Xu Hướng 9/2023 # Sự Tích Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ # Top 13 Xem Nhiều | Apim.edu.vn

Xu Hướng 9/2023 # Sự Tích Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ # Top 13 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Sự Tích Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Apim.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Quan Lớn Đệ Tam Tên đầy đủ là Đệ Tam Thượng thiên hoàng thái tử vương quan, có tước phong là “Thủy tào điển sứ – Đệ tam thủy thần đại vương thượng đẳng tối linh thần”.

Quan Lớn Đệ Tam được thờ chính tại Đền Xích Đằng, đền Lảnh Giang, đền Quan Đệ Tam ở gần Đền Đồng Bằng, Đền Quan Lớn Phủ Dầy.

Đền thờ Ngài được lập ở Lạng Sơn, Hưng Yên, Lảnh giang linh từ (Nam Hà) và các cửa sông. Đền Ngài còn ở Thái Bình đằng sau đền Đồng Bằng phía đường 10 đi Hải Phòng.

Đền Lảnh Giang (nhân dân thường gọi là Đền Lảnh) nằm trong địa phận thôn Yên Lạc, xã Mộc Nam, huyện Duy Tiên, Hà Nam. Theo Thần Phả, Đền này thờ Tam vị danh thần họ Phạm đời Hùng Vương thứ 18, Tiên Dung công chúa và Chử Đồng Tử.

Quan lớn Đệ Tam vốn là con trai thứ ba của Vua Cha Bát Hải Động Đình, là người rất được vua cha yêu quý nên giao quyền cai quản chốn Long Giai Động Đình, cận bên cạnh phụ vương. Dưới thời Hùng Vương, theo lệnh vua cha, ông cùng hai người em (có sách nói là hai người thân cận) lên giúp Vua Hùng chỉ huy thuỷ binh, lúc này ba vị giáng ở đất Hà Nam, được nhân dân tôn thành “Tam Vị Đại Vương”, trong đó, Quan Đệ Tam là người anh cả trong ba người. Nhưng lại có điển tích nói rằng, chỉ có một mình Quan Tam Phủ giáng trần vào nhà quý tộc dưới thời Hùng Vương, ông trở thành vị tướng quân thống lĩnh ba quân thuỷ lục. Sau đó trong một trận quyết chiến, ông hy sinh (phần thượng thân (đầu) và hạ thân (mình) trôi về hai bên bờ con sông Lục Đầu). Ông hoá đi, về chầu Long Cung, là người cầm cân nảy mực, thông tri Tam Giới, quyền cai các thanh đồng đạo quan (vậy nên có khi người ta còn gọi là Ông Cai Đầu Đồng). Khi thanh nhàn ông truyền ba quân tập hợp thuyền bè, dạo chơi khắp miền, trên sông dưới suối, phù hộ cho ngư dân.

Hầu như những người đã ra hầu Tứ Phủ, khi hầu hàng Quan Lớn, ai cũng phải hầu về Quan Đệ Tam. Có thể coi ông là vị Quan Lớn tài danh hàng đầu. Khi ngự đồng, ông mặc áo trắng thêu rồng, hổ phù; làm lễ tấu hương, khai quang, chứng sớ điệp và ông múa đôi song kiếm. Khi có đại tiệc khai đàn mở phủ, người ta thỉnh quan về chứng đàn Thoải Phủ (gồm có long chu phượng mã, lốt tam đầu cửu vĩ…: tất cả đều màu trắng).

