Giỗ Hết Tang – Ngày Giỗ Trọng Đại

Giỗ hết – Ngày giỗ trọng đại

Giỗ hết còn gọi là Lễ đại tường, là ngày giỗ sau ngày người mất hai năm. Giỗ hết là ngày giỗ quan trọng nhất trong tất cả những ngày giỗ đối với người qua đời nên giỗ hết thường được tổ chức long trọng, con cháu, người thân có mặt đông đủ, khách mời dự cũng được mở rộng. Ngày giỗ đại tường làm cho con cháu nhớ lại lúc lâm chung của người đã khuất và nhắc lại những kỷ niệm sâu xa giữa người chết và người sống. Câu giỗ “Chung thân chi tang” của người xưa là vì vậy. Trong ngày giỗ hết, con cháu vẫn còn mang mặc tang phục (ngày nay chủ yếu là đeo băng tang trước ngực) để cúng giỗ và để đáp lễ của khách. Lễ đại tường được cử hành long trọng, thậm chí, trong các gia đình giàu có thường diễn ra cuộc tế vong.

Ngày này, người ta cũng đốt vàng mã cho người đã khuất và thậm chí vàng mã đốt còn nhiều hơn trong ngày giỗ đầu. Bởi người ta quan niệm rằng, mã đốt trong giỗ đầu là mã biếu, tức là, người chết nhận được đồ dùng của con cháu đốt xuống, phải đem biếu các ác thần để tránh mọi sự quấy nhiễu. Trước khi đốt mã, phải cúng lễ ngay ở mộ người đã khuất và đốt mã ngay trước mộ. Những gia đình khá giả còn làm chay ngay tại mộ, mời tăng ni tới cúng, tụng kinh niệm Phật xong mới đốt mã. Cỗ bàn trong ngày đại tường rất linh đình. Ngoài việc “trả nợ miệng”, con cháu còn nghĩ rằng từ trước tới ngày này, hương hồn của người đã khuất còn luôn luôn phảng phất trong nhà, nhưng rồi đây, sau ngày lễ này, người khuất sẽ ít về thăm hơn nên con cháu muốn dâng một bữa tiệc thịnh soạn cho người đã khuất trước lễ đoạn tang (lễ trừ phục). Lễ đoạn tang (lễ trừ phục) là lễ bỏ hết mọi đồ tang phục, được tổ chức sau lễ giỗ hết 3 tháng. Trong lễ này, người ta làm 3 việc chính là sửa sang, đắp điếm cho mộ phần to đẹp thêm; đốt hủy các thứ thuộc phần tang lễ (khăn áo, băng tang, gậy chống, rèm sô, câu đối, trướng điếu…) và cáo yết tổ tiên để xin cho rước linh vị vào bàn thờ gia tiên. Sau lễ này người đang sống sẽ trở lại cuộc sống thường nhật, có thể tham gia các tổ chức hội hè, đình đám, vui chơi; người vợ có chồng chết có thể đi bước nữa. Tuy nhiên, hiện nay, hầu như sau giỗ hết là người ta đã bỏ tang chế, nhất là với những người chết được hỏa táng thì người ta cho rằng họ đã sớm được “sạch sẽ” nên lễ Đoạn tang sẽ tiến hành ngay sau giỗ hết chứ không phải chờ thêm 3 tháng nữa.

Ngày đại tường hết, ngày giỗ năm sau, năm thứ ba, người khuất đi xa là những ngày giỗ thường hay được gọi là ngày kỵ nhật. Việc cúng lễ sẽ cử hành như những người qua đời trước nên ngày giỗ hết là ngày giỗ trọng đại nhất trong tất cả những ngày giỗ./.

Tìm Hiểu Về Trùng Tang,Cách Tính Trùng Tang, Các Hóa Giải

Tìm hiểu về trùng tang

Chắc hẳn quý vị đã từng nghe về hiện tượng trùng tang, theo cách hiểu của người dân Việt, trùng tang là trường hợp người chết phạm phải năm, tháng hoặc giờ xấu. Do đó, linh hồn họ không siêu thoát, cứ quanh quẩn trong nhà trở thành trùng, rồi lần lượt bắt theo từng người thân trong dòng tộc

Vì sao có quan niệm về trùng tang?

Người ta sinh ra vào thời điểm nào là điều có thể biết trước. Sau khi thụ thai, trong bụng mẹ chín tháng mười ngày… ắt phải cất tiếng khóc chào đời. Nhưng khi nào thì chết vẫn là một bí ẩn. Vì vậy có câu: “Sinh có hạn tử bất kỳ”.

Ra đời chỉ có một cách là từ bụng mẹ chui ra, còn chết lại thiên hình vạn trạng: Chết già, chết do bệnh tật, chết do tai nạn, chết do thiên tai, chết do chiến tranh, đói rét, chết do tù đầy… Có người chết tại nhà, có người chết ở bệnh viện, có người chết đường, chết chợ. Có người thanh thản ra đi, có người “chết không nhắm được mắt”.

Thực tế cho thấy có trường hợp trùng tang vẫn bình an vô sự, ngược lại có trường hợp không trùng tang vẫn gặp rủi ro, tai họa, thậm chí chết người.

Người chết đã đành người thân còn sống cứ băn khoăn, áy náy không hiểu người chết đã “đúng số” chưa hay chết oan uổng… và ảnh hưởng của người chết với người sống như thế nào?

Đây là những câu hỏi và cũng là nguyện vọng chính đáng của những người còn sống với vong linh của người đã khuất và để giải tỏa cho chính mình. Chính vì thế mà khái niệm về trùng tang, nhập mộ đã ra đời.

Chưa có cơ sở về cách giải?

Theo sách vở ghi lại và cách làm của các thầy và kinh nghiệm dân gian thì việc giải trùng tang có nhiều cách khác nhau như: Gửi lên chùa để “nhốt trùng” lại; Chọn ngày, giờ an táng không phạm vào giờ kiếp sát; Làm huyệt giả; Đổ tỏi vào huyệt khi lấp đất… thậm chí có cả bài thuốc trấn trùng, dùng linh phù để trấn… Tuy nhiên, đây là những cách giải huyền bí, không có cơ sở, khó thuyết phục.

