Bạn đang xem bài viết Tại Sao Phải Thờ Cúng Ông Bà Tổ Tiên Và Những Người Đã Khuất được cập nhật mới nhất trên website Apim.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Thờ cúng tổ tiên, người đã khuất là một trong những nét đẹp văn hóa của người Việt, thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn“. Tuy nhiên, điều này dần phai nhòa theo nhịp sống hiện đại, khi người ta không hiểu vì sao phải thờ cúng tổ tiên, chưa thấm nhuần những giá trị của việc thờ cúng người đã khuất quan trọng như thế nào.
#1. Định nghĩa việc thờ cúng
Trước hết chúng ta cần tìm hiểu nghĩa của hai từ ” Thờ cúng “.
” Thờ ” là dựng lên cái gì đó về mặt hình thức, về tín ngưỡng như lư hương, hình ảnh.
” Cúng ” là dâng lên những thực phẩm, nước, trái cây, nhang, đèn,… mà cảm nhận được bằng các giác quan, để ngửi, để thưởng thức.
Theo tâm linh, thông tường từ ” thờ cúng ” thường dành cho người đã khuất.
Sẽ xảy ra một số trường hợp, có người chỉ thờ mà không có cúng, có một số người họ cúng nhưng không thờ như chúng ta cúng mâm cơm để cầu bình an. Còn thờ cúng cụ thể như thắp nhang lên bàn thờ Phật, mỗi tháng có ngày rằm, mùng 1 thay nước cúng, trái cây, trưng hoa hay cúng ông bà tổ tiên loại trái cây mà sinh thời họ thích ăn…
Người Việt có xu hướng nhìn lại quá khứ và nuối tiếc dĩ vãng nhiều hơn là hướng đến tương lai như người phương Tây. Vì thế, họ thường lưu giữ những tình cảm, niềm thương tiếc đối với ông bà, cha mẹ quá cố. Tập tục thờ cúng tổ tiên của người Việt ra đời trên căn bản này và được đa số người Việt xem gần như một tôn giáo, gọi là đạo T hờ cúng Ông Bà.
Việc thờ cúng người đã khuất bắt đầu từ lúc có đám tang, sau đám tang là tuần thất, tiếp đến là đám giỗ. Trong đó đám giỗ là kéo dài nhất, thường là 5 đời đống giỗ: kể từ người đang là thời cúng kéo theo 4 đời sau nữa gọi là “Cao tằng tổ phụ”, phụ là ông nội của người đang cúng. Sau 5 đời tống giỗ trở thành tổ yên và chúng ta chỉ cúng vào dịp tết Nguyên Đán.
Tham khảo bài viết: Cách thắp hương cúng Rằm, Mùng 1 đúng cách
#2. Việc thờ cúng tổ tiên, người đã khuất có quan trọng không?
Với người Việt, hình thức thờ cúng rất đa dạng và phong phú: thờ Phật, thờ thánh thần, thờ anh hùng có công, thờ ông bà tổ tiên,… Vì thế có thể gọi dân tộc ta là đa tín ngưỡng. Trong đó việc thờ cúng những người đã mất rất quan trọng đối với người Việt, bởi trong quan niệm họ xem cái chết là điều quan trọng và linh thiêng.
Người Việt luôn quan niệm “dương sao âm vậy”, nghĩa là đời sống trên thế gian như nào thì khi mất đi họ cũng sống như thế. Do đó mới có tục đốt giấy tiền vàng mã để cho người chết được hưởng mà sử dụng ở suối vàng.
Họ còn cho rằng chết không phải là hết, sẽ còn tồn tại một thế giới bên kia dành cho người chết, mà thế giới đó có nét giống với thế giới của người sống. Nhiều người còn nằm mơ thấy những thứ quen thuộc của người đã khuất như vẫn mặc bộ quần áo đó, đội nón đó…
Nhưng chúng ta cũng nên hiểu, chiêm bao là ký ức của quá khứ chứ không phải thực tại vì họ có thể đã tái sinh và mang hình thái khác nên đâu phải họ mang hình dáng đó về thăm lại chúng ta.
Cúng thời để tỏ lòng báo ân đối với những người tiền bối, những người cha, người mẹ, ông bà đã hy sinh, đã để lại gia nghiệp và hình hài vóc dáng này cho chúng ta. Vì thế người ta mới quan niệm việc thờ cúng người đã khuất là vô cùng quan trọng.
Tham khảo bài viết: 12 Điều kiêng kỵ trong ngày Rằm, Mùng 1 hằng tháng
Ở góc độ dân gian, chính vì quan điểm trên mà người xưa họ chuẩn bị rất kỹ về cái chết. Khi biết sức khỏe đã yếu và sống không được bao lâu nữa, họ xây trước kim tĩnh, xây trước nhà mồ hoặc có người để quan tài ngay trong nhà để dự phòng, để họ yên tâm rằng sau khi chết mình sẽ được mồ yên mả đẹp. Đây là phong tục tập quán của người Việt Nam.
Việc thờ cúng tổ tiên là lẽ vậy. Tuy nhiên, có khá nhiều người băn khăn, thắc mắc, nữ giới khi đi xuất giá, ngoài việc thờ cúng tổ tiên nhà chồng thì có được thờ cúng bố mẹ đẻ không?
#3. Giải đáp thắc mắc: “Người đã chết có cúng họ ăn được không mà làm điều đó”
Đây là câu mà người ngoại đạo hay hỏi với người đạo Phật hay người ngoài muốn hỏi về truyền thống đạo lý của người Việt Nam.
Đối với người Việt Nam, cúng người mất có ăn hay không, không phải là chuyện quan trọng, nhưng quan trọng thể hiện đạo lý ” Uống nước nhớ nguồn“, ” Ăn trái nhớ kẻ trồng cây ” của người Việt. Như vậy một con người thể hiện đạo lý là một con người còn đạo đức, còn đủ phẩm chất của một con người đáng quý, đáng tôn trọng.
Cúng Dường Người Đã Khuất
Thực ra việc cúng 7 thất chỉ có ở một số quốc gia, như Trung Hoa, Việt Nam, chớ không phải ở toàn thể các nước theo Phật giáo. Tuy nhiên, chúng ta có thể duy trì những cuộc lễ nầy như những cơ hội tốt để người Phật tử làm mười điều tạo phước báu, nhứt là bố thí cúng dường, lợi ích cho mình, cho người hiện tiền và quá vãng.
Thường thì người còn sống tổ chức nấu nướng những món ăn, thức uống thịnh soạn để cúng người quá vãng, họ tin tưởng rằng người quá cố sẽ trở về thọ hưởng những vật thực họ cúng. Việc làm nầy như thế nào đứng trên quan điểm của Phật giáo? Chúng ta nên đọc lại trong kinh tạng, xem Ðức Phật dạy như thế nào. Kinh Tăng Chi Bộ, Chương Mười Pháp, III, 177, Phẩm Jànussoni có ghi lại cuộc đối thoại giữa Ðức Phật với Bà la môn Jànussoni cho biết không phải lúc nào sự cúng dường cũng đến được với người đã khuất.
