Xu Hướng 6/2023 # Tạp Tiếu Chư Khoa (雜醮諸科) # Top 15 View | Apim.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Tạp Tiếu Chư Khoa (雜醮諸科) # Top 15 View

Bạn đang xem bài viết Tạp Tiếu Chư Khoa (雜醮諸科) được cập nhật mới nhất trên website Apim.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Tạp tiếu chư khoa ( 雜醮諸科 Các khoa lễ ) là Bộ sách Hán Nôm nằm trong vốn tài liệu cổ đã được lưu trữ tại Thư viện tỉnh Yên Bái trong nhiều năm qua gồm có 5 tập, ra đời Năm Thành Thái thứ 4 (tức năm 1892). Bộ sách được in từ bản khắc gỗ lưu tàng tại chùa xã Xuân Lôi, huyện Vũ Giang, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

Bộ sách tổng hợp hơn 50 khoa cúng Phật, Thánh… để cầu phúc, tránh tai nạn, trừ tà… Cách xem ngày: Lễ Thiên đế giáng sinh khoa 禮天帝降生科, Lễ Thiên Đài khoa 禮天臺科, Lễ Thiên thời khoa 禮天時科, Lễ Bạch hổ giải tứ cửu hạn khoa 禮白虎解四九限科…

Sách Hán Nôm các dân tộc thiểu số ở Việt Nam có nội dung rất phong phú, gồm nhiều chủng loại khác nhau như: Truyện thơ, y dược, tôn giáo, sách dạy học, hát… Sách về hát có hát sli và lượn của người Tày – Nùng, hát then và ca đám cưới của người Tày, hát giao duyên nam nữ của người Dao. Các truyện thơ Nôm phản ánh chân thực cuộc sống sinh động của đồng bào các dân tộc thiểu số Việt Nam thông qua các hoạt động văn hóa lễ hội, văn hóa tâm linh, những phong tục tập quán và tín ngưỡng dân gian đầy bản sắc, những câu chuyện chất chứa tính đạo lý, thiện ác phân minh…Tất cả nhằm hướng tới xây dựng một xã hội cộng đồng tốt đẹp thuận hòa và những khát vọng vươn lên. Sách y dược chiếm một số lượng không nhỏ, ghi chép các bài thuốc chữa bệnh theo kinh nghiệm dân gian, bổ sung vào kho sách đông y Việt Nam. Sách tôn giáo thường chép các bài cúng trong các dịp tế lễ của người dân tộc như: Cúng nhà mới, cầu mùa, trừ ma tà, phù chú…

Nội dung của 5 tập sách gồm:

Tập 1: Tạp tiếu chư khoa tập nhất (Các khoa lễ khác nhau tập một)

Mã thư viện kí hiệu: ĐCC 158; SH 27. Bao gồm 12 khoa hợp với 93 chương:

1. Thỉnh Phật giản khoa, từ trang 4 đến trang 30.2. Lễ thiên thì khoa, từ trang 31 đến trang 47.3. Kỳ thiên khoa từ trang 47 đến trang 67.4. Nhương tinh khoa, từ trang 68 đến trang 935. Dự cáo nghi khoa, từ trang 94 đến trang 99.6. Nam Tào Bắc Đẩu khoa, từ trang 100 đến trang 110.7. Đương niên cảnh khoa, từ trang 111 đến trang 119.8. Nghênh triệu thành hoàng khoa, từ trang 120 đến trang 1319. Sám tạ thành hoàng nghi khoa, từ trang 132 đến trang 151.10. Lễ sám tiên sư khoa, từ trang 152 đến trang 167.11. Lễ giải vô thường khoa, từ trang 168 đến trang 175.12. Thi thực nghi khoa từ trang, 176 đến trang 191.