Trong hàng quan lớn, vì danh tiếng bậc nhất nên Quan Lớn Đệ Tam cũng được lập đền thờ phụng ở khắp nơi. Nhưng đầu tiên phải kể đến Đền Lảnh Giang ở Mộc Nam, Duy Tiên, Hà Nam (gần Hưng Yên) tương truyền là nơi hạ thân của ông trôi về, sau đó phải nói đến Đền Xích Đằng cũng thuộc Hà Nam (hai ngôi đền này chỉ cách nhau cây cầu Yên Lệnh nối hai bờ sông Lục Đầu) là nơi thờ thượng thân của ngài. Ngoài ra còn có Đền Cửa Đông tại thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn (gần Đền Mẫu Thoải)

Căn cứ vào thần tích “Hùng triều nhất vị thuỷ thần xuất thế sự tích” (sự tích ra đời một vị thuỷ thần triều vua Hùng(() Thần tích này do Bát phẩm thư lại Nguyễn Hiền, tuân theo bản cũ triều trước, chép lại vào niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 2 (1736). Thần tích đang được lưu giữ tại Đền Lảnh.) cùng các sắc phong, câu đối, cũng như truyền thuyết địa phương thì lịch sử ba vị tướng họ Phạm thời Hùng Vương được thờ ở Đền Lảnh Giang như sau: Ngày xưa, ở trang An Cố, huyện Thuỵ Anh, phủ Thái Ninh, trấn Sơn Nam có vợ chồng ông Phạm Túc ăn ở phúc đức, chỉ hiềm một nỗi ông bà tuổi đã cao mà vẫn chưa sinh được một mụn con nối dõi.

Một đêm trăng thanh gió mát, vợ ông (bà Trần Thị Ngoạn) đang dạo chơi bỗng gặp một người con gái nhà nghèo, cha mẹ mất sớm, không có anh em thân thích, đi tha phương cầu thực. Động lòng trắc ẩn, bà Ngoạn liền đón cô về làm con và đặt tên là Quý. Ông bà coi nàng Quý như con ruột của mình. Vài năm sau, trong lúc gia đình đang vui vầy, đột nhiên ông Túc mắc bệnh rồi qua đời. Hai mẹ con đã tìm một nơi đất tốt để an táng cho ông.

Sau ba năm để tang cha, một hôm nàng Quý ra bờ sông tắm gội, ngâm mình dưới nước, bỗng mặt nước nổi sóng, từ phía xa một con thuồng luồng khổng lồ bơi tới quấn lấy nàng, khiến nàng kinh hoàng ngất lịm. Lúc tỉnh dậy thì thấy mình nằm bên bờ sông và thuồng luồng đã bỏ đi. Từ hôm đó nàng thấy trong lòng chuyển động và mang thai. Không chịu được những lời gièm pha khinh thị, nàng đành phải trốn khỏi làng đến xin ngụ cư ở Trang Hoa Giám (nay thuộc thôn Yên Lạc). Rồi đến ngày mùng 10 tháng Giêng năm Tân Tỵ, nàng Quý chuyển dạ, sinh ra một cái bọc. Cho là điểm chẳng lành, nàng liền đem chiếc bọc đó quẳng xuống sông. Chiếc bọc trôi theo dòng nước tới trang Đào Động (xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, Thái Bình), mắc phải lưới của ông Nguyễn Minh. Sau nhiều lần gỡ bỏ, nhưng bọc vẫn cứ mắc vào lưới. Ông Minh thấy lạ bèn khấn: “Nếu bọc này quả là linh thiêng thì cho tôi lấy dao rạch thử xem sao” Khấn xong ông Minh rạch ra, bỗng thấy ba con rắn từ trong bọc trườn xuống sông. Con thứ nhất theo hướng về cửa sông Đào Động, con thứ hai về Thanh Do, con thứ ba về trang Hoa Giám – nơi nàng Quý đang sinh sống. Nhân dân các trang ấp trông thấy đều sợ hãi, cùng nhau ra bờ sông tế tụng, xin được lập sinh từ để thờ.