Một lần nọ, Bà la môn Jànussoni đến bạch hỏi Ðức Thế Tôn. Ðại ý như sau:
– Bạch Tôn giả Gotama, chúng tôi là các Bà la môn chuyên làm các lễ cúng những người chết với mục đích mong rằng sẽ đem lại lợi ích cho người chết. Thưa Tôn giả Gotama, việc chúng tôi cúng người chết như vậy thật sự có lợi ích không ? Những người đã chết rồi có thọ hưởng được của bố thí cúng dường của thân nhân không ?
Ðức Phật trả lời:
– Nầy Bà la môn, nếu việc cúng dường người đã khuất đó có tương xứng xứ thì mới có lợi ích. Ngược lại nếu không có tương xứng xứ thì không có lợi ích cho người chết.
– Thưa Tôn giả Gotama, thế nào là tương xứng xứ? Thế nào là không tương ứng xứ?
– Nầy Bà la môn, ai sống sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời vô ích, có tham ái, có sân, có tà kiến, sau khi mạng chung sanh vào địa ngục. Tại đây, y được nuôi sống và tồn tại bằng thức ăn của địa ngục. Cúng thức ăn của con người là không tương xứng xứ. Vị nầy không hưởng được lợi ích gì từ thức ăn của người thân thuộc cúng kiến.
Cũng vậy, Ðức Phật giảng giải thêm rằng một người do làm mười điều ác như trên, sau khi thân hoại mạng chung, người nầy sanh vào loài bàng sanh. Tại đây, y được nuôi sống và tồn tại bằng thức ăn của loài bàng sanh. Do đó, không tương xứng, khi thân quyến đem thức ăn của con người để cúng quải, sẽ không được lợi ích gì từ thức ăn của người thân cúng .
Với những người khi sống biết tu tập mười nghiệp lành: từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ sống tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm, không tham ái, không sân hận, có chánh kiến, sau khi chết được tái sanh làm người, hoặc có phước báu hơn thì tái sanh làm chư Thiên, thì tại đấy, tùy theo là con người, hoặc là chư Thiên, họ có thức ăn riêng ở cảnh giới đó để nuôi sống họ. Cả 2 trường hợp nầy đều là không tương ứng xứ. Họ không thọ hưởng sự bố thí, cúng dường của người thân còn hiện tiền.
Kế tiếp Ðức Phật cho biết: đối với người nào từ bỏ sát sanh, từ bỏ trộm cắp, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, có tham ái, có sân, có tà kiến, sau khi chết tái sanh vào cõi ngạ quỷ. Chỉ riêng một loài ngạ quỷ mới có thể thọ hưởng sự bố thí cúng dường thức ăn uống của bạn bè, bà con. Món ăn nào mà thân quyến hiến cúng cho ngạ quỷ thì họ sẽ hưởng được món đó. Ðây là trường hợp tương xứng duy nhứt.
Sau khi Ðức Phật giải thích như thế, Bà la môn Jànussoni tiếp tục hỏi: nếu bà con huyết thống đã chết ấy không sanh vào loài ngạ quỷ thời ai sẽ hưởng việc bố thí cúng dường đó ?
– Nầy Bà la môn, các bà con huyết thống khác đã chết nay đang ở cảnh giới ấy sẽ thọ hưởng.
Bà la môn Jànussoni lại hỏi tiếp:
– Thưa Tôn giả Gotama, nếu cả dòng họ bà con huyết thống của người cúng, không một ai tái sanh vào ngạ quỷ thời ai sẽ hưởng việc bố thí cúng dường ấy?
Ðức Phật trả lời:
– Không có trường hợp nầy, rằng chỗ ấy có thể trống không trong một thời gian dài mà không có một ai trong huyết thống bị tái sanh vào đó. Nhưng nầy Bà la môn, người bố thí vẫn hưởng quả tốt.
Sau đó, Ðức Phật dạy thêm về phước báu của sự bố thí.
Ngài dạy rằng người nào trong đời sống tuy có sát sanh, lấy của không cho, sống tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, có tham, có sân, có tà kiến, nhưng lại biết bố thí cho Sa môn, cho Bà la môn, các món ăn thức uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, giường nằm, trú xứ, đèn đuốc. Người ấy sau khi mạng chung sẽ sanh vào loài voi, nhưng là con voi được ăn uống, chăm sóc và trang phục đầy đủ. Nếu sanh làm ngựa, bò hay các loài gia cầm khác thì vẫn thọ hưởng đầy đủ đồ ăn uống, được chăm sóc và đeo vòng hoa, đầy đủ đồ trang phục, tương xứng với phước duyên bố thí của họ khi còn làm người.
– Ðối với những người đầy đủ mười hạnh lành như từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ sống tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ lời phù phiếm, từ bỏ tham ái, từ bỏ sân, có chánh kiến, lại còn biết trau dồi hạnh bố thí, cúng dường các Sa môn, Bà la môn các món ăn, thức uống, vải mặc, xe cộ, các vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, giường nằm, trú xứ, đèn đuốc. Sau khi thân hoại mạng chung, người nầy sanh làm người, được hưởng năm dục công đức của loài người, hoặc được sanh làm chư Thiên và tại đấy được hưởng năm dục công đức của chư Thiên.
Cuối cùng Ðức Phật xác định người bố thí đương nhiên có kết quả, chứ không phải không có kết quả.
Tóm lại, bài kinh nầy cho chúng ta biết rằng chỉ có chúng sanh ở cõi ngạ quỷ, trong một giới hạn nào đó, mới có thể thọ hưởng những gì người sống bố thí cúng dường.
Trong kinh Singàlovàda Ðức Phật dạy người con phải làm tròn 5 bổn phận. Phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già, làm công việc thay thế cha mẹ, gìn giữ truyền thống tốt đẹp của gia đình, tỏ ra xứng đáng thọ hưởng di sản của ông cha và điều cuối cùng là đặt bát cúng dường Tam bảo, hồi hướng phước báu đến những thân nhân quá vãng. Không phải chỉ tổ chức cúng dường hồi hướng phước trong tang lễ, mà còn phải tinh tấn tu tập, làm nhiều việc lành trong suốt cuộc sống, và trong những dịp giỗ, hoặc bất cứ khi nào thuận tiện cũng phải tạo cơ hội để làm nhiều phước sự và hồi hướng đến người đã mất.