Tập 2: Tạp tiếu chư khoa tập nhị (Các khoa lễ khác nhau tập hai)

Mã thư viện kí hiệu: ĐCC 31; SH 28. Bao gồm 11 khoa cúng hợp cùng 89 chương:

1. Cửu trùng thiên tiên khoa (Còn gọi Cửu trùng Công chúa khoa) từ trang 2 đến trang 14.2. Cung sùng sơn thần tiên khoa, từ trang 15 đến trang 36.3. Cung bán thiên công chúa khoa, từ trang 37 đến trang 44.4. Cung lục cung công chúa khoa (còn gọi Cung lục cung chẩn đậu khoa = bệnh sởi, đậu mùa) từ trang 45 đến trang 54.5. Lễ chưởng minh y thần khoa, từ trang 55 đến trang 64.6. Bảo đồng bảo thai khoa (bảo vệ trẻ và thai nhi), từ trang 65 đến trang 100.7. Lễ hoàng tuyền thục mệnh khoa (chuộc mệnh), từ trang 101 đến trang 116.8. Giải oan thường mệnh nghi (bồi thường bản mệnh), từ trang 117 đến 128.9. Nhương hoàng trùng khoa (liễn sâu hại lúa), từ trang 129 đến trang 140.10. Thỉnh Phật trừ ôn nghi, từ trang 141 đến trang 160.11. Lễ sám thổ công khoa, từ trang 161 đến hàng cột chữ thứ nhất của trang 174, nhưng chữ ở cột này mất gần hết.(Cả trang 174 ghi tên các nơi khắc bản in kinh khoa, giúp tiền, giúp bạc như Phổ Đà trưởng lão sa môn Thanh Dưỡng, chùa Cao Sơn, chùa Đoan Minh xã Thổ Hà, chùa Đại Phúc, chùa Yên Lạc và hai đạo sĩ).

Tập 3: Tạp tiếu chư khoa tập tam (Các khoa lễ khác nhau tập ba)

Mã thư viện kí hiệu: ĐCC 142; SH 29. Bao gồm 12 khoa hợp với 91chương:

1. Quan Âm cứu bệnh khoa, từ trang 2 đến trang 182. Sám tạ long thần khoa, từ trang 19 đến trang 423. Di cung hoán số khoa, từ trang 43 đến trang 544. Yên bản mệnh khoa, từ trang 55 đến trang 625. Lễ tam phủ thục mệnh khoa, từ trang 63 đến trang 766. Lễ thiên đế bảo đồng khoa, từ trang 77 đến trang 927. Lễ thiên đài khoa, từ trang 93 đến trang 1068. Thỉnh không lộ thánh tổ khoa, từ trang 107 đến trang 1199. Phần sài khánh trạch khoa, từ trang 120 đến trang 13610. An trấn cấm đàn kết giới nghi, từ trang 137 đến trang 14711. An trấn hỏa đàn khoa, từ trang 148 đến trang 16712. Cửu ngưu sát thổ khoa, từ trang 168 đến trang 181

Tập 4: Tạp tiếu chư khoa tập tứ (Các khoa lễ khác nhau tập bốn)

Mã thư viện kí hiệu: ĐCC 170; SH 30. Bao gồm 10 khoa hợp với 91chương:

1. Tống hỏa tai khoa, từ trang 2 đến trang 142. Lễ Bạch hổ giải tứ cửu hạn khoa, từ trang 15 đến trang 223. Lễ thiên cẩu khoa, từ trang 23 đến trang 344. Cát đoạn trầm phù cửu tỉnh khoa, từ trang 35 đến trang 73, Trang 74 ghi các nơi cúng tiền)5. Cát đoạn thông hành khoa, từ trang 75 đến trang 1146. Sám viện thiên liên công chúa khoa, từ trang 115 đến trang 121, (Trang 122 ghi các nơi cúng tiền)7. Giải quan sát khoa, từ trang 123 đến trang 136, 8. Tán đăng ôn nghi, từ trang 137 đến trang 151(Trang 152 ghi các nơi cúng tiền)9. Thiết thực ôn bộ nghi, từ trang 153 đến trang 16810. Mất khoa “Lễ Quy Quân” Tập 5: Tạp tiếu chư khoa tập ngũ (Các khoa lễ khác nhau tập năm)

