Bạn đang xem bài viết Tìm Hiểu Nguyên Phi Ỷ Lan Qua Tài Liệu Mộc Bản Triều Nguyễn được cập nhật mới nhất trên website Apim.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Tìm hiểu Nguyên phi Ỷ Lan qua tài liệu Mộc bản triều Nguyễn
Mộc bản Triều Nguyễn là những bản gỗ khắc chữ Hán – Nôm ngược dùng để in ra thành sách, được sử dụng rộng rãi dưới thời phong kiến. Với những giá trị đặc biệt về nội dung, nghệ thuật, kỹ thuật chế tác và tính duy nhất của khối tài liệu này vào ngày 31/7/2009 tổ chức UNESCO đã công nhận Mộc bản triều Nguyễn là Di sản tư liệu thế giới. Nhân dịp kỷ niệm ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3, chúng tôi xin giới thiệu đến các nhà nghiên cứu và độc giả một số tấm Mộc bản khắc về Nguyên phi Ỷ Lan – người phụ nữ có đóng góp quan trọng đối với sự phát triển rực rỡ về nhiều mặt của vương triều nhà Lý cũng như nền văn hóa nước nhà.
Bản gốc, bản dập Mộc bản khắc về Nguyên phi Ỷ Lan
Từ cô gái hái dâu đến địa vị tôn quý nhất
Ỷ Lan là người họ Lê, quê ở hương Thổ Lũy (Thổ Lỗi), Thuận Thành, Bắc Ninh. Nguồn gốc chuyện tiến cung của bà đã được sử sách ghi chép lại như sau: “Ỷ Lan Nguyên phi người họ Lê, quê ở Thổ Lũy thuộc tỉnh Bắc Ninh. Vua Thánh Tông nhà Lý tại vị lâu ngày, tuổi đã tới 40 mà chưa có con nối dõi. Cầu tự nhiều nơi vẫn chưa thấy kết quả. Nhân đi tham quan tại các chùa nhiều nơi trong nước, tới đâu trai gái trong vùng đều rủ nhau tới chiêm vọng nhà vua không ngớt. Chẳng dè nhà vua bắt gặp một cô gái hái dâu đang đứng dựa trong đám cỏ lan. Liền triệu vào cung, và sau được nhà vua yêu quý, bèn đặt tên là “Ỷ Lan Phu nhân” (Phu nhân đứng dựa cỏ lan)”. (Sách Ngự chế Việt sử tổng vịnh tập, Quyển 3, mặt khắc 2).
Mùa xuân, năm 1066, Ỷ Lan Phu nhân hạ sinh hoàng tử Lý Càn Đức, được phong làm Thần phi. Năm 1068, bà lại sinh ra Minh Nhân Vương, Vua Lý Thánh Tông phong Thần phi làm Nguyên phi, đứng đầu các phi tần trong hậu cung chỉ sau Hoàng hậu.
Khác với các hậu phi khác, Ỷ Lan không lấy việc trau chuốt nhan sắc làm chính mà chỉ miệt mài đọc sách, khổ công học hỏi nên chỉ trong một thời gian ngắn triều thần đã kinh ngạc trước sự hiểu biết uyên thâm về nhiều mặt của bà. Với hai lần buông rèm nhiếp chính, sử sách đã ghi nhận bà có công lao to lớn trong việc ổn định và phát triển đất nước dưới vương triều nhà Lý.
Năm Kỷ Dậu (1069), vua Lý Thánh Tông thân chinh cầm quân đi đánh giặc phương Nam đã trao quyền nhiếp chính, điều khiển chính sự ở triều đình cho Ỷ Lan. Cũng năm ấy, nước Đại Việt không may bị lụt lớn, mùa màng thất bát, nhiều nơi sinh loạn, thử thách quá lớn đối với vị nữ nhiếp chính còn rất trẻ. Nhưng nhờ kế sách trị nước đúng đắn, quyết đoán, táo bạo, loạn lạc được dẹp yên, dân đói được cứu sống.
Vua đánh giặc lâu ngày không thắng bèn giao binh quyền cho Lý Thường Kiệt, đem một cánh quân nhỏ quay về. Dọc đường về nhà vua nghe quan lại và dân chúng ca ngợi Nguyên phi có tài trị nước, an dân. Sách Ngự chế Việt sử tổng vịnh tập chép:“Nhà vua nói: một người đàn bà còn làm được như thế, ta phái tu mi nam tử nghĩ sao? Thế rồi nhà vua đem quân trở lại đánh Chiêm Thành lần nữa. Quả nhiên thắng trận, bắt được vua Chiêm là Chế Củ”.(Quyển 3, mặt khắc 3).
Năm Nhâm Tý (1072), Lý Thánh Tông băng hà, Hoàng Thái tử Càn Đức lên ngôi, tức vua Lý Nhân Tông. Khi ấy, vua mới lên 7, Ỷ Lan tiếp tục buông rèm nhiếp chính lần 2, vừa giúp việc triều chính vừa làm nhiệm vụ dạy dỗ con thơ. Trong khi vua còn thơ ấu, Ỷ Lan điều khiển cả quốc gia, cùng Tể tướng Lý Thường Kiệt chủ trương đánh quân Tống xâm lược. Hai lần quân Tống đến (1075, 1077), vua Lý Nhân Tông chưa quá 10 tuổi. Ỷ Lan đã cùng Thái sư Lý Đạo Thành lo việc binh lương chuyển ra tiền tuyến. Trong lúc Tổ quốc lâm nguy, Ỷ Lan đã cùng triều thần nhà Lý giữ vững giang sơn, xã tắc, công ấy đời sau còn nhắc mãi.
Ỷ Lan không chỉ sửa sang việc quốc chính, tăng cường quân đội, chăm lo việc mở mang dân trí, ban hành nhiều điều ích quốc lợi dân mà còn khuyên bảo vua làm điều thiện trị điều ác. Bà hiểu những gian nan của người nông dân khi việc nông trang không có trâu cày bừa, bà đã đề xuất lệnh cấm trộm trâu và giết trâu bừa bãi. Vua Lý Nhân Tông đã ra lệnh phạt rất nặng những người trộm trâu và giết trâu, phạt cả vợ con và hàng xóm vì tội không tố giác. Việc này đã được ghi chép lại trong sách Đại Việt sử ký toàn thư.
Là một người phụ nữ sáng danh trong lịch sử nước nhà – Nguyên phi Ỷ Lan ngoài tài trị quốc an dân, chống giặc ngoại xâm, còn đóng vai trò quan trọng trong việc chấn hưng Phật giáo. Bà là người sùng Phật, am hiểu về Phật pháp và đã cho xây dựng nhiều chùa chiền ở khắp nơi.
Tuy nhiên, trong cuộc đời của người phụ nữ huyền thoại này cũng không tránh khỏi những “góc khuất”, thậm chí là “tỳ vết”. Đó chính là việc bức hại Thái hậu Thượng Dương và 72 cung nữ vào năm 1073. Cũng vì thảm án kể trên mà những nhà chép sử khi xưa tỏ ra khá dè dặt khi đề cập đến Nguyên phi Ỷ Lan. Ngày nay, các nhà nghiên cứu nhận định rằng trong sự nghiệp làm chính trị và đặc biệt là dưới chế độ phong kiến thì đó cũng là chuyện thường thấy.
Ngày 25 tháng 7 năm Đinh Dậu (1117), Ỷ Lan qua đời, thọ 74 tuổi, dâng thụy là Phù Thánh Linh Nhân Hoàng Thái hậu, mai táng ở Thọ Lăng, phủ Thiên Phúc.
Ỷ Lan với thân phận người phụ nữ dưới chế độ phong kiến
Bên cạnh công lao ổn định và phát triển đất nước, gần đây các nhà nghiên cứu bàn nhiều về một khía cạnh khác ít được nhắc đến trong cuộc đời lẫy lừng của Nguyên phi Ỷ Lan. Bà là người phụ nữ đầu tiên trong lịch sử phong kiến Việt Nam có một “chương trình quy mô quốc gia” giải quyết tình trạng “không vợ, không chồng” của người dân.
Xuất thân là một thôn nữ, hiểu thấu những khổ đau của người phụ nữ nông dân vì nghèo khổ phải đem thân gán nợ cho nhà giàu, bà đã cho xuất tiền ở kho Nội phủ chuộc họ về, gả cho những người đàn ông góa vợ hoặc người nghèo khó không đủ tiền cưới vợ. Sách Đại Việt sử ký của sử gia đời Trần là Lê Văn Hưu có viết “Năm Quý Mùi niên hiệu Long Phù năm thứ 3 (1103), mùa xuân, Thái hậu phát tiền ở kho Nội phủ để chuộc những con gái nhà nghèo đã phải bán đi ở đem gả cho những người góa vợ”. Cũng từ sự kiện này, sử gia Ngô Sỹ Liên đã có lời bàn: “Con gái nghèo đến nỗi phải đợ mình làm mướn, con trai nghèo đến nỗi không vợ, đó là cùng dân của thiên hạ. Thái hậu đổi mệnh cho họ cũng là việc chân chính vậy”. Việc này cũng được khắc trong Mộc bản triều Nguyễn.
Ở địa vị tột đỉnh hiển vinh nhưng Ỷ Lan vẫn không quên cảnh ngộ của những người phụ nữ nghèo hèn, những người đã và đang sống cuộc đời còn cơ cực hơn thuở hàn vi của bà. Thương cảm cho bao số phận cung nữ phí hoài tuổi thanh xuân trong cung cấm, bà đã cho xuất cung rất nhiều người và gả chồng, tạo lập gia đình cho họ.