Trong dân gian, do tập nhiễm những tục lệ lỗi thời lâu đời của Trung Hoa xưa, thay vì làm phước đúng theo pháp để hồi hướng cho người quá cố, người ta phung phí tiền bạc mua các loại vàng mã đốt cúng người chết. Ngày nay với kỹ thuật hiện đại người ta in những đồng dollars Mỹ, rất giống tiền thiệt, để cúng người chết, phải nhìn thật kỹ mới biết đó là tiền giả. Trên thế gian nầy tiền nước nào thì phải do ngân hàng chính phủ nước đó in ấn phát hành. Giấy bạc nào không do ngân hàng của nước đó phát hành thì xem như bất hợp pháp. Việc lưu hành và sử dụng tiền giả là một trọng tội. Giả sử ở cảnh giới mới, người thân của chúng ta sử dụng được tiền của chúng ta đốt cúng đó, thì có phải người thân quá vãng của chúng ta sẽ phạm tội của luật pháp nơi cõi đó hay không. Người ta cũng có thể làm được những nhà cửa, tivi, thẻ tín dụng, telephone, các vật dụng khác .v.v… trông như thật, thậm chí làm những hình người rất đẹp đốt cúng người chết xem như để cưới vợ cho con của mình đã chết. Giả sử người đã khuất sẽ nhận được một tivi, một chiếc xe hơi, telephone, hay các vật dụng khác .v.v…, tất cả đều là cái vỏ không có ruột, không có máy móc bên trong, không có nhiên liệu, không pin, không điện v.v… họ có thể sử dụng được hay không ? Hay là một người vợ bằng giấy, chỉ có da, không có lục phủ ngũ tạng, không có thần kinh, không máu .v.v…thì có lợi ích gì cho người chết hay không ?
Lại nữa thông thường người Việt chúng ta khi nghĩ đến người thân quá vãng, nhứt là lúc họ vừa mới qua đời, chúng ta chỉ nghĩ đến việc cúng dường thức ăn thôi. Làm sao nấu nướng và dọn lên bàn những thức ăn ngon, mâm cao cổ đầy để cúng người quá vãng, mà chúng ta không nghĩ đến phần tinh thần. Chúng sanh vừa cần đến đời sống vật chất mà cũng cần đến đời sống tinh thần. Chúng ta nên phân biệt về sự cúng tế của nhân gian và cách tạo phước để hồi hướng, phù hợp với lời dạy của Ðức Phật. Sự tạo phước của người Phật tử không thuần là lễ nghi. Lễ nghi chỉ làm đẹp, làm trang nghiêm, làm cho tâm chúng ta hoan hỷ thêm, nhưng điều cốt yếu là chúng ta tạo những phước lành. Ðức Phật dạy chúng ta những pháp mà khi thực hành chúng ta tạo ra những phước báu, để rồi chúng ta đem những phước báu đó hồi hướng cho người quá vãng. Ðó là mười phước nghiệp sự, tạo phước báu bằng: bố thí, trì giới, tu thiền, cung kính, phục vụ, thính pháp, thuyết pháp, hồi hướng phước, tùy hỷ phước, cải thiện tri kiến.
Trong việc tạo phước hồi hướng đến người quá vãng, từ ngàn xưa trong truyền thống Phật giáo, chúng ta thường quan trọng trong việc để bát, trai tăng. Chẳng hạn vua Bimbisàra nằm mộng thấy thân nhân bị khổ quả đói lạnh, vua đến bạch hỏi Thế Tôn. Ðức Ðiều Ngự bi mẫn chỉ dạy cách tạo phước hồi hướng các vong linh thoát ly mọi khổ ách, được sanh vào cõi chư Thiên. Hay là chẳng hạn, Tôn giả Sariputta gặp một ngạ quỷ thân mình trần truồng, hình dung xấu xí, gầy guộc và thân thể nổi gân, người yếu ớt, xương sườn lộ rõ, trong kiếp thứ năm về trước đã là mẹ của ngài Sariputta. Chồng của ngạ quỷ nầy trong kiếp đó là đại phú gia thường xuyên bố thí cúng dường thực phẩm, y phục, sàng tọa, nhiều vật dụng đến người nghèo, du sĩ, lữ khách, hành khất và nhất là các Sa môn, Bà la môn. Vị đại phú gia nầy dặn vợ mỗi khi ông vắng nhà, bà nên bố thí, cúng dường rộng rãi như vậy. Mặc dầu bà đã hứa với chồng, bà sẽ giúp đỡ, bố thí rộng rãi như lời ông căn dặn, nhưng khi ông đại phú gia đi vắng thì bà cắt giảm tục lệ cúng dường chư Tăng. Ðối với các khách lỡ đường đến xin tạm trú, bà chỉ cho ở túp lều xiêu vẹo bị bỏ phế sau nhà. Khi đám du sĩ đến xin thực phẩm nước uống và các thức ăn khác, bà thường buông lời nguyền rủa như: hãy ăn phân đi! Hãy uống nước tiểu đi! Hãy uống máu đi! Hãy ăn óc của mẹ ngươi đi! Do ác hạnh nầy, sau khi từ trần bà tái sanh làm nữ ngạ quỷ có thân hình đáng ghê như trên. Nữ ngạ quỷ nầy than với tôn giả Sariputta, do ác nghiệp đã tạo, nữ ngạ quỷ phải ăn hoặc uống những thứ gì từ sự nôn tháo, bọt mồm, nước mũi, nước đờm dãi, chất mỡ rỉ ra từ xác chết bị thiêu, máu sản phụ lâm bồn, máu mủ của các loài thú và máu của người nam người nữ. Ngạ quỷ phải ăn tất cả những gì cấu uế khác trong người nam và người nữ, mặc dầu vậy vẫn đói khát vô cùng. Lại nữa, không nơi cư trú, không nhà cửa, chỗ nằm là chiếc giường đen ở nghĩa địa.