Đối với Phật giáo thì sống chết là chuyện thường nhiên, do nghiệp lực của tự thân mỗi người chi phối. Sống và chết chỉ là hai hiện tượng trong tiến trình luân hồi bất tận. Vì thế, Phật giáo không có quan niệm về ngày trùng tang, trùng nhật và hoàn toàn phủ nhận việc ngày giờ chôn cất của một người mà có thể ảnh hưởng đến sự sống chết của người khác.

Tuy nhiên, vì tập tục này ăn sâu vào tâm thức mọi người nên một vài nơi nhà chùa vẫn khuyên các Phật tử không an táng thân quyến vào những ngày trùng, nhằm giúp họ an tâm để chu toàn tang lễ đồng thời nỗ lực cầu nguyện, khai thị, làm phước hồi hướng cho hương linh.

Quan sát và chiêm nghiệm thực tiễn

Quan sát và chiêm nghiệm khá nhiều người chết và tình trạng xảy ra sau đó với người thân của người quá cố, chúng tôi thấy có 4 trường hợp xảy ra:

1. Người quá cố bị trùng tang kể cả đã làm giải trùng, sau đó có những người thân mất theo (thậm chí nhiều người liên tiếp). Trong trường hợp này người sống rất hoang mang, lo sợ và cho rằng trùng tang là có thật.

2. Người quá cố bị trùng tang có khi không làm giải trùng, nhưng sau đó người thân hoàn toàn bình an vô sự, thậm chí còn gặp may mắn. Trong trường hợp này người thân không tin có chuyện trùng tang.

3. Người quá cố không bị trùng tang, thậm chí có nhiều nhập mộ, nhưng sau đó người thân vẫn gặp rủi ro, bất trắc, thậm chí có người chết sau khi người quá cố qua đời. Trong trường hợp này, người sống trở nên mất lòng tin vào việc dự báo có trùng tang hay không.

4. Người quá cố không bị trùng tang và sau đó gia đình và người thân của người quá cố hoàn toàn bình an vô sự. Trong những trường hợp này người sống tin là người quá cố đã chết đúng số.

Như vậy cho thấy mọi việc đều có thể xảy ra theo chiều hướng đúng hoặc sai với việc dự báo (tính) trùng tang. Tất cả đều xảy ra một cách ngẫu nhiên, có thể trùng hợp hay sai lệch với việc người quá cố có trùng tang hay không, không theo một quy luật nào cả. Để giải quyết vấn đề, cần có một cơ quan, tổ chức nào đó dưới sự hỗ trợ của Nhà nước và xã hội nên đứng ra nghiên cứu, thống kê vấn đề trùng tang để tìm ra bản chất vấn đề và hướng dẫn dư luận xã hội, tránh để rơi vào tình trạng mê tín dị đoan làm ảnh hưởng tới nhiều mặt của xã hội.

Đừng “bày cỗ cho ma ăn”

Một triết gia đã từng nói: “Cái gì còn tồn tại, cái đó còn hợp lý”. Câu chuyện về trùng tang vẫn đang tồn tại, hiện hữu trong đời sống tâm linh và tập tục trong đời sống. Bởi vậy, không nên vội vàng “chụp mũ” đó là thứ mê tín dị đoan cần cấm kỵ trong khi chưa có minh chứng đủ thuyết phục đó là mê tín dị đoan phải loại bỏ. Hơn thế nữa, bản chất vấn đề là hướng thiện, mong cho linh hồn người chết được siêu thoát và sự bình an của người sống. Vậy sao lại cấm đoán. Làm như vậy e rằng chúng ta quá cực đoan và sẽ “phủ định sạch trơn”.

Còn nói trùng tang là một hiện tượng khoa học do sóng nhân điện như một số nhà cảm xạ, nhà khoa học giải thích e rằng chưa đủ cơ sở và cũng không thật thuyết phục. Thực chất đó cũng chỉ là sự suy diễn. Bởi lẽ nếu là khoa học thật sự thì phải có sự chứng minh, lý giải, tuân theo một quy luật chặt chẽ…

Nhưng thực tế cho thấy có trường hợp trùng tang vẫn bình an vô sự, ngược lại có trường hợp không trùng tang vẫn gặp rủi ro, tai họa, thậm chí chết người. Vậy giải thích thế nào, trong khi chúng ta thừa nhận “thực tiễn là thước đo chân lý”?

Điều cần nói thêm là theo sách vở để lại và tập tục trong dân gian có trùng tang và có cách giải trùng tang. Thực ra việc giải trùng tang cũng đơn giản, không tốn kém là bao. Có điều ngày nay một số “thầy” đã lợi dụng lòng tin theo tinh thần “có thờ có thiêng, có kiêng có lành” và “bị bệnh phải vái tứ phương” để khi chẳng may có người nhà bị trùng tang thì bày đặt ra phải lập đàn cúng tế, đốt vàng mã, “bày cỗ cho ma ăn”… để kiếm chác làm không ít người lâm vào cảnh vay mượn để làm (đối với người nghèo) hoặc gây lãng phí về của cải, thời gian (đối với người giàu) là việc cần lên án và loại bỏ.

Để tranh bị các “thầy” lợi dụng chúng ta có thể tự tính trùng tang và cách hóa giải cũng rất đơn giản, làm theo ý đồ của các “thầy” thì rất tốn kém, không ít nhà khuynh gia bại sản, có khi chết đói trước khi chết “trùng”.

Theo cách tính trùng tang sau khi con người chết đi sẽ xảy ra các trường hợp sau: – Thiên di: nếu ở Cung : Tý – Ngọ – Mão – Dậu : là dấu hiệu có sự di dời hình thức tồn tại do trời định, là lúc “trời” đưa đi. Dự báo con cháu sẽ phải chia ly, tài sản phân tán, tranh chấp kiện tụng.