Sách Cúng Tạp Tiếu Chư Khoa Song Ngữ + Thủy Lục Chư Khoa

Sách cúng TẠP TIẾU CHƯ KHOA SONG NGỮ (CHỮ IN CỰC KÌ SẮC NÉT)

Bộ sách cúng chữ Hán, có phiên âm Việt gồm 5 tập 60 khoa cúng, khá đầy đủ dùng cho các thầy chùa, pháp sư đi cúng. Tạp Tiếu Chư Khoa ( Song Ngữ ) Tập 1 : Thỉnh phật giản khoa Lễ đảo thiên thời khoa Lễ kỳ thiên khoa Lễ nhương tinh khoa Lễ nam tào bắc đẩu khoa Đương niên đương cảnh khoa Nghinh triệu thành hoàng khoa Sám tạ thành hoàng khoa Lễ sám tiên sư khoa Lễ vô thường khoa Cúng thí thực cô hồn khoa Tập 2 : Lễ cửu trùng công chúa khoa Cúng sùng sơn thần tiên Cúng bán thiên công chúa Lục cung phụ chẩn đậu Lễ trưởng minh y Thỉnh phật bảo đồng bảo thai Lê hoàng tuyền thục mệnh Lễ giải oan thưởng mệnh Lễ thần nông Thỉnh phật trừ ôn nghi Lễ sám thổ công Lễ trần triều Tập 3 : Thỉnh phật quan âm cứu bệnh Sám tạ long thần Di cung hoán số Lễ an bản mệnh Lễ tam phủ thục mệnh Thiên đế bảo đồng khoa Lễ thiên đài Thỉnh thánh không lộ Phần sài khánh trạch An trấn cấm đàn kết giới An trấn hoả đàn Cửu ngưu sát thổ Tập 4 : Lễ tống hoả tai Lễ bạch hổ giải tứ cửu hạn Lễ thiên cẩu Cắt đoạn trầm phù cửu tỉnh Lễ cắt đoạn thông hành Lễ sám viện thiên tiên công chúa Lễ giải quan sát Lễ tán đăng ôn nghi Lễ thiết thực ôn bộ Lễ sám táo quân khoa Tập 5 : Chư thần thông dụng khoa Động đình thuỷ tộc khoa Hà bá triệu hồn khoa Lôi công chúa tích lịch Sơn tinh mộc thụ An mạch hoàn thổ Chiêu hồn khoa Sám tạ phần mộ Giải ác mộng khoa Hiến hoá bà Tam phủ thục án Tam phủ đối khám

Sách cúng THỦY LỤC SONG NGỮ (CHỮ IN CỰC KÌ SẮC NÉT) Bộ sách cúng chữ Hán, có phiên âm Việt gồm 6 tập 27 khoa cúng, khá đầy đủ dùng cho các thầy chùa, pháp sư đi cúng. Tập 1 : – Nghinh sư duyệt định khoa – Dự Tiếp Linh Khoa – Chuyển Luân – Cấp Thủy Khoa – Tịnh Trù Khoa – Kiên Đàn Giải Uế Khoa Tập 2 : – Diễn Bảng Nghi – Phát Tấu Nghi – Cúng Tài Khoa – Thỉnh Kinh Khoa – Thụ Phan Khoa – Thỉnh Thánh Không Lộ Khoa Tập 3 : – Thỉnh Phật Khoa – Thập Cúng Nghi – Triệu Linh – Chúc Thực Khoa Tập 4 : – Lễ Thập Điện Khoa – Thỉnh Mục Liên Khoa – Thỉnh Địa Tạng Khoa – Phá Ngục Khoa – Huyết Hồ Tập 5 : – Thỉnh Xá Khoa – Phóng Xá Khoa – Khai Phương Khoa – Phóng Sinh Khoa – Phóng Đăng Khoa – Giải Kết Khoa Tập 6 Mông Sơn Khoa

