Bạn đang xem bài viết Thư Gửi Mẹ Nhân Ngày Giỗ Người. được cập nhật mới nhất trên website Apim.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Mẹ yêu thương,Lần giỗ Mẹ năm nay cũng như bao lần, không về được bên Mẹ, con lại thắp lên bàn thờ Mẹ nén nhang cùng hoa quả và mâm cơm cúng giản dị, tưởng nhớ tới Mẹ ở một nơi thật xa – nơi mà có lẽ Mẹ nhìn thấy con nhưng con lại chẳng được thấy mẹ đâu cả.
Mẹ ơi, mất Mẹ con như mất đi một phần linh hồn con, mất đi những giây phút yêu thương, êm đềm bên Mẹ, mất đi cả bờ vai mềm ấm áp để con tựa vào khi con thất bại, chống chếnh…
Cuộc đời Mẹ là một câu chuyện dài đầy sóng gió, có cả kịch tính, về người phụ nữ can trường, bền bỉ, nhân hậu, đảm đang, yêu thương chồng con hết mực, hy sinh cả cuộc sống sung túc, đủ đầy, có được từ hai bàn tay trắng cùng Cha, để cho các con có được bản lý lịch « đẹp » khi nói về thành phần gia đình. Mấy chục năm lăn lộn trong các HTX thủ công nghiệp với tư cách là phó chủ nhiệm rồi chủ nhiệm, nhưng các con vẫn bị giữ lại địa phương khi có giấy báo vào Đại học. Chị gái cả Trần Thị Bích Lộc, đã phải xếp xó tờ giấy báo đi học Đại học nước ngoài để ở nhà tham gia chiến đấu ở đơn vị Trọng liên 12,7 ly của Hà Tĩnh (đơn vị sau này đã được Nhà nước phong là Đơn vị anh hùng của LL Vũ trang VN). Sau này chị được Tỉnh cử đi học ĐH Thương mại và sau khi tốt nghiệp ĐH, giảng dạy tại chính ngôi trường này một số năm, chị tiếp tục đi Nghiên cứu sinh ở Đức. Hai chị gái tiếp theo: Minh Hương và Thái Hòa, cũng phải nghỉ học giữa chừng để tham gia nghĩa vụ quân sự. Sau này mới được tiếp tục đi học. Vậy mà con, cô con gái út, cũng suýt bị giữ lại khi có giấy báo vào ĐH gửi về, nếu không có sự thông minh và nhanh trí của Mẹ… Chao ôi, còn bao nhiêu điều oái oăm nữa đã lấy đi của Mẹ rất nhiều sinh lực và có lúc nguy hiểm tới cả mạng sống !!!
Ông ngoại là một Nhà giáo (ở địa phương thường gọi là Ông Giáo, Thạch Quý, Thạch Hà, Hà Tĩnh), gia đình có truyền thống cách mạng, ông là Đảng viên, hay phải đi dạy xa. Bà ngoại là người Đức Phong, Đức Thọ – một vùng quê nổi tiếng « gạo trắng nước trong, gái đẹp ». Bà đẹp nức tiếng thời ấy, yêu chồng, thương con hết mực . Do Ông phải đi biền biệt vì dạy học và tham gia nhiều hoạt động xã hội khác, Bà đưa Mẹ và dì (em gái ruột của Mẹ) ra Thành phố Nam Định, ở với người cậu ruột của Bà, đang dạy học tại đó. Nhưng chẳng may Bà mất sớm. Ông ngoại có vợ hai, lúc ấy Mẹ mới mười hai, mười ba tuổi, mồ côi mẹ, dắt díu em gái trở về quê, sống trong gia đình ông chú, trông nom các em con chú, tự lập cuộc sống từ đó để nuôi mình, nuôi em gái cho đến lúc gả chồng cho em. Lớn hơn một chút, với bản tính chăm chỉ, chịu thương chịu khó, thông minh, nhạy bén, Mẹ mở gánh hàng xén, dần dần có cửa hàng. Mười bảy tuổi Mẹ gặp Cha. Cha cũng mồ côi mẹ từ năm hai tuổi, cùng anh trai từ Nghệ An vào Hà Tĩnh lập nghiệp, dần có vốn, mở Cửa hàng đóng giày dép hiệu Mỹ Long, nổi tiếng vì mẫu mã đẹp và chất lượng. Cha khéo tay và vô cùng cẩn thận từng đường kim mũi chỉ. Cha lại có dáng nhất là khi mặc com-lê, đeo cà-vạt, đội mũ phớt thì nhìn giống « Tây ». Cha đã từng có một đời vợ mặc dù bà cả chỉ sống được vẻn vẹn bên Cha hai năm, chưa kịp có con, rồi mất vì bệnh. Sau đó, khi gặp Mẹ, Cha « say » ngay lập tức vì Mẹ đẹp lại thông minh, nhanh nhẹn, nhưng ông ngoại và ông chú không bằng lòng vì Cha đã qua một đời vợ. Mẹ cảm mến Cha vì Cha là người hiền lành, đức độ, giàu lòng trắc ẩn, cẩn thận và chu đáo. Cuối cùng Cha Mẹ vẫn lấy nhau khi Mẹ tròn mười chín tuổi và mãi chín năm sau mới sinh được con gái đầu lòng. Để phát triển cửa hàng bán tạp hóa, Mẹ thường xuyên phải đi Hà Nội lấy hàng. Cùng với cửa hàng giày dép của Cha khá đông khách, kinh tế dần phát triển. Không những vừa phải làm việc, nuôi các con, Cha Mẹ còn nuôi các em bên Mẹ, các cháu bên Cha. Năm 1960, một năm sau cuộc cải tạo CTN tư bản tư doanh do BCH Trung ương Đảng khóa II thực hiện, đã ra nghị quyết về vấn đề hợp tác hóa nông nghiệp và cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh theo chủ nghĩa xã hội, xóa bỏ giai cấp tư sản, phía bên ngoại, bà con ở Hà Nội đã tìm cho Cha Mẹ một căn nhà ở phố Hàng Bạc cùng chỗ nhà dì (số 87). Trong khi bà dì (dì ruột của Mẹ) ở 18 phố Hàng Bè, ông cậu ở 45 phố Lãn Ông… Nhưng cuối cùng Cha Mẹ đã không thống nhất. Là người gốc Nghệ An, Cha muốn nếu rời Hà Tĩnh thì chỉ có về quê nội còn Mẹ lại muốn cả nhà chuyển ra Hà Nội. Cuối cùng…, vẫn ở lại mảnh đất Hà Tĩnh, một trong những vùng đất cách mạng nổi tiếng của cả nước, nơi mà chị em con đã được sinh ra và lớn lên. Những năm hòa bình lập lại, cũng như đa phần các gia đình ở Thị xã HT hồi đó, cuộc sống êm ấm, dễ chịu, hàng xóm hòa thuận, vui vẻ nhưng thời gian này không được lâu… Cuộc chiến tranh leo thang ra miền Bắc của Mỹ ập đến !!!
Những năm chiến tranh chống Mỹ ác liệt, con còn nhỏ đã phải cùng Mẹ và các chị sơ tán từ Thị xã về Thạch tân. Cha phải cùng HTX sản xuất mũ sơ tán về Thạch linh (Cả Cha và Mẹ phải từ bỏ hết nghề cũ, cửa hàng, cửa hiệu… để tham gia vào các HTX thủ công nghiệp, từ căn nhà hai tầng có vườn cây rất đẹp cùng bàn bóng bàn ở phố Phan Đình Phùng sang khu phố Lâm Phước Thọ nơi mà trong chiến tranh một quả bom Mỹ rơi xuống đã để lại một hố to sâu hoắm). Thi thoảng Cha mới về thăm. Nơi sơ tán, Cha sống thanh bạch, đạm bạc, vô cùng giản dị và luôn dành chút tiền kiếm được hàng tháng gửi cho Mẹ và các con.
Bận là vậy nhưng Mẹ luôn dành cho chúng con tình cảm yêu thương vô bờ bến. Những hôm nào không phải đi lấy hàng xa, không phải làm việc quá nhiều, Mẹ lo cho chúng con từng bữa ăn, nâng từng giấc ngủ. Hồi đó, chỉ tiêu lương thực được phân theo định lượng là gạo hẩm độn bo bo, khoai, sắn hoặc bột mỳ cũng đã có mùi mốc. Con cùng chúng bạn đi bắt cua đồng hoặc cất rớ (tôm, tép), Mẹ chế biến món Cháo canh rất ngon. Tuy nhiên, ăn quá nhiều, chúng con cũng ngán, chỉ thèm bữa cơm không độn ! Vậy mà giờ đây, món Cháo canh lại trở thành đặc sản của Hà Tĩnh, tất nhiên là bột mỳ chất lượng và bột được máy cán thành sợi như bún rồi chan nước dùng được nấu từ xương lợn ninh nhừ, ăn kèm với giò, một ít tôm, thịt và hành tươi. Nhiều người khi ăn còn có thói quen thái quẩy hạt lựu rồi rắc lên trên mặt cháo. Còn món Cháo canh của mẹ con mình ngày ấy là tự nhào bột, lấy chai lăn bột trên thớt thành từng miếng mỏng ra rồi thái thành sợi, « người lái » chỉ là con tôm, cái tép đồng hay con rạm hoặc có khi còn không có người lái… Cứ vậy, tần tảo sớm hôm mẹ nuôi chúng con khôn lớn.