– Trùng tang : nếu gặp các Cung: Dần – Thân -Tỵ – Hợi, Là dấu hiệu “ra đi” không hợp số phận, không dứt khoát, hãy còn “ảnh hưởng” tới trần ai. Dự báo sẽ có người thân chết theo. Theo quan niệm xưa, nếu gặp phải trùng tang mà không có “nhập mộ” nào thì cần phải mời người có kinh nghiệm làm lễ “trấn trùng tang”.

Như vậy, “Trùng tang là tình trạng trong thời gian chưa mãn Đại Tang, hoặc chưa mãn tang bà con gần, lại tiếp theo 1 cái đại tang hoặc 1 cái đại tang gần khác”. Hoặc có thể gọi trùng tang là tang chủ phải mang ít nhất 2 vòng khăn tang trong cùng một thời điểm. Trong nhà, người thân vừa nằm xuống lại có nguy cơ liên táng là đáng lo ngại. Dân gian cho rằng trùng tang là người qua đời gặp ngày giờ xấu, cần hoá giải để tránh nguy cơ.

CÁCH TÍNH TRÙNG TANG NHƯ THẾ NÀO?

Sách Tam giáo Chính Hội viết: “Nam nhất Thập khởi Dần, thuận liên tiến, Nữ nhất Thập khởi Thân, nghịch liên tiến, Niên hạ sinh Nguyệt, Nguyệt hạ sinh Nhật, Nhật hạ sinh Thời. Ngộ Tý – Ngọ – Mão – Dậu Thiên di. Dần – Thân – Tỵ – Hợi Trùng tang. Thìn – Tuất – Sửu – Mùi Nhập mộ cát dã”. Nếu được Tứ nhập mộ thì tránh được trùng tang.

Điểm khởi đầu và thứ tự bấm Cung của Nam và Nữ khác nhau:

* Nam giới: Từ cung Dần khởi thuận chiều kim đồng hồ tính theo thứ tự Dần – Mão – Thìn – Tỵ – Ngọ – Mùi – Thân – Dậu – Tuất – Hợi – Tý – Sửu. Nghĩa là: 10 tuổi tại cung Dần, tiếp 20 tuổi tại Mão, 30 tại Thìn, 40 tại Tỵ, Ngọ: 50 tuổi, Mùi: 60 tuổi, Thân: 70 tuổi, Dậu: 80 tuổi, Tuất: 90 tuổi…

* Nữ giới: Từ cung Thân khởi đi theo chiều ngược kim đồng hồ, theo thứ tự sau: Thân – Mùi – Ngọ – Tỵ – Thìn – Mão – Dần -Sửu – Tý – Hợi – Tuất – Dậu. Nghĩa là : 10 tuổi vào cung Thân, tiếp cung Mùi: 20 tuổi, cung Ngọ: 30 tuổi, cung Tỵ: 40 tuổi, cung Thìn: 50 tuổi, Mão: 60 tuổi, Dần: 70 tuổi, Sửu: 80 tuổi, Tý: 90 tuổi…

* Đồng thời cứ được 1 Nhập mộ trở lên là yên tâm, vì “nhất mộ sát tam trùng” (một Nhập mộ xoá được 3 Trùng tang). Hoặc được 2 Thiên di thì cũng không lo vì “nhị thiên di sát nhất trùng” (2 Thiên di xoá được 1 Trùng tang).

Cách xem ngày Trùng tang- Nhập mộ- Thiên di

CÁCH TÍNH, XEM NGÀY NHẬP MỘ:

Có 4 bước tính theo thứ tự: Năm-Tháng-Ngày-Giờ:

– Niên nhập mộ: khởi đầu 10 tuổi từ Dần với đàn ông theo chiều Thuận chiều kim đồng hồ; đàn bà khởi đầu từ Thân và Ngược chiều kim đồng hồ. Khi hết tuổi tròn chục các năm lẻ tính vào cung tiếp theo đến tuổi năm người đó mất. Nếu vào cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi là được năm nhập mộ.

– Nguyệt nhập mộ: tháng Giêng năm mất được bấm liền vào sau cung tuổi cho đến tháng chết. Nếu gặp cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi là được tháng nhập mộ.

– Nhật nhập mộ: mồng Một tháng mất được bấm liền vào sau cung tháng cho đến ngày chết. Nếu gặp cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi là được ngày nhập mộ.

– Thời nhập mộ: giờ Tý ngày mất được bấm liền vào sau cung ngày cho đến giờ chết. Nếu gặp cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi là được giờ nhập mộ.

Theo tu vi , Nếu cả năm, tháng, ngày, giờ đều vào một trong các cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi là được “Tứ nhập mộ”, tốt, tránh được lúc chết vướng phải giờ xấu.

CÁCH TÍNH, XEM NGÀY TRÙNG TANG:

Có 2 cách tính Trùng tang:

– Thứ Nhất, Trùng tang có thể là thời gian lúc mất, trùng năm (như người tuổi Dần mất năm Dần), trùng ngày (như người tuổi Sửu mất ngày Sửu), trùng giờ (như người tuổi Ngọ mất giờ Ngọ).

– Thứ Hai, là cách tính Trùng tang theo Địa Chi giống như tính Nhập mộ kể trên.

Lập Bảng sau dễ nhớ và theo 4 bước:

* Đầu tiên tính tuổi chết theo chẵn chục (10, 20…) khi hết tuổi chẵn tính tiếp các tuổi lẻ theo thứ tự 1,2,3…đến tuổi mất, tính đến đâu thì ghi lại cung đó;

* Sau đó tính tiếp đến tháng chết vào cung ngay sau cung tính năm, khởi từ tháng Giêng, ghi lại cung đó;

* Rồi tính tiếp đến ngày chết vào cung ngay sau cung tính tháng khởi từ ngày mùng 1, ghi lại cung đó;

* Sau cùng đến giờ chết vào cung ngay sau cung tính ngày khởi từ Tý, ghi lại cung đó. Chú ý giờ âm lịch chỉ chia một ngày ra 12 giờ: Tý (23-01 giờ), Sửu (01-03 giờ)…Hợi (21-23 giờ).