Lạ thay, vào một đêm trăng sáng, trời bỗng nổi cơn giông, ngoài cửa sông sấm sét nổi lên dữ dội. Đến gần sáng, gió mưa ngớt dần, mọi người đều thấy dưới sông có tiếng người ngâm vịnh: Sinh là tướng, hóa là thần Tiếng thơm còn ở trong dân muôi đời Khi nào giặc dã khắp nơi Bọn ta mới trở thành người thế gian

Tương truyền ba vị tướng thời Hùng là con của Bát Hải Long Vương và Nàng Quý. Nàng Quý là con nuôi của vợ chồng ông Phạm Túc. Do vậy về sau nhân dân ghép họ Phạm cho các ông.).

Bấy giờ Thục Phán – thuộc dòng dõi tôn thất vua Hùng, thấy Duệ Vương tuổi đã cao mà không có con trai, nên có ý định cướp ngôi. Thục Phán cầu viện binh phương Bắc, chia quân làm 5 đường thuỷ bộ cùng một lúc đánh vào kinh đô. Duệ Vương cho gọi tướng sĩ lập đàn cầu đảo giữa trời đất. Đêm ấy nhà vua chiêm bao thấy có người sứ giả mặc áo xanh từ trên trời bước xuống sân rồng, truyền rằng: “Nhà vua nên triệu ba vị thuỷ thần sinh ở đạo Sơn Nam, hiện còn là hình con rắn thì tất sẽ dẹp xong được giặc”. Tỉnh dậy Duệ Vương liền cho sứ giả theo đường chỉ dẫn trong giấc mộng tìm về đạo Sơn Nam. Sứ giả vừa đến trang Đào Động (nay thuộc xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình), bỗng nhiên trời đổ mưa to, sấm sét nổi lên dữ dội ở cửa sông. Một người mặt rồng mình cá chép, cao tám thước đứng trước sứ giả xưng tên là Phạm Vĩnh, xin được đi dẹp giặc. Sau đó, ông Phạm Vĩnh gọi hai em đến bái yết thân mẫu, rồi cùng nhau đi yết kiến Duệ Vương. Vua Hùng liền phong cho ông là Trấn Tây, giữ các vùng Sơn Nam, ái Châu, Hoan Châu. Hai em và các tướng hợp lại, dưới sự chỉ huy của ông, 5 đạo quân Thục đều bị tiêu diệt.

Nghe tin thắng trận, Duệ Vương liền truyền lệnh giết trâu, mổ bò khao thưởng quân sĩ. Vì có công lớn nên nhà vua lại phong cho ông là “Nhạc Phủ Ngư Thượng Đẳng Thần” nhưng ông không nhận, chỉ xin cho dân Đào Động hàng năm không phải chịu sưu dịch. Được vua Hùng đồng ý, ông Phạm Vĩnh cùng hai em về quê hương bái yết thân mẫu và khao thưởng gia thần, dân chúng.

Thấy ở bên sông có khu đất tốt, ông Phạm Vĩnh cho lập đồn dinh cư trú, ban cho dân 10 hốt vàng để mua ruộng đất, khuyến khích nông trang, khuyên mọi người làm việc thiện lương. Nhờ công đức của ông mà nhân dân khắp vùng được sống yên vui.

Ngày 25 tháng 8 năm Bính Dần, trong lúc ông đang ngự tại cung thất của mình, bỗng dưng giữa ban ngày trời đất tối sầm, mưa gió ầm ào đổ xuống. Khi trời quang mây tạnh, dân làng không nhìn thấy ông đâu nữa. Cho là điều kỳ lạ, nhân dân trang Đào Động làm biểu tâu với triều đình.