Nữ ngạ quỷ thỉnh cầu tôn giả cúng dường chư Tăng, tạo phước bố thí hồi hướng để từ đó ngạ quỷ giải thoát khỏi cảnh khổ phải ăn uống dơ bẩn, và đày đọa như vậy. Hôm sau, tôn giả Sariputta, cùng với tôn giả Moggallanà (Mục Kiền Liên), Anurudha (A na luật đà), và Kappina (Kiếp tân na) đến gặp vua Bimbisàra (Tần bà sa). Tôn giả Mục Kiền Liên trình bày những việc xảy ra về nữ ngạ quỷ nầy. Nghe xong, sau đó vua cho xây 4 am thất, có đủ bóng mát và nước. Sau khi am thất được hoàn tất, nhà vua đem chúng cùng các vật dụng cần thiết trong cuộc sống cúng dường tôn giả Sàriputta. Tôn giả nhận xong, đem dâng đến tất cả chư Tăng có Ðức Phật làm thượng thủ, và hồi hướng phước đến nữ ngạ quỷ nhờ vậy nữ ngạ quỷ liền tái sanh lên thiên giới thân hình đẹp đẽ, có đầy đủ thức uống, thức ăn, lẫn áo quần. (xem chú giải Ngạ Quỷ Sự, Chương II, chuyện ngạ quỷ Mẹ Xá Lợi Phất)
Một số người chỉ lo tạo chùa to tượng lớn, nhưng lãng quên, hoặc xem nhẹ việc đào tạo tăng tài và làm sao duy trì Tăng đoàn.Vận mạng Phật giáo không nằm ở chùa to, Phật lớn, những cái nầy rất cần nhưng vẫn là việc phụ. Phật Pháp tồn tại và hưng thạnh nằm ở đạo cao đức trọng của tập thể chư Tăng. Tăng tài có thể tạo ra chùa lớn và gìn giữ giáo pháp lâu dài. Chớ chùa lớn không tạo ra chư Tăng. Việc bố thí cúng dường cho tập thể quan trọng hơn cá nhân. Nếu không có sự cúng dường của thiện tín thì chư Tăng Ni phải lo cái ăn mặc …không có thì giờ, không thể an tâm tu tập, học pháp, hành pháp, hoằng pháp. Từ đó không có người gìn giữ giáo pháp và hoằng pháp, Phật Pháp sẽ mai một, suy đồi. Một khi nền tảng đạo đức suy đồi thì người làm ác sẽ gia tăng, xã hội sẽ bất ổn. Lúc đó chúng sanh sẽ sống bất an, đau khổ gia tăng. Do vậy, một chén cơm, một bộ y, một trú xứ thích hợp, một viên thuốc mà người thiện tín cúng dường đến Tăng già có ý nghĩa bảo vệ Phật Pháp, bảo vệ an ninh cho mọi người. Thế thì, việc cúng dường trai tăng quả là có phước báu vô lượng, đem lại an vui cho mình, cho người, cho muôn loài. Việc bố thí cúng dường quan trọng không phải ở số lượng lễ vật nhiều và sang trọng mà cốt yếu ở tấm lòng. Tấm lòng vì mình, vì người, vì an vui của muôn loài. Vật thí phải hợp đạo tức là không do sự trộm cắp, không do tà mạng. Một vật thí hợp đạo đó nếu được xuất ra với tấm lòng, đó là một hành động sống vị tha.
Sống vị tha là sự vĩ đại. Một người biết mở lòng mình ra bao trùm đến tha nhân thì tâm của họ không chật hẹp, tù túng. Một đại nhân là người sống bằng cái tâm bao trùm đại thể, sống biết mình mà cũng biết người. Người như vậy thì tâm của họ rất nhẹ nhàng, rất an vui, đây là nguồn phước báu vô vàn. Trái lại, một người sống chỉ biết mình thôi thì có thể còn tệ hơn loài bàng sanh. Một người sống bằng tâm trạng ích kỷ hẹp hòi, không biết tùy hỷ với việc tốt của người thì khi chết rất khó nhận được phước báu của người khác hồi hướng cho mình. Bởi vậy biết bố thí, cúng dường, san sẻ cho kẻ khác là phước báu lớn lao. Chúng ta tổ chức một buổi lễ trai tăng trang nghiêm đó là lễ cúng dường rất tốt. Những khi khác không có chư Tăng, chúng ta nên san sẻ những gì chúng ta có cho một người nghèo đói đang thực sự cần những thứ đó, đấy là việc làm đặc biệt quý báu. Thậm chí thực phẩm mình cho chim hay những con vật khác ăn cũng là một điều chúng ta nên làm và làm thường xuyên để hồi hướng cho người đã khuất.
Một nếp sống đạo đức, có giới hạnh là một hạnh phúc cho chính mình mà cũng là một niềm an lành cho xã hội, cho chúng sanh, một phước báu lớn, nếu được hồi hướng là điều vô cùng thanh cao và lợi ích. Hành thiền, giữ chánh niệm tỉnh giác là phước báu cũng rất lớn. Trong đời sống, biết cung kính quý trọng, biết phục vụ tha nhân là phước báu quan trọng có thể hồi hướng được. Thấy người khác được hoan hỷ, chúng ta tùy hỷ với họ cũng là một phước báu vô lượng. Người mà biết tùy hỷ với người khác thì sau nầy người khác hồi hướng cho mình, mình mới có khả năng nhận được phước hồi hướng. Bây giờ nếu mình không tùy hỷ với người khác, sau nầy khi có ai hồi hướng cho mình, mình không khả năng nhận được, vì mình đã không biết tùy hỷ. Nghe Pháp, nói Pháp, giúp người khác những ý kiến đem lại hạnh phúc chân thật và lâu dài, hoặc giả một khóa lễ tụng kinh cho mình và người khác nghe và cho phi nhân nghe để sống hợp với Pháp và cải thiện tri kiến là những phước báu khác cũng vô cùng cần thiết để hồi hướng cho người quá vãng. Chúng ta có thể làm, làm hoài vì lợi ích cho chính mình và cho người hiện tiền lẫn người quá vãng. Làm phước hoài mà không bao giờ thấy đủ và khi làm xong chúng ta hồi hướng đến tất cả. Một ngọn nến nếu được mồi cho ngọn nến khác, ngọn lửa nơi ngọn nến ban đầu vẫn còn sáng, nhưng thêm ngọn lửa nơi ngọn nến thứ hai sẽ làm ánh sáng trong phòng tăng thêm. Nếu mồi cho nhiều ngọn nến nữa thì không những ngọn lửa ban đầu vẫn còn, mà bây giờ càng có thêm nhiều ngọn nến cháy thì ánh sáng nơi đó sẽ càng tăng thêm nữa. Việc hồi hướng cũng như việc mồi lửa cho nhiều ngọn nến khác, nó giúp cho thiện tâm được phát triển, phước báu được tăng trưởng nơi người. Ðó là những việc làm hợp với Pháp, hợp lẽ đạo.
Một người muốn trị lành bệnh cho người khác, trước hết phải học về y khoa để có khả năng trị bệnh. Một người muốn cứu kẻ khác sắp chết đuối, người ấy phải biết bơi, hoặc phải có các phương tiện thích nghi chẳng hạn ghe thuyền, phao …Muốn cúng dường người đã khuất và muốn sự cúng dường đó có thể đến được với người đã khuất thì tối thiểu phải có những phẩm vật tương xứng. Phẩm vật đó nên là những phước báu do sự huân tu, làm các thiện sự, nhứt là việc làm phước đến tăng già. Bởi vì chư Tăng “là phước điền vô thượng trong đời”, nếu gieo giống vào “ruộng phước” phì nhiêu đó đương nhiên sẽ có lợi ích lớn, quả lớn.
