên làm

Kiêng kỵ để người đã khuất ở trần: Trước khi trút bỏ những hơi thở cuối cùng thì người nhà phải thay một bộ quần áo đẹp cho người đã mất, không nên để cởi trần khi ra đi. Hoặc cũng có thể sau khi người đã khuất đã ra đi thì người thân sẽ dùng nước sạch thay rửa cơ thể và thay quần áo mới cho người quá cố. Áo liệm phải được may bằng lụa, không được dùng vải sa tanh hoặc vải gấm, cũng không được may bằng da và lông vì người ta cho rằng áo liệm bằng da và lông thì kiếp sau sẽ đầu thai thành động vật.

Tránh để người mới mất nằm một mình: Người mất đi chỉ mong có cháu ở bên cạnh để có thể rời khỏi trần gian một cách mãn nguyện nhất, để không phải cảm thấy cô độc, dưới âm phủ cũng không vần phải nhớ nhung, luyến tiếc làm gì. Việc người ra đi nhưng không có người thân bên cạnh sẽ khiến cho linh hồn người ra đi không được yên nghỉ. Cho nên hãy luôn bên cạnh túc trực và sắp xếp công việc để về với người đã mất.

Cấm kỵ khi nhập niệm: Khi nhập liệm thì kỵ nước bắn vào thi thể của người đã mất, người thân cần phải nén đau thương và kiềm nước mắt để tránh nước mắt rơi vào thi thể. Khi nhập liệm kỵ mèo, chó đến gần thi thể vì người xưa quan niệm rằng chúng sẽ có thể khiến cho người chết đột nhiên bật dậy hoặc biến thành cương thi.

Trong thời gian để tang tránh đi thăm bạn bè, cưới hỏi: hạn chế việc đi thăm bạn bè, họ hàng, không tụ tập chời nhảy. Đặc biệt là vào những ngày tết, nếu gia đình có tang thì tốt nhất không nên đến chúc tết những gia đình có người bị bệnh để tránh đem những điều không may đến cho gia đình họ.

Kiêng lấy vợ, lấy chồng khi để tang ba mẹ, ông bà: Khi cha mẹ mới mất thì con cái thường phải để tang 3 năm, trong thời gian này thì người ta kiêng không được lấy chồng, lấy vợ vì nếu không sẽ phạm tội bất hiếu với tổ tiên, cha mẹ. Ngày nay thì việc kiêng cử đã không còn quá khắc khe như trước đây nữa, tuy nhien nhiều gia đình vẫn kiêng cưới vợ, gả chồng cho con khi chưa làm giỗ đầu cho người quá cố.

[junkie-alert style=”green”]

Cúng Cơm Cho Người Thân Mới Mất

Cổ nhân quan niệm: Sống trên trần thế ai cũng từng mắc lỗi lầm, tạo nghiệp chướng. Do vậy muốn được siêu thoát, chuyển kiếp thì sau khi chết, vong người mất phải đi qua mười “Điện” 殿 và mỗi điện do 1 ông vua cai quản, gọi là “Thập Điện Minh Vương” (H: 十殿簷王 , A:地府 , A: The ten Kings of Hell, P: Les dix rois de l’Enfer) ở Địa phủ (H: The Hell, P: L’Enfer). Các ông Vua này có các trách nhiệm phán xét, trừng phạt các loại tội lỗi khác nhau của người đó khi tại thế.

Vong người mất muốn đi qua một Điện phải mất 1 Tuần nên Mười điện tương ứng với mười Tuần. Trong đó:

– B ảy bảy bốn chín ngày đầu ( Chung thất) tương ứng với 7 điện đầu tiên ( từ Tần Quảng Vương đến Thái Sơn Vương);

– Tuần thứ 10 chính là giỗ năm thứ hai ( Đại tường) tương ứng với điện thứ 10 ( Chuyển Luân Vương).

Thông thường người thân sau khi mất được con cháu rước vong về gia đình tiến hành các lễ:

Trên ban thờ của người mới mất xưa , không được thắp hương vòng vì nếu thắp hương vòng, hồn người chết sẽ quẩn quanh, không thể siêu thoát (!?). Thực ra, xưa quy định trong những ngày để tang cha mẹ, người con trưởng không được phép đi xa, thường gọi là “cư tang” ( 居喪 ở nhà chịu tang) nếu thắp hương vòng, có thể ra khỏi nhà suốt ngày nên chỉ thắp hương nén. Trước khi đi ngủ, thay hương nén bằng hương sào ( que hương lớn và dài hơn, có thể cháy trong 4, 5 giờ, đủ qua đêm).

Cổ nhân cho rằng, người mới chết, chưa sạch sẽ nên chưa thể đưa lên bản thờ chung mà đợi sau ngày Tốt khốc có nơi sau giỗ Đại tường hay sau khi Cải táng. Việc này là do đợi thời gian, cùng với sự mất đi của hình hài, những lời thị phi của thiên hạ về người mất đã phai nhạt thì họ mới được gia nhập thế giới thiêng liêng, xứng với các bậc tiên hiền, trở thành đối tượng được lớp cháu con ngưỡng vọng, tôn vinh, sống trong tâm linh các thế hệ sau.

Thờ cúng vong linh cũng giống như đang sống, cũng là để thoả nguyện tâm linh, ” Lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương “.

