Bài Cúng Dường Tam Bảo / Top 15 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Apim.edu.vn

Chơn Cúng Dường Tam Bảo

Xưa, khi còn sanh tiền, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã ân cần dạy bảo chúng sanh hãy sáng suốt quy y Tam Bảo gồm: PHẬT – PHÁP – TĂNG mà nương tựa tu hành; vì vậy, cúng dường Tam Bảo là cúng dường Phật, cúng dường Pháp và cúng dường Tăng.

Phật tử thường sắm lễ vật dâng cúng Phật tại tư gia hay chùa chiền, gọi là hành lễ cúng dường. Những lễ vật cúng dường nên dùng gồm: nhang, đèn sáp, hoa (sen, huệ), quả, tịnh thủy.

Khi hành lễ cúng dường, chúng ta cần sửa soạn các món lễ vật cho tinh khiết, sắp đặt có thứ tự trên bàn thờ sao cho đơn giản mà trang nghiêm, tránh rườm rà, rối rắm. Ví dụ: ở giữa phía trong bàn thờ: đứng ngoài ngó vô, sắp hoa bên tay phải, quả bên tay trái, tịnh thủy ngay chính giữa. Cận phía trước bàn thờ, nhang thắp ở giữa, đèn sáp đốt hai bên (như dùng đèn điện thì miễn đèn sáp).

Ngoài ra, những ai phát tâm muốn thờ Phật tại tư gia nhưng không có điều kiện tài chánh thì quý vị có thể góp tịnh tài thỉnh tôn tượng/ảnh Phật cho họ, đồng thời có thể giúp họ kiến lập bàn thờ Phật tại gia sao cho trang nghiêm đúng Pháp, tạo duyên lành cho họ tu hành hướng Phật. Nếu làm được vậy với tâm trong sạch vô cầu, không mảy may nghĩ tưởng cầu phước hay ban ơn mong chờ đền đáp… thì đây cũng chính là cúng dường Phật Bảo cao quý.

Tuy nhiên, món lễ vật cần thiết và quý báu hơn hết chính là TÂM THÀNH, là sự TU HÀNH CHƠN THẬT của người con Phật. “Tam giả QUẢNG TU CÚNG DƯỜNG” là Hạnh Nguyện Phổ Hiền Vương, là kim chỉ nam soi đường lưu truyền cho hậu thế y giáo phụng hành. Chỉ có QUẢNG TU – tức sự tu hành chơn chánh từ tâm nguyện từ bi rộng lớn vì đại sự giải thoát sanh tử luân hồi của muôn vạn chúng sanh, khế hiệp với hạnh nguyện Chư Phật – mới là CHƠN CÚNG DƯỜNG CHƯ PHẬT KHẮP 10 PHƯƠNG.

Pháp Bảo là lời Phật dạy, là giáo lý chơn chánh, giúp hành giả chuyển mê khai ngộ như Tứ Diệu Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, Bát Chánh Đạo, Tứ Vô Lượng Tâm, Lục Độ… (xuất thế gian Pháp Bảo). Nay, vì muốn cho Phật Pháp cửu trụ Ta Bà, người con Phật phát tâm ấn tống in Kinh điển (thế gian trụ trì Pháp Bảo) phổ truyền sâu rộng đến mọi người, giảng giải Chánh Pháp giúp nhau hiểu Đạo mà tu hành, hướng đến con đường giác ngộ – giải thoát của chư Phật. Đó gọi là cúng dường Pháp Bảo hay Pháp thí, thuộc về hạnh Bố thí (Tài thí, Pháp thí, Vô úy thí) đầu tiên trong Lục Độ Ba-la-mật (Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí Huệ). Nên nhớ, cúng dường Pháp Bảo với tâm trong sạch vô cầu mới thật quý báu cao thượng.

Xuất thế gian Tăng Bảo tức là các bậc Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, A La Hán đã chứng quả vô sanh.

Thế gian trụ trì Tăng Bảo tức chỉ các Thầy Tỳ Kheo chơn chánh (Thanh-tịnh Tăng), hoàn toàn cắt ái ly gia, trường trai tuyệt dục, nghiêm trì tịnh giới, thiểu dục tri túc, đức hạnh thanh cao.