Sau khi chúng ta làm được những điều phước, chúng ta nên đem hồi hướng cho những người thân trong kiếp nầy, mà hơn thế nữa cũng hồi hướng đến tất cả thân bằng quyến thuộc từ nhiều đời nhiều kiếp đến kiếp hiện tại nầy. Ðó là những lễ vật cúng dường có lợi ích, hợp đạo, sẽ thành tựu đến người quá vãng.
Những Ngày Quan Trọng Của Người Đã Khuất
Thờ cúng tổ tiên là một phong tục, tín ngưỡng đẹp của nhiều dân tộc Đông Nam Á. Đó là nghĩa cử thể hiện sự biết ơn và đạo hiếu của người còn sống đối với người đã khuất. Những ngày quan trọng của người đã khuất nhiều người chưa được biết đến
Đặc biệt, đối với người Việt Nam, đó trở thành một tôn giáo. Do đó những mốc quan trọng của người mất hầu như người Việt đều biết và thực hiện. Tuy nhiên, với mỗi giai đoạn nó có thể được thay đổi để đơn giản và phù hợp với điều kiện của từng gia đình. Nó có thể khác về nghi thức, lễ vật nhưng các mốc ấy vẫn được thực hiện một cách nghiêm túc và thành tâm.
Ngày phát dẫn là ngày đưa tang. Con trai trưởng phải chống gậy đi đầu tiên, con trai thứ thì chống gậy đi sau con trai trưởng. Tang cha thì chống gậy tre vót tròn, tang mẹ thì chống gậy vông đẽo vuông. Đầu tiên, có hai thần phương tướng làm bằng giấy đặt hai bên, dáng vẻ giữ tợn cầm đồ qua mâu để đuổi ma quỷ. Có hai người khiêng thể kỳ, đặt một bức mành vải trướng làm bằng vóc nhiễu, đề dòng chữ Hồ sơn vân ám nếu là tang cha hoặc Dĩ lĩnh vạn mê nếu là tang mẹ. Hai bên treo đèn lồng đề chức tước, húy hiệu người đã mất. Sau nữa đến minh tinh, được làm bằng vóc nhiễu, trên đề họ tên thụy hiệu người mất bằng phấn trắng treo lên cành tre. Tiếp đến là hương án lớn đặt giá hương, độc bình, đồ tam sự và mâm ngũ quả. Tiếp theo là thực án bày chiếc tam sinh và linh xa để rước hồn bạch, rồi theo sau là phường bát âm và những đồ minh khí, gồm có: Đèn làm bằng giấy, tấm biển đan triệu đề hai chữ trung tín nếu là đàn ông hoặc trung tiết nếu là đàn bà, đặt những bức trướng, câu đối viếng của con cháu và người phúng viếng sang hai bên.
Sau đó đến cờ công bố, đèn chứ á. Nhà phú quý thì có thêm nghị trượng sứ thần, đồ bộ lộ, áo mũ đại trào, chiêng, trống cà rùng… Nhà bình dân thì chỉ cần phường kèn trống thổi nhạc đưa ma. Cuối cùng là đại dư rước linh cữu, trên linh cữu đặt nhà táng bằng giấy. Thân nhân, theo thứ tự nhân sơ quy định, tang phục theo gia lễ, đều xếp hàng đi theo sau linh cữu hoặc ngồi hai bên linh cữu. Thời xưa có cái bạt bằng vải trắng che trên đầu gọi là bạch mạc. Người con trưởng đi trước hoặc kèm sau xe quan tài theo tục Cha đưa mẹ đón. Nhiều nơi còn có thêm các sư vãi cầm phướn đi hai bên tụng kinh niệm Phật để linh hồn được về nơi Tây phương cực lạc. Trên đường đi, rắc vàng giấy sang hai bên đoàn đưa tang làm lộ phí cho ma quỷ.
Lễ an táng (gọi là hạ huyệt)
Giờ hạ huyệt thường chọn giờ hoàng đạo. Trước lúc hạ huyệt phải cúng thổ thần nơi hạ huyệt, đồ lễ gồm trầu rượu, đĩa xôi, vàng hương, thủ lợn hoặc chân giò… Tất cả mọi người cầm một nén hương, đi một vòng xung quanh huyệt thả một hòn đất xuống dưới, sau đó đắp mộ thành vòng rồi trồng cỏ. Đắp mộ xong, mọi người đứng vòng quanh mộ, người hộ tang, người chấp sự tiến hành lễ thành phần, tiếp đãi trà, thuốc lá cho người qua đường. Kể từ ngày này, chủ nhà thắp hương cơm canh vào hai bữa chính hằng ngày cho đến hết 100 ngày thì dừng lại.
Lễ 3 ngày (tế ngu)
Sau 3 ngày chôn cất, con cháu sẽ đến mộ để sửa sang lại mộ phần, đắp lại mộ tròn, sửa soạn cỗ bàn để tiếp đãi họ hàng thân thuộc, khách khứa đến dự, gọi là lễ tế ngu. Con cháu chỉ lấy đất đắp vào những chỗ bị hở và khơi rãnh thoát nước, kiêng động cuốc hay chèo lên mộ vì làm thế mộ dễ bị sập trong thời gian áo quan và thi hài đang bị tan rữa. Việc viếng mộ ngày này không cần thiết phải đi đầy đủ con cháu tang gia mà chỉ cần vài ba người cũng được, nhưng bắt buộc phải có trưởng nam hay cháu đích tôn thừa trọng. Nếu trưởng nam hay cháu đích tôn thừa trọng có việc bận hay bị đau ốm thì phải nhờ người khác vào thay thế. Buổi lễ này tính theo âm lịch.
Lễ 49 ngày (chung thất)
Lễ cúng 49 ngày còn gọi là lễ chung thất hay tứ cửu dựa theo thuyết của Phật giáo: Âm hồn sau khi chết phải trải qua tất cả là 7 lần phán xét, mỗi lần mất 7 ngày (tương đương 1 tuần), đi qua một điện lớn dưới âm ty, sau 7 tuần vong hồn người chết mới được siêu thoát. Tuần chung thất là tuần quan trọng, đưa linh hồn người chết lên nương nhờ cửa Phật.
Lễ 100 ngày (tốt khốc)
Khi người chết đã được 100 ngày là đến tuần tốt khốc. Từ tuần này trở đi, con cháu người mất sẽ thôi không khóc nữa. Tuần tốt khốc thì con cháu cũng làm lễ để cúng và làm cỗ bàn mời họ hàng thân thuộc. Sau lễ trăm ngày, hằng năm con cháu lấy ngày chết là ngày làm giỗ.