Đêm đến, những khi không phải ngủ trong hầm trú ẩn chật chội, cùng với một lũ cóc, nhái v.v… mà con sợ khiếp vía, Mẹ vừa kể chuyện, hát những bài hát ru con hay đọc Kiều, vừa chải đầu, vuốt nhẹ tóc con và con đã thiếp đi lúc nào không biết nữa… Và còn biết bao nhiêu điều lo lắng, sợ hãi trong cảnh chiến tranh bom rơi, đạn nổ từng ngày, từng đêm ở vùng khu 4 tuyến lửa ! Vậy mà trong muôn ngàn khó khăn ấy, con vẫn tìm thấy sự bình yên khi có Mẹ. Chỉ có Mẹ, một mình với biết bao nỗi mà như ai đó đã từng nói: « Ôm con Mẹ đếm sao trời. Đếm hoài không hết một đời long đong ».
Thời gian chi gái đầu của con tham gia trong đơn vị chiến đấu 12ly7, thì cứ sau mỗi lần máy bay địch bắn phá vừa dứt, Mẹ lại đôn đáo chạy hàng chục km về địa điểm đóng quân của chi ở Thị xã; khi nhìn thấy chi vẫn còn, Mẹ mới yên tâm chạy về lại chỗ mình đang sơ tán. Khi hai con gái tiếp theo vào quân ngũ, nhiều đêm Mẹ thức trắng ngóng chờ tin tức, nhiều lúc bặt tăm. Cứ thế, cứ thế…
Sau chiến tranh, Mẹ con mình cùng những người đi sơ tán được trở về Thị xã HT, nay đổi thành Thành phố HT, Mẹ tiếp tục lãnh đạo HTX may nhưng lớn hơn (sát nhập với một HTX may mặc khác, có cả nhân viên nam) lấy tên là Toàn Thắng (Mẹ làm Phó Chủ nhiệm). Ngoài chuyên môn, Mẹ còn tham gia rất nhiều hoạt động xã hội khác. Mẹ nấu ăn rất ngon nên mỗi lần có những cuộc họp lớn của Thị hay của Tỉnh, Mẹ được mời đi làm bếp trưởng. Đối với công việc chung, Mẹ vẫn vững vàng và duy trì được sự phát triển cho các HTX, động viên mọi người sống và làm việc tích cực trong thời chiến cũng như thời bình. Suốt gần 25 năm liên tục, Mẹ đã lo được công ăn việc làm cho nhiều người lao động ở địa phương, nhất là nữ, và đóng góp khá cho Ngân sách Nhà nước, tham gia các hoạt động từ thiện, từng được bầu là chiến sỹ thi đua cấp Tỉnh và được đi báo cáo điển hình ở một số hội nghị quan trọng của Tỉnh, Thành phố. Nhiều năm Mẹ là Đại biểu Hội Đồng Nhân dân, Hội thẩm nhân dân, là cán bộ Phụ nữ, kể cả sau khi đã được nghỉ hưu. Mẹ cũng từng được xét kết nạp vào Đảng CSVN. Dù có bố là Đảng viên, em trai là liệt sỹ, nhưng do định kiến « giàu nghèo » của vài lãnh đạo ở địa phương lúc bấy giờ đối với gia đình Mẹ nên Mẹ vẫn luôn và chỉ là « Đảng viên ngoài Đảng » (nhiều người ở quê vẫn gọi Mẹ như vậy). Tính Mẹ thẳng thắn, trung thực, chân thành, hiền lành, sống vì mọi người nên được gia đình, đồng nghiệp và bạn bè quý mến, tin yêu. Nếu như trong gia đình, Cha là người hiền hậu, thiên dạy dỗ về lẽ sống, lễ giáo cho con cái, thì Mẹ là một phụ nữ thông minh, biết chấp nhận và chịu đựng những oan nghiệt của cuộc đời, tần tảo, tháo vát và đảm đang lại giàu đức hy sinh vì người khác. Dù thiệt thòi nhiều nhưng chưa một lần Mẹ ca thán hay trách móc ai, cho nên cả bốn cô con gái thấu hiểu Mẹ và cuộc đời đầy sóng gió với vô vàn nhọc nhằn nhưng đầy chất nhân văn của Mẹ, đã chịu ảnh hưởng từ Mẹ về cách sống bản lĩnh, can trường, biết chịu đựng và chấp nhận những oan trái, trắc trở của cuộc đời một cách dũng cảm mà tỉnh táo, đức hy sinh, sự bao dung và lòng vị tha, tự lực cánh sinh.