Nếu căn cứ vào phép tính Trùng tang như trên thì cả nam và nữ những người chết mà có tuổi âm lịch (=năm Dương lịch hiện tại – năm sinh theo Dương lịch + 1) bằng: 10, 13, 16, 19, 22, 25, 28, 31, 34, 37, 40, 43, 46, 49, 52, 55, 58, 61, 64, 67, 70, 73, 76, 79, 82, 85, 88, 91… sẽ rơi vào trùng tang. Từ đó quy nạp ngược lại theo hệ Can Chi thì những người có tuổi:

– Tý, Ngọ, Mão, Dậu nếu chết vào một trong các năm TÝ, NGỌ, MÃO, DẬU thì rơi vào trùng tang;

– Hoặc: Dần, Thân, Tỵ, Hợi nếu chết vào một trong các năm DẦN, THÂN , TỴ, HỢI thì rơi vào trùng tang;

– Thìn, Tuất, Sửu, Mùi nếu chết vào một trong các năm THÌN – TUẤT – SỬU – MÙI có nghĩa là chết vào các năm “xung” (tứ hình xung) sẽ bị trùng tang. (xem bảng dưới)

Bảng tính trùng tang

CÁCH TÍNH TRÙNG TANG PHỔ BIẾN KHÁC : – Dùng 12 cung địa chi trên bàn tay để tính. Nam khởi từ Dần tính theo chiều thuận, Nữ khởi từ Thân tính theo chiều nghịch.

– Bắt đầu là 10 tuổi, cung tiếp theo là 20 tuổi, … tính đến tuổi chẵn của tuổi người mất. Sau đó cung tiếp theo là tuổi lẻ tính đến tuổi của người mất, gặp ở cung nào thì tính là cung tuổi. – Từ cung tuổi, tính cung tiếp theo là tháng 1, tính lần lượt đến tháng mất, gặp cung nào thì cung đó là cung tháng. – Từ cung tháng, tính cung tiếp theo là ngày 1, tính lần lượt đến ngày mất, gặp cung nào thì tính cung đó là cung ngày. – Từ cung ngày, tính cung tiếp theo là giờ tý, tính lần lượt đến giờ mất, gặp cung nào thì tính cung đó là cung giờ. Nếu các cung tuổi, tháng, ngày, giờ gặp các cung: – Dần – Thân – Tị – Hợi thì là gặp cung Trùng Tang – Tý – Ngọ – Mão – Dậu thì là gặp cung Thiên Di – Thìn – Tuất – Sửu – Mùi thì là gặp cung Nhập Mộ.

Chỉ cần gặp được một cung nhập mộ là coi như yên lành, không cần phải làm lễ trấn trùng tang.

Ví dụ: Tính cho cụ ông mất giờ Tý, ngày 3, tháng 3 thọ 83 tuổi. Cụ ông Khởi từ cung Dần tính chiều thuận: 10 tuổi ở Dần, 20 tuổi ở Mão, 30 tuổi ở Thìn… 80 tuổi ở Dậu, đến tuổi lẻ 81 ở Tuất, 82 ở Hợi, 83 ở Tí. Vậy cung tuổi là cung Tý là cung Thiên Di. Tính tiếp tháng 1 là Sửu, tháng 2 ở Dần, tháng 3 ở Mão, vậy cung tháng là Mão là cung Thiên Di. Tính ngày mồng 1 là Thìn, ngày mồng 2 là Tị, mồng 3 là Ngọ, vậy cung ngày là Ngọ gặp Thiên Di. Tính tiếp cho giờ, giờ tý tại Mùi, vậy cung giờ là cung Mùi được cung nhập mộ. Như vậy cụ ông có 3 cung thiên di, 1 cung nhập mộ. Vậy là hợp với lẽ trời và đất.CÁCH HÓA GIẢI TRÙNG TANG: Dân gian cho rằng trùng tang là người qua đời gặp ngày giờ xấu, cần hoá giải, làm cho người “ra đi” không còn “khả năng” gây “ảnh hưởng” xấu đến người thân thiết đang sống.

Tìm 1 bộ bài Tổ tôm cũ (tức là đã chơi cũ rồi) bỏ mấy con Bát sách đi, số còn lại lấy rải đều ở 4 góc quan tài trong lúc đang liệm.

* Dùng bộ bài Chắn gồm 120 quân bỏ 20 quân Yêu đi, tức là bỏ bộ Nhất và bộ Nhị, chứ không bỏ Bát sách. Kèm theo là 1 cuốn lịch Tàu hoặc bộ sách Trương Thiên Sư, và bộ Bùa trùng tang.

* Sau khi tính ra người mất bị phạm trùng tang thì những người thuộc tam hợp chi cùng với chi trùng tang phải tránh mặt lúc liệm xác. VD: trùng tang tại Tị, vậy tam hợp của Tị là Dậu và Sửu bị phạm. Những người thuộc tam hợp tuổi với người mất bị trùng tang phải tránh . VD: người mất tuổi Hợi thì tam hợp Mão Mùi bị phạm. Ngoài tránh mặt lúc “liệm” thì còn cần phải tránh cả lúc “nhập quan”, “đóng cá” và đặc biệt là cả tránh lúc “hạ huyệt, lấp đất”.

* Trước khi liệm: Dùng 6 lá Linh phù Lục tự Đại minh có kích thước 31 x 10.5 cm viết theo chiều dọc từ trên xuống dán vào thành trong của quan tài tại đầu, chân, hai bên vai, hai bên hông. Những Linh phù này có tác dụng trấn tà khí của Linh hồn. Khi chôn: Vong Nam 7, Vong Nữ 9 quả trứng vịt đã luộc chín, để trên nắp quan tài trên vùng bụng, dùng một cái niêu đất úp lên trứng, sau đó lấp đất. Cách này dùng để thu nốt những Tà khì còn sót lại. Lưu ý Linh phù được viết trên giấy vàng chữ đỏ.