Được tin ông Phạm Vĩnh về trời, nhà vua liền gia phong cho ông là “Trấn Tây An Tam Kỳ Linh Ưng Thái Thượng Đẳng Thần”, đồng thời đặt lệ quốc lễ, ban sắc chỉ cùng 400 quan tiền cho dân Đào Động rước thần hiệu, tu sửa đền miếu để phụng thờ. Các triều đại sau đó cũng có sắc phong cho ông (hiện trong đền còn giữ 12 sắc phong. Sắc sớm nhất là đời Lê Cảnh Hưng, sắc muộn nhất vào triều Nguyễn, niên hiệu Duy Tân thứ 7, ngày 18 tháng 10 có chép: “Sắc cho xã An Lạc, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam phụng thờ Trấn An Tây Nam Tam Kỳ Linh ứng triều Hùng thiêng liêng rõ rệt, trước đây chưa có dự phong. Gặp nay trẫm vâng chịu mệnh lớn, nghĩ đến công thần biểu dương phong cho vị thần, phò giúp nền nếp quốc gia, cho phép y theo lệ cũ kính thờ”.

Hàng năm tại Đền Lảnh Giang, nhân dân địa phương tổ chức 2 kỳ lễ hội chính vào các ngày từ 18 đến 25 tháng 6 và tháng 8 âm lịch. Theo tục lệ địa phương thì kỳ lễ hội tháng 6 là để dành cho các khách thập phương, còn kỳ lễ hội tháng 8 chủ yếu dành cho các khách quanh vùng. Những ngày này thường gặp nước sông Hồng dâng cao nhưng lòng dân vẫn hướng về ngày lễ hội. Có nhiều năm nước ngập nhưng các thiện nam tín nữ cùng nhân dân bản địa vẫn bơi thuyền ra đền dâng lễ và thực hiện đầy đủ các nghi thức để tỏ lòng tôn kính tam vị danh thần họ Phạm, Tiên Dung và Chử Đồng Tử.

Trong báo cáo ngày 16/5/1996, cơ quan Bảo tàng lịch sử tỉnh Nam Hà (cũ) có nhận xét: Đền Lảnh Giang là di tích thờ ba vị tướng họ Phạm thời Hùng Duệ Vương có công lao đánh giặc Thục, bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc. Khi đất nước thanh bình, các ông là những người quan tâm, chăm lo đến sản xuất, làm cho đời sống nhân dân ngày một ấm no hạnh phúc… Đền Lảnh Giang là công trình kiến trúc quy mô, uy linh, bề thế, mang đậm nét nghệ thuật kiến trúc và xây dựng cổ truyền của dân tộc. Tại đây còn giữ được nhiều cổ vật thờ cúng có giá trị cao về nghệ thuật.

Ngày tiệc của Quan Bơ Phủ là ngày 24/6 âm lịch (tương truyền là ngày đản nhật giáng sinh của ông). Vậy nên trong văn hát câu rằng:

“Đản hai tư tháng sáu xưng thần Khắp Trung, Nam, Bắc muôn dân đảo cầu”

Khi ông về ngự đồng, khai quang chứng đàn mã sớ điệp, văn thường hát đoạn:

“Lòng thành thắp một chiện nhang Tấu về Thoải Phủ các ban các toà Thiên Đình, Thoải Phủ, Diêm La Tấu về Thoải Phủ Vua Cha Động Đình Vốn xưa là chúa Thủy Tinh…”

Ngoài ra để ca ngợi tài đức, công lao của ông, văn cũng hát:

“Giáp bạc bao phen rực lửa hồng Xông pha trăm trận cũng như không Ra tay cứu nước trừ nguy biến Tiếng để ngàn thu với non sông […] Gươm thần ba thước tay ngang dọc Tài dậy trời Tây, chí lấp bể Đông”

Hay khi nói về những cuộc dạo chơi khắp sơn thoải đại giang của ông, văn thường hát theo điệu dọc:

“Chiếc thuyền nan nổi dòng Xích Bích Đua mái chèo du lịch bốn phương Có phen tuần thú sông Thương Trở ra tỉnh Bắc qua giang Lục Đầu […] Có phen chơi ngã ba Bạch Hạc Bạn loan ngồi đàn hát vui chơi Dạo xem phong cảnh mọi nơi Qua hang Anh Vũ sang chơi nước người”

Và còn có một đoạn rất hay nói về tài phép của quan:

“Hoá tức thì lâu đài điện các Dâng nước về Thuỷ Quốc một khi Có phen lấy ngọc lưu ly Đùng đùng dâng nước phép thì ai đang”

Từ những giá trị về lịch sử và kiến trúc nghệ thuật cổ truyền dân tộc của Đền Lảnh Giang, ngày 5/11/1996, Bộ Văn hóa Thông tin đã cấp bằng công nhận đền Lảnh Giang là Di tích lịch sử văn hóa quốc gia.