Điều gì khiến một người phụ nữ có được những suy nghĩ khác lạ nhưng cũng đầy tính nhân bản trong thời kỳ phong kiến hà khắc về tình cảm cá nhân như vậy? Phải chăng chính cốt cách vốn có của bà cùng những cảnh đời bà đã gặp qua khi còn là thôn nữ, những hiểu biết về xã hội, về nhân tình thế thái đã giúp bà hiểu, đồng cảm hơn với những thân phận con người cùng khổ, đặc biệt là thân phận người phụ nữ. Thường thì sự giàu có về kinh nghiệm sống, giàu có về tri thức mới đem lại sự phong phú về mặt tâm hồn. Bên cạnh đó các nhà sử học còn cho rằng, sở dĩ bà có được một tâm hồn như thế một phần cũng nhờ vào tư tưởng bình đẳng của Phật giáo. Và trên hết đó là trái tim của một người phụ nữ vĩ đại không chỉ mong muốn giải phóng và mang lại hạnh phúc cho phụ nữ mà còn mang lại sự bình ổn về giới, nền tảng cơ bản để xã hội tồn tại trong một hình thái đẹp nhất – cân bằng âm dương. Để không ai bị ẩn ức, không ai bị cô đơn, không ai thấy mình là vật thừa của con tạo. Bà là người phụ nữ đầu tiên trong lịch sử phong kiến Việt Nam quan tâm đến phụ nữ nói riêng và sự cân bằng về giới nói chung.
Trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử, bên cạnh những đấng anh hào thì dân tộc ta cũng đã sản sinh nhiều bậc nữ nhi mà những đóng góp của họ đã được sử sách và người đời ghi nhận, tạo nên truyền thống vẻ vang của phụ nữ Việt Nam. Như trong bức thư gửi phụ nữ nhân ngày 8/3/1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết “Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp rạng rỡ”.
Hồ sơ H97/4, Mộc bản Triều Nguyễn, Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV.
Ngô Sỹ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, 2004, NXB Khoa học Xã hội.
Hà Văn Thư – Trần Hồng Đức, Tóm tắt Niên biểu lịch sử Việt Nam, 2009, NXB Văn hóa Thông tin.
Lê Thị Huệ (Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV)
Nguyên Phi Ỷ Lan Và Những Giai Thoạị
Ỷ Lan – có thuyết cho rằng tên thật của bà là Lê Thị Yến Loan – là một cô gái hái dâu, chăn tằm ở ngoại thành Thăng Long thời Lý. Ỷ Lan ra đời ở làng Thổ Lỗi (làng Sủi sau đổi là Siêu Loại, nay là xã Dương Xá, huyện Gia Lâm – Hà Nội) – năm nào không rõ, sử sách chỉ ghi lờ mờ: bà mất ở kinh thành Thăng Long vào năm 1117 – trên dưới 70 tuổi – thời Lý Nhân Tông. Sách Mộng khê bút đàm của Thẩm Hoạt có chép “Nhật Tôn (tức Lý Thánh Tông) mất, Càn Đức (Lý Nhân Tông) lên, dùng quan là Lý Thượng Cát (Lý Thường Kiệt) và mẹ là thái phi Lê Thị Yến Loan cùng coi việc nước”.
Thuở ấy vào năm Quý Mão (1063) Lý Thánh Tông đã đến bốn mươi tuổi. Vua chưa có con trai để truyền ngôi báu, đêm ngày triều thần lo ngại. Vua bèn thân hành đi cầu tự khắp các chùa chiền, miếu mạo nhưng không hiệu nghiệm, Lý Thánh Tông lo lắng cho triều đình nhà Lý và xã tắc Đại Việt. Một sớm mùa xuân, vua về viếng thăm chùa Dâu (tổng Dương quang phủ Thuận Thành) dân làng mở hội nghênh giá. Thánh Tông hoàng đế cùng hòa vào dân chúng trong hội làng đông vui. Trai gái, già trẻ các làng đều ra rước vua. Đoàn xa giá của vua đi đến đâu, các làng lân cận nô nức, đổ xô về phía ấy. Duy chỉ cô thôn nữ xinh đẹp của làng Sủi vẫn điềm nhiên hái dâu, xem việc ngự giá của vua không có quan hệ gì đến mình. Cô gái vẫn miệt mài bên bãi dâu, mặc cho đoàn ngự diễu qua. Lý Thánh Tông lấy làm lạ, bèn cho đòi người con gái có vẻ “kiêu căng” đang đứng bên nương dâu kề gốc lan ấy đến trước kiệu rồng để hỏi. Vua ngồi trên kiệu trông thấy lấy làm lạ, truyền gọi lại hỏi, người con gái ứng đối trôi chảy mạch lạc, không có vẻ gì là luống cuống sợ hãi. Qua câu chuyện, Vua Lý hết sức chú ý đến giọng nói thanh thoát như tiếng chuông của cô ta, và khi Vua tỏ lời khen, thì nàng mỉm cười mà hát một câu hát như sau:
Người thanh thì tiếng cũng thanh Chuông kêu đánh ở góc đình cũng kêu.
Vua thấy cô gái ăn mặc quê mùa, nhưng cử chỉ đoan trang dịu dàng, lời lời phong nhã, đối đáp phân minh, lễ nghĩa khác hẳn những người con gái mà vua đã từng gặp. Vua yêu vì sắc, trọng vì nết, nên cho cô gái theo long giá về kinh đô. Cô gái làng quê được đón về cung vua ấy là Yến Cô Nương xinh đẹp, nết na của làng Siêu-Loại (Sủi). Nhưng Lý Thánh Tông là ông vua chăm việc nước, luôn luôn thân chinh dẹp giặc. Vua ít nhàn rỗi để ngự tới cung Ỷ Lan. Đương lúc cung Ỷ Lan vắng tiếng đàn, tiếng sáo, thì bỗng một hôm sau khi Thánh Tông đi trảy hội chùa Thổ Lỗi, cung Ỷ Lan lại nhộn nhịp hơn xưa. Yến Cô Nương nhờ “thông minh vốn sẵn tư trời” được học tập, trau dồi đã trở thành một cung phi “nổi danh tài sắc một thời” kinh sử làu thông, văn chương uyên bác. Lý Thánh Tông đem lòng yêu mến, phong làm Ỷ Lan phu nhân, lấy tên cung Ỷ Lan và cũng có ý kỷ niệm cô gái đứng tựa bên gốc lan, khi tuân lệnh đến bệ kiến buổi đầu ở làng Sủi (Siêu Loại).
Sau đó (1066), Ỷ Lan sinh hạ được một hoàng tử lấy tên là Kiền Đức (Càn Ðức). Càn Đức trán cao, tay dài quá gối, thông minh, tuấn tú, vua càng yêu dấu hơn, Yến Loan được tôn là Ỷ Lan nguyên phi – đứng đầu các cung phi, sau thái hậu; con trai được lập làm thái tử.
Năm Kỷ Dậu (1069), Lý Thánh Tông thân chinh đi đánh giặc ngoại xâm. Trong khi vua cùng Lý Thường Kiệt ở ngoài biên cương, Ỷ Lan nguyên phi đảm đang, chăm lo quốc sự, trị nước điều khiển có kỷ cương khiến thần dân thán phục, cõi nước được yên vui. Lý Thánh Tông từ ngoài biên ải đánh trận lâu ngày không thắng, chán nản rút quân quay về. Về chưa đến nơi, nghe dân chúng Châu Cư Liên (Tiên Lữ, Hải Hưng) ca ngợi nguyên phi Ỷ Lan ở nhà trị nước rất giỏi, lòng dân cảm hóa, được suy tôn là bà Quan Âm, vua Thánh Tông tự trách mình: “Nguyên phi là đàn bà còn làm được như thế, ta là đàn ông há thua sao! Vua lại tiếp tục trở ra đánh giặc, lần này thắng trận. Năm đó, mùa hạ vua đem quân về ca khúc khải hoàn, đại xá cho thiên hạ, giảm thuế khóa, phát tiền lụa, thóc cho dân nghèo. Ỷ Lan rất nhân từ dạy con ngoan, đào tạo con trở thành một nhà vua anh minh sau này; lại lo cho dân giàu nước mạnh, yêu thương nhân dân được mọi người kính phục.
Năm Nhâm Tý (1072) tháng giêng mùa xuân, Lý Thánh Tông mất ở điện Hội Tiên. Hoàng thái tử Kiền Đức lên ngôi vua, tức vua Lý Nhân Tông. Khi ấy vua mới lên bảy, tôn mẹ là ỶLan nguyên phi lên làm Linh Nhân hoàng thái hậu. Ỷ Lan vừa giúp coi triều chính, vừa làm nhiệm vụ bà mẹ dạy dỗ con. Trong khi vua còn thơ ấu, Ỷ Lan điều khiển cả quốc gia, cùng tể tướng Lý Thường Kiệt chủ trương đánh quân Tống xâm lược. Hai lần quân Tống đến (1075, 1077) vua Lý Nhân Tông chưa quá 10 tuổi, Ỷ Lan đã cùng Thái sư Lý Đạo Thành lo việc binh lương chuyển ra tiền tuyến. Trong lúc Tổ quốc lâm nguy Ỷ Lan đã cùng Lý Thường Kiệt giữ vững giang sơn, xã tắc; công ấy đời sau còn nhắc mãi.