Giỗ Đầu gọi là Tiểu Tường nó là những ngày quan trọng của người đã khuất, là ngày giỗ đầu tiên sau ngày người mất đúng một năm, nằm trong thời kỳ tang, là một ngày giỗ vẫn còn bi ai, sầu thảm. Thời gian một năm vẫn chưa đủ để làm khuây khỏa những nỗi đau buồn, xót xa tủi hận trong lòng của những người thân. Trong ngày Giỗ Đầu, người ta thường tổ chức trang nghiêm không kém gì so với ngày để tang năm trước, con cháu vẫn mặc đồ tang phục. Lúc tế lễ và khấn Gia tiên, những người thân thiết của người quá cỗ cũng khóc giống như ngày đưa tang ở năm trước. Nhà có điều kiện thì có thể thuê cả đội kèn trống nữa.
Giỗ Hết gọi là Đại Tường, là ngày giỗ sau ngày người mất hai năm, vẫn nằm trong thời kỳ tang. Thời gian hai năm cũng vẫn chưa đủ để hàn gắn những vết thương trong lòng những người còn sống. Trong lễ này, người ta vẫn tổ chức trang nghiêm. Lúc tế lễ người được giỗ và Gia tiên, con cháu vẫn mặc đồ tang phục và vẫn khóc giống như Giỗ Đầu và ngày đưa tang, vẫn bi ai sầu thảm chẳng kém gì Giỗ Đầu. Nhà có điều kiện thì có thể thuê cả đội kèn trống nữa.
Giỗ Thường còn gọi là ngày Cát Kỵ, là ngày giỗ sau ngày người mất từ ba năm trở đi. Cát kỵ nghĩa là Giỗ lành. Trong lễ giỗ này, con cháu chỉ mặc đồ thường phục, không khóc như ngày đưa ma , không còn cảnh bi ai, sầu thảm, là dịp để con cháu người quá cố sum họp để tưởng nhớ người đã khuất và diện mời khách không còn rộng rãi như hai lễ Tiểu Tường và Đại Tường.
Ngày giỗ thường được duy trì đến hết năm đời. Đến sau năm đời, vong linh người quá cố được siêu thoát, đầu thai hóa kiếp trở lại nên không cần thiết phải cúng giỗ nữa mà nạp chung vào kỳ xuân tế. Nhưng quan trọng hơn là con cháu còn nhớ đến tổ tiên và người đã khuất, thể hiện lòng thành kính. Cúng giỗ không nhất thiết phải quá đắt đỏ, linh đình hay quá cầu kỳ, nhà nghèo chỉ cần có đĩa muối, bát cơm úp, quả trứng luộc thì cũng đã giữ được đạo hiếu với tổ tiên.
Hoạt động này nhiều nơi còn được gọi là bốc mộ, cát cải. Sau từ 3 đến 4 năm, người ta sẽ làm lễ Cát táng tức đem táng ở nơi khác. Vì người ta quan niệm rằng, trong thời gian hung táng thì người mất hay bị ma quỷ quấy nhiễu, sau khi cát táng thì mới không bị ma quỷ quấy nhiễu nữa. Cải táng phải chọn một ngày thích hợp, không nên xung khắc với người mất. Trước khi cát táng, người ta sẽ cúng Thổ thần Thiên địa nơi đào mả lên, rồi lại cúng Thổ thần Thiên địa nơi sẽ đem chôn cất. Người ta sẽ dùng cuốc đào đất, lấy hài cốt người chết cho vào Tiểu nhỏ làm bằng sành (giống hình cái lọ hoa), đem chôn ở vị trí khác. Sau đó sẽ xây mộ kiên cố. Còn quan tài nếu cũ nát thì có thể đem bỏ đi, nếu còn tốt thì có thể đem về dùng làm việc khác.
Việc cải táng các bạn phải xem tuổi bốc mộ thật chính xác để làm sao cho ngày cải táng là ngày quan trọng nhất trong những ngày quan trọng của người đã khuất
Bài viết do nghĩa trang Lạc Hồng Viên sưu tầm
Nghi Lễ Thờ Cúng Ông Bà Tổ Tiên Nhất Định Phải Nhớ
Tín ngưỡng thờ cúng ông bà Tổ tiên là tục lệ thờ cúng những người đã khuất, đặc biệt là Tổ tiên biểu thị lòng nhớ ơn tổ tiên cũng như lòng thương và hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ. Đây là một phong tục , tín ngưỡng truyền thống tốt đẹp mà chúng ta cần phải duy trì, phát huy, gìn giữ.
I. Nghi thức cúng ông bà tổ tiên
Khi cúng thì người chủ gia đình phải bày đồ lễ cùng với hoa quả theo nguyên tắc “đông bình tây quả”, rượu và nước. Sau đó, phải đốt đèn (đèn dầu, đèn cầy, hay đèn điện), thắp hương, đánh chuông, khấn, và cúng trước rồi những người trong gia đình theo thứ tự trên dưới cúng sau. Hương (nhang) đèn để mời và chuông để thỉnh tổ tiên. Khi cúng thì phải chắp tay đưa lên ngang trán khấn.
Nghi thức cúng ông bà tổ tiên
1. Lễ cúng gia tiên
Khi có giỗ Tết, gia chủ bày hoa (bông) quả, rượu, cỗ bàn, chén bát, đũa, thìa lên bàn thờ rồi thắp hương, thắp đèn, đốt nến (đèn cầy), khấn, vái, hay lạy để tỏ lòng hiếu kính, biết ơn, và cầu phước lành.
Đây là nghĩa rộng của cúng. Trong nghĩa bình thường, cúng là thắp hương, khấn, lạy, và vái.
2. Khấn
Ăn có mời, làm có khiến… Đối với việc cúng lễ cũng vậy. Đồ cúng lễ dù có thịnh soạn, trang trong nếu con cháu chỉ đặt lên bàn thờ, không mời thì tổ tiên ông bà ắt không phối hưởng. Bởi vậy trong buổi cúng, con cháu phải khấn. Người Việt vốn trọng nghi lễ, cho nên mỗi dịp cúng vái đều có văn khấn riêng.
Trong lời khấn, gia trưởng sẽ nói rõ ngày, tháng, năm và lý do làm lễ (và cả các điều xin, nếu có). Phải mời các cụ kỵ từ ngũ đại trở xuống, cùng với chú bác anh chị em vừa mới khuất.
Trước đây lời khấn thường do “thầy cúng” làm và dùng chữ Nho. Nhưng ngày nay việc dùng chữ Nho cho văn khấn rất hiếm. Dân gian thích dùng chữ Việt hơn, vì chữ Việt dễ viết và đọc, mạch lạc không bị hiểu lầm…
Lời khấn cần có những chi tiết sau :
Báo trình địa điểm hành lễ, từ nước trở xuống Tỉnh thành, Quận huyện, Phường xã, Thôn ấp.
Nói rõ con cháu, liên hệ gia đình làm lễ cúng với các món cỗ bàn, dâng lên hương hồn ai có tên gì, từ trần ngày tháng năm, chôn ở đâu.
Mời người có tên giỗ về hưởng, chứng giám lòng thành và phù hộ cho con cháu được mọi sự tốt lành.