* Sau khi chôn người ta lại dùng 108 cọc tre đực dóng trên mộ, 36 cọc tre hoá đóng ở nhà. Trên mộ cột thêm 1 con quạ hoặc gà mái đen.

* Một số người còn cho rằng có thể áp dụng phương pháp làm huyệt giả, đổ tỏi vào huyệt khi lấp đất hay dùng thần chú, Bát quái trận đồ trấn âm trạch để hoá giải…

* Trùng nặng thì người ta dùng con cóc màu vàng đang chửa để luyện thành thần tướng hộ vong.

* Trường hợp nặng hơn thì người ta dùng bộ gạo nếp nặn thành 12 ông thần trùng, sau khi làm phép thì dùng dao chặt đầu rồi nặn thành 1 hình nhân, dùng quan tài bằng lúc lác tẩm liệm rồi dùng 1 quả trứng vịt cắm 13 cây kim, đoạn dùng bè chuối; chọn giờ thiên giải thì thả xuôi ra sông.

* Ngoài ra có thể dùng Hùng hoàng, chu sa, thần sa gói trong giấy có ghi lời chú đặt vào quan tài để giải “trùng”

Nhưng thực ra, “sống” và “chết” chỉ là hai hiện tượng trong tiến trình luân hồi bất tận. Vì thế, về “trùng tang” có lẽ là do tâm tưởng. Nên chuyện hoá giải trùng tang cũng là gỡ đi sự lo lắng trong tâm tưởng của con người. Các trường hợp khác cũng tương tự như vậy. Như vậy, việc xác định trùng tang là dựa trên nguyên lý của dịch với học thuyết Âm dương – Ngũ hành chứ không phải sự mê tín, tuỳ tiện.

Văn Khấn Ngày Giỗ Hết Năm 2

Giỗ Hết – Lễ Đại Tường

Giỗ Hết còn gọi là Lễ Đại Tường, là ngày giỗ sau ngày mất 2 năm. Đây là ngày giỗ quan trọng không kém gì ngày giỗ đầu và ngày tang lễ. Thời gian này người thân, con cháu trong gia đình vẫn còn vương vấn nỗi nhớ nhung, sầu thảm. Lễ giỗ hết được tổ chức trang nghiêm,vẫn mặc tang phục, đầy đủ họ hàng, con cháu để thể hiện lòng thành kính với người đã khuất và cũng để cùng nhau chia sẻ nỗi đau thương của đại gia đình.

Cũng giống như ngày giỗ đầu, trong ngày giỗ Hết, gia đình chuẩn bị hương, hoa, cỗ mặn và mua sắm rất nhiều vàng mã hình tiền, vàng, các vật phẩm tượng trưng cho quần áo, đồ dùng, nhà cửa, xe cộ, đặc biệt không thể thiếu các hình nhân. Theo văn hóa tâm linh, các vật phẩm này sau khi hóa vàng sẽ được gửi xuống âm gian, vong linh nhận được chỉ dùng phần nhỏ, còn phần lớn mang đi biếu các “quan Âm phủ” để tránh bị phiền nhiễu, các hình nhân không phải để thế mạng mà để hóa thân thành người hầu, theo giúp việc cho các linh hồn.

Sau khi làm lễ tạ và hóa vàng, gia đình bày bàn ghế, thức ăn mời họ hàng, người thân và bạn bè dùng bữa. Lễ Đại Tường thường được làm cầu kỳ, linh đình, mời nhiều khách khứa hơn so với lễ Giỗ Đầu (Tiểu Tường). Trong lễ này con cháu vẫn mặc tang phục, mọi người đều giữ vẻ trang nghiêm, đau sót trước nỗi mất mát của gia đình.

Lễ Trừ Phục – Lễ Đàm Tế

Sau Lễ Đại Tường 3 tháng, gia đình sẽ chọn ngày tốt để làm lễ Trừ Phục (Lễ Đàm Tế). Đây là lễ để bỏ tang, người thân sẽ mang tang phục đem đi đốt hết. Sau lễ này, người thân trong gia đình có thể trở lại cuộc sống thường nhật, có thể tổ chức hoặc tham gia tiệc tùng, người vợ (hoặc chồng) có thể đi bước nữa.

Văn khấn ngày giỗ Hết

Trước khi khấn vong linh người đã khuất, gia đình phải đọc văn khấn thần linh là các vị Thổ thần, Táo quân, Long mạch… trước:

Văn khấn Thần linh

Nam mô a di Đà Phật!

Nam mô a di Đà Phật!

Nam mô a di Đà Phật!

Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.

Con kính lạy Đức Đương cảnh Thành hoàng chư vị Đại Vương.

Con kính lạy ngài Đông Trù Tư mệnh Táo phủ Thần Quân.

Con kính lạy các ngài Thần linh, Thổ địa cai quản trong xứ này.

Con kính lạy chư gia tiên Cao Tằng Tổ tiên nội ngoại họ …..

Tín chủ (chúng) con là: …..

Ngụ tại: …..

Nhân ngày mai là ngày Giỗ Hết của …..

Tín chủ con cùng toàn thể gia khuyến tuân theo nghi lễ, sửa biện hương hoa lễ vật dâng cúng các vị Tôn thần.

Cúi xin các vị Bản gia, Thổ Công, Táo phủ Thần quân, Ngữ phương, Long mạch và các vị Thần linh, hiển linh chứng giám, thụ hưởng lễ vật, phù hộ cho toàn gia chúng con an ninh khang thái, vạn sự tốt lành.

Chúng con kinh thỉnh các Tiên linh, Gia tiên họ …..và những vong hồn nội tộc được thờ phụng vị cùng về hâm hưởng.

Chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin được phù hộ độ trì.

Nam mô a di Đà Phật!

Nam mô a di Đà Phật!

Nam mô a di Đà Phật!

Văn khấn vong linh

Nam mô a di Đà Phật!

Nam mô a di Đà Phật!

Nam mô a di Đà Phật!

Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.

Con kính lạy Đức Đương cảnh Thành hoàng chư vị Đại Vương.

Con kính lạy ngài Đông Trù Tư mệnh Táo phủ Thần Quân.