Thần Tích Quan Đệ Tam Thoải Phủ

Đức gồm vẹn thung dung hòa mặc Bẩm sinh thành tư chất long nhan Thỉnh mời thái tử vương quan Phi phương diện mạo dung nhan khác thường Hằng tấu đối thiên đường thủy phủ Trấn nam minh quy đủ bốn phương Ra uy chấp chính kỉ cương Cầm cân nảy mực sửa sang cõi đời Chốn long giai cầm quyền thay chúa Phép màu quan tối tú tối linh Lệnh truyền thủy bộ chư dinh Sửa sang đai giáp chơi miền trần gian

Thông tin cơ bản

– Tên đầy đủ: Đệ Tam Thượng thiên hoàng thái tử vương quan

– Tước phong: Thủy tào điển sứ – Đệ tam thủy thần nhạc đại vương thượng đẳng tối linh thần.

– Đền thờ chính: Đền thờ Ngài được lập ở Lạng Sơn, Hưng Yên, Lảnh giang linh từ (Nam Hà) và các cửa sông. Đền Ngài còn ở Thái Bình đằng sau đền Đồng Bằng phía đường 10 đi Hải Phòng.

– Thân thế: Đền Lảnh Giang (nhân dân thường gọi là Đền Lảnh) nằm trong địa phận thôn Yên Lạc, xã Mộc Nam, huyện Duy Tiên, Hà Nam. Theo Thần Phả, Đền này thờ Tam vị danh thần họ Phạm đời Hùng Vương thứ 18, Tiên Dung công chúa và Chử Đồng Tử.

Thánh tích về Quan Đệ Tam Thoải Phủ

Quan lớn vốn là con trai thứ ba của Vua Cha Bát Hải Động Đình, là người rất được vua cha yêu quý nên giao quyền cai quản chốn Long Giai Động Đình, cận bên cạnh phụ vương. Dưới thời Hùng Vương, theo lệnh vua cha, ông cùng hai người em (có sách nói là hai người thân cận) lên giúp Vua Hùng chỉ huy thuỷ binh, lúc này ba vị giáng ở đất Hà Nam, được nhân dân tôn thành “Tam Vị Đại Vương”, trong đó, Quan Đệ Tam là người anh cả trong ba người.

Nhưng lại có điển tích nói rằng, chỉ có một mình Quan Tam Phủ giáng trần vào nhà quý tộc dưới thời Hùng Vương, ông trở thành vị tướng quân thống lĩnh ba quân thuỷ lục. Sau đó trong một trận quyết chiến, ông hy sinh (phần thượng thân (đầu) và hạ thân (mình) trôi về hai bên bờ con sông Lục Đầu). Ông hoá đi, về chầu Long Cung, là người cầm cân nảy mực, thông tri Tam Giới, quyền cai các thanh đồng đạo quan (vậy nên có khi người ta còn gọi là Ông Cai Đầu Đồng). Khi thanh nhàn ông truyền ba quân tập hợp thuyền bè, dạo chơi khắp miền, trên sông dưới suối, phù hộ cho ngư dân.