Do đó, cúng dường Tăng Bảo tức là cúng dường chư Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, A La Hán và các thầy Tỳ Kheo tu hành chơn chánh. Tuyệt đối không cúng dường cho những kẻ tà sư, giả tu, phạm giới, tà hạnh, mượn Đạo tạo Đời, có những hành vi che đậy, đích thực không phải Sa-môn nhưng hiện tướng Sa-môn, không sống Phạm hạnh lại giả hiện tướng có Phạm hạnh nhưng nội tâm hôi hám, đầy những tham dục, sở hành bất tịnh… Lại càng không nên gần gũi, thân cận vì chẳng khác gì lầm gởi Huệ mạng tu hành của mình cho Tà đạo, ắt sẽ lầm đường lạc lối, phá kiến đọa tâm, chuốc khổ về sau. Nên nhớ: Giới Đức nghiêm trì, thân-khẩu-ý hành theo lời Phật dạy, Từ Bi Hỷ Xả, sống đời Phạm hạnh, thiểu dục tri túc, an bần thủ Đạo, chuyên tu Thiền Định, vô cầu – vô ngã độ sanh là những chuẩn mực căn bản giúp nhận biết tâm hạnh của vị Tỳ kheo chơn chánh hay tà mị, tu hành chơn thật hay giả dối, có đáng là bậc mô phạm cho thập phương tín chúng nương tựa, noi gương hay không (?). Quý Phật tử nên cẩn trọng suy xét!

Những lễ vật cúng dường Tăng Bảo gồm: thực phẩm, y phục, sàng tòa (ngọa cụ) và y dược (thuốc men). Ngoài tứ sự cúng dường trên, Phật tử tuyệt đối không cúng dường bất kỳ gì khác như tiền, xe, điện thoại… mà trái Pháp. Ngược lại, Tăng lữ tu hành càng không được nhận bất kỳ sự cúng dường nào khác, càng không được tích góp làm của riêng hay lạm dụng mà phạm Giới, trái với tôn chỉ “xuất gia, giải thoát” hạnh người tu Phật.

– “Tam giả QUẢNG TU cúng dường”. Đó là CHƠN CÚNG DƯỜNG cao quý nhất dâng lên Tam Bảo. Người con Phật, tu sĩ cũng như cư sĩ, hãy noi theo Hạnh Nguyện Phổ Hiền mà thúc liễm thân tâm, tu hành chơn chánh, cúng dường chư Phật.

– Hành lễ cúng dường là phương tiện nơi Sự mà hiển Lý, nơi Tướng hiển Tự Tánh nên hành giả phát tâm cúng dường cần trì giữ Tâm trong sạch, thanh tịnh, vô ngã, vô cầu, tu hành chơn thật. Được thế thì Lý – Sự viên dung, sự cúng dường mới được viên mãn.

– Lễ vật cúng dường Phật Bảo ở chùa hay tại tư gia chỉ là: nhang, đèn sáp, hoa (sen, huệ), quả, tịnh thủy, nhưng quý nhất chính là tâm thành, tu chơn. Lễ vật cúng dường Tăng Bảo, tức bậc Thanh-tịnh Tăng tu hành chơn chánh, chỉ là: thực phẩm, y phục, sàng tòa (ngọa cụ) và y dược (thuốc men). Ngoài ra, Quý Phật tử có thể tùy hỷ thỉnh tôn tượng/ảnh Phật cho người có tâm muốn thờ tại tư gia, hay in Kinh ấn tống, Pháp thí rộng rãi đến mọi người để tất cả sớm giác tâm quy Phật.

– Thanh quy chốn Tòng lâm thời chư Tổ là: tu sĩ hàng ngày “lên núi khai hoang, xuống ruộng cày bừa”, “một ngày không làm, một ngày không ăn”, nào dám mống tâm an ổn nhàn lạc, thong dong biếng lười sa đọa, thọ của đàn na sống lần lựa qua ngày mà đắm chìm trong dục lạc thiêu thân. Do đó, dẫu xuất gia chuyên tu giải thoát nhưng nếu có thể sắp đặt một nền tảng kinh tế tự túc, không thọ của bá tánh thập phương, lại tùy cơ duyên đem Phật Pháp từ bi ứng dụng cho đời cải ác vi thiện, vừa tự giác vừa giác tha trong thời buổi hiện nay thì thật là quý báu vô cùng. Ngược lại, nếu không thể tự túc cho đời sống tu hành của mình thì tu sĩ chỉ có thể thọ hưởng tứ sự cúng dường mà thôi, tuyệt đối không được nhận tiền bạc… làm của riêng hay cung cấp cho quyến thuộc mà hủy phạm Giới Luật, Huệ mạng chẳng còn, ắt khổ đọa muôn kiếp về sau.