Con kính lạy các ngài Thần linh, Thổ địa cai quản trong xứ này.

Con kính lạy chư gia tiên Cao Tằng Tổ Khảo, Cao Tằng Tổ Tỷ, Tổ Tiên nội ngoại họ …..

Tín chủ (chúng) con là: …..

Ngụ tại: …..

Hôm nay là ngày …..tháng …..năm …..

Chính ngày Giỗ Hết của …..

Thiết nghĩ …..vắng xa trần thế, không thấy âm dung. Năm qua tháng lại vừa ngày Giỗ Hết. Ơn võng cực xem bằng trời biển, nghĩa sinh thành không lúc nào quên. Càng nhớ công ơn gây cơ tạo nghiệp bao nhiêu, càng cảm thâm tình, không bề dãi tỏ. Nhân ngày chính giỗ, chúng con và toàn gia con cháu, nhất tâm sắm sửa lễ vật kính dâng, đốt nén tâm hương dãi tỏ tấc thành.

Thành khẩn kính mời …..

Mất ngày …..tháng …..năm …..

Mộ phần táng tại: …..

Cúi xin linh thiêng giáng về linh sàng, chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật, độ cho con cháu bình an, gia cảnh hưng long thịnh vượng.

Tín chủ lại mời vong lonh các vị Tiền chủ, Hậu chủ trong đất này cùng tới hâm hưởng.

Tín chủ con lại xin kính mời các cụ Tổ Tiên nội ngoại, Tổ Khảo, Tổ Tỷ, Bá thúc, Huynh Đệ, Cô Di, Tỷ Muội và toàn thể các Hương linh gia tiên đồng lai hâm hưởng.

Chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin được phù hộ độ trì.

Nam mô a di Đà Phật!

Nam mô a di Đà Phật!

Nam mô a di Đà Phật!

Văn Cúng Ngày Giỗ Hết (Lễ Đại Tường)

Văn cúng ngày Giỗ Hết (Lễ Đại Tường)

1.Ý nghĩa: Ngày giỗ Hết hay còn gọi là ngày ” dai tuong “, tức là ngày Giỗ vào 2 năm 3 tháng sau ngày mất.

Giỗ Hết vẫn là Giỗ trong vòng tang. Ngày Giỗ Hết thương làm linh đình hơn, và sau Giỗ này, ngườ nhà bỏ tang phục, hay còn gọi là hết tang. Sau ngày giỗ Hết, người ta sẽ chọn ngày tháng tốt để làm lễ Cải cát, sang mộ cho người quá cố. Và từ năm thứ ba trở đi thì giỗ của người qua cố trở thành giỗ Thường hay “Cát Kỵ”

Bởi vậy, có người bảo “ngày giỗ hết là ngày giỗ quan trọng nhất trong tất cả những ngày giỗ đối với người qua đời”. Quan trong nhất vì nó đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đời của người còn sống cũng như đối với vong linh của người đã khuất. Với người đang sống, người ta trở lại đời sống thường nhật, có thể tham gia các tổ chức hội hè, đình đám. Theo quan niệm xưa thì chỉ sau Giỗ Hết của chồng, người vợ mới có thể đi bước nữa.

2. Sắm lễ:

Giỗ Hết thường được tổ chức long trọng với: vàng mã, hương, hoa, phẩm oản, trái cây theo mùa, cùng mâm lễ mặn với đầy đủ các món ăn từ thịt lợn, tôm, cua, xôi, gà, …

Văn khấn Thổ Thần, Táo Quân, Long Mạch và các vị Thần linh trước khi Giỗ Hết

Nam mô a di Đà Phật!

Nam mô a di Đà Phật!

Nam mô a di Đà Phật!

– Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.

– Con kính lạy Đức Đương cảnh Thành hoàng chư vị Đại Vương.

– Con kính lạy ngài Đông Trù Tư mệnh Táo phủ Thần Quân.

– Con kính lạy các ngài Thần linh, Thổ địa cai quản trong xứ này.

– Con kính lạy chư gia tiên Cao Tằng Tổ tiên nội ngoại họ……

Tín chủ (chúng) con là:…

Nhân ngày mai là ngày Giỗ Hết của…

Tín chủ con cùng toàn thể gia khuyến tuân theo nghi lễ, sửa biện hương hoa lễ vật dâng cúng các vị Tôn thần.

Cúi xin các vị Bản gia, Thổ Công, Táo phủ Thần quân, Ngữ phương, Long mạch và các vị Thần linh, hiển linh chứng giám, thụ hưởng lễ vật, phù hộ cho toàn gia chúng con an ninh khang thái, vạn sự tốt lành.

Chúng con kinh thỉnh các Tiên linh, Gia tiên họ…………………. và những vong hồn nội tộc được thờ phụng vị cùng về hâm hưởng.

Chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin được phù hộ độ trì.

Nam mô a di Đà Phật!

Nam mô a di Đà Phật!

Nam mô a di Đà Phật!

Văn khấn chính ngày Giỗ Hết

Nam mô a di Đà Phật!

Nam mô a di Đà Phật!

Nam mô a di Đà Phật!

– Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.

– Con kính lạy Đức Đương cảnh Thành hoàng chư vị Đại Vương.

– Con kính lạy ngài Đông Trù Tư mệnh Táo phủ Thần Quân.

– Con kính lạy các ngài Thần linh, Thổ địa cai quản trong xứ này.

– Con kính lạy chư gia tiên Cao Tằng Tổ Khảo, Cao Tằng Tổ Tỷ, Tổ Tiên nội ngoại họ ………

Tín chủ (chúng) con là:……

Hôm nay là ngày …… tháng …. năm …

Chính ngày Giỗ Hết của……

Thiết nghĩ…… vắng xa trần thế, không thấy âm dung. Năm qua tháng lại vừa ngày Giỗ Hết. Ơn võng cực xem bằng trời biển, nghĩa sinh thành không lúc nào quên. Càng nhớ công ơn gây cơ tạo nghiệp bao nhiêu, càng cảm thâm tình, không bề dãi tỏ. Nhân ngày chính giỗ, chúng con và toàn gia con cháu, nhất tâm sắm sửa lễ vật kính dâng, đốt nén tâm hương dãi tỏ tấc thành.