Công Cha, nghĩa Mẹ không có gì có thể sánh nổi, vậy mà nghĩ lại thời niên thiếu, đã nhiều lần con tự trách mình vì ấu trĩ về nhận thức. Những năm sơ tán, vì cứ muốn mình có cái tên giống các bạn ở quê nên khi cô giáo cử đi viết học bạ, con đã tự tiện bỏ chữ đệm ở tên. Kể từ đó, trong gia đình, bốn chị em gái, chỉ có duy nhất con không mang đệm – cái tên đệm đẹp đẽ mà Cha Mẹ đã cho con. Rồi nữa, lên cấp ba, khi phải khai lý lịch, thấy các bạn ghi thành phần gia đình, nào là bần cố nông, nào là dân nghèo thành thị… con cứ ước ao mình cũng được ghi như thế và đã có lúc thầm « trách » Cha Me…Ôi !!! Cũng chính vì vấn đề này mà chị em con trước đây đã gặp nhiều khó khăn, vất vả trong việc phấn đấu vào Đảng CS VN …
Hôm nay tròn mười ba năm mẹ con mình xa cách. Âm dương cách biệt nhưng trái tim con luôn nhớ về Mẹ. Mười ba lần giỗ Mẹ nhưng có đến hàng nghìn nghìn lần con thèm khát một lần nữa thôi được nhìn thấy Mẹ bằng da bằng thịt. Cám ơn Mẹ đã cho con thật nhiều vốn liếng yêu thương, lòng bao dung trong cuộc đời này.
Con sẽ lại thắp hương và chuyện trò cùng Mẹ. Chỉ thương và tiếc rằng khi con cháu lớn khôn, trưởng thành, Mẹ đã không còn.. Mẹ chỉ có hy sinh mà gần như chưa hề được hưởng thụ – đó là điều chúng con đau xót nhất. Mỗi lần đến giỗ mẹ, lòng con lại trào dâng niềm xót xa và nỗi nhớ, tim con thắt lại, nấc lên, nghẹn ngào.
Con của Mẹ HT. Ngày 10 tháng 9 năm 2017 âl
Vĩnh biệt Chị (Thơ viếng của cậu Đậu Viết Phúc, Bác sĩ, nguyên Giám đốc Bệnh viện Thạch Hà – Hà Tĩnh)
Tin đến làm em bỗng rụng rời, Buồn theo cánh hạc đã về nơi, Người đi vào cõi xa xăm quá, Để tiếc thương ai giữa đất trời.
Nhớ chị một thời với tuổi xuân, Em thì bé dại quấn bên chân, Trong vòng tay chị em khôn lớn, Từng chữ a – b tập đánh vần.
Để đến hôm nao chị lấy chồng, Đường đời trải rộng bước sang sông, Chị thành bà chủ nên giàu có, Bốn gái ngoan, hiền những ước mong.
Rồi bao ngày tháng cứ dần qua, Chị cũng như em đến tuổi già, Cách trở mấy khi mà gặp lại, Gặp thời bịn rịn lúc chia xa.
Gần chín mươi thu có ít đâu, Người ta khen chị trẻ trung lâu, Vẫn vành khăn ấy trông nhân hậu, Vẫn nụ cười tươi thắm quết trầu.
Cháu chắt đẹp xinh rộn một nhà, Con hiền, rể quý rạng danh gia, Em mừng anh chị thêm trường thọ, Phúc lộc an khang vui cảnh già.
Nào có ngờ đâu chị mất rồi, Trông như nằm ngủ đó mà thôi, Hiền từ khuôn mặt qua ô kính, Tưởng vẫn đâu đây tiếng chị cười.
Nhìn anh hằn những nét thương đau, Lẻ bóng từ đây với nỗi sầu, Lặng lẽ em nhìn lên ảnh chị, Dường như nhắn nhủ với mai sau.
Kỷ niệm nay còn đó chị ơi ! Âm dương đôi ngả biệt ly rồi, Buồn đau để lại người thân thuộc, Nén chịu mà sao lệ cứ rơi.
Cho em khóc nữa – một lần thôi, Cầu chị siêu linh cõi Phật Trời, Lệ ứa thành thơ buồn tiễn biệt, Trong niềm thương nhớ chị khôn nguôi ./.
2. Vĩnh biệt Mẹ (Thơ viếng của chị gái Trần Thị Bích Lộc, Tiến sĩ tại CH Liên bang Đức, Phó Vụ trưởng Bộ Thương mại)
Thắp nén nhang, cúi lạy Người, Mẹ ơi nơi ấy thấu lời chúng con: Có người khóc mẹ nỉ non, Chúng con khóc Mẹ héo mòn trong tim.
Mẹ ơi chốn ấy im lìm, Cô đơn mình Mẹ muôn nghìn đêm thâu. Dù gần Cháu, cạnh Chị dâu, Dẫu sao, mưa nắng dãi dầu quanh năm !
Đường vào đâu có xa xăm, Mà sao như lại ngăn sông, cách cầu. Thăm Mẹ, chẳng thấy Mẹ đâu, Con nghe như Mẹ vẫn đâu quanh mình.
Thắp nén nhang, nguyện tâm linh: Mẹ ơi ! xin Mẹ yên bình nơi nao. Tiếc thương Mẹ, lòng quặn đau, Cha, con, cháu, chắt, nguyện cầu Mẹ ơi.
Mong sao chốn ấy xa vời, Mẹ yên giấc ngủ, thảnh thơi tháng ngày. Cả đời bao nỗi đắng cay, Cam chịu Mẹ đã một tay với đời.