– Còn đó lời Phật dạy để tất cả chúng ta cùng chiêm nghiệm, hành trì:

“Sau khi Ta nhập diệt, các con hãy lấy Giới Luật làm Thầy, y theo Chánh Pháp mà tu hành, tự thắp đuốc mà đi”.

” Giới còn là Ta (Phật Pháp) còn vậy”.

“Tin Ta mà không hiểu Ta là phỉ báng Ta”.

(nếu chẳng dụng Tâm mà chấp tướng (chấp ngã, chấp Pháp) khi tu Phật thì người ấy đang hành Tà đạo, trái chướng Tự Tánh nên giác ngộ mãi còn xa)

(Kinh Pháp Cú)

Mong tất cả tỉnh tâm tu Phật!

Diệu Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật _()_ Diệu A Di Đà Phật _()_

Cúng Dường Tam Bảo Như Thế Nào?

Thấy người làm việc lành việc phải, mình tán thán bằng lời, hoặc góp một phần công, giúp một phần của để thành tựu công việc lành ấy. Quả là người này đã có lòng lành đáng quí đáng mến. Huống nữa, Tam Bảo là cây cầu đưa chúng sanh từ bến mê qua bờ giác, Tam Bảo là con thuyền cứu vớt chúng sanh đang chìm trong bể khổ đưa đến bờ Niết-bàn, Tam Bảo là ngọn đèn sáng soi đường cho chúng sanh khỏi lạc trong rừng tối vô minh. Người phát tâm tán trợ bồi bổ tô đắp cho Tam Bảo thường còn ở thế gian thì công đức biết bao kể xiết. Vì Tam Bảo thường còn ở thế gian, chúng ta phát tâm cúng dường, quả là việc làm tự lợi lợi tha đầy đủ.

ĐỊNH NGHĨA CÚNG DƯỜNG TAM BẢO

Cúng dường là nuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường. Tam Bảo là Phật, Pháp và Tăng. Phật đã quá khứ, chỉ còn lại hình tượng. Pháp bắt nguồn từ chữ Phạn đến chữ Hán còn nằm sẵn trong kho tàng nhà chùa. Tăng là những tu sĩ tu theo Phật học chánh pháp. Chính những vị này có bổn phận gìn giữ hình tượng Phật còn, phiên dịch giảng giải chánh pháp. Tam Bảo đều quí kính, song hệ trọng nhất là Tăng. Nếu không có Tăng ai gìn giữ chùa chiền, ai giảng dạy chánh pháp? Thế nên, cúng dường Tam Bảo là nói chung, mà hệ trọng là Tăng. Tăng chúng còn là Tam Bảo còn, Tăng chúng mất thì Tam Bảo cũng vắng bóng. Vì thế mọi sự cúng dường đều đặt nặng vào Tăng, với mục đích Tam Bảo tồn tại ở nhân gian.

CÚNG DƯỜNG SAI LẠC

Thế mà có những người cúng dường một cách lệch lạc mất hết ý nghĩa cúng dường. Như có một Phật tử đi chùa đến thầy Trụ trì xin cúng năm đồng, liền đó được nghe hỏi “cầu cái gì”, Phật tử ngơ ngác. Thầy Trụ trì hỏi thêm “cầu an hay cầu siêu”, Phật tử bóp đầu suy nghĩ đáp “cầu siêu”, rồi biên một dọc tên vào sổ cầu siêu. Phật tử này như thế, Phật tử khác cũng thế. Đã thành thông lệ, cúng chùa là phải cầu siêu hay cầu an. Cầu an cầu siêu cho bản thân mình, cho gia đình mình, cho thân thuộc mình, sự cúng ấy quả là vì mình. Vì mình mà đi chùa, vì mình mà cúng chùa đích thực là tham lam ích kỷ. Nếu mang một tâm niệm tham lam ích kỷ đến với đạo, chưa xứng đáng một Phật tử. Cái hư dở này tại ai? Chính tại người hướng dẫn đã chỉ lối sai lạc.