Ỷ Lan xuất thân là một thôn nữ, nên hiểu thấu những khổ đau của người phụ nữ nông dân vì nghèo khổ phải đem thân gán nợ cho nhà giàu, bà cho xuất của trong kho chuộc về, và xây dựng chồng con hạnh phúc cho họ. Về việc này Ngô Sĩ Liên đã có lời bàn: “Con gái nghèo đến nỗi phải đợ mình làm mướn, con trai nghèo đến nỗi không vợ đó là cùng dân của thiên hạ. Thái hậu (tức Ỷ Lan) đổi mệnh cho họ cũng là việc nhân chính vậy!”. Ỷ Lan không những sửa sang việc quốc chính, tăng cường quân đội, bố phòng, chăm lo việc mở mang dân trí, việc thi cử học hành và còn ban hành nhiều điều ích quốc lợi dân. Ỷ Lan còn khuyên vua làm điều thiện, trị điều ác. Bà hiểu những gian nan của nông dân khi việc nông trang cày bừa không có trâu cày.Ỷ Lan bảo vua phạt tội nặng những kẻ trộm trâu và giết trâu bừa bãi; có lần bà đã nói với vua: “Gần đây người kinh thành và làng ấp đã có kẻ trốn đi chuyên nghề trộm trâu. Nông dân cùng quẫn. Mấy nhà phải cày chung một trâu. Trước đây, ta đã từng mách việc ấy, và nhà nước đã ra lệnh cấm. Nhưng nay việc giết trâu lại có nhiều hơn trước”. Nhân Tông bèn ra lệnh phạt rất nặng những người trộm và giết trâu, phạt cả vợ con và hàng xóm vì tội không tố giác.
Sống trong lầu son, gác tía mà lúc nào Ỷ Lan cũng không quên đến người nghèo, Ỷ Lan vẫn chăm sóc đến đời sống cùng cực của nông dân lao động. Cũng như Lý Thánh Tông, Ỷ Lan thường phát chẩn thóc lúa cho kẻ nghèo. Bà sùng đạo Phật, ưa làm việc từ thiện lập nhiều đình chùa.
Bà thường lui tới các đình chùa, trao đổi với các tăng ni thuyết giáo đạo Phật. Năm 1096, bà bày cỗ chay ở chùa Khai Quốc (tức sau là chùa Trấn Quốc ở Thăng Long) thết các sư. Tiệc xong, bà ngồi kê cứu đạo Phật với các vị sư già học rộng. Bà hỏi về nguồn gốc đạo Phật ở các nước và ở ta. Bà có óc phán đoán đòi hỏi các sư “nói có sách mách có chứng”. Chính nhờ câu chuyện giữa bà và các vị sư thời Lý (sách Thiên uyển tập anh ngữ lục đời Trần còn ghi lại tường tận chuyện này), mà đến nay ta còn biết gốc tích sự truyền bá đạo Phật vào nước ta. Có lần bà đến chùa Phổ Minh (Từ Liêm) tranh luận với sư Thông Biến về những điều của Phật giáo. Bà cũng có làm những bài kinh, có câu kệ còn truyền lại đến ngày nay:
Sắc là không, không tức sắc Không là sắc, sắc tức không Sắc? Không? thôi mặc cả, Mới thấu được chân tông (*)
Là một nữ nông dân nghèo, được hưởng phú quý vinh hoa, bà vẫn cho là điều “sắc sắc, không không”, đó là phù vân… Bà là một người phụ nữ vương giả, ngọc ngà vàng son không làm vẩn đục tâm hồn bà, cũng là một phụ nữ hiếm có trong lịch sử nghìn năm trước.
Ngày 25 tháng 7 năm Đinh Dậu, Hội tường đại khánh năm thứ 8 (1117) đời Lý Nhân Tông, bà mất, được hỏa táng, dâng thụy là Phù Thánh Linh Nhân Hoàng thái hậu, mai táng ở Thọ Lăng phủ Thiên Đức. Hiện nay còn miếu thờ bà ở hai xã Cẩm Đới và Cẩm Cầu huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.
Quần thể đền thờ bà Nguyên Phi Ỷ Lan
Quần thể di tích đền thờ Nguyên phi Ỷ Lan còn có tên gọi chùa “bà Tấm”, đền “bà Tấm” – chùa Cả, đền Cả. Đền được xây dựng từ cuối thế kỷ XI, là nơi phụng thờ bà ngay chính trên quê hương Người. Chùa có tên “Linh nhân Tự Phúc Tự” do chính Linh Nhân hoàng thái hậu (Ỷ Lan) xây dựng khánh thành vào tháng 3 năm Ất Mùi 1115, đền kiến trúc theo lối cung đình, thời Lý, có 72 cửa thuộc loại cổ nhất nước ta.
Trong đền và chùa hiện còn nhiều hiện vật quý và hiếm. Nổi tiếng là đôi sư tử điêu khắc bằng đá, Sư tử được tạc từ 1 khối đá lớn cao 1.2m, rộng 1.36m trong tư thế nằm phủ phục, đường nét đặc biệt mềm mại, tạo cho chúa sơn lâm một vẻ đẹp, vừa uyển chuyển, vừa oai hùng mạnh mẽ – các chi tiết: đôi mắt to, lồi hẳn ra ngoài, ẩn dưới đôi lông mày rậm, mũi hở, hàm răng đều đặn, răng nanh to, nhọn và khoẻ, nhất là chân mập, có những móng cong sắc, quắp chặt, khiến cho người xem thấy rõ chúa sơn lâm ẩn tàng sức mạnh phi thường.
Tuy nhiên bằng nghệ thuật điêu khắc khéo léo tuyệt vời, bằng cách sử dụng nhiều hoạ tiết đan móc khi thì gợi nhớ tựa lưng vào nhau thành đường viền quanh miệng, khi thì to sù ở trên vai, khi lại xếp thành những bông hoa hé nở ở móng chân, khiến cho người xem có ấn tượng con vật đang sống vẫn thở nhịp nhàng. Cũng khác những con sư tử thường thấy điêu khắc ở các đình chùa; sư tử trong đền thờ Ỷ Lan đang vờn hòn ngọc, đồng thời trên trán được trổ chữ “vương” khẳng định vị trí chúa tể muôn loài, bảo vệ vật báu của đất nước. Đây là một công trình nghệ thuật điêu khắc tuyệt tác, một hiện vật cổ quý và hiếm ở Việt Nam, và còn cả ở khu vực Đông Nam Á. Trong cung còn 2 khám cổ thời Mạc hiện tìm thấy, các máng chạm trên khám như hoa lá, rồng phượng đều có giá trị về nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc Việt Nam.
Trong đền và chùa “bà Tấm” còn có một thành bậc bằng đá liền khối điêu khắc rồng lân thời Lý đang chạy xuống, dài 1.3m, cao 0.8m hành chục tấn; và nhóm tượng ba ông tam thế ngồi trên đầu hai con sư tử cao 4m, tạc bằng những khối đá rất tinh xảo, cũng là những hiện vật độc đáo đã trải qua gần 9 thế kỷ, còn lại đến ngày nay.
Đặc biệt còn đôi câu đối ở đền từ cổ xưa ghi rõ: “Thập bát tử, diêu phỏng thế tại tam truyền chiêu lênh thục” – “Bách dư sở tự quán địa lưu cố trạch tối linh thanh”. (có nghĩa: đời nhà Lý thứ 3 kén được người con gái đẹp, có đức và có tài. Trên đất nước ta có trên 1 trăm nơi thờ nhưng đây chính là quê hương của Bà được lưu truyền đến ngày nay và rất linh thiêng).
Tượng Nguyên Phi Ỷ Lan được tạc rất đẹp, khi Bà là Nguyên Phi cùng tượng 6 vị cung nữ trong triều. Hiện nay nước ta có 72 nơi lập đền thờ bà. Nhưng đền chùa và đền thờ Ỷ Lan được xây dựng ở Dương Xá ngay chính trên quê hương Bà. Đền Nguyên Phi Ỷ Lan không chỉ là nơi thờ phụng một danh nhân lịch sử văn hoá nổi tiếng của nước nhà mà còn là điểm di tích cách mạng rất đáng trân trọng của dân tộc. Trong thời kỳ tiền khởi nghĩa đây là nơi được đón các đồng chí Trung ương và xứ uỷ Bắc Kỳ như Hoàng Văn Thụ, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp…đi về hoạt động. Hàng năm nhân dân trong vùng đã kéo về mở hội truyền thống suốt 3 ngày (19, 20, 21 tháng 2 âm lịch) tại Dương Xá.
Hội đền bà Tấm – Nguyên Phi Ỷ Lan
Đền Bà Tấm nay thuộc xã Dương Xá, huyện Gia Lâm ngoại thành Hà Nội, xưa thuộc làng Thổ Lỗi, huyện Siêu Loại, phủ Thuận An, tỉnh Bắc Ninh.
Dương Xá gồm ba thôn là Dương Đình, Dương Đá và Dương Đanh (Tam Dương), xa nữa là ba ngõ trong một làng, đền Bà Tấm nằm trên đất của thôn Dương Đá. Trước đây riêng Dương Xá là một xã, nhưng nay hợp với Thuận Quang và Yên Bình thành xã Dương Xá mới.
Trong hậu cung đền có tượng bà Tấm (Nguyên Phi Ỷ Lan) và sáu tượng nữ khác gọi là lục bộ. Gian ngoài có đặt một số đồ thờ và chiếc ngai, trên ngai có bài vị ghi “Lý triều đệ tam hoàng thái hậu” và một vài bia ký ở hai gian bên cạnh. Đặc biệt có bộ khám long đình rất đẹp mang niên đại thời Mạc.
Hàng năm ngày tiệc lệ chính là 19/2 âm lịch, ngày hội lớn là 25/7, tương truyền là ngày giỗ bà. Ngoài ra vào các dịp xuân thu, những ngày sóc vọng đều có lễ trong đền.