Trong các Lễ, công việc trên thì trừ ngày làm lễ An táng và ngày làm lễ Trừ phục, Cải táng , cần chọn ngày lành còn Lễ Chung thất, Tốt khốc, Tiều tường, Ðại tường, Kị nhật cứ theo đúng ngày mà làm. Khi đó con cháu ở xa nhớ ngày về làm lễ, thân nhân ở chỗ khác sắm sửa lễ đúng ngày tới dự. Lưu ý tang tế theo ngày định sẵn nên thân bằng, cố hữu ai lưu luyến đến thăm viếng, không đợi mời như lễ mừng, lễ cưới và không chuỵện “Hữu thỉnh hữu lai, vô thỉnh bất đáo” ( 有請有來無請不到 mời thì đến, không thì thôi) được. Ngoài ra, con thứ, con gái, cháu phải đến từ ngày hôm trước để “góp giỗ” trong buổi Tiên thường 先嘗 .

Dân gian cho rằng, con người sau khi chết, linh hồn mà Phật giáo gọi là thần thức ( thân trung ấm) hầu hết trải qua giai đoạn trung gian trong khoảng 49 ngày để tìm cảnh giới tái sinh. Khi chưa tái sinh thì hàng ngày thân nhân dâng cúng cơm nước thần thức đều được hưởng mùi vị mà chữ là “xúc thực”. Trong khi người chết mới xuống âm phủ cũng như người mới ra ở riêng, chưa có vốn làm ăn lại không quen biết ai, chưa có lương thực. Hơn nữa, trong gia đình Việt, bữa cơm là giờ phút đầm ấm, hạnh phúc và nếu có người về muộn, mọi người cũng cố chờ. Nay, bỗng nhiên nhà có người đi xa không bao giờ trở lại nên hình thành tục cúng cơm nước hàng ngày cho người chết trong vòng 49 (100) ngày để họ được no đủ, đặc biệt vào những ngày cúng tuần thường trang trọng hơn.

Sau 7 tuần, vong hồn người mất đã tái sinh vào một cảnh giới trong lục đạo luân hồi (H: 六道輪迴 , A: Six ways of Karma, P: Six voies de Karma) gồm 3 đường lành ( trời, thần, người)và 3 đường dữ(thú vật, ma đói, địa ngục) tùy nghiệp lực từng người. Khi đó chỉ có người tái sinh vào loài quỷ thần mới thọ dụng các thực phẩm do con người dâng cúng. Nhưng chúng ta là người trần mắt thịt nên không biết được thân nhân của mình sau khi chết tái sinh về cõi nào. Do vậy, thể hiện tấm lòng thành của con cháu đối với người đã khuất nên sau 49 ngày ( có nơi 100 ngày) không cúng cơm nước hằng ngày như trước đây nhưng vào các ngày lễ tiếp theo như tiểu tường, đại tường hay ngày kỵ giỗ hàng năm thì thân nhân cần phải làm mâm cơm cúng giỗ.

Trong việc thờ cúng người mới mất bao giờ cũng có mâm cúng gia tiên. Ngày xưa, quanh năm dưa muối chỉ dịp giỗ tết mâm cơm mới có nhiều thịt cá. Lễ phẩm cúng giỗ biểu trưng cho tấm lòng hiếu thuận của con cháu, lễ bạc mà lòng thành 禮薄心誠 là quan trọng nhưng ngoài hoa, trái, hương, đèn, chén nước, đĩa trầu cau thì nên có mâm cỗ.

– Trong mâm cơm cần có đầy đủ các móm luộc, sào , rau, thịt, canh, 5 bát cơm kèm 5 đôi đũa ( xưa các cụ ngồi cỗ 5), đĩa muối, đĩa trà….. tùy tâm từng nhà.

Việc cúng cơm trong vòng 100 ngày sau mất chữ là “Triêu tịch diện” 朝夕面 . Khi cúng vong cần có ba bát cơm để ngang nhau: bát ở giữa đơm đầy để một đôi đũa ( cúng cho hương linh mới chết), còn 2 bát cơm 2 bên ( cúng tả mạng thần quang và hữu mạng thần quang), thì chỉ để mỗi bát 1 chiếc đũa ( để các cô hồn không tranh cướp thức ăn hương linh mới mất).

Phổ biến các dịp kị nhật có thể là: 1 bát cơm lồng chắc vì thế mới có tên cúng giỗ là “cúng cơm”,1 quả trứng gà luộc bóc vỏ dẹt ra trên đĩa với một ít muối trắng,1 bát canh ( có thìa), 1 đĩa thức ăn mặn hay món mà sinh thời người đó ưa, 1 cái bát, 1 đôi đũa, Mấy lát gừng ( 9 lát cho nữ, 7 lát cho nam), một chén nước lã, đặt lên bàn thờ rồi thắp hương, đặt đôi đũa vào giữa bát cơm. Nhà nghèo không có trứng cũng không sao nhưng phải đầy đủ cơm, muối và chén nước.

Nghi thức (H: 儀式 , A: The protocol, P: Le protocole) là cách thức làm lễ cho đúng phép trong thờ cúng tuy không quá cầu kỳ. Trong đó đáng chú ý là ngày Tiên thường, Tiểu tường, Đại tường, Chính kị, các vấn đề về Gửi giỗ, Phẩm vật, Văn khấn, Hóa vàng.

Khi có thầy thìtiến hành theo nghi thức của thầy pháp.

– Con lạy Chín phương Trời, Năm phương Đất, Chư phật mười phương;