Đến phần ông thầy, do Phật tử cầu siêu cầu an nên có tiền. Đồng tiền này sau một thời kinh cầu nguyện xong, ông tự coi như trọn quyền sử dụng không có tánh cách e dè sợ sệt gì cả. Nếu một buổi lễ cầu nguyện được Phật tử cúng nhiều tiền, thế là ông mặc tình phung phí, vì tự cho do công tụng cúng của mình mà được. Thế thì đời tu hành cốt vì giác ngộ giải thoát, vô tình trở thành người tụng kinh mướn. Người tu cốt xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo, biến thành kẻ thụ hưởng. Trái với mục đích xuất gia, trở thành kẻ hư hèn, chính vì nhận đồng tiền phi pháp. Cầu nguyện là một điều phụ thuộc nhỏ nhít trong Phật pháp, vì nó không phải là chân lý. Thế mà, người ta thổi phồng nó lên, để rồi cả đời người tu gần như hết tám mươi phần trăm (80%) Phật sự đều nằm trong những lễ cầu nguyện. Truyền bá một điều không phải chân lý, ắt hẳn chánh pháp phải chịu suy đồi. Người có trách nhiệm hướng dẫn Phật tử mà một bề cổ xúy cho sự cầu cúng, là đưa họ vào rừng sâu mê tín, gây thêm lòng tham lam ích kỷ cho họ. Quả là kẻ tạo thêm tội lỗi, chớ không phải người tu hành.

CÚNG DƯỜNG ĐÚNG PHÁP

Người Phật tử chân chánh khi phát tâm cúng dường Tam Bảo, chỉ vì mong cho Tam Bảo thường còn ở thế gian để đưa chúng sanh ra khỏi đau khổ mê lầm. Nếu đến chùa, Phật tử cúng năm mười đồng, Tăng, Ni có hỏi cầu điều gì, Phật tử nên thưa: “Chúng tôi chỉ cầu mong chư Tăng, chư Ni nhận món tịnh tài này để có phương tiện an ổn tu hành, hầu truyền bá chánh pháp lợi ích chúng sanh.” Chỉ vì Tam Bảo vì chúng sanh mà cúng dường, đây là tâm hồn cao thượng quảng đại vị tha. Làm việc bố thí cúng dường cao đẹp như vậy công đức làm sao giới hạn đuợc. Vì Tam Bảo thường còn ở thế gian để làm lợi ích cho chúng sanh, trong chúng sanh đã có bản thân mình và thân quyến mình rồi. Quên mình chỉ nghĩ đến toàn thể chúng sanh, không phải lòng lợi tha vô bờ bến là gì? Với một lòng vị tha rộng lớn như vậy, dù một số tiền nhỏ, một vật dụng mọn đem cúng dường cũng là phước đức vô biên. Cho nên nói “Phật dụng tâm”.

Tăng, Ni nhận sự cúng dường chân chánh của Phật tử, tự nhiên thấy mình có một trọng trách lớn lao vô cùng. Làm sao tu hành tinh tiến? Làm sao truyền bá chánh pháp lợi ích chúng sanh? Để xứng đáng thọ nhận những thứ cúng dường của Phật tử, chỉ cần nỗ lực tu hành, cố gắng học tập để hiện tại và vị lai làm lợi ích chúng sanh. Nếu hiện đời, Tăng, Ni, không làm tròn hai việc này, có thể mai kia phải mang lông đội sừng để trả nợ tín thí. Biết như thế, hiểu như thế, Tăng, Ni làm sao dám lơi lỏng lơ là trong việc tu hành học tập. Thế là, nhờ sự cúng dường chân chánh của Phật tử thúc đẩy Tăng, Ni đã cốù gắng càng cố gắng hơn trong nhiệm vụ thiêng liêng cao cả của chính mình. Thấy mình thiếu nợ, mới cố gắng lo đền trả bằng cách nỗ lực tu hành và độ sanh, đây là mục tiêu đức Phật bắt Tăng, Ni thọ nhận đồø cúng dường của Phật tử. Tăng, Ni là người có bổn phận hướng dẫn tín đồ cúng dường chân chánh đúng pháp thì, cả thầy trò đều cao thượng và lợi ích lớn. Chúng ta phải gan dạ đập tan những tập tục sai lầm, đừng vì quyền lợi, đừng vì cảm tình, khiến cho chánh pháp đi lần vào chỗ mờ tối suy tàn. Chúng ta là người lãnh đạo, không phải là kẻ theo đuôi tín đồ để cầu được nhi?u lợi dưỡng. Đã dám bỏ nhà đi tu, tức là dám nhận chịu mọi sự đói rách nghèo nàn, mọi sự gian truân khó khổ, vô lý vì sự ăn mặc mà đi ngược lại sơ tâm siêu thoát của mình.