Chư vị có nhu cầu vui lòng inbox hoặc LH SĐT 0972676252

Nguồn: https://alancarlsonmd.com

Dâng Hoa Cúng Dường Chư Phật

Dâng hoa cúng dường chư Phật sẽ là cao tột cùng trong các pháp, nếu đó là hoa của Giới, của Định và của Tuệ

Cúng dường nào có công đức lớn nhất?

Truyền thống cúng dường Tam bảo đã có từ thời các vị cổ Phật. Trong thời Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, vị nổi bật trong hạnh cúng dường là Trưởng giả Cấp Cô Độc, được gọi là người thực hành đại bố thí nhất, từng cúng đến nhiều ngàn ức vàng. Không có nhiều phương tiện và cơ duyên như ngài Cấp Cô Độc, người cư sĩ thường giữ hạnh cúng dường tứ sự để duy trì Chánh pháp và để chư tôn đức Tăng-già có phương tiện tu hành và hoằng pháp. Tuy nhiên, để cúng dường Đức Phật, có một kinh cho biết rằng cúng dường hương hoa là thích nghi nhất. Có phải hương hoa là một ẩn nghĩa? Cũng có thể vì Đức Phật từng tự ví như hoa sen… Kinh Tương ưng bộ 22.94, bản dịch của Thầy Minh Châu ghi lời Đức Phật:

“Ví như, này các Tỷ-kheo, bông sen xanh, hay bông sen hồng, hay bông sen trắng sanh ra trong nước, lớn lên trong nước, vươn lên khỏi nước, và đứng thẳng không bị nước nhiễm ướt. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Như Lai sanh ra ở trong đời, lớn lên trong đời, vươn lên khỏi đời, và sống không bị đời ô nhiễm”[1].

Truyền thống cúng dường Tam bảo đã có từ thời các vị cổ Phật.

Đốt thân thể cúng dường chư Phật

Trong Tăng nhất A-hàm, có kinh EA-20.3, bản dịch của Thầy Tuệ Sỹ và Thầy Đức Thắng, có đoạn viết là khi nói về cúng dường, ghi rằng nên cúng Đức Phật hương hoa thay vì vàng bạc trân bảo.

Kinh này trích như sau:

“… Ông lại nghĩ như vầy: ‘Trong sách có ghi, Như Lai không nhận vàng bạc trân bảo, ta có thể đem năm trăm lạng vàng này, dùng mua hoa hương rải lên Như Lai’. Lúc đó, bà-la-môn liền vào trong thành tìm mua hương hoa”[2]

Khi nói nên cúng hương hoa thay vì vàng bạc trân bảo, có thể vì hương hoa mang ẩn nghĩa là hoa của giới, hoa của định, hoa của tuệ? Cũng có thể có ẩn nghĩa đó.

Bởi vì kinh Tăng chi bộ 5.175, bản dịch của Thầy Minh Châu, ghi lời Đức Phật rằng hoa sen còn tượng trưng Chánh tín của người cư sĩ.Kinh này trích như sau:”Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, một nam cư sĩ là hòn ngọc trong giới nam cư sĩ, là hoa sen hồng trong giới nam cư sĩ, là hoa sen trắng trong giới nam cư sĩ. Thế nào là năm? Có lòng tin; có giới; không đoán tương lai với những nghi lễ đặc biệt; không tin tưởng điềm lành; tin tưởng ở hành động; không tìm kiếm ngoài Tăng chúng người xứng đáng tôn trọng và tại đấy phục vụ trước. Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, một nam cư sĩ là hòn ngọc trong giới nam cư sĩ, là hoa sen hồng trong giới nam cư sĩ, là hoa sen trắng trong giới nam cư sĩ”[3].