Xưa kia hội đền bà Tấm rất lớn, không phải chỉ có Dương Xá và Thuận Quang tổ chức, mà cả tổng Dương Quang cũ (gồm chín xã suốt từ xã Sủi (Phú Thị) cho tới xã Văn Lâm (Hải Hưng) và những làng cấy ruộng hậu của đền.
Trong đền còn giữ được tấm bia ghi rõ tên các làng cấy ruộng hậu của đền với số lượng cụ thể. Do hội khá lớn, nên thường phải năm năm mới tổ chức một lần. Hội cuối cùng, theo trí nhớ của dân làng, được tổ chức vào năm 1939, nhiều người còn nhớ cả tên người được giải cờ người năm đó là ông Trần Nhật Tân.
Trước đây chính hội là từ 19 đến 22/2 âm lịch, nhưng thực chất người ta đã rục rịch từ ngày 16 và đến tận 25/2 mới hết hội. Ngay từ tiệc đầu xuân dân làng đã tụ hội tại đền để chuẩn bị hội xuân tế lễ cẩn cáo với Bà, mong phù hộ cho làng. Dân làng chọn cử các tiên chỉ, tổng cờ, ban tế cùng các việc khác cho ngày hội.
Ngày 19/2 âm lịch tương truyền là ngày sinh của bà Tấm. Ngày hội được mở đầu bằng một đám rước long trọng – rước nước. Đám rước khởi hành từ đền Bà Tấm lên tới giếng nước cạnh chùa làng Sủi (Phú Thị) cách đền khoảng 2km.
Đi đầu đám rước là cờ ngũ hành, tiếp đến là Tổng cờ, rồi đến chiêng, trống, bát bửu, liền sau đó là long đình rước bà Ỷ Lan (bài vị), có những người phục dịch theo kiệu. Đường đi từ đền theo đường 179 ngày nay lên làng Sủi.
Sau kiệu Bà là kiệu đựng chóe dùng lấy nước. Các cụ già còn nhớ trước kia trong đền có một chiếc chóe bằng sứ Nhật Bản rất cao và to, nhưng nay đã bị mất. Ngoài ra là kiệu của các thôn thuộc Dương Xá và tất cả các làng cấy ruộng nhà đền.
Do vậy mà đám rước rất lớn và dài, bởi vì ruộng đất lộc của bà trải rộng tới tận Nghĩa Trai, Bình Trù, Liên Mỹ… Bà cũng được coi là Mẫu nghi thiên hạ. Do qui mô của đám rước dài và lớn như vậy nên nó kéo dài tới bốn năm tiếng đồng hồ mới rước được nước về tới đền.
Trong lúc diễn ra cuộc rước nước, thì từ các thôn cũng tiến hành rước lễ vật ra đền để tế lễ. Sau khi kiệu Bà và nước được đưa vào đền yên vị, các bô lão năm thôn được cử vào ban tế tiến hành kiểm tra lễ vật rất nghiêm ngặt.
Lễ vật để tế lễ trong ngày hội hoàn toàn là trầu, rượu. Từ thượng cổ năm nào cũng vậy có chăng thêm thì chỉ có bánh gai, bánh mật mà thôi.
Tương truyền việc làm oản xôi thờ cũng phải rất tinh khiết. Phải dùng nước ở giếng Quán Đôi, đầu thôn Dương Đình, gánh về nhà trước đó ba bốn ngày để thật trong, khi đó mới đem ra vo gạo và thổi xôi, như vậy mới đảm bảo độ tinh khiết. Sau khi đã xem xét lễ vật một cách kỹ lưỡng, cuộc tế lễ bắt đầu. Trong “Lý triều đệ tam hoàng đế” bản chữ Hán còn chép rõ bản văn tế Hoàng thái hậu về mùa xuân ở đền.
– Triều Lý, Hoàng đế thứ ba Ỷ Lan linh ứng, dung mạo thơm tho, đức hạnh đoan trang, trí hòa hiền hậu, trinh tiết phép lành, lừng danh nhân hậu… giúp nước đầy phúc, nghĩa đẹp, một mực hiền hòa đôn hậu, dẹp hết nạn, yêu nước; đoan trang điềm lành, cứu đời yên dân, giúp nước bảo vệ sự nghiệp, gây dựng cơ đồ, vun trồng nền ơn, ban phúc, phát của… đức lớn lừng danh, hành vi tao nhã, giữ nề nếp, yên dân giữ nước, lòng nhân đức mở rộng kéo dài không nghỉ. – Rất linh Hoàng thái hậu ngôi trên, rằng có lễ tế trong mùa xuân. – Kính mong Hoàng thái hậu xét đến chỗ tối tăm, Đoan trang thuần túy công ơn ấy ghi lại ức năm, muốn kỷ. Nay gặp thời lành, tế mùa xuân, lễ mọn, tình thâm, kính cẩn, xin được chiếu cố, ban phúc, giúp nước thịnh vượng, giúp cứu vớt dân cư ấm no.
Xin tâu trình”
Chắc chắn văn tế này được làm về sau và tới nay không rõ vào ngày hội nội dung bài tế có giống như trên không, song ít nhất đó cũng là cứ liệu để thấy được niềm mong ước cầu xin của dân làng đối với Bà. Sau cuộc lễ chính thức của các cụ trong hội đồng, ra vào không ngớt là các cuộc dâng lễ của dân làng và khách thập phương. Ngày hội đầu tiên kéo dài cho đến khuya trong không khí nghiêm trang tại đền cùng các cuộc vui ngoài sân và khu vực xung quanh.
Tương truyền sau khi tế lễ xong ngày hôm đó cũng như buổi hôm sau, lễ vật được chia ra làm đôi, riêng Dương Đá (là nơi sinh ra Bà) được một nửa, nửa kia mới được chia cho các thôn còn lại trong xã. Riêng ông chủ tế được biếu 60 phẩm oản và 60 quả chuối.
Những cụ già đều khẳng định hội xưa không có chi tiết về kiệu và võng lọng của ông bán dầu trong đám rước ngày hội (người mà theo truyền thuyết đã báo trước cho Ỷ Lan biết sẽ trở thành hoàng hậu). Tuy nhiên theo Bắc Ninh dư địa chí của Đỗ Trọng Vĩ, (mục cổ tích) khi nói về miếu Lý Thái hậu lại nhắc đến chi tiết này như sau: “Người con gái làng Dương Xá hái dâu trong nương. Có một ông lão bán dầu trông thấy trên đầu cô có đám mây tía liền đến bảo cô ta đi gặp vua. Người con gái từ chối nói: “Mẹ tôi sai tôi đi hái dâu chứ không sai đi xem vua” .
Ông lão nài thêm: “Sau này nếu quả cô được quí hiển thì cho tôi võng lọng đi trước”. Đến lúc đó, cô gái mới chịu nghe theo ông lão đến chỗ vua ngự… Lý Nhân Tông lên ngôi, tôn cô làm hoàng thái hậu. Nhớ lời ông bán dầu, mỗi khi ngự giá lại cho võng lọng của ông bán dầu đi trước. Về sau, dân vẫn giữ lệ cũ. Hàng năm ngày nhập tịch mở hội, vẫn rước một cái kiệu đỏ để không và một đôi lọng xanh đi trước kiệu thần, không dám thay đổi. Ngày 20/2 hội cũng bắt đầu bằng những cuộc rước.
Song lần này là rước Thành hoàng và lễ vật của các thôn thuộc Dương Xá và những nơi ăn lộc ruộng của đền bái vọng dâng lễ. Trừ kiệu của bốn thôn thuộc Dương Xá và Thuận Quang được vào trong đền, còn tất cả các kiệu của những làng khác đều phải đứng bên ngoài cổng đền (chỗ đường 5 bây giờ) bái vọng vào. Lễ vật được chuyển vào trong đền.
Tại sân đền còn có tục phất cờ tổng, truyền rằng nhất là vào những năm trời âm u, múa cờ là để xua tan mây ám cho trời quang mây tạnh. Thuận Quang là làng được quyền lựa chọn tổng cờ cho hội hàng năm. Tổng cờ cũng được lựa chọn cẩn thận, là người không tang chế, đẹp người, khỏe mạnh và nhanh nhẹn.
Ngoài ra còn có hai thủ hiệu trống và chiêng. Cả thủ hiệu cờ và thủ hiệu trống, chiêng đều mặc đẹp và phải tập luyện từ trước. Các động tác và điệu múa của họ cũng giống như hiệu cờ, hiệu trống và hiệu chiêng ở hội Gióng. Hiệu cờ cũng quì, nhảy múa ba lần như ba ván ở hội Gióng. Lá cờ cũng dài như ở hội Gióng, nhưng tổng cờ phải tập luyện cẩn thận, thuần thục, tránh để cờ lùng nhùng mà cuốn vào cán, như vậy sẽ bị phạt vạ rất nặng và có lỗi với Thánh. Do đó mà các tổng cờ luôn luôn phải chú ý trong khi luyện tập.
Tại bãi Xây ở trong đền, ngày trước rất rộng và cây cối um tùm, mát mẻ, là nơi diễn ra cuộc đấu cờ người. Người đẹp nhất được chọn làm tướng. Mỗi quân cờ đều có một chiếc ghế đầu để ngồi. Riêng tướng cờ được che thêm một chiếc lọng. Người chơi đánh nước nào thì người đóng vai quân cờ chuyển chỗ theo nước đánh. Cứ như vậy ván cờ diễn ra căng thẳng với sự đấu trí của người chơi, nhưng lại hấp dẫn người xem không chỉ vì các nước cờ tài ba mà còn bởi các màu sắc và sự thanh tú của các nam nữ đóng quân cờ. Cuộc đánh cờ phân thắng bại cho các địch thủ kéo dài cho tới hết hội. Đến cuối hội người ta mới xác định rõ người thắng và trao giải cho người nhất cuộc .