Hầu như những người đã ra hầu Tứ Phủ, khi hầu hàng Quan Lớn, ai cũng phải hầu về Quan Đệ Tam. Có thể coi ông là vị Quan Lớn tài danh hàng đầu. Khi ngự đồng, ông mặc áo trắng thêu rồng, hổ phù; làm lễ tấu hương, khai quang, chứng sớ điệp và ông múa đôi song kiếm. Khi có đại tiệc khai đàn mở phủ, người ta thỉnh quan về chứng đàn Thoải Phủ (gồm có long chu phượng mã, lốt tam đầu cửu vĩ…: tất cả đều màu trắng).

Trong hàng quan lớn, vì danh tiếng bậc nhất nên Quan Lớn Đệ Tam cũng được lập đền thờ phụng ở khắp nơi. Nhưng đầu tiên phải kể đến Đền Lảnh Giang ở Mộc Nam, Duy Tiên, Hà Nam (gần Hưng Yên) tương truyền là nơi hạ thân của ông trôi về, sau đó phải nói đến Đền Xích Đằng cũng thuộc Hà Nam (hai ngôi đền này chỉ cách nhau cây cầu Yên Lệnh nối hai bờ sông Lục Đầu) là nơi thờ thượng thân của ngài. Ngoài ra còn có Đền Cửa Đông tại thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn (gần Đền Mẫu Thoải)

Thần tích “Hùng triều nhất vị thuỷ thần xuất thế sự tích”

Căn cứ vào thần tích “Hùng triều nhất vị thuỷ thần xuất thế sự tích” (sự tích ra đời một vị thuỷ thần triều vua Hùng). Thần tích này do Bát phẩm thư lại Nguyễn Hiền, tuân theo bản cũ triều trước, chép lại vào niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 2 (1736). Thần tích đang được lưu giữ tại Đền Lảnh.) cùng các sắc phong, câu đối, cũng như truyền thuyết địa phương thì lịch sử ba vị tướng họ Phạm thời Hùng Vương được thờ ở Đền Lảnh Giang như sau:

Ngày xưa, ở trang An Cố, huyện Thuỵ Anh, phủ Thái Ninh, trấn Sơn Nam có vợ chồng ông Phạm Túc ăn ở phúc đức, chỉ hiềm một nỗi ông bà tuổi đã cao mà vẫn chưa sinh được một mụn con nối dõi.

Một đêm trăng thanh gió mát, vợ ông (bà Trần Thị Ngoạn) đang dạo chơi bỗng gặp một người con gái nhà nghèo, cha mẹ mất sớm, không có anh em thân thích, đi tha phương cầu thực. Động lòng trắc ẩn, bà Ngoạn liền đón cô về làm con và đặt tên là Quý. Ông bà coi nàng Quý như con ruột của mình. Vài năm sau, trong lúc gia đình đang vui vầy, đột nhiên ông Túc mắc bệnh rồi qua đời. Hai mẹ con đã tìm một nơi đất tốt để an táng cho ông.

Sau ba năm để tang cha, một hôm nàng Quý ra bờ sông tắm gội, ngâm mình dưới nước, bỗng mặt nước nổi sóng, từ phía xa một con thuồng luồng khổng lồ bơi tới quấn lấy nàng, khiến nàng kinh hoàng ngất lịm. Lúc tỉnh dậy thì thấy mình nằm bên bờ sông và thuồng luồng đã bỏ đi. Từ hôm đó nàng thấy trong lòng chuyển động và mang thai. Không chịu được những lời gièm pha khinh thị, nàng đành phải trốn khỏi làng đến xin ngụ cư ở Trang Hoa Giám (nay thuộc thôn Yên Lạc). Rồi đến ngày mùng 10 tháng Giêng năm Tân Tỵ, nàng Quý chuyển dạ, sinh ra một cái bọc. Cho là điểm chẳng lành, nàng liền đem chiếc bọc đó quẳng xuống sông. Chiếc bọc trôi theo dòng nước tới trang Đào Động (xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, Thái Bình), mắc phải lưới của ông Nguyễn Minh. Sau nhiều lần gỡ bỏ, nhưng bọc vẫn cứ mắc vào lưới. Ông Minh thấy lạ bèn khấn: “Nếu bọc này quả là linh thiêng thì cho tôi lấy dao rạch thử xem sao” Khấn xong ông Minh rạch ra, bỗng thấy ba con rắn từ trong bọc trườn xuống sông. Con thứ nhất theo hướng về cửa sông Đào Động, con thứ hai về Thanh Do, con thứ ba về trang Hoa Giám – nơi nàng Quý đang sinh sống. Nhân dân các trang ấp trông thấy đều sợ hãi, cùng nhau ra bờ sông tế tụng, xin được lập sinh từ để thờ.