Trong khi chúng ta đọc Thánh nhân Ký sự, bản dịch của Tỳ-khưu Indacanda[4], ghi về các cơ duyên tiền kiếp của các Trưởng lão A-la-hán nổi bật, sẽ thấy trong những kiếp lâu xa về trước, các vị đó khi còn là cư sĩ, hoặc khi còn là một chúng sanh trong loài thú, rất nhiều trường hợp đã dâng hoa cúng dường cho các vị cổ Phật.

Nếu không có cơ duyên gặp Đức Phật, chúng ta có thể dâng cúng các bậc Thánh Tăng cũng được nhiều phước duyên thiện lành.

Cúng dường đúng pháp và lợi ích của cúng dường Tam bảo

Như trường hợp của Trưởng lão Pāṭalipupphiya, trong một kiếp xa xưa, khi là con trai của một nhà triệu phú đã cầm một bông hoa tới dâng cúng Đức Phật Tissa. Đọc tích này, chúng ta có thể nhận ra rằng con trai của nhà triệu phú tất nhiên có rất nhiều vàng bạc trân bảo, nhưng trong mắt của chàng trai này, quý giá nhất lúc đó là bông hoa pāṭali và cậu đã dâng cúng hoa này.

Trích Thánh nhân Ký sự, bản dịch của Tỳ-khưu Indacanda, về ngài Pāṭalipupphiya như sau:

“Ký sự về Trưởng lão Pāṭalipupphiya

Lúc bấy giờ, tôi đã là con trai nhà triệu phú, mảnh mai, khéo được nuôi dưỡng. Tôi đã đặt bông hoa pāṭali vào lòng và đã mang theo bông hoa ấy.

Bậc Toàn giác có màu da vàng chói đang đi ở khu phố chợ. Ngài có ba mươi hai hảo tướng, tợ như cây cột trụ bằng vàng.

Tôi đã trở nên mừng rỡ, với tâm mừng rỡ tôi đã cúng dường bông hoa. Tôi đã lễ bái Đấng Hiểu biết Thế gian Tissa, đấng Bảo hộ, vị Trời của nhân loại.

Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường bông hoa.Trước đây sáu mươi ba kiếp, (tôi đã là) vị có tên Abhisammata, là đấng Chuyển luân vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

Bốn (tuệ) phân tích, – (như trên) – tôi đã thực hành lời dạy của Đức Phật”[4].

Để cúng dường Đức Phật, có một kinh cho biết rằng cúng dường hương hoa là thích nghi nhất.

Cúng dường cơm cháy chuyển nghiệp đọa địa ngục thành sinh thiên

Nếu chỉ cúng hoa, hẳn là không cần phải giàu như con của một nhà triệu phú như tiền kiếp của Trưởng lão Pāṭalipupphiya. Vì cũng trong Thánh nhân Ký sự, trong “Ký sự về Trưởng lão Kaṇaverapupphiya” kể rằng tiền kiếp lâu xa của Trưởng lão này chỉ là một người canh gác ở hậu cung đức vua. Đó là thời của Đức Phật có tên là Siddhattha.

Người lính gác này lúc đó đã dâng cúng bằng cách “… cầm lấy bông hoa kaṇavera và đã rải rắc ở Hội chúng Tỳ-khưu. Tôi đã thực hiện nhiều lần ở Đức Phật, sau đó đã rải rắc nhiều hơn nữa. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường bông hoa…”.Trong khi đó, một nghệ nhân bình thường cũng có thể cúng hoa (đúng ra, nghèo cỡ nào, cũng cúng hoa được). Như trường hợp ghi trong Thánh nhân Ký sự, nơi “Ký sự về Trưởng lão Ucchaṅgapupphiya”, khi tiền kiếp lâu xa của Trưởng lão này là “người làm tràng hoa ở thành phố Bandhumatī” trong thời Đức Phật có tên là Vipassī.