Tuy nhiên, nói thế không có nghĩa chúng tôi hoàn toàn phủ nhận sự cầu nguyện. Chúng ta thấy rõ cầu nguyện chỉ là trợ duyên nhỏ xíu, kẻ đối tượng cầu nguyện chỉ được lợi ích một hai phần mười, như trong kinh nói. Chúng ta đã thừa nhận “nhân quả nghiệp báo” là chân lý thì sự cầu nguyện là ngoại lệ, có kết quả cũng tí xíu thôi. Cổ vũ cho điều phi chân lý, để cho người xao lãng chân lý, là việc làm trái với chánh pháp. Vì lòng hiếu thảo của Phật tử, buộc lòng chúng ta phải cầu nguyện, khi cầu nguyện chúng ta phải cảnh cáo rằng: “Việc làm này là phụ thuộc không đáng kể, kết quả ít lắm.” Có thế mới khỏi lệch lạc trên con đường hoằng hóa lợi ích chúng sanh. Đã thấy cầu nguyện là việc phụ, chúng ta đừng vì nó làm mất thì giờ tu học của Tăng, Ni, làm mất thì giờ truyền bá chánh pháp.

LỢI ÍCH CÚNG DƯỜNG

Cúng dường Tam Bảo được lợi ích tùy tâm niệm người Phật tử. Nếu vì mình và thân thuộc mình mà cúng dường, phước đức cũng theo tâm lượng hẹp hòi ấy. Nếu vì Tam Bảo thường còn và lợi ích chúng sanh, phước đức sẽ theo tâm lượng rộng rãi thênh thang này. Người Phật tử chân thật thì, bao giờ hay bất cứ việc gì cũng vì lợi ích chúng sanh. Đừng khi nào để lệch lạc mục tiêu tối thượng ấy. Chư Phật ra đời cũng vì chúng sanh, truyền bá chánh pháp cũng vì chúng sanh, chúng ta đền ơn chư Phật cũng vì cứu độ chúng sanh. Đó là tâm niệm rộng lớn cao cả của người tu theo đạo Phật. Vì chúng sanh mà cúng dường Tam Bảo, quả thật người Phật tử sống đúng chánh pháp, hành đúng chánh pháp. Hành động đúng chánh pháp thì công đức lượng đồng với chánh pháp, nghĩa là kiếp kiếp đời đời không mất. Nếu dạy Phật tử làm phước tạo công đức, Tăng, Ni nên dạy đúng tinh thần này.

(Trích lược từ sách Bước đầu học Phật của HT. Thích Thanh Từ)

Ý Nghĩa Của Việc Dâng Hoa Cúng Dường Tam Bảo

Dâng hoa cúng dường PhậtBậc thương xót muôn loàiDâng hoa cúng dường PhápÐạo nhiệm mầu cứu khổDâng hoa cúng dường TăngRuộng phước không gì bằngHoa tươi đẹp sẽ tànThân giả hợp sẽ tanNguyện tu mau chứng đạtQuả chân thường giải thoát (1).

Phật tử dâng hoa cúng dường đến Đức Phật để tưởng nhớ đến ân đức của Ngài. Vì lòng từ thương xót chúng sanh trong ba cõi, Ngài đã từ bỏ thế gian, ra đi tầm đạo giải thoát để tế độ chúng sanh. Thế Tôn là Người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc (2).

Dâng hoa cúng dường Pháp bảo để tưởng nhớ đến ân đức của Giáo pháp, những lời dạy của Thế Tôn được lưu lại trong suốt 45 năm hoằng pháp độ sinh và được gìn giữ trong Tam tạng kinh điển. Pháp bảo chính là diệu dược có công năng tiêu diệt các bệnh phiền não của chúng sanh. Những ai thực hành theo Pháp bảo sẽ được mọi sự an lành, tiến hóa trong đời này và đời sau. Sau khi Thế Tôn Niết-bàn, không phải là chúng ta không còn Đạo sư hướng dẫn, chính những gì Ngài đã giảng dạy sẽ trở thành Đạo sư cho các hàng đệ tử noi theo. Này Ānanda, Pháp và Luật, Ta đã giảng dạy và trình bày, sau khi Ta diệt độ, chính Pháp và Luật ấy sẽ là Ðạo sư của các ngươi (3).