Cũng mời tất cả các vị tổ, đọc rõ tên, cùng thân thuộc nội ngoại đã quá vãng cùng về hưởng lễ cúng.
Và sau đây là một đoạn khấn theo lối xưa:
“Duy quốc Tỉnh/Thị xã…. trang /gia tại… (số nhà). Việt lịch thứ 488…, thử nhật… (ngày âm lịch) húy nhật gia phụ /mẫu /Tằng tổ… là Hiển khảo/Tỷ., (tên) (cho đàn bà thì là hiển tỷ; với ông nội ngoại thì thêm chữ tổ – hiển tổ khảo/tỷ), Hiếu tử/nữ/tôn v.v là (Tên) tâm thành kính cáo thành hoàng và thổ thần bản địa, tiền chủ tiếp dẫn gia phụ mẫu /cô di… (Người được giỗ hôm nay) đồng cung thỉnh Cao tằng tô khảo, cao tằng tô tỷ, liệt vị tổ tiên, hiển tổ khảo, hiển tô tỷ, cô di tỷ muội, nội ngoại đồng giai lâm, tọa ngự linh sàn chứng giám. Cẩn cáo”.
II. Nghi thức vái, lạy khi thờ cúng ông bà tổ tiên
Nghi thức vái, lạy khi thờ cúng ông bà tổ tiên
1. Nghi thức vái trong thờ cúng ông bà tổ tiên
Vái thường được áp dụng ở thế đứng, nhất là trong dịp lễ ở ngoài trời. Vái thay thế cho lạy ỏ trong trường hợp này. Vái là chắp hai bàn tay lại để trước ngực rồi đưa lên ngang đầu, hơi cúi đầu và khom lưng xuống rồi sau đó ngẩng lên, đưa hai bàn tay xuống lên theo nhịp lúc cúi xuống khi ngẩng lên. Tùy theo từng trường hợp, người ta vái 2,3,4, hay 5 vái.
2. Nghi thức lạy trong nghi lễ thờ cúng tổ tiên
Lạy là hành động bày tỏ lòng tôn kính chân thành với tất cả tâm hồn và thể xác đối với người trên hay người quá cố vào bậc trên của mình. Có hai thế lạy: thế lạy của đàn ông và thế lạy của đàn bà. Có bốn trường hợp lạy: 2 lạy, 3 lạy, 4 lạy, và 5 lạy. Mỗi trường hợp đều mang ý nghĩa khác nhau.
Thế lạy của đàn ông là cách đứng thẳng theo thế nghiêm, chắp hai tay trước ngực và giơ cao lên ngang trán, cúi mình xuống, đưa hai bàn tay đang chắp xuống gần tới mặt chiếu hay mặt đất thì xòe hai bàn tay ra đặt nằm úp xuống, đồng thời quỳ gối bên trái rồi gối bên phải xuống đất, và cúi rạp đầu xuống gần hai bàn tay theo thế phủ phục. Sau đó cất người lên bằng cách đưa hai bàn tay chắp lại để lên đầu gối trái lúc bấy giờ đã co lên và đưa về phía trước ngang vối đầu gối chân phải đang quỳ để lấy đà đứng dậy, chân phải đang quỳ cũng theo đà đứng lên để cùng với chân trái đứng ở thế nghiêm như lúc đầu. Cứ theo thế đó mà lạy tiếp cho đủ số lạy. Khi lạy xong thì vái ba vái rồi lui ra.
2.1. Thế lạy của đàn ông
Có thể quỳ bằng chân phải hay chân trái trước cũng được, tùy theo thuận chân nào thì quỳ chân ấy trước. Có điều cần nhớ là khi quỳ chân nào xuống trước thì khi chuẩn bị cho thế đứng dậy phải đưa chân đó về phía trước nửa bước và tì hai bàn tay đã chắp lại lên đầu gối chân đó để lấy thế đứng lên. Thế lạy theo kiểu này rất khoa học và vững vàng, sở dĩ phải quỳ chân trái xuống trước vì thường chân phải vững hơn nên dùng để giữ thế thăng bằng cho khỏi ngã. Khi chuẩn bị đứng lên cũng vậy. Sở dĩ chân trái co lên đưa về phía trước được vững vàng là nhờ chân phải có thế vững hơn để làm chuẩn.
Thế lạy phủ phục của mấy nhà sư rất khó. Các Thầy phất tay áo cà sa, đưa hai tay chống xuống ngay mặt đất, đồng thòi quỳ hai đầu gối xuống luôn. Khi đứng dậy các Thầy đẩy hai bàn tay lấy thế đứng hẳn lên mà không cần phải để tay tỳ lên đầu gối. sở dĩ được như thế là nhờ các Thầy đã tập luyện hàng ngày mỗi khi cúng Phật. Nếu thỉnh thoảng mới đi lễ chùa, mọi người phải cẩn thận vì không lạy quen mà lại bắt chước thế lạy của mấy Thầy thì rất có thể mất thăng bằng.
2.2. Thế lạy của đàn bà
Thế lạy của các bà là cách ngồi bệt xuống đất để hai cẳng chân vắt chéo về phía trái, bàn chân phải ngửa lên để ở phía dưới đùi chân trái. Nếu mặc áo dài thì kéo tà áo trước trải ngay ngắn về phía trước và kéo vạt áo sau về phía sau để che mông cho đẹp mắt. Sau đó, chắp hai bàn tay lại để ở trước ngực rồi đưa cao lên ngang vói tầm trán, giữ tay ở thế chắp đó mà cúi đầu xuống. Khi đầu gần chạm mặt đất thì đưa hai bàn tay đang chắp đặt nằm úp xuống đất và để đầu lên hai bàn tay. Giữ ở thế đó độ một hai giây, rồi dùng hai bàn tay đẩy để lấy thế ngồi thẳng lên đồng thời chắp hai bàn tay lại đưa lên ngang trán như lần đầu. Cứ theo thế đó mà lạy tiếp cho đủ số lạy cần thiết. Lạy xong thì đứng lên và vái ba vái rồi lui ra là hoàn tất thế lạy.
Cũng có một số người lại áp dụng thế lạy theo cách quỳ hai đầu gối xuống chiếu, để mông lên hai gót chân hai tay chắp lại đưa cao lên đầu rồi giữ hai tay ở thế chắp đó mà cúi mình xuống, khi đầu gần chạm mặt chiếu thì xòe hai bàn tay ra úp xuống chiếu rồi để đầu lên hai bàn tay. Cứ tiếp tục lạy theo cách đã trình bày trên. Thế lạy này có thể làm đau ngón chân và đầu gối mà còn không mấy đẹp mắt.