Mỗi năm hội đều có phường hát ở các nơi đến đăng cai hát giữ cửa đền, suốt từ 19/2 đến hết hội. Thường thường các phường hát đến xin, địa phương tín nhiệm phường nào thì cho phép họ tới hát giữ cửa đền cho đến khi rã đám mới thanh toán tiền cho họ. Ngoài ra các phường chèo, tuồng khác cũng đến góp vui cho hội thêm sôi nổi. Trong hội còn có các trò chơi khác như tổ tôm điếm, đấu vật, chọi gà, đốt pháo và thời pháp thuộc có cả hát cô đầu… Cứ như vậy lễ hội đền bà Tấm kéo dài cho đến hết ngày 2l/ 2 âm lịch. Ngày 22/2 là ngày tế rã đám và kết thúc hội, cũng vào ngày đó các giải vật, giải cờ mới phân ngôi nhất nhì và làm lễ trao giải .
1.Trong các làng thờ Nguyên phi Ỷ Lan thì hội ở Dương Xá có qui mô lớn nhất. Hội có rước nước từ trên Sủi (Phú Thị) với đám rước lớn gồm cả tổng Dương Quang xưa và các làng ăn lộc đền Bà Tấm.
Nếu như ở Như Quỳnh (Hải Hưng) hay chùa Dạm (Nam Sơn, Quế Võ, Bắc Ninh), Phú Thị (Gia Lâm, Hà Nội) nhất mực mọi người đều cho chỉ thờ Nguyên phi Ỷ Lan, thì tại Dương Xá, bà Tấm và Nguyên phi chỉ là một và có một quá trình lịch sử dài từ một hình tượng cô Tấm lam lũ và thông minh đến vị Nguyên phi tài ba, tháo vát. Chỉ có Dương Xá kiêng chữ Tấm gọi là bổi, Cám gọi là đớn.
2. Vào dịp hội, cả Dương Xá, Như Quỳnh và Phú Thị đều rước giao hiếu và cả ba nơi đều trân trọng yêu quí Mẫu nghi thiên hạ của mình. Cũng dễ nhận ra điều đó vì Thổ Lỗi trang xưa bao gồm đất đai suốt từ Sủi (Phú Thị) cho tới Văn Lâm, Văn Giang, Hải Hưng ngày nay. Cả ba làng trên đều thuộc trang Thổ Lỗi ấy, do vậy không lấy làm lạ khi xuất hiện tâm thức kính trọng, cả ba làng đều coi Nguyên phi Ỷ Lan là người của quê mình.
Chi tiết ông bán dầu ở hội làng Ghênh (Như Quỳnh) nhắc đến đoạn cô Tấm dựa bên khóm lan khi đi hái dâu và gặp vua để thành hoàng hậu sau này. Tục bông sòng ở hội làng Phú Thị (Sủi) nhằm kể lại sự tích đầu thai của vua Lý Nhân Tông và cuối cùng là những nghi thức và lễ vật của ngày hội nói lên quãng đời cuối cùng của Nguyên phi chuyên tâm vào việc xây dựng chùa chiền, làm điều thiện, tu nhân tích đức nơi cửa phật.
4. Những năm gần đây, hội đền Bà Tấm ngày càng trở thành một lễ hội lớn. Khu vực đền đã được tu sửa khang trang hơn, đẹp hơn. Ngày hội được sự tổ chức khá chu đáo của chính quyền địa phương và nhân dân trong xã. Nhiều trò vui dân gian được khôi phục lại như tổ tôm điếm, chọi gà… Một số sinh hoạt mới được tổ chức…Trong một khu vực đền hơn hai hécta, các trò chơi được bố trí hợp lý cho nên đã thu hút người xem rất đông. Dương Xá lại là nơi gần Thủ đô, nằm cạnh đường quốc lộ số 5, do đó khách trẩy hội cũng rất tiện lợi, vì vậy khách đến hội mỗi năm một đông thêm.
Địa danh Trâu Quỳ có từ tích truyện con trâu của bà Nguyên Phi Ỷ Lan
Tháng 1 năm Nhâm Tý ( 1072), vua Lý Thánh Tông qua đời, thái tử Càn Đức mới 6 tuổi lên nối ngôi, đó là vua Lý Nhân Tông ( 1072 – 1127). Thái tử Càn Đức là con đẻ của Ỷ Lan nguyên phi, bà được tôn phong là Linh Nhân thái phi, còn hoàng hậu họ Dương được tôn phong là Dương thái hậu. Luật xưa quy định, hoangg đế lên ngôi lúc còn nhỏ tuổi, thái hậu được quyền buông mành nhiếp chính. Chỉ thái hậu mới được quyền buông rèm nhưng Dương thái hậu lại không phải là mẹ đẻ của Lý Nhân Tông, điều đó khiến Linh Nhân thái phi căm tức. Sau khi vua Lý Thánh Tông qua đời, Hoàng hậu Thượng Dương dựa vào thế lực của Lý Đạo Thành, đã gạt Ỷ Lan ra khỏi triều đình. Từ đây, cuộc chiến cung đình bắt đầu bùng nổ!
Sau được Lý Thường Kiệt giúp đỡ, Ý Lan quyết tâm tìm cách trở lại nắm quyền nhiếp chính. Bàn bạc với Lý Thường Kiệt về ý đồ của mình, rồi giả bộ ốm để chờ hoàng thượng tới thăm. Đúng như những gì bà dự đoán, sau buổi thiết triều với các đại thần, hoàng thượng đã vào cung thăm bà. Bà rơm rớm nước mắt, nắm lấy tay Lý Nhân Tông và khẽ kêu lên: ” Con ơi, mẹ già khó nhọc mới có ngày hôm nay mà bây giờ phú quý người khác được hưởng. Vậy con để mẹ già vào đâu?”.
Nhà vua trẻ đau khổ ái ngại cúi đầu và đã hiểu được ý của mẹ. Sau đó ít lâu dưới sự hậu thuẫn của mẹ, ông bèn cách chức thái sư Lý Đạo Thành và điều vào xứ Nghệ trấn thủ, đồng thời bắt giam hoàng hậu Thượng Dương và 72 cung nữ chống đối vào lãnh cung.
Năm Đinh Tỵ ( 1077), triều Tống phát đại binh sang xâm chiếm nước Đại Việt. Với mong muốn để Lý Thường Kiệt rảnh tay lo việc trận mạc, Thái hậu Ỷ Lan đã bỏ qua hiềm khích cũ, điều Lý Đạo Thành từ Nghệ An về, phục hồi chức Thái sư như trước cùng mình điều khiển việc triều đình, huy động sức người sức của vào trận. Nhờ vậy, nước Đại Việt đã làm nên chiến thắng hiển hách. Quân giặc, hùng hổ toan làm cỏ nước Đại Việt đã phải cam chịu thất bại, tan giã rút quân về nước. Trong chiến thắng này, công lao của Thái hậu Ỷ Lan là vô cùng lớn.Sau này hoàng hậu bị đày địa ngục, chỉ mấy ngày sau bà nhận được bọc kín vua ban. Đó là một dải lụa trắng rất dài thể hiện bà phải chết.
Vụ thảm án Hoàng hậu Thượng Dương và 72 cung nữ triều Lý đã lùi vào dĩ vãng nhưng dư âm của nó vẫn tồn tại và ngày càng dằn vặt Ỷ Lan. Bà rất chăm đi lễ, cúng tế và xây dựng chùa chiền nhiều không kể xiết. Từ đáy sâu tâm hồn bà cảm thấy ân hận về việc Thượng Dương và 72 thị nữ vô tội bị chết oan. Bà đã phát tâm đi tu, mong tìm thấy sự thanh thản và cầu mong Thượng Dương cùng 72 thị nữ đại xá cho bà. 72 ngôi chùa được bà dựng lên ở xứ Bắc đã ghi nhận tấm lòng của bà. Người đời đã phong cho bà là Phật bà Quan âm thờ phụng ở nhiều nơi!
Chùa Dạm và truyền thuyết về Hoàng thái hậu Ỷ Lan
Theo thư tịch sử sách cổ, chùa Dạm được nhà Lý cho xây dựng thành đại danh lam vào thế kỷ XI. Đến thời Lê Trung Hưng, chùa Dạm được trùng tu lớn và được phản ánh qua tấm bia “Đại Lãm Thần Quang tự tôn tạo hộ pháp bi” khắc năm Chính Hoà 17 (1696) của chùa. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, chùa Dạm bị giặc phá huỷ gần như hoàn toàn.
Hiện chùa Dạm thời Lý, chỉ còn là dấu tích nền móng với nhiều tầng nền giật cấp lớn với vách đá kè móng (cao 5-6), những tảng chân cột (70cm x 70cm) được chạm khắc cánh hoa sen cầu kỳ và những viên gạch ngói của thời Lý với hoa văn cúc dây, sen dây được chạm khắc tinh xảo nghệ thuật, nằm chìm nổi trong nền móng; đặc biệt ở đây còn bảo lưu được một cột đá nguyên khối cao khoảng 5m, thân cột chạm nổi đôi rồng chầu thời Lý tuyệt đẹp: rồng có đầu vươn cao chầu vào viên ngọc đang toả sáng, mào và bờm tóc bốc lên như ngọn lửa. Năm 1986, trên nền đất chùa cũ của chùa, nhân dân địa phương xây dựng một ngôi chùa và một ngôi đền nhỏ theo kiểu “tiền Phật, hậu Thần” để thờ Phật và thờ Hoàng thái hậu Ỷ Lan, cùng vua Lý Nhân Tông là những người có công xây dựng chùa Dạm thành đại danh lam vào thời Lý.