Dâng hoa cúng dường Tăng bảo, những đệ tử xuất gia của Đức Phật, các ngài đã đắc quả Thánh hoặc còn phàm, là mô phạm của quần sanh, là vô thượng phước điền của chư thiên và nhân loại. Chư Thánh hiền tăng là những vị Thánh đệ tử đã đắc đạo quả giải thoát, gồm Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán; còn các vị phàm tăng là những vị đang nỗ lực thực hành Giáo pháp để tiến tới đạo quả giải thoát trong ngày vị lai. Những vị ấy vừa là việc tu học cho bản thân mà cũng là thực hành hạnh nguyện sứ giả Như Lai, đem giáo pháp thuyết giảng cho những người có tâm cầu học đạo giải thoát. Vì thế, các ngài cũng xứng đáng được cung kính, cúng dường.

Cúng dường hương hoa đến Tam bảo, chọn hoa tốt, chưng hoa đẹp để thể hiện lòng thành kính và tưởng nhớ ân đức Tam bảo. Rồi hoa đó sẽ úa tàn, cũng vậy thân người này cũng phải già, bệnh và chết. Đó chính là quy luật của thế gian, không ai tránh khỏi được. Chính Đức Phật đã thuyết như vậy. Pháp sanh lên do nhân/ Như Lai giảng nhân ấy/ Nhân diệt thời Pháp diệt/ Đại Sa-môn nói vậy (4).

Vạn vật đều vô thường, không có gì trường cửu. Điều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt (5). Tất cả mọi sự vật được cấu thành đều phải hư hoại và diệt vong, thân tâm của chúng ta cũng vậy. Vì thế, cúng dường hoa thơm cũng đừng dính mắc đến sắc và hương, hãy lấy đặc tính sớm nở tối tàn của hoa để khéo tác ý và tu tập. Bởi cứ bám chấp vào những thứ không có thật, chúng sanh mãi đau và khổ không thôi. Cho nên hãy nỗ lực tu tập và nguyện tu mau chứng ngộ quả chân thường giải thoát.

Dẫu biết có thân đây là khổ, tuy nhiên, cũng chính do thân này, người trí sẽ biết tận dụng để tạo thêm nhiều thiện pháp và tu tập, còn kẻ mê thì mải chạy theo dòng đời, mà bản chất của nó vốn dĩ là vô thường, đi đến hủy diệt, vô hộ, vô chủ, vô sở hữu, ra đi cần phải từ bỏ tất cả, và thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho tham ái (6). Ví như một người thợ làm tràng hoa thiện nghệ, sau khi gom các thứ hoa dồn thành đống lớn, rồi từ đó kết thành nhiều tràng hoa khác nhau, cũng vậy nhờ thân sanh tử này mà chúng ta làm thêm nhiều việc phước.

Như từ một đống hoaNhiều tràng hoa được kếtCũng vậy, thân sanh tửLàm được nhiều thiện sự (7).

Lại nữa, trong các loại hương hoa, chúng chỉ bay thuận theo chiều gió chứ không thể bay ngược lại. Tuy vậy, có một loại hương thơm có thể bay xuôi, bay ngược và cả lên không trung thiên giới nữa, đó chính là hương thơm đức hạnh.

Một buổi chiều nọ, trong khi đang ngồi tư duy quán tưởng, Tôn giả Ānanda chợt nghĩ: Thế Tôn có nói đến ba loại hương rất ưu việt là hương từ rễ cây, hương từ lõi cây và hương từ hoa. Cả ba thứ hương đều bay theo chiều gió. Không biết có thứ hương nào có thể bay ngược gió, hoặc vừa bay thuận vừa bay nghịch gió? Tôn giả đến hỏi Thế Tôn, và Ngài trả lời: Này Ānanda, ở đây nơi thôn quê hay thành thị nào có một nữ nhân hay nam nhân quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, tránh xa sự sát sanh, tránh xa sự trộm cắp, tránh xa sự tà dâm, tránh xa sự nói dối, tránh xa sự uống rượu và các chất say, là người có giới đức, là người có thiện pháp. Tâm đã dứt bỏ sự bỏn sẻn, sự nhiễm ô. Tuy còn tại gia mà có tâm dứt bỏ, xả thí, thỏa thích trong sự bố thí không nhơ bợn, biết thông cảm đến người xin, hoan hỷ chia sớt vật thí đến tất cả mọi người. Thì từ nơi thôn quê hay thành thị đó, cho đến các phương hướng, chư Sa-môn và Bà-la-môn hằng ca tụng rằng: Nơi chốn thôn quê hoặc thành thị đó, có nữ nhân ấy, có nam nhân ấy là người quy y Phật… hoan hỷ chia sớt vật thí đến tất cả mọi người. Này Ānanda, đó là giống hương mà hương của nó bay xuôi lẫn ngược chiều gió vậy. Sau đó, Thế Tôn liền thuyết kệ:

Hương các loài hoa thơmKhông ngược bay chiều gióNhưng hương người đức hạnhNgược gió khắp tung bay (8).