Chống chèo cuộc sống khắp nơi, Trầm luân mọi nỗi, dựng xây gia đình, Thủy chung, tận tụy, quên mình, Chăm chồng, con, cháu, nghĩa tình bao la.
Cho dù biết sắp đi xa, Vẫn còn canh cánh xót xa nỗi niềm: Xin Ông đừng trách phận hiền, Trời cho đến thế, là Thiên định rồi.
Nhìn các con, Mẹ ngậm ngùi, Phải đi ! Đành chịu ! Tính sao với Trời ! Dù sao thanh thản một đời, Gửi con, cháu, chắt mọi nơi một lời :
Giữ gìn sức khỏe nên người, Chăm Ông, chăm cả Đạo, Đời – trước, sau. Tiếc rằng Mẹ chẳng còn lâu, Để cùng thụ hưởng sở cầu hôm nay.
Mẹ ơi ! Tâm mẹ đủ đầy, Nghĩa tình sâu nặng, chất dày lòng con. Nguyện thề có nước, có non, Chúng con ghi tạc sắt son với Người.
Dù không còn Mẹ nữa rồi, Đau thương con, cháu khắc lời Mẹ trao. Dù cho vất vả, gian lao, Yêu thương, đùm bọc lẫn nhau không rời.
Mẹ ơi, ơn Mẹ suốt đời,
Hà Nội, tháng 12/2004.
3. Xin Mẹ thứ tha (Hai năm kể từ ngày Mẹ vĩnh viễn ra đi, nhân ngày giỗ Mẹ 31/10/2006 nhằm ngày 10/09 âl)
Dẫu biết rằng không có gì vĩnh cửu, Con mong hoài Mẹ ở, đừng đi. Dẫu biết rằng luật đời phải vậy, Lòng nát tan khi Lá lìa Cành.
Hai tư tháng trôi, lòng băng giá, Con ngờ là ác mộng thoáng qua. Mẹ vẫn còn hình hài nguyên vẹn, Mỗi đêm về, sưởi ấm lòng con.
Mỗi lần được kề bên, gối Mẹ, Con thả lòng cùng Mẹ tâm tư. Niềm vui chưa kịp tường câu chuyện, Nước mắt dài, tràn ướt bờ mi.
Ôi ! sự thực, đó là mộng mị ! Tỉnh dậy rồi, Ôi ! Mẹ ở đâu ? Con trách mình chưa tròn bổn phận, Phận làm con khi Mẹ « xế chiều ».
Con mải miết dòng đời bất tận, Mải học hành, làm việc, mưu sinh, Mải nuôi con, chăm chút gia đình, Đời mê mải « Hồng-Chuyên », hai chữ.
Con nhớ ngày lại « buộc » đi xa, Lo cho con, lòng Mẹ xót xa. Con đi rồi, Mẹ Cha buồn nhớ, Lòng con, giờ, dằn vặt khôn nguôi.
Khi có thể bên Người mãi mãi, Vĩnh viễn đâu còn, Mẹ yêu thương. Ngày này, thắp nén nhang lạy Mẹ, Xin được thứ tha, vợi nỗi lòng ./.
Hảo Trần
Paris, ngày 31/10/2006.
Partager :
WordPress:
J’aime
chargement…
Articles similaires
Úp Mặt Vào Đá Gửi Nguyện Cầu Đến Mẹ Mariamman
Vị thần Mưa của giới bình dân
Ngôi đền có tên gốc là Đền Bà Mariamman, thờ nữ thần Mariamman của người Ấn Độ. Đó là vị thần của mùa màng bội thu, đất đai màu mỡ, sức khoẻ dồi dào (thần chữa bệnh đậu mùa), tình yêu, hạnh phúc và con cháu vui vầy. Từ ngôi đền quy mô không lớn của cộng đồng người Ấn Độ di cư tới Việt Nam đầu thế kỷ XX, đến nay, nơi này đã thành địa chỉ tâm linh của cả người Việt, người Hoa, khách du lịch theo Hindu giáo và được gọi với tên “thuần Việt” hơn – Đền Bà Ấn.
Chính điện thờ bà Mariamman
Theo thần thoại, Mariamman là vị nữ thần phổ biến ở miền Nam Ấn Độ, được lưu truyền trong cộng đồng người Tamil. Chữ “Mari” trong tên bà mang ý nghĩa là “người mẹ”, còn “Amman” là mưa. Bởi vậy, bà là vị nữ thần mang đậm tính Mẫu với tất cả sự bao dung, gần gũi trong tín niệm của người Ấn Độ. Bà bảo trợ cho phụ nữ và trẻ em bình dân. Cũng bởi vậy, mỗi ngày, trong ngôi đền của người Ấn nằm ở trung tâm thành phố, các tín đồ, du khách, người trông coi đền… đều thì thầm những lời ca tụng, yêu thương gửi đến bà: “Bà là người cha, người mẹ vĩnh hằng. Bà là ánh sáng, bà là hơi thở của con. Bà ở mọi nơi, bà ở mọi thứ. Từ mọi nơi, mọi lúc, bà quan sát con, yêu thương con…”.