Nên ghi nhận Trưởng lão nói rằng cúng hoa đã dẫn tới cơ duyên thoát khổ (hưởng phước) và tới cơ duyên hoàn toàn giải thoát (đoạn tận lậu hoặc, có nghĩa rằng cúng hoa mang ẩn nghĩa là hoa của Giới Định Huệ). Trích lời ngài như sau:

“(Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường Đức Phật.

Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc”.Thậm chí, loài chim cúng hoa cũng được hưởng phước. Đó là trường hợp Thánh nhân Ký sự ghi trong sự tích “Ký sự về Trưởng lão Salalapupphiya” – lúc đó ngài là “loài kim-xí-điểu” trong thời Đức Phật Vipassī, và kết quả từ khi “… tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường Đức Phật”.

Người trí không nương tựa vào bất kỳ gì, không thấy gì để trân quý hay ghét bỏ. Sầu khổ và tham đắm không dính vào người này, hệt như nước không dính vào chiếc lá.

Cách cúng dường cao quý nhất là Pháp cúng dường

Nếu không có cơ duyên gặp Đức Phật, chúng ta có thể dâng cúng các bậc Thánh Tăng cũng được nhiều phước duyên thiện lành. Thánh nhân Ký sự trong “Ký sự về Trưởng lão Tivaṇṭipupphiya” kể rằng một tiền kiếp Trưởng lão này dâng cúng hoa cho nhà sư “có tên Sunanda, Thanh văn của Đức Phật bậc Hiền Trí Dhammadassī”. Kết quả ghi là “… tôi đã không đi đến đọa xứ trong một ngàn tám trăm kiếp”.

Trong kinh Pháp cú Nam truyền, có một phẩm tên là Hoa. Bài kệ 54 và 55 do Thầy Minh Châu dịch như sau:

“Hương các loại hoa thơm, không ngược bay chiều gió. Nhưng hương người đức hạnh, ngược gió khắp tung bay. Chỉ có bậc chân nhân, tỏa khắp mọi phương trời. Hoa chiên-đàn, già-la, hoa sen, hoa vũ quý, giữa những hương hoa ấy, Giới hương là vô thượng”[5].

Trong khi đó, Đức Phật cũng từng dạy rằng hãy giữ tâm “vô sở trụ” y hệt như nước bùn không dính vào hoa sen được. Lời dạy đó nằm trong nhóm kinh Nhật tụng Sơ thời, các kinh chư Tăng dùng làm nhật tụng trong những năm đầu Đức Phật hoằng pháp. Đó là kinh Tương ưng bộ Sn 4.6 (Jara Sutta).

Bản dịch của Nguyên Giác trích như sau:

“Người trí không nương tựa vào bất kỳ gì, không thấy gì để trân quý hay ghét bỏ. Sầu khổ và tham đắm không dính vào người này, hệt như nước không dính vào chiếc lá.

Như giọt nước trên lá sen, như nước không dính vào bông sen; những gì được thấy, nghe, nhận biết không dính mắc gì vào người trí.

Người thanh tịnh không khởi niệm tư lường về những gì được thấy, nghe, nhận biết, cũng không muốn tìm thanh tịnh qua bất kỳ cách nào vì đã không còn gì để tham đắm hay ghét bỏ”[6].

Đọc kỹ bài kinh vừa dẫn, sẽ thấy đó là pháp tu “không có gì để tu hết” của Thiền tông, cũng là Thiền Trúc Lâm của Việt Nam. Bởi vì “không khởi niệm” và “không muốn tìm thanh tịnh qua bất kỳ cách nào” cũng có nghĩa là buông hết cả ba thời, và là xa lìa ngũ uẩn của ba thời quá, hiện, vị lai.