Một hôm, Tôn giả Mahākassapa (Đại Ca-diếp) xuất định sau bảy ngày nhập diệt thọ tưởng định, đi ra ngoài với ý định khất thực. Lúc đó, Thiên chủ Sakka (Ðế Thích) muốn cúng dường Tôn giả, liền biến thành một người thợ dệt già lụm khụm, thiên hậu Sujātā cũng biến thành một bà già. Rồi Sakka dùng thần lực tạo một ngõ hẻm thợ dệt, và ngồi quay sợi. Lúc ấy, Tôn giả Mahākassapa đang đi vào thành, vẫn tâm niệm dành phước cho người nghèo. Ngài nhìn quanh rồi chú ý đến hai ông bà già, nghĩ rằng già cả lụm cụm như thế mà phải làm việc thì hẳn là người nghèo, chỉ cần một vá cơm sớt cho ngài là có thể tế độ cho họ có phước. Do đó Tôn giả tiến đến họ. Hai ông bà ngỏ lời cúng dường đặt vật thực vào bát. Lập tức, phần cúng dường đó tỏa mùi thơm ngát cả kinh thành Rājagaha. Tôn giả thắc mắc sao trông ông lão này yếu đuối thiếu thốn mà thức ăn lại dồi dào như của Thiên chủ Sakka. Khi quán xét biết rõ là Thiên chủ Sakka, Trưởng lão trách rằng:

– Ông đã cướp đoạt của người nghèo cơ hội tạo công đức.

– Bạch Tôn giả, có người nào nghèo hơn con chăng?

– Sao ông lại nghèo, khi đang hưởng phú quý trên cung trời?

– Bạch Tôn giả, lý do như sau. Trước khi Phật xuất hiện ở thế gian con đã tạo nhiều công đức.

Khi Phật xuất hiện ở thế gian, có ba vị trời cùng đẳng cấp với con, vì tạo nhiều công đức nên được nhiều oai lực hơn con. Vậy, bạch Tôn giả, ai nghèo hơn?

– Nếu đúng như thế thì từ đây đừng đánh lừa ta để cúng dường nữa.

– Con có được công đức hay không nếu lừa dối để cúng dường?

– Có, đạo hữu ạ.

– Nếu đúng thế, bạch Tôn giả, con có bổn phận phải tạo nhiều công đức.

Nói xong Sakka chào Trưởng lão, đi nhiễu quanh nói lên câu kệ: Ôi cúng dường, cúng dường Ba-la-mật, đã khéo dâng ngài Mahākassapa được rồi!

Với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhiên, Thế Tôn nghe Thiên chủ Sakka trong khi bay trên không, đã ba lần ngâm câu kệ trên, khi ấy Thế Tôn liền nói:

Ít giá trị hương nàyHương già-la, chiên-đànChỉ hương người đức hạnhTối thượng tỏa thiên giới (9).

Hương đức hạnh của các vị giới đức cao quý khiến cho cả thiên giới phải nghiêng mình kính nể thì nói chi là nhân loại chúng ta. Các ngài an trú trong giới hạnh và tu hành nên càng được kính nể. Hãy học những hạnh lành của các ngài để noi theo tu tập. Tu phải hành, cũng giống như nói là phải làm, chứ nói mà không làm thì lời nói vô dụng, không đem đến kết quả hay lợi ích chi cả, ví như hoa có sắc nhưng chẳng có hương thơm.

Như vậy, dâng hoa cúng dường Tam bảo chính là cơ hội để mình học từ hoa những bài học vô thường, hương thơm đức hạnh, khéo nói thì phải khéo làm… Từ việc dâng hoa cúng dường thường ngày, nếu khéo tác ý thì việc cúng dường ấy cũng trở thành một pháp tu thiết thực, mang đến an lạc cho hàng Phật tử.