Có nhiều truyền thuyết về nguồn gốc của vị nữ thần quyền năng bậc nhất Ấn Độ. Phổ biến nhất là quan niệm cho rằng bà là vợ của một nhà thơ Tamil tên Thiruvalluvar. Do bị mắc bệnh đậu mùa nên bà bị ruồng rẫy, phải đi xin thức ăn từ nhà này qua nhà khác. Bà phải lấy lá cây neem (một loại cây ở Ấn Độ) để đuổi ruồi, không bu vào những vết lở loét trên người. Bà bình phục nhanh một cách kỳ diệu. Từ đó, người ta tôn thờ bà như nữ thần của bệnh đậu mùa. Người Ấn cũng bắt đầu treo lá cây neem trên cửa ra vào để đuổi bệnh đậu mùa.
Truyền thuyết thứ 2 cho rằng bà là nàng Nagavali xinh đẹp và đức hạnh, vợ của Piruhu, một trong chín Rishi (nhà hiền triết có cái nhìn thông suốt, tự tu luyện yoga để đạt đến cảnh giới hợp nhất với vạn vật). Một ngày nọ, Rishi đi xa. Các vị thần tới chiêm ngưỡng vẻ đẹp nổi tiếng và đức hạnh của nàng nhưng nàng đã biến họ thành trẻ con do hiểu lầm. Bị xúc phạm, các vị thần nguyền rủa và huỷ hoại vẻ đẹp của nàng, khiến mặt nàng xuất hiện những đốm đậu mùa. Rishi trở về, thấy nàng bị biến dạng liền đuổi đi, đồng thời nói rằng, kiếp sau nàng sẽ sinh ra một con quỷ dữ. Vì vậy, nàng được gọi là Mari, có nghĩa là thay đổi.
Người Ấn thờ phụng nữ thần Mariamman với hình ảnh của một phụ nữ trẻ xinh đẹp, gương mặt hung đỏ, có nhiều tay tượng trưng cho nhiều quyền năng, một tay cầm đinh ba, một tay bưng chén cơm. Tại ngôi đền nằm giữa trung tâm TP HCM, tượng bà Mariamman cùng các vị thần được tạc tinh xảo với màu sắc chủ đạo là xanh, đỏ.
Thì thầm với tường đá linh thiêng
Không phải là một tín đồ Hindu giáo nên lần đầu tình cờ tới chiêm bái ngôi đền “lạ”, tôi đã thực sự ngạc nhiên xen lẫn thích thú, rồi dần dần nhường chỗ cho cảm giác thanh tĩnh và ấm áp. Lễ vật cúng bà là gạo, dừa tươi, dầu ăn, trái cây và đặc biệt là những tràng hoa nhài thơm ngát. Khách tới đền được khuyến khích đề cao thờ cúng và khấn nguyện thành tâm, giảm nhang đèn, lễ lạt. Bởi vậy, mỗi người chỉ thắp một nén nhang nhỏ như là cách gửi tín hiệu đến vị nữ thần linh thiêng.
Sau khi kính lễ bà Mariamman tại điện chính, kỳ lạ hơn nữa, nhiều tín đồ đi vòng ra phía sau lưng bà, úp mặt vào bức tường đá được mang về từ vùng núi cao Ấn Độ và gửi đến bà những nguyện cầu thầm kín nhất. Tôi gặp không chỉ người lớn tuổi mà còn nhiều bạn trẻ tới thì thầm những ưu tư, khúc mắc với bức tường đá trong ngôi đền linh thiêng này. Họ truyền tai nhau rằng chỉ cần khấn tên bà và nói lời ước nguyện, tường đá sẽ gửi tâm tư của bạn tới thần linh. Không rõ vị thần Ấn Độ có giúp mỗi người được thoả mong ước không, nhưng chắc chắn mỗi người đến đây, đều đã tìm được cho mình ít nhiều thanh thản.
Úp mặt vào tường đá khấn nguyện
Hai bên chính điện là điện thờ “cô” và “cậu”, được cho là con cái của bà Mariamman. Phía cổng đền thờ sư tử với ước mong được ban phước lành về sự may mắn, thịnh vượng.
Đền Bà Ấn còn gây ấn tượng với du khách bởi hoạt động từ thiện rất có giá trị. Nếu thường xuyên ghé qua đền, sẽ nhiều lúc bạn bắt gặp những người coi giữ đền, đa phần là gốc Ấn, ngồi đóng từng bao gạo từ lễ vật cúng bà của các tín đồ để gửi đến các địa chỉ khó khăn. Ngoài ra, dầu ăn, tiền công đức cũng được tập hợp lại để phục vụ cho những hoạt động ý nghĩa.