Song thuộc về di sản văn hoá phi vật thể của chùa Dạm, nổi tiếng là truyền thuyết kể về Hoàng Thái hậu Ỷ Lan có công xây dựng chùa và được dân gian gọi là “Chùa Bà Tấm”. Truyền thuyết kể rằng: Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan quê làng Thổ Lỗi xứ Kinh Bắc, mẹ mất từ lúc còn nhỏ, bố lấy vợ kế nên Ỷ Lan có tuổi thơ như “Cô Tấm” trong chuyện cổ tích Tấm Cám. Vua Lý Thánh Tông 40 tuổi mà vẫn chưa có con trai, lên thường đi các đền chùa để cầu tự. Khi xa giá của vua về đến làng Thổ Lỗi, nhân dân đổ ra xem rất đông, riêng chỉ có một cô gái cứ mải mê đứng dưới gốc lan để làm cỏ, mà trên đầu lại có đám mây vàng che phủ. Lý Thánh Tông lấy làm lạ liền cho người gọi nàng đến hỏi thì hóa ra là một cô gái đẹp, lại đối đáp thông minh, dịu dàng. Vua liền vời nàng về kinh đô phong làm Nguyên Phi Ỷ Lan. Về đến cung vua, nàng được nhà vua vô cùng yêu quý và đã sinh ra Thái tử Càn Đức. Nhưng trong quá trình mang thai, Dương Hậu đã vô cùng ghen ghét với nàng, nhiều lần dùng kế hãm hại mẹ con nàng. Khi thái tử Càn Đức sinh ra, chẳng may mắc bệnh “hoá hổ” người mọc đầy lông lá, Dương hậu lại càng dèm pha nói rằng Ỷ Lan đã sinh ra muông thú và xúi vua giam nàng vào phòng tối nhiều tháng. Sau này, Thái tử Càn Đức được chính Quốc sư Nguyễn Minh Không chữa khỏi bệnh. Thái tử lên ngôi, biết chuyện xưa Dương Hậu hại hai mẹ con ông, liền phục oan cho mẹ phong mẹ làm Hoàng Thái Hậu và cho mở cuộc điều tra, đã bắt Dương Hậu và 72 người tòng phạm đem xử. Thái Hậu Ỷ Lan khuyên can vua cũng không được, đành phải xây dựng 72 ngôi chùa để cầu phúc. Hoàng Thái hậu Ỷ Lan là người đàn bà giỏi việc nước: Nhà vua thân chinh cầm quân đánh giặc phương Nam, đã thay vua trị vì việc nước, cùng với các quan lo lắng việc nước, vỗ về muôn dân. Khi vua Lý Thánh Tông mất, con là Lý Nhân Tông lên ngôi vua còn nhỏ dại, một lần nữa bà lại buông rèm nhiếp chính thay con trị nước. Cùng với Lý Thường Kiệt chỉ huy quân Đại Việt đánh tan hơn 30 vạn quân xâm lược Tống vào mùa xuân năm 1077. Mặc dù có nhiều công lao với nước với dân, nhưng Thái hậu Ỷ Lan bao giờ cũng thể hiện là người đàn bà dịu dàng nhân từ độ lượng. Vì vậy, trong dân gian đã ví và gọi là “Bà Tấm”. Để ghi nhớ công lao của Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan xây dựng chùa Dạm, về sau nhân dân vùng Dạm đã thờ phụng Thái hậu Ỷ Lan và vua Lý Nhân Tông ở đây và gọi luôn chùa Dạm là chùa “Bà Tấm”.
Ngoài truyền thuyết trên, còn có truyền thuyết về “Ngòi Con Tên” cũng xoay quanh phản ánh về việc xây dựng chùa Dạm. Truyền thuyết kể rằng: Sau khi tiến hành xây dựng xong chùa Dạm, Thái hậu Ỷ Lan thường về đây tụng kinh niệm Phật, về già đã về ở hẳn đây hương khói thờ Phật. Bà đã ban phát cho dân ở đây 100 mẫu ruộng để làm hương hoả của chùa và hàng năm cho mở hội lớn tại chùa Dạm. Để tiện cho việc về thăm mẹ và vãn cảnh chùa Dạm bằng thuyền rồng, vua Lý Nhân Tông đã lệnh cho dân vùng này phải đào ngay một con ngòi chạy thẳng tắp nối sông Thiên Đức (Đuống) từ Quế Ổ chạy qua các làng xã của Chi Lăng, Yên Giả, Nam Sơn đến chân núi chùa Dạm. Vì con ngòi được đào thẳng tắp như con tên, nên nhân dân trong vùng gọi là “Ngòi Con Tên” v.v…
Chùa Dạm với những di sản văn hoá vật thể (quy mô nền móng, gạch ngói, con giống, cột đá) và những di sản văn hoá phi vật thể (truyền thuyết, tín ngưỡng, lễ hội); đặc biệt truyền thuyết kể về Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan có công xây dựng chùa, không những đã được sử sách ghi lại, mà còn đi vào tâm linh tín ngưỡng dân gian, được nhân dân thờ phụng. Chùa Dạm từng là đại danh lam nổi tiếng làm nên văn hiến xứ Kinh Bắc – Bắc Ninh.
Tìm Hiểu Về Hai Sao Cô Thần Và Quả Tú Qua 12 Cung
Như vậy chắc là hai sao Cô Quả chiếu mạng, Thân toàn là xấu chăng? Tôi xin thưa ngay là không. Nếu quý bạn gặp trường hợp Cô Quả hội đủ bộ sao tốt, quyền quí như bộ Tử, Phủ, Vũ, Tướng, Quang Quý, Long Phượng, Khôi Việt, Khoa, Quyền, Lộc… thì phải nói rằng Cô Quả đã đứng đúng chỗ, đã có môi trường làm cho công danh của mình lên cao mạnh mẽ. Đó là cách vua chúa, lãnh tụ, chỉ huy (vua chúa ngày xưa, nhất là trong các truyện Tàu, thường tự xưng là cô- gia hoặc quả-nhân), nhưng có điều là độc tài thái quá vì hai sao Cô Quả lúc đó chủ về “duy ngã độc tôn” rồi. Còn vấn đề cô đơn thì gần như không có xẩy ra, vì Cô Quả đã có môi trường khác (vua chúa ngày xưa có bao nhiêu cung tần mỹ nữ không có lẽ còn bị cô đơn).
Cô Quả tại Phụ Mẫu
Nhiều vị đoán tử-vi cho rằng hai sao này khi ở cung Phụ Mẫu có nghĩa là cha mẹ ít khi sống gần nhau hoặc dễ bị ly di, nhưng theo kinh nghiệm riêng tôi nhận thấy trường hợp cung Phụ Mẫu có Cô Quả thường chủ về:
– Cha hoặc mẹ ít anh em trai (không kể gái), nhất là khi có thêm Vũ Khúc hoặc Lộc Tồn đồng cung. Nếu có Thái Dương đồng cung thì chắc chắc cha ít anh em trai, nếu có Thái Âm thì chính mẹ ít anh em trai.
– Cha hoặc mẹ là con trưởng trong gia đình, trong trường hợp có nhiều em trai, nhất là khi có Tử-Vi hoặc Thiên Phủ hội Hóa Quyền hoặc Khôi Việt đồng cung. Về điểm muốn phân biệt cha hoặc mẹ thì có vị cho rằng khi Tử-Vi hoặc Thiên Phủ cư cung Dương thì cha là con trưởng, còn cư cung Âm là mẹ. Tuy nhiên điểm này tôi nghiệm thấy không đúng mấy. Chỉ dễ đoán khi có Nhật hay Nguyệt. Nếu 4 sao trên đều không có thì hơi bí.
Cô Quả tại Phúc Đức
Về cung này, các sách đều nói là trong giòng họ hiếm người nhưng tôi nghiệm thấy nhiều trường hợp không phải hiếm người, mà thực ra vì dòng họ phân tán đi các nơi nên mới hiếm, hoặc là có trường hợp không phân tán thì mạnh ai người ấy sống, chẳng ai giúp ai được việc gì, anh em “kiến giải nhất phận”. Ngoài ra, tôi cần nói thêm rằng nếu có thêm Đào Hồng, Nhật Nguyệt hội chiếu thì phải đoán rằng trong dòng họ có nhiều đàn bà hiếm con trai, hoặc sống trong cảnh góa bụa, độc thân suốt đời. Tôi chưa nghiệm được sao gì thì chủ về đàn ông trong giòng họ bị như vậy, tuy có vị cho rằng khi có Nam Đẩu Tinh (chính tinh) thì chủ về đàn ông, nhưng nhiều khi sai.
Cũng vì 2 sao này có ý nghĩa nêu trên, cho nên khi cung Phúc Đức của mình nếu có Cô Quả thì tuyệt đối mình không nên sống chung đụng với họ hàng, kể cả anh em ruột thịt để tránh sự hiềm khích, va chạm có thể đi tới chỗ tuyệt tình. Ở xa thì 2 sao này đã có môi trường hoạt động nên trong giòng họ có thể thuận hòa với nhau được, tuy không ai hết lòng với ai.