Thành khẩn kính mời……

Mất ngày… Tháng…năm……

Mộ phần táng tại:……

Cúi xin linh thiêng giáng về linh sàng, chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật, độ cho con cháu bình an, gia cảnh hưng long thịnh vượng.

Tín chủ lại mời vong lonh các vị Tiền chủ, Hậu chủ trong đất này cùng tới hâm hưởng.

Tín chủ con lại xin kính mời các cụ Tổ Tiên nội ngoại, Tổ Khảo, Tổ Tỷ, Bá thúc, Huynh Đệ, Cô Di, Tỷ Muội và toàn thể các Hương linh gia tiên đồng lai hâm hưởng.

Chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin được phù hộ độ trì.

Nam mô a di Đà Phật!

Nam mô a di Đà Phật!

Nam mô a di Đà Phật!

Cách Tính Ngày Cũng Giỗ Đầu Cho Bố Mẹ Đã Mất Vào Ngày Nào?

Theo phong tục của người Việt, thông thường sau khi người chết mất, thường để khâm niệm trong 24-48 giờ, sau đó mới đem chôn hoặc hỏa táng. Một câu hỏi đặt ra liệu ngày mất của người chết tính theo ngày nào? Cũng giỗ đầu cho cha mẹ vào ngày nào? Để giải đáp thắc mắc chúng ta cùng tìm hiểu qua bài viết sau đây.

Ngày giỗ còn được gọi là ngày húy nhật hay kỵ nhật, là ngày được tổ chức vào hàng năm vào ngày mất của ông bà, cha mẹ, người thân. Ngày giỗ là dịp để người còn sống tưởng nhớ đến người đã chết, vào ngày này con cháu thường tụ họp lại tổ chức mâm cơm cúng và ăn uống cùng nhau, tùy theo điều kiện kinh tế mỗi gia đình mà lễ cúng giỗ được tổ chức linh đình hay đơn giản, chủ yếu là ở tâm của người sống.

Đây là truyền thống tốt đẹp của người dân Việt Nam, uống nước nhớ nguồn. Trước ngày giỗ con cháu thường tụ họp, bàn bạc với nhau về cách thức tổ chức lễ, phân công công việc cho từng thành viên trong gia đình dòng họ, lên danh sách khách mời và đón tiếp. Ngày giỗ còn được chia ra làm giỗ đầu, giỗ hết và giỗ thường:

Giỗ đầu (hay còn gọi là lễ tiểu tường) là lễ giỗ vào ngày cha mẹ qua đời được đúng 1 năm, lễ giỗ này mọi người vẫn có tâm trạng đau thương và luyến tiếc đến người đã mất. Lễ giỗ được tổ chức một cách trang trọng con cháu vẫn mặc đồ tang hoặc đeo băng tang màu đen trên trang phục, một số gia đình vẫn nhờ các thầy về làm lễ hoặc niệm phật. Lễ giỗ đầu là ngày giỗ quan trọng nhất của người đã mất, con cháu xa gần đều cố gắng tụ họp về dự lễ.

Giỗ Hết hay còn gọi là lễ Đại Tường, là ngày giỗ được tổ chức sau ngày người mất được hai năm. Theo tục lệ thì thời gian để tang nười chết là 3 năm, nên ngày giỗ hết vẫn nằm trong thời kỳ con cháu còn để tang, tuy sự đau đớn khi mất người thân đã nguôi dần nhưng ngày giỗ này người ta vẫn tổ chức một cách trang nghiêm.

Sau lễ Giỗ Hết ba tháng gia quyến sẽ chọn ngày đẹp để làm lễ đoạn tang ( lễ hết tang/Đàm tế/Trừ phục). Vào ngày lễ này người ta sẽ đốt bỏ tất cả những đồ dùng trong tang lễ như : quần áo tang, khăn tang, băng tang, rèm bàn thờ, câu đối. Bát hương, bài vị, di ảnh người chết cũng được đem lên thờ cùng bàn với ông bà tổ tiên, bàn thờ vong được bỏ đi. Mộ phần của người chết cũng được sửa sang lại cho đẹp hơn.

Về phần người sống, sau khi đoạn tang trở về cuộc sống bình thường, có thể đến chúc tết dịp năm mới mà không lo mang lại đen đủi cho nhà họ, có thể tham gia các lễ hội vui chơi, người có vợ/chồng mất có thể lấy vợ khác chồng khác Sau lễ này người đang sống sẽ trở lại cuộc sống thường nhật, có thể tham gia các tổ chức hội hè, đình đám, vui chơi; người vợ có chồng chết có thể đi bước nữa.

Ngày nay, nhiều nơi đã rút ngắn thời gian để tang. Sau lễ giỗ hết họ thực hiện lễ đoạn tang hoặc thậm chí chỉ sau 100 ngày sau ngày mất (đối với những người hỏa táng) do quan niệm những người chết được hỏa táng thì đã sớm được “sạch sẽ” và có thể đưa di ảnh và bát hương lên bàn thờ chung của gia tiên.

Giỗ Thường hay còn gọi là ngày Cát kỵ (giỗ lành), là lễ giỗ được tổ chức cho người mất từ ngày họ ra đi tròn 3 năm và những ngày giỗ sau đó cũng được gọi là giỗ thường. Trong ngày giỗ thường, con cháu trong gia đình dòng họ vẫn tập trung lại tưởng nhớ đến người đã mất, nhưng mọi buồn đau đã lùi vào quá khứ, con cháu tụ tập quây quần và xem như một ngày hội họp con cháu gần xa. Thường thì ngày giỗ thường sẽ được tổ chức đơn giản hơn lễ Giỗ Đầu và Giỗ Hết.

Cúng giỗ đầu của cha mẹ là vào ngày nào?