Lạ thay, vào một đêm trăng sáng, trời bỗng nổi cơn giông, ngoài cửa sông sấm sét nổi lên dữ dội. Đến gần sáng, gió mưa ngớt dần, mọi người đều thấy dưới sông có tiếng người ngâm vịnh:

Sinh là tướng, hóa là thần Tiếng thơm còn ở trong dân muôi đời Khi nào giặc dã khắp nơi Bọn ta mới trở thành người thế gian

Tương truyền ba vị tướng thời Hùng là con của Bát Hải Long Vương và Nàng Quý. Nàng Quý là con nuôi của vợ chồng ông Phạm Túc. Do vậy về sau nhân dân ghép họ Phạm cho các ông.).

Bấy giờ Thục Phán – thuộc dòng dõi tôn thất vua Hùng, thấy Duệ Vương tuổi đã cao mà không có con trai, nên có ý định cướp ngôi. Thục Phán cầu viện binh phương Bắc, chia quân làm 5 đường thuỷ bộ cùng một lúc đánh vào kinh đô. Duệ Vương cho gọi tướng sĩ lập đàn cầu đảo giữa trời đất. Đêm ấy nhà vua chiêm bao thấy có người sứ giả mặc áo xanh từ trên trời bước xuống sân rồng, truyền rằng: “Nhà vua nên triệu ba vị thuỷ thần sinh ở đạo Sơn Nam, hiện còn là hình con rắn thì tất sẽ dẹp xong được giặc”. Tỉnh dậy Duệ Vương liền cho sứ giả theo đường chỉ dẫn trong giấc mộng tìm về đạo Sơn Nam. Sứ giả vừa đến trang Đào Động (nay thuộc xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình), bỗng nhiên trời đổ mưa to, sấm sét nổi lên dữ dội ở cửa sông. Một người mặt rồng mình cá chép, cao tám thước đứng trước sứ giả xưng tên là Phạm Vĩnh, xin được đi dẹp giặc. Sau đó, ông Phạm Vĩnh gọi hai em đến bái yết thân mẫu, rồi cùng nhau đi yết kiến Duệ Vương. Vua Hùng liền phong cho ông là Trấn Tây, giữ các vùng Sơn Nam, ái Châu, Hoan Châu. Hai em và các tướng hợp lại, dưới sự chỉ huy của ông, 5 đạo quân Thục đều bị tiêu diệt.

Nghe tin thắng trận, Duệ Vương liền truyền lệnh giết trâu, mổ bò khao thưởng quân sĩ. Vì có công lớn nên nhà vua lại phong cho ông là “Nhạc Phủ Ngư Thượng Đẳng Thần” nhưng ông không nhận, chỉ xin cho dân Đào Động hàng năm không phải chịu sưu dịch. Được vua Hùng đồng ý, ông Phạm Vĩnh cùng hai em về quê hương bái yết thân mẫu và khao thưởng gia thần, dân chúng.

Thấy ở bên sông có khu đất tốt, ông Phạm Vĩnh cho lập đồn dinh cư trú, ban cho dân 10 hốt vàng để mua ruộng đất, khuyến khích nông trang, khuyên mọi người làm việc thiện lương. Nhờ công đức của ông mà nhân dân khắp vùng được sống yên vui.