Cô Quả tại Điền Trạch
Thường thường trong các sách tôi đã có dịp đọc, tôi nhận thấy sách nào cũng chỉ nói rằng: Cô Quả rất lợi ích cho cung Điền và Tài (Cô Quả yếu thủ Điền Tài) mà thôi, nhưng tôi cho rằng cần phải phân biệt như sau để biết lợi hại ra sao:
– Nếu Cô Quả hội với nhiều sao tốt như Vũ Khúc, Thiên Phủ, Hóa Quyền, Long Phượng, Thai Tọa, Khôi Việt, Đào Hồng (nhưng cần Mệnh là Hỏa hoặc Thổ mới tốt) thì có nghĩa là mình có biệt thự khang trang, nguy nga, đồ sộ, có vườn cây xung quanh, ở nơi thanh tịnh, biệt lập, vì Cô Quả lúc đó ứng vào cô-gia, và vẫn có nghĩa giữ vững được nhà cửa lâu dài. Như thế mới thực là tốt đẹp. Cũng có khi ứng vào việc mua bán nhà với một người góa, hoặc được thừa hưởng tài sản nhà cửa của chú bác, cô dì không có con thừa tự (với điều kiện cung Điền có chính tinh tốt và hợp mệnh, đồng thời không bị Tuần Triệt án ngữ).
– Còn trường hợp Cô Quả hội với các sao xấu, hãm địa, khắc Mệnh và cung Mệnh Thân, Tài Quan cũng không được tốt thì thực là bất hạnh, nghĩa là mình phải ở một căn nhà lụp xụp, vừa ở nơi hẻo lánh, xa xôi (vùng ngoại ô chẳng hạn), mà lại không bao giờ bán đi được, như thế chứng tỏ là mình nghèo hèn suốt đời. Vì vậy đừng có thấy Cô Quả cư Điền đã vội mừng.
Cô Quả tại Quan Lộc
Tôi không thấy trong các sách Tử-vi nói đến Cô-Quả ở cung Quan-Lộc một cách rõ rệt, do đó tôi lấy kinh nghiệm riêng mà bàn với quý bạn như sau:
– Bình thường Cô Quả ở cung Quan chủ về soi mình làm việc không có những người đồng liêu hoặc đồng nghiệp, đồng chí hướng với mình, mà đa số đều ích kỷ, hay giấu nghề, giấu việc. Nếu không thì chính những người trên của mình đều khắt khe, tỉ mỉ quá làm cho mình mất hết tự do, sáng kiến. (gặp trường hợp này mà xin thăng cấp, tăng lương chắc là hơi khó và hơi lâu).
– Bù lại, nếu Cô Quả gặp các sao quyền quý như Khoa Quyền Lộc, Tướng Ấn, Long Phượng, Quang Quý, Thai Tọa, Khôi Việt, Tả Hữu… thì lại rất tốt, như thế có nghĩa là mình làm chức lớn ngồi riêng một văn phòng đẹp đẽ, khang trang. (như bây giờ có máy lạnh là cái chắc), không phải ngồi chung với nhân viên, có điều gì cần là bấm chuông gọi.
Cô Quả tại Nô Bộc
Thường thường cung Nô Bộc nếu có bộ sao Cô Quả chiếu được giải đoán như sau:
– Nếu không hội với nhiều sao tốt, mình nên dùng những người dưới quyền góa bụa, độc thân, thì họ trung thành hơn. Nhất là trường hợp có thêm Thiên Hình, Đẩu Quân thì lại càng chắc chắn hơn nữa, nhưng những người này cần phỉa có mang tật gì ở thân thể (như vết thẹo ở mặt, chân, tây, mắt lé, thọt chân…) thì họ sẽ trở thành những người dưới quyền có lương tâm, làm ăn cẩn thận.
– Nếu hội với nhiều sao tốt, nhất là có thêm Hóa Quyền, thì người dưới tay, hay âm mưu phản phúc, lấn quyền một cách khéo léo, gián tiếp (vì lúc đó Cô Quả chủ về thâm trầm, ích kỷ, kín đáo…)
– Nếu hội với Nhật Nguyệt, lúc mình sa cơ thất thế, chẳng có đàn em nào giúp đỡ, đoái hoài tới, nhất là có thêm Hóa kỵ mà không có sao nhân hậu hội chiếu như Thai Tọa, Tả Hữu, Quan Phúc.
Cô Quả tại Thiên Di
Thường thường những người có địa vị cao trong xã hội ít khi có sao Cô Quả chiếu Thiên Di, vì những sao này chủ về vấn đề ít giao thiệp, ít người cộng tác, hoặc cùng nữa là chính mình không ưa giao thiệp rộng một điều trái ngược với cách làm lớn. Ngoài ra, về phương diện tình cảm, nếu Cô Quả chiếu Thiên Di lại hội với Đào Hoa, Hóa Kỵ thì hết hy vọng chinh phục được những người khác phái, dù cho mình đẹp trai hoặc có nhan sắc diễm lệ (đối với nữ) chăng nữa. Tôi đã từng được coi những người mệnh có nhiều sao thu hút được người khác phái (như Tham Lang, Đào Hồng Hỷ, Quang, Quý, Thanh Long….) mà lúc nào cũng bị thất bại trong vấn đề chinh phục người yêu, chỉ vì cung Thiên Di có Cô Quả (I) có chàng chinh phục được thì lại bị người yêu bỏ đi lấy chồng, vì gia đình bắt buộc, có nàng làm cho ý trung nhân say mê mình được thì đùng một cái bị một cô khác đẹp hơn cướp mất chồng tương lai của mình…, Vì vậy thanh thiếu nên nam nữ bây giờ nếu muốn có tài ” thu hút” ở ngoài xã hội thì phải tránh được hai sao Cô Quả chiếu Thiên Di. Thà rằng hai sao này chiếu Mệnh còn đỡ hơn, vì như thế mình chỉ cô đơn khi ở nhà, còn khi bước chân ra ngoài là ” hấp dẫn” (Nếu Thiên Di có Đào Hoa chẳng hạn).
Cô Quả tại Giải Ách
Vì Cô Quả là các sao tiết chế, giới hạn nên khi chiếu cung Giải Ách lại thành ra hay, có nghĩa là mình ít bệnh tật, tai nạn, nhất là khi hội với Thiên Không lại càng tốt thêm nữa. Tuy nhiên, vì hai sao này vẫn có tính cách, duy trì, gìn giữ nên mình vẫn dễ bị những bệnh tuy không hiểm nghèo nhưng triền miên suốt đời mà người ngoài không nhận thấy. Thí dụ như hội với Hóa Kỵ (tượng trưng cho bộ tiêu hóa, ruột) lại thêm Song Hao thì nhất định phải đeo bịnh đau bụng, khó tiêu, no hơi lu bù, vì Cô Quả dù là Hỏa hay Thổ cũng đều không hợp với Hóa Kỵ, là thủy và Song Hao nếu có là thủy chăng nữa vẫn không hợp với Cô Quả là Thổ ( thường thường ta đều cho rằng Song Hao thuộc Hỏa, và nếu như vậy còn hùa với Cô Quả khác Hóa Kỵ nữa). Ngoài những điểm trên, Cô Quả chiếu Giải Ách còn chủ về vấn đề ưu tư trong thâm tâm, những nỗi buồn xa xôi mà chỉ có tiềm thức của mình mới nhận thấy, và nhiều khi mình lại khó khăn với chính mình.
Cô Quả tại Tài Bạch
Trong khi Hóa Khoa được tôn là đệ nhất giải thần, thì Cô Quả được tôn là thần giữ của, cho nên ở cung Tài Bạch là hợp. Đó là một nhân định chủ quan quá, vì tôi đã nghiệm thấy những người muốn buôn to bán lớn cần phải có sự hùn hạp, cộng tác với người khác về tiền tài nếu có Cô Quả thì cứ khư khư giữ tiền làm sao có thể khuếch trương lớn, như vậy chỉ có thể giới hạn trong một tiệm buôn nhỏ hoặc một lãnh vực thu hẹp mà thôi. Nếu may ra có Phá Quân (cư Tý Ngọ mới tốt) hoặc Song Hao hội chiếu lại rất hay, vì như thế mỗi khi mình muốn tung tiền ra kinh doanh, bao giờ cũng chắc ăn, thận trọng nhờ sao Cô Quả.
Tuy nhiên, đối với những người không có óc thương mại, nếu Cô Quả lại hội với Thiên Phủ, Vũ Khúc (đều tượng trưng cho kho chứa). Tướng Ấn, Tả Hữu, Thai Tọa… thì lại chủ về những người chuyên về giữ tiền bạc, tài chánh (nếu có thêm Song Lộc và một số cách tốt nữa có thể làm chủ ngân hàng). Nếu quý bạn làm giám đốc xí nghiệp, học cơ quan nào, nên giao cho những người có cách này giữ két bạc thì chẳng sợ thất thóat, sai lầm với điều kiện đừng có Hỏa Linh, Không Kiếp đi với Tham Lang chiếu cung Tài Bạch của những người đó.
Cô Quả tại Tử Tức
Chiếu cung Tử Tức,Cô Quả thường chủ về một trong những điểm như sau (ít khi ứng nghiệm cùng một lượt):
– Con cái lúc mới sinh, nhất là đối với đứa đầu lòng, hay bị bịnh tật, tai nạn làm cho cha mẹ phải vất vả, lo âu. Nhưng khi lớn lên thì vẫn dễ nuôi nếu không có thêm hung sát tinh. Về điểm này có câu phú “Cô thần, Quả tú hai sao, gian truân vất vả về hài nhi sinh”.
– Sinh con trễ, nghĩa là sau khi lập gia đình thường thường không thai nghén liền, mà ít ra cũng phải nhiều tháng sau mới có tin mừng.