Người thanh tịnh không khởi niệm tư lường về những gì được thấy, nghe, nhận biết, cũng không muốn tìm thanh tịnh qua bất kỳ cách nào vì đã không còn gì để tham đắm hay ghét bỏ

Ý nghĩa của bố thí và cúng dường

Ngài Trần Nhân Tông gọi đó là “Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền” – là đối trước cảnh, tâm không dao động, thì chớ hỏi Thiền làm chi. Lục tổ Huệ Năng cũng gọi đó là “Chớ nghĩ thiện, chớ nghĩ ác…” và kinh Kim cang gọi đó là “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”…

Bất kỳ ai cũng có thể nhìn lại tâm mình, và chớ nghĩ gì tới thiện/ác, lành/dữ, và chớ nghĩ gì tới quá/hiện/vị lai… ngay khi đó, chính là một cái nhìn của tỉnh thức, của tịch lặng, của xa lìa tham sân si. Ngay đó là Niết bàn, ngay trước mắt. Và đó chính là hương hoa cúng dường chư Phật.

Ghi chú:

1. Kinh Tương ưng bộ SN 22.94: https://suttacentral.net/ sn22.94/vi/minh_chau.

2. Kinh Tăng nhất A-hàm, Kinh EA-20.3: https://suttacentral. net/ea20.3/vi/tue_sy-thang.

3. Kinh Tăng chi bộ AN 5.175: https://suttacentral.net/ an5.175/vi/minh_chau.

4. Thánh nhân Ký sự, bản dịch Tỳ-khưu Indacanda: https:// www.tamtangpaliviet.net/VHoc/39/Ap_00.htm. và https://www.tamtangpaliviet.net/VHoc/40/Ap_00b.htkm.

5. Kinh Pháp cú: https://thuvienhoasen.org/p15a7961/pham- 01-10.

6. Kinh Tương ưng bộ 4.6: https://thuvienhoasen.org/p15a30599/ sn-4-6-jara-sutta-kinh-ve-tuoi-gia.

Theo Văn hoá Phật giáo số 337-338 ngày 15-01-2020 > Xem thêm video: Tu thân theo lời Phật dạy:

Nguyên Giác

Ý Nghĩa Của Việc Cúng Dường Chư Phật

Chúng ta thường thấy có rất nhiều người mua hoa tươi, trái cây cúng dường Phật, Bồ Tát đồng thời cũng đốt hương, đốt đèn sáp để cầu Phật Bồ Tát bảo hộ bình an, khỏe mạnh, thăng quan phát tài. Vậy dụng ý sâu xa của việc làm ấy là gì? Có phải Phật, Bồ Tát cần dùng những thứ này chăng? #Dongtayy #Đông_tây_y

Thực ra chư Phật, Bồ Tát nhất định không cần những thứ này. Tất cả những vật phẩm đem cúng dường chư Phật, Bồ Tát đều mang dụng ý là giáo học. Nếu dùng lời hiện đại mà nói thì những thứ ấy chính là công cụ để hoằng pháp độ sinh. Để khi chúng ta tiếp xúc với chúng liền có thể thức tỉnh.

Với việc cúng hoa ở trước tượng Phật thì có ý nghĩa như sau. Hoa là đại biểu nhân, do tất cả các pháp đều không rời khỏi nhân và quả. Phật thường nói trên các kinh Đại Thừa là “Vạn pháp giai không, nhân quả bất không”. Nhân quả là nói sự biến chuyển của tất cả vạn pháp. Nhân sẽ biến thành quả, Quả sẽ biến thành Nhân. Nhân quả thay đổi lẫn nhau, tiếp nối không ngừng. Bởi vậy, nhân quả là nói sự thay đổi vô cùng vô tận. Đây là chân tướng sự thật, do đó nói “nhân quả bất không.”