Bảng ghi hoạt động hỗ trợ hộ khó khăn của đền
Chùa Bà hiện nay do chính quyền thành phố quản lý và được cộng đồng người gốc Ấn tự tay coi sóc mỗi ngày. Những người mang dòng máu Ấn Độ rất mộ đạo, đa phần hiền hoà, ít nói, hay cười và luôn tận tình hướng dẫn du khách vào làm lễ. Bạn cũng sẽ được nhận lại một phần lộc trước khi rời bước ra về, có thể là những cánh hoa rực rỡ gói trong giấy đỏ, tràng hoa nhài tinh khiết hoặc một chút gạo, muối, đôi khi là trái dừa hay xôi đậu xanh…
Một lần, chúng tôi đã phải thích thú thốt lên: “Ngôi đền dễ thương quá!”. Đó là khi chúng tôi đang lững thững bước quanh khuôn viên, ngắm nhìn tượng các vị thần Ấn Độ và đọc vài mẩu truyền thuyết kì bí, thì một người đàn ông là nhân viên trông coi đã bưng trái dừa có cắm sẵn ống hút tới mời chúng tôi uống cho đỡ khát. Một nơi linh thiêng mà lại gần gũi đến thế, chúng tôi thật lòng không nỡ rời bước đi.
Một trong số nhiều vị thần được thờ phụng tại đền
Hoài Dương
Đốt Vàng Mã Có Gửi Tới Người Đã Khuất?
Đốt vàng mã đã trở nên phổ biến, nhất là trong mùa lễ hội với tâm niệm gửi tới người đã khuất.Vậy, Phật giáo có quy định về đốt vàng mã hay không?
Đốt vàng mã và những vật dụng, đồ dùng… hàng mã (gọi chung là hóa vàng) đã thành thói quen tràn lan trong các dịp lễ hội, ma chay… Người hóa vàng thường quan niệm “trần sao âm vậy” nên đốt vàng mã, hàng mã càng nhiều càng tốt với đủ vật dụng, nào là ô tô, đô la, vàng, căn biệt thự…. Họ mong muốn gửi xuống cõi âm cho người đã khuất. Tuy nhiên, các vị chức sắc Phật giáo khẳng định, đạo Phật không khuyên chúng sinh làm vậy, theo quan niệm của Phật giáo, việc làm đó sẽ chẳng thể đến được với người đã khuất.
Thượng tọa Thích Thanh Huân – Phó Văn phòng Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, trụ trì chùa Pháp Vân. (TP.Hà Nội)
Thượng tọa Thích Thanh Huân- Phó Văn phòng Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, trụ trì chùa Pháp Vân (TP.Hà Nội) khẳng định, Phật pháp cũng như Đức Phật không hề có việc đốt vàng mã, hàng mã. Phật giáo chỉ khuyên người còn sống làm nhiều việc tốt, việc thiện để siêu độ cho người thân đã mất. Hành giáo bằng việc giúp đỡ người khác vừa có ích thiết thực cho đời vừa “chỉ” cho người đã khuất sớm được siêu độ vong linh.
Trao đổi với chúng tôi, Thượng tọa Thích Quảng Hà, trụ trì chùa Cẩm (xã Yên Dương, huyện Ý Yên, Nam Định), Phó Chủ tịch Hội đồng trị sự Trung ương giáo hội Phật giáo Việt Nam, Trưởng ban Trị sự giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Nam Định cũng khẳng định, Phật giáo không quy định phải đốt vàng mã, hàng mã hay cúng tiền cho Đức Phật, cho vong linh người đã khuất. Tục lệ đốt vàng mã, hàng mã xuất phát từ thời nhà Đường (Trung Quốc), sau đó du nhập vào Việt Nam và đến nay đã trở thành thói quen của nhiều người với tâm niệm muốn gửi những đồ dùng, tiền bạc cho người cõi âm. Việc làm đó không giúp được người đã khuất, vì chết là giải thoát rồi, không cần đến những vật chất như nơi trần gian nữa, không giải thoát thì phải giam cầm nơi địa ngục, chẳng thể dùng đến những thứ đó. Từ phân tích này, Thượng tọa Thích Quảng Hà khẳng định: Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam ra Thông bạch khuyên Phật tử không đốt vàng mã là hoàn toàn đúng đắn và rất cần thiết. Thượng tọa cho biết, thực tế, từ nhiều năm nay, ngài đã khuyên bảo Phật tử, người dân đến lễ chùa hạn chế, không đốt vàng mã; thay vì dùng tiền thật mua tiền giả để đốt, người dân nên dùng tiền thật đó để làm việc bác ái giúp đỡ người khác để được cả đạo lẫn đời.