– Thận trọng và hay kiêng cữ để tiết giảm sinh đẻ. Nhưng cặp vợ chồng nào có Cô Quả tại cung Tử Tức, có thể áp dụng mọi phương pháp hạn chế sinh đẻ một cách hữu hiệu mà không trái số. Nếu thêm nhiều sao xấu đừng kiêng cữ nữa kẻo bị tuyệt tự.
– Nếu có nhiều sao văn học, quyền quý, con cái khi lớn lên hay ở xa cha mẹ, vì chức vụ, hoặc ngay trong thời gian đi học cũng dễ xuất ngoại hoặc ở nội trú.
Cô Quả tại Thê Thiếp (hay Phu Quân)
Cũng giống như trường hợp tại cung Phụ Mẫu, Cô Quả ở cung Thê Thiếp (hay Phu Quân) chủ về người vợ (hay chồng) ít anh em trai hoặc làm con trưởng trong gia đình. Ngoài ra hai sao này còn có nghĩa là vợ chồng, hay có thời gian xa cách nhau. Nếu có sao tốt là vì công vụ nghề nghiệp, nếu có nhiều sao xấu vợ chồng có thể bị cảnh chia ly vĩnh viễn. Trong trường hợp có sao tốt mà vợ chồng không bao giờ xa cách nhau thì phải hiểu rằng vợ chồng giữ gìn nhau rất chặt chẽ, khó lòng có chuyện ngoại tình nổi và nhất là cả đôi bên cùng độc đoán, cương quyết và đa nghi. Nếu có Đào Hồng đồng cung thì rất có thể gặp phải người dở duyên (nghĩa là có vợ hoặc chồng rồi) đang ở góa. Trường hợp Đào Hồng tại Mệnh Thân thì rất khó kết hôn sớm hoặc có sớm được cũng không bền, như sương đọng ban mai mà thôi. Đây mới đúng là cách “trăm mối tối nằm không”.
Cô Quả tại Huynh Đệ
Về cung này tôi chưa tìm ra được điều gì khác lạ, chỉ có điểm là anh em không nên sống gần nhau, hoặc phải có người sống xa cách hoặc vì ngoại cảnh gây nên (như vấn đề di cư khiến cho anh em kẻ nam người bắc chẳng hạn). Ngoài ra hai sao này cũng tiết chế bớt số anh em, chị em. Nếu có Đào Hồng, Thiên không thì chị em gái dễ bị dang dở, trắc trở nhiều lần về hôn phối, hoặc lấy chồng không cưới hỏi.
Trước khi chấm dứt bài này tôi thấy cần nêu ra một điểm nữa: nhiều người nhờ tôi coi dùm tử – vi có thành kiến xấu về hai sao Cô Quả đến mức là khi thấy tới Đại Tiểu Hạn có Cô Quả chiếu là đâm lo về vấn đề chia ly, cô đơn, hạnh phúc vợ chồng xáo trộn. Thậm chí có những quân nhân thấy gặp hạn Cô Quả là lo bị cắm trại 100% thực sự, bị đổi đi xa, bị giam giữ tại quân lao v..v…
Kể ra họ lo ngại như thế cũng đúng vì ít khi gặp hai sao này ở đại tiểu nguyệt hạn mà thật yên lành, ngoại trừ trường hợp có nhiều sao tốt hội chiếu thì có nghĩa là mình có chức lớn được ở phòng riêng (như đã nói ở cung Quan Lộc), được chính phủ cấp nhà ở, hoặc mình tạo được nhà ra ở riêng không sống chung với cha mẹ, anh em nữa, tùy theo trường hợp đại tiểu hạn liên hệ tới cung nào (về điểm này nên kết hợp địa bàn với thiên bàn mới đúng). Ngoài ra, dù biết rằng mình bị ảnh hưởng xấu của hai sao này rồi vẫn còn phải xét tới ngũ hành, nghĩa là xem Cô Quả (Thổ) nếu sinh mạng mình (như Kim chẳng hạn) hoặc khắc mạng mình (như Thủy) thì mới đáng ngại, còn trường hợp mạng mình khác hai sao đó thời vấn đề cô đơn, chia ly không còn đáng ngại nữa. Nếu mạng mình sinh hai sao là xấu nhất, thì mình đã bị tiết khí nhiều lại còn bị hai sao đó quặt ngược trở lại, thì kể như chắc chắn cô đơn, chia lìa nếu Mệnh Thân có thêm cách khắc khổ, cô độc (như có Vũ Khúc, Lộc Tồn, Kiếp Sát, Thái Tuế..v..v…).
Tìm Hiểu Về Ý Nghĩa Cúng Vía Thần Tài
Ý nghĩa cúng vía Thần Tài là gì? Đa số những gia đình bên buôn bán làm ăn, thì thường lập một bàn thờ Thần Tài với mong muốn ngài phù hộ cho tín chủ làm ăn phát đạt. Theo ông cha ta quan niệm thì ngày vía Thần Tài là ngày mười tháng Giêng âm lịch. Vào ngày này,mọi người thường làm một mâm cúng để cầu xin may mắn, tài lộc vào nhà. Để tìm hiểu kĩ hơn về ý nghĩa của việc cúng vía Thần Tài thì mời bạn cùng tham khảo bài viết sau đây của Đồ Cúng Tâm Linh Việt.
Theo quan niệm dân gian thì Thần Tài là vị thần đem lại may mắn, tài lộc nên vì thế mà gia đình nào kinh doanh thường cúng Thần Tài. Thần Tài là vị thần rất linh thiêng nên khi lập bàn thờ cần coi ngày kĩ càng và xem vị trí đặt ra sao cho tốt. Trong ngày vía Thần Tài trong dân gian quan niệm nên mua vàng về cúng sau đó đeo bên mình cho may mắn.
Vào mùng 10 Tết Nguyên Đán là ngày vía Thần Tài thì tín chủ cần làm một mâm cơm cúng ngài phù hộ cho gia đình làm ăn thuận buồm, xuôi gió hơn. Đối với dân buôn bán thì việc cúng Thần Tài được làm hàng ngày hoặc có thể là hàng tháng.
Khi làm lễ cúng Thần Tài bạn cần để tâm đến bàn thờ ngài, phải lau chùi sạch sẽ, có thể tắm cho Thần Tài bằng rượu pha với nước cho mát mẻ và may mắn hơn. Khăn lau phải là khăn dùng riêng, không được dùng vào những mục đích khác vì sẽ mất đi sự linh thiêng.
Bàn thờ cúng Thần Tài là một cái khảm sơn thếp vàng, bên trong đặt tượng Thần Tài, trước tượng ngài để 3 cái ly nhỏ, 2 ly rượu được đặt lên trên tệp tiền vàng mã, 2 bên là để bát hương và để cốc nến. Khi thắp hương thì thắp 3 nén hương hướng về phía Tây.
Hoa tươi (hoa hồng, hoa ly, hoa cúc vàng,…).
Hoa quả tươi (chọn đủ 5 loại quả tươi, có đầy đủ cả nụ và hoa, màu sắc tươi tắn).
Xôi (nên cúng xôi đậu hoặc xôi gấc cho thêm may mắn).
Chè (3 chén).
Nước (3 chén nước lọc sạch).
Nến (đèn cầy).
Tiền vàng mã.
Hương thắp (nhanh thắp).
Trầu, cau (chọn quả cau đẹp và lá trầu đẹp không được rách).
Gà luộc (1 con).
1 ít muối hạt sạch.
1 ít gạo tẻ.
3 củ tỏi
1 ít tiền lẻ.
Một bộ tam sên gồm: Thịt ba chỉ luộc (1 miếng để nguyên không thái), trứng vịt lộn luộc (1 quả là được), tôm hoặc cua luộc.
Xem thêm: Nhận đặt mâm cúng thần tài trọn gói, giao hàng tận nơi
5 việc cần phải làm trong ngày vía Thần Tài
Dọn dẹp bàn thờ sạch sẽ trước khi cúng vía Thần Tài.
Chuẩn bị một mâm cúng chu đáo, đúng phong tục.
Mua vàng về để cất trữ và khi cúng đem ra cúng cùng sau đó lấy đeo để lấy may mắn.
Đọc bài văn khấn cúng vía Thần Tài.
Làm lễ cúng vái phải thật thành tâm.
Cúng vía Thần Tài nên cúng giờ nào?
Ngày vía Thần Tài thì trước khi cúng thì tín chủ nên tắm rửa sạch sẽ, quần áo mặc khi cúng phải gọn gàng, lịch sự. Lễ cúng thì nên cúng vào lúc tầm 7 – 8 giờ sáng là tốt nhất. Lễ cúng phải được đặt trong nhà vì sẽ giúp tài lộc được giữ trong nhà còn nếu đem ra ngoài thì sẽ bị ảnh hưởng bởi những vong linh quấy rối làm mất sự linh thiêng và ý nghĩa cúng vía Thần Tài.
Đồ Cúng Tâm Linh Việt đã chia sẻ tới bạn những thông tin về ý nghĩa cúng vía Thần Tài và cách chuẩn bị 1 mâm lễ cúng Thần Tài trọn vẹn. Bạn có thể tự chuẩn bị đồ cúng vía Thần Tài, nếu công việc bạn bận rộn không có thời gian thì bạn có thể tham khảo và sử dụng dịch vụ sửa soạn mâm cúng trọn gói, chuyên nghiệp của chúng tôi tại website: https://docungtamlinhviet.com hoặc gọi tới hotline: 1900 2119 để được tư vấn và hỗ trợ nhé!
Cập nhật thông tin chi tiết về Tìm Hiểu Nguyên Phi Ỷ Lan Qua Tài Liệu Mộc Bản Triều Nguyễn trên website Apim.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!