Cúng Dường Tam Bảo Trà Ướp Sen Tây Hồ

Lâu nay, nhiều Phật tử tìm đến Trà sen Minh Cường để lựa chọn và cúng dường Tam bảo trà ướp sen Tây Hồ, bao gồm cúng dường cho các quý thầy chùa, chư tăng. Đây là một hành động đẹp của Phật tử xa gần và đẹp hơn nữa nếu ta biết cúng dường trà sen đúng cách!

Tại sao nên cúng dường Thầy trà ướp sen Tây Hồ

Thầy bảo, Tam Bảo là ngọn đèn sáng soi đường cho chúng sanh khỏi lạc trong rừng tối vô minh. Người phát tâm tán trợ bồi bổ tô đắp cho Tam Bảo thường còn ở thế gian thì công đức biết bao kể xiết. Vì Tam Bảo thường còn ở thế gian, chúng ta phát tâm cúng dường, quả là việc làm tự lợi lợi tha đầy đủ.

Cúng dường Tam bảo trà ướp sen Tây Hồ nuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tam Bảo là Phật, Pháp và Tăng. Tam Bảo đều quí kính, song hệ trọng nhất là Tăng. Thế nên, cúng dường Tam Bảo là nói chung, mà hệ trọng là Tăng, cho các Thầy chùa mà ta yêu quý, người luôn đưa cho ta những lời chỉ bảo hay, mở những con đường sáng để ta đi.

Rõ ràng, Cúng dường Thầy trà ướp sen Tây Hồ là một lựa chọn đúng đắn. Các Thầy chùa, chư tăng đều thích thưởng trà, đặc biệt là Trà ướp sen Tây Hồ. Trà sen Minh Cường nghĩ rằng, hoa sen gắn liền với Đức phật. Chúng ta đều quen thuộc với hình ảnh Đức phật, Quán thế âm Bồ tát ngồi trên đài sen thơm. Một chén trà sen cũng giúp ta thức tỉnh, thâu nhận những tinh hoa đất trời, lòng thiện nhân lên, lan tỏa.

Thầy bảo, người Phật tử chân thật thì, bao giờ hay bất cứ việc gì cũng vì lợi ích chúng sanh. Vì chúng sanh mà cúng dường Tam Bảo, quả thật người Phật tử sống đúng chánh pháp, hành đúng chánh pháp. Hành động đúng chánh pháp thì công đức lượng đồng với chánh pháp, nghĩa là kiếp kiếp đời đời không mất. Một gói trà ướp sen Tây Hồ hoặc mươi búp trà ướp bông sen tươi tặng Thầy cũng vô lượng và rất ý nghĩa là vậy.

Cúng dường Tam bảo trà ướp sen Tây Hồ đúng cách

Thầy bảo, có thứ cúng dường sai lạc khi cúng dường với mục đích cầu an cầu siêu cho bản thân mình, cho gia đình mình, cho thân thuộc mình, sự cúng ấy là tham lam ích kỷ. Lúc ấy, dù có cúng trà ướp sen Tây Hồ cao cấp hàng chục triệu một kg thì cũng chẳng ý nghĩa gì. Khi ta mang một tâm niệm tham lam ích kỷ đến với đạo, chưa xứng đáng một Phật tử!

Thầy bảo rằng, người Phật tử chân chánh khi phát tâm cúng dường Tam Bảo, chỉ vì mong cho Tam Bảo thường còn ở thế gian để đưa chúng sanh ra khỏi đau khổ mê lầm. Khi cúng dường Thầy trà ướp sen Tây Hồ, chúng ta tâm niệm rằng, chúng tôi mong quý Thầy, quý chư tăng đón nhận chén trà sen ngát hương này sẽ hỗ trợ thầy an ổn tu hành, hầu truyền bá chánh pháp lợi ích cho cộng đồng, xã hội.

Vậy đó, cúng dường trà ướp sen Tây Hồ đúng cách cho chư Tăng, cho Thầy chùa hẳn nhân lên lòng vị tha trong mỗi chúng ta, đó là phước đức vô biên, đó là Phật tử chánh đạo, thực hành chánh niệm. Chúng ta tu theo đạo Phật là đi trên con đường sáng, ánh sáng giác ngộ đến đâu thì bóng đêm mê lầm tan đến đấy.

Cúng dường Tam bảo trà ướp sen Tây Hồ là một món quà quý, cho hương đạo lan tỏa, bay xa; cho trí huệ khởi phát tinh tấn. Đó cũng là vật phẩm cúng dường Phật ý nghĩa.