Nhân đây, Thượng tọa Thích Quảng Hà cũng lưu ý, người dân khi đi lễ chùa không nên đặt tiền lên bàn thờ hoặc lễ vật vì Phật cũng như các vị thánh không dùng đến tiền bạc. Tiền công đức chỉ để con người tu sửa đền chùa mà thôi. Hơn nữa, đồng tiền chuyền tay hết người này đến người khác ở chợ nên rất dơ bẩn, đặt lên bàn thờ sẽ mất tôn kính, nếu muốn công đức bao nhiêu tiền chỉ cần bỏ số tiền đó vào một hòm công đức là được, không cần phải đổi thành nhiều tờ tiền lẻ để đặt nhiều nơi.
Theo nhiều vị chức sắc Phật giáo khác, đốt vàng mã, hàng mã không thể gửi tới được cõi âm, bởi con người khi chết, sau 49 ngày sẽ thác vào những cảnh giới khác nhau, cảnh giới khác nhau thì vật dụng mà họ thọ dụng cũng khác nhau, vì thế không thể đem vật dụng ở cõi dương gian mà cung cấp cho chúng sinh ở cõi âm được. Lễ chùa, giỗ ông bà, tổ tiên là để tôn kính, tưởng nhớ và tìm lại cái tâm mà tỉnh thức để làm nhiều việc tốt hơn, qua đó mà “lập công” để siêu độ vong linh ông bà gia tiên, tích đức cho bản thân để khi từ giã cõi đời được đầu thai vào cảnh giới tương ứng với việc làm phúc thiện của mình khi ở trần gian.
Như vậy, đốt vàng mã không những không đúng với quan niệm Phật giáo mà còn tốn kém, lãng phí tiền của, thậm chí ở các lễ hội, đông người đốt với số lượng nhiều còn ảnh hưởng tới môi trường và sức khỏe cộng đồng, do vậy, nên sớm bỏ việc đốt vàng mã như khuyến cáo trong Thông bạch của Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam vừa ban hành./
Theo An Luých Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam
Ý Nghĩa Bài Cúng Giỗ Mẹ Chồng, Văn Khấn Ngày Giỗ Bố Mẹ (Cha Mẹ) Đơn Giản, Dễ Nhớ
Rate this post
Đang xem: Bài cúng giỗ mẹ chồng
Ý nghĩa của bài khấn giỗ.
Ngày giỗ hàng năm là ngày mất của người đã khuất. Là dịp để con cháu và an hem họ hàng gần xa tụ họp lại một nơi đông đủ. Thể hiện tinh thần đoàn kết vừa để cùng nhau tưởng nhớ lại người đã mất trong nhà. Dâng lên người khuất lễ sắm và mâm cơm đã được chuẩn bị. Cùng cầu nguyện phụ hồ độ trì cho một năm an lành, phát tài và yên ấm trong nhà.
Bài khấn giỗ như thế nào
Trong bài khấn giỗ cần lưu ý cách khấn trong cúng giỗ đối với ông bà, bố mẹ, chồng hoặc vợ. Thì nếu như Bố đã mất thì khấn là : Hiển Khảo. Nếu như người đã mất là Mẹ thì bài cúng ngày giỗ là : Hiển Tỷ. Nếu như là ông đã mất thì khấn là : Tổ khảo. Nếu như Bà đã mất thì khấn là : Tổ Tỷ. Cụ ông đã mất khấn là: Tằng Tổ Khảo, Cụ bà đã mất khấn là: Tằng tổ tỷ. Anh em trong nhà đã mất khấn là: Thệ Huynh, Thệ Đệ. Chị em trong nhà đã mất thì khấn là : Thệ Tỷ, Thệ muội. Đối với cô dì chú bác đã mất thì khấn là : Bá thúc Cô Di, Tỷ Muội. Hoặc có thể khấn chung là: Cao Tằng Tổ Khảo, Cao Tằng Tổ Tỷ nội ngoại Gia Tiên trong nhà.
Đối với bài văn cúng giỗ cần lưu ý là: Đối với những ngày giỗ chính của người thân trong gia đình như: Bố Mẹ, Ông Bà, Vợ hoặc Chồng trước khi cúng giỗ cần phải cúng cáo giỗ. Chính là cúng trước ngày giỗ chính 1 ngày để xin Thần linh, Thổ Công Thổ Địa nơi mình đang sống cho hương linh người đã mất biết về và được hưởng giỗ của mình.
Trong bài cúng ngày giỗ của người mất thì người được hưởng giỗ phải được mời trước, sau đó mới đến vong linh của nội ngoại trong gia tiên. Và phải mời từ trên cao nhất xuống thấp nhất để về thụ hưởng dự cùng.
Trong bài văn cúng giỗ cần lưu ý có sự khác như giữa những ngày giỗ như : giỗ đầu, giỗ hết, giỗ thường, ngày cáo giỗ, ngày chính giỗ hoặc gửi giỗ thì có sự khác nhau. Chính vì thế cần lưu ý để tránh sự nhầm lẫn và làm sai các thủ tục cúng khấn.
Cập nhật thông tin chi tiết về Thư Gửi Mẹ Nhân Ngày Giỗ Người. trên website Apim.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!