Khi làm lễ cúng giỗ cho người thân nói chung và cúng giỗ đầu cho cha mẹ nói riêng, người ta thường tổ chức cũng lễ trong 2 ngày, một lễ được gọi là lễ tiên thường (Cáo giỗ) một lễ được gọi là chính kỵ (giỗ chính).

Lễ Tiên thường còn được gọi là lễ Cáo giỗ, được diễn ra trước ngày người mất 1 ngày, mục đích chính là để mời linh hồn người đã mất và vong linh của gia tiên nội ngoại về hưởng giỗ cùng con cháu, xin phép ông Công cho linh hồn của người đã mất và gia tiên được về nhà hưởng giỗ.

Thủ tục tiến hành: Người thân trong gia đình chỉ cần chuẩn bị một lễ nhỏ bao gồm vàng hương, rượu, nước lọc/nước nước dừa, hàn the, nước hoa…đem ra ngoài mộ phần, thắp hương, dọn mộ cho khang trang sạch sẽ, khấn mời linh hồn người mất, linh hồn người thân gia tộc về hưởng giỗ, đồng thời khấn xin thần linh, thổ địa cai quản nghĩa trang cho phép linh hồn người nhà mình được về cùng con cháu hưởng giỗ. Trong lễ tiên thường con cháu sắp sửa một chút vật phẩm để dâng ông bà tổ tiên nếm trước.

Lễ tiên thường được tổ chức vào ngay chiều ngày hôm trước lễ chính kỵ (ngày người mất), còn buổi sáng ngày hôm đó thường tiến hành lau dọn bàn thờ, bát hương cho gọn gàng sạch sẽ. Trong lễ Tiên thường, Linh Thần Thổ Địa phải đước khấn báo trước, rồi sau đó mới khấn mời Gia tiên. Đèn nhang phải được thắp trên bàn thờ từ ngày lễ tiên thường cho hết ngày giỗ chính kỵ.

Giỗ tiên thường tổ chức đối với các lễ giỗ cho người bề trên như ông bà cha mẹ, vợ chồng, anh chị….còn các lễ giỗ cho người bề dưới như bậc con, cháu, chắt…thì không cần. Đối với giỗ đầu của cha mẹ thì lễ tiên thường bắt buộc phải có và cần được tổ chức một cách long trọng, những gia đình giàu có còn có thể mời cả hàng xóm láng giềng đến tham dự ăn cỗ vào ngày này.

Theo học thuyết Âm Dương thì âm dương luôn có sự cân bằng, trong âm có dương, trong dương có âm, có sự biến đổi và chế hóa lẫn nhau, âm dương có hài hòa thì cuộc sống mới bình an. Biểu tượng bát cơm úp với quả trứng cũng có tính chất âm dương, phần bát cơm úp phía trên đại diện cho phần dương, phần phái dưới bát cơm đại diện cho âm. Phần lòng trứng trắng bên ngoài là dương, lòng đỏ bên trong là âm.

Về khấn bái, trong lễ chính kỵ gia chủ sẽ khấn mời linh hồn người chủ giỗ trước, sau đó đến mời gia tiên tiền tổ hai bên nội ngoại theo thứ tự ngôi thứ từ cao đến thấp, cuối cùng mới khấn mời thần linh bản thổ. Vậy việc cúng giỗ đầu cho cha mẹ cũng tuân theo các quy tắc trên. Cúng giỗ đầu cho cha mẹ vào hai ngày đó là: ngày trước ngày mất, sau một năm, gọi là lễ tiên thường và đúng ngày mất sau 1 năm gọi là lễ chính kỵ.

Theo nội dung được ghi trong sách Thọ Mai Gia Lễ thì ông cha ta có quan niệm “Ngũ đại mai thần chủ”, tức việc cúng giỗ chỉ cần thực hiện trong vòng năm đời “Ngũ đại đồng đường” tính từ đời con cháu chịu trách nhiệm làm giỗ: con (người cúng giỗ), bố mẹ, ông bà, cụ, kỵ. Các đời trên nữa thì gọi là tổ tiên không cúng giỗ riêng nữa mà góp lại vào các ngày đại lễ. Theo thuyết luân hồi thì sau 5 đời thì người chết đã được tái sinh nên không cần cúng giỗ nữa.

Văn khấn giỗ đầu cha mẹ

Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương. Con kính lạy Đức Đương cảnh Thành hoàng chư vị Đại Vương. Con kính lạy ngài Đông Trù Tư mệnh Táo phủ Thần Quân. Con kính lạy các ngài Thần linh, Thổ địa cai quản trong xứ này.

Con kính lạy chư gia tiên Cao Tằng Tổ tiên nội ngoại họ………………………… Tín chủ (chúng) con là:………………………………Tuổi…………………….. Ngụ tại:……………………………………………………………………………… Hôm nay là ngày……………tháng……….năm…………….(Âm lịch). Chính ngày Giỗ Đầu của………………………………………………………………

Năm qua tháng lại, vừa ngày húy lâm. Ơn võng cực xem bằng trời biển, nghĩa sinh thành không lúc nào quên. Càng nhớ công ơn gây cơ tạo nghiệp bao nhiêu, càng cảm thâm tình, không bề dãi tỏ. Nhân ngày chính giỗ, chúng con và toàn gia con cháu, nhất tâm sắm sửa lễ vật kính dâng, đốt nén tâm hương dãi tỏ tấc thành.

Thành khẩn kính mời………………………………………………………………… Mất ngày…………. Tháng………………năm…………………(Âm lịch) Mộ phần táng tại:……………………………………………………………………..

Cúi xin linh thiêng giáng về linh sàng, chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật, độ cho con cháu bình an, gia cảnh hưng long thịnh vượng. Tín chủ con lại xin kính mời các cụ Tổ Tiên, nội ngoại, Tổ Khảo, Tổ Tỷ, Bá thúc, Cô Di và toàn thể các Hương linh gia tiên đồng lai hâm hưởng. Tín chủ lại mời vong linh các vị Tiền chủ, Hậu chủ trong đất này cùng tới hâm hưởng. Chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin được phù hộ độ trì.

Phục duy cẩn cáo!