Thế lạy của đàn ông có vẻ hùng dũng, tượng trưng cho dương. Thế lạy của các bà có tính cách uyển chuyển tha thướt, tượng trưng cho âm. Thế lạy của đàn ông có điều bất tiện là khi mặc âu phục thì rất khó lạy. Hiện nay chỉ có mấy vị cao niên còn áp dụng thế lạy của đàn ông, nhất là trong dịp lễ Quốc Tổ. Còn phần đông, người ta có thói quen chỉ đứng vái mà thôi.
Thế lạy của đàn ông và đàn bà là truyền thống rất có ý nghĩa của người Việt ta. Nó vừa thành khẩn vừa trang nghiêm trong lúc cúng tổ tiên. Muốn áp dụng thế lạy, nhất là thế lạy của đàn ông, ta phải tập dượt lâu mới nhuần nhuyễn được.
III. Ý nghĩa của lạy và vái trong thờ cúng ông bà tổ tiên
Ý nghĩa của lạy và vái trong thờ cúng ông bà tổ tiên
1. Ý nghĩa của 2 lạy và 2 vái:
Hai lạy dùng để áp dụng cho người sống như trong trường hợp cô dâu chú rể lạy cha mẹ. Khi đi phúng điếu, nếu là vai dưới của người quá cố như em, con cháu, và những người vào hàng con em,… nên lạy 2 lạy.
Nếu vái sau khi đã lạy, người ta thường vái ba vái. ý nghĩa của ba vái này, như đã nói ở trên là lời chào kính cẩn, chứ không có ý nghĩa nào khác. Nhưng trong trường hợp người quá cố còn để trong quan tài tại nhà quan, những người đến phúng điếu, nếu là vai trên của người quá cố như các bậc cao niên, hay những người vào hàng cha, anh, chị, chú, bác, cô, dì, v. v., của người quá cố, thì chỉ đứng để vái hai vái mà thôi. Khi quan tài đã được hạ huyệt, tức là sau khi chôn rồi, người ta vái người quá cố 4 vái.
Theo nguyên lý âm dương, khi chưa chôn, người quá cố được coi như còn sống nên ta lạy 2 lạy. Hai lạy này tượng trưng cho âm dương nhị khí hòa hợp trên dương thế, tức là sự sống. Sau khi người quá cố được chôn rồi, phải lạy 4 lạy.
2. Ý nghĩa của 3 lạy và 3 vái:
Khi đi lễ Phật, ta lạy 3 lạy. Ba lạy tượng trưng cho Phật, Pháp, và Tăng. Phật ở đây là giác, tức là giác ngộ, sáng suốt, thông hiểu mọi lẽ. Pháp là chánh, tức là điều chánh đáng, trái với tà ngụy. Tăng là tịnh, tức là trong sạch, thanh tịnh, không bơn nhơ. Đây là nói về nguyên tắc phải theo. Tuy nhiên, còn tùy mỗi chùa, mỗi nơi, và thói quen, người ta lễ Phật có khi 4 hay 5 lạy. Trong trường hợp cúng Phật, khi ta mặc âu phục, nêu cảm thấy khó khăn trong khi lạy, ta đứng nghiêm và vái ba vái trước bàn thờ Phật.
3. Ý nghĩa của 4 lạy và 4 vái:
Bốn lạy để cúng người quá cố như ông bà, cha mẹ và thánh thần. Bốn lạy tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu, bốn phương (đông: thuộc dương, tây: thuộc âm, nam: thuộc dương, và bắc: thuộc âm), và tứ 1 tượng (Thái Dương, Thiếu Dương, Thái Âm, Thiếu Âm). Nói chung, bốn lạy bao gồm cả cõi âm lẫn cõi dương mà hồn ở trên trời và phách hay vía ở dưới đất nương vào đó để làm chỗ trú ngụ. Bốn vái dùng để cúng người quá cố như ông bà, cha mẹ, và thánh thần, khi không thể áp dụng thế lạy.
4. Ý nghĩa của 5 lạy và 5 vái:
Ngày xưa người ta lạy vua 5 lạy. Năm lạy tượng trưng cho ngũ hành (kim, mộc, thuỷ, hỏa, và thổ), vua tượng trưng cho trung cung tức là hành thổ màu vàng đứng ỏ giữa. Còn có ý kiến cho rằng 5 lạy tượng trưng cho bốn phương (đông, tây, nam, bắc) và trung ương, nơi nhà vua ngự. Ngày nay, trong lễ giỗ tổ Hùng Vương, những người trong ban tế lễ thường lạy 5 lạy vì Tổ Hùng Vương là vị vua khai sáng giống nòi Việt.
Năm vái dùng đê cúng Tổ khi không thể áp dụng thế lạy vì quá đông người và không có đủ thì giờ để mỗi người lạy 5 lạy. Có được phong tục này là do thói quen mà mọi người đã chấp nhận, nhiều khi không giải thích được lý do tại sao lại như thế mà chỉ biết làm theo cho đúng thôi. Trong mỗi gia đình Việt Nam, dù theo đạo nào cũng vậy, chúng ta, con dân nước Việt, hãy cố gắng thiết lập một bàn thờ gia tiên. Có như thế, con cháu ta mới có cơ hội học hỏi cách thiết lập bàn thờ gia tiên, và hiểu được ý nghĩa của việc thờ cúng ra sao.
Thờ cúng ông bà tổ tiên là cách biểu thị lòng nhớ ơn tổ tiên cũng như lòng thương và hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ. Đây là một truyền thống văn hóa tốt đẹp của người Việt mà chúng ta cần phải duy trì. Lời khấn vái là lời nói chuyện với người quá cố, do đó lời khấn là tấm lòng của người còn sống có thể khấn sao cũng được. Tuy nhiên người xưa cũng đã đặt ra lễ khấn và lời khấn. Lễ khấn gồm các thủ tục như sau:
Sau khi mâm cỗ đã đặt xong thì gia trưỏng ăn mặc chỉnh tề (ngày xưa thì khăn đóng áo dài) đi ra mở cửa chính, ở xứ lạnh thì cũng phải ráng hé cửa chứ không được đóng cửa kín mít. Sau đó phải khấn xin Thành hoàng, Thổ địa để họ không làm khó dễ linh hồn tổ tiên về hưởng lễ giỗ.
Công ty TNHH Kiến Trúc Phong Thủy Tam Nguyên
Hotline: 1900.2292
Địa chỉ:
Hà Nội: Lô A12/D7, ngõ 66 Khúc Thừa Dụ, Khu đô thị mới, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
Đà Nẵng: Tầng 12, Tòa ACB, 218 Bạch Đằng, Phường Phước Ninh, Quận Hải Châu, Đà Nẵng
TP Hồ Chí Minh: 778/5 Nguyễn Kiệm, Phường 4, Quận Phú Nhuận, TP HCM
Cập nhật thông tin chi tiết về Tại Sao Phải Thờ Cúng Ông Bà Tổ Tiên Và Những Người Đã Khuất trên website Apim.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!