Do vì nở hoa trước kết quả sau, hoa là nhân phía sau là quả. Cho nên cúng hoa là đại biểu Tu Nhân, hoa tốt thì chúng ta nghĩ ngay đến quả nhất định sẽ tốt. Do đó thấy hoa ta liền phải nghĩ ngay đến việc chúng ta phải Tu Nhân Thiện, tương lai về sau mới có thể có được quả báu tốt. Hoa chính là biểu thị cho ý nghĩa này.

Còn cúng quả chính là biểu thị cho quả báu, là khi chúng ta cầu “hoa” đẹp, “hoa” thơm thì cần phải tu. Trong Phật giáo Đại thừa, Hoa đại biểu Lục độ: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, Thiền định, Bát nhã. Đây gọi là Hoa Lục Độ. Sau đó mới có thể đạt được quả báu viên mãn.

Như vậy hoa cúng Phật là biểu thị nhân hành. Vậy sau khi rời khỏi Phật điện, nhìn thấy Hoa bên ngoài ta có khởi cái ý này không? Chắc chắn là nên rồi. Có hiểu được Phật pháp, chỉ cần nhìn thấy Hoa liền nhắc nhở chính mình, nhất định phải tu nhân thiện, phải tu nhân tốt, thì mới có thể có được quả tốt, được quả thiện. Đây chính là ý nghĩa trọn vẹn của việc cúng dường chư Phật, Bồ Tát hoa tươi và quả ngọt.

Trong các loại đồ cúng dường, đơn giản nhưng quan trọng nhất chính là một ly nước trong sạch. Nhìn ly nước, tâm của ta có thanh tịnh như nước, một trần không nhiễm hay không? Cho nên ly nước không phải cúng dường cho Phật uống mà là để cho chúng ta quán chiếu lại chính mình. Nước biểu thị cho Tâm. Nước trong sạch biểu thị Tâm thanh tịnh.

Khi nước không nổi sóng là bình, biểu thị bình đẳng. Cho nên cúng dường một ly nước, nhìn thấy nước nghĩ ngay đến tâm thanh tịnh, bình đẳng. Đây chính là đồ cúng vô cùng quan trọng. Chỉ một ly nước cũng có thể giúp ta thế hội được pháp Phật trong cuộc sống.

Cho nên bạn có thể không thắp hương, không cần đốt đèn nến cũng không cần có hương hoa, oản quả cúng dường. Thế nhưng không thể không cúng một ly nước. Bởi lúc này ly nước là đại biểu Tâm thanh tịnh, Tâm bình đẳng, Tâm từ bi. Nhìn thấy nước liền quán chiếu đến chính mình. Ở ngay trong tất cả hoàn cảnh phải biết giữ Tâm thanh tịnh và bình đẳng. Tâm thanh tịnh và bình đẳng chính là Tâm Phật.

Giáo pháp của Đức Phật lúc nào cũng ẩn chứa trong những điều giản đơn chứ không phải là những thứ cao siêu, khó hiểu. Chính vì vậy, chúng ta cần ghi nhớ hương hoa, trái cây, bát nước cúng dường chư Phật, Bồ Tát không phải để cho các Ngài thọ dụng hay bắt ép chúng ta phải làm như vậy. Tất cả những gì Ngài muốn chúng ta làm chính là đoạn ác, tu thiện, lúc nào cũng phải giữ cho mình thân tâm bản tánh thật thanh tịnh.

Như vậy, tất cả những vật phẩm đem cúng dường chư Phật, Bồ Tát đều mang dụng ý là giáo học. Nhờ vào những thứ đồ cúng này, mỗi giờ mỗi khắc ta đều tự nhắc nhở chính mình sao cho sáu căn của mình tiếp xúc với cảnh giới sáu trần bên ngoài, niệm niệm đều có thể đạt được giác mà không mê, chánh mà không tà, tịnh là không nhiễm.

Nguyễn Linh Chi/ Nguồn: Giáo hội Phật giáo Việt Nam

Cập nhật thông tin chi tiết về Tạp Tiếu Chư Khoa (雜醮諸科) trên website Apim.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!