Ngày 25 tháng 8 năm Bính Dần, trong lúc ông đang ngự tại cung thất của mình, bỗng dưng giữa ban ngày trời đất tối sầm, mưa gió ầm ào đổ xuống. Khi trời quang mây tạnh, dân làng không nhìn thấy ông đâu nữa. Cho là điều kỳ lạ, nhân dân trang Đào Động làm biểu tâu với triều đình.

Được tin ông Phạm Vĩnh về trời, nhà vua liền gia phong cho ông là “Trấn Tây An Tam Kỳ Linh Ưng Thái Thượng Đẳng Thần”, đồng thời đặt lệ quốc lễ, ban sắc chỉ cùng 400 quan tiền cho dân Đào Động rước thần hiệu, tu sửa đền miếu để phụng thờ. Các triều đại sau đó cũng có sắc phong cho ông (hiện trong đền còn giữ 12 sắc phong. Sắc sớm nhất là đời Lê Cảnh Hưng, sắc muộn nhất vào triều Nguyễn, niên hiệu Duy Tân thứ 7, ngày 18 tháng 10 có chép: “Sắc cho xã An Lạc, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam phụng thờ Trấn An Tây Nam Tam Kỳ Linh ứng triều Hùng thiêng liêng rõ rệt, trước đây chưa có dự phong. Gặp nay trẫm vâng chịu mệnh lớn, nghĩ đến công thần biểu dương phong cho vị thần, phò giúp nền nếp quốc gia, cho phép y theo lệ cũ kính thờ”.

Hàng năm tại Đền Lảnh Giang, nhân dân địa phương tổ chức 2 kỳ lễ hội chính vào các ngày từ 18 đến 25 tháng 6 và tháng 8 âm lịch. Theo tục lệ địa phương thì kỳ lễ hội tháng 6 là để dành cho các khách thập phương, còn kỳ lễ hội tháng 8 chủ yếu dành cho các khách quanh vùng. Những ngày này thường gặp nước sông Hồng dâng cao nhưng lòng dân vẫn hướng về ngày lễ hội. Có nhiều năm nước ngập nhưng các thiện nam tín nữ cùng nhân dân bản địa vẫn bơi thuyền ra đền dâng lễ và thực hiện đầy đủ các nghi thức để tỏ lòng tôn kính tam vị danh thần họ Phạm, Tiên Dung và Chử Đồng Tử.

Trong báo cáo ngày 16/5/1996, cơ quan Bảo tàng lịch sử tỉnh Nam Hà (cũ) có nhận xét: Đền Lảnh Giang là di tích thờ ba vị tướng họ Phạm thời Hùng Duệ Vương có công lao đánh giặc Thục, bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc. Khi đất nước thanh bình, các ông là những người quan tâm, chăm lo đến sản xuất, làm cho đời sống nhân dân ngày một ấm no hạnh phúc… Đền Lảnh Giang là công trình kiến trúc quy mô, uy linh, bề thế, mang đậm nét nghệ thuật kiến trúc và xây dựng cổ truyền của dân tộc. Tại đây còn giữ được nhiều cổ vật thờ cúng có giá trị cao về nghệ thuật.

Ngày tiệc của Quan Bơ Phủ là ngày 24/6 âm lịch (tương truyền là ngày đản nhật giáng sinh của ông). Vậy nên trong văn hát câu rằng:

“Đản hai tư tháng sáu xưng thần Khắp Trung, Nam, Bắc muôn dân đảo cầu”

Khi ông về ngự đồng, khai quang chứng đàn mã sớ điệp, văn thường hát đoạn:

“Lòng thành thắp một chiện nhang Tấu về Thoải Phủ các ban các toà Thiên Đình, Thoải Phủ, Diêm La Tấu về Thoải Phủ Vua Cha Động Đình Vốn xưa là chúa Thủy Tinh…”

Ngoài ra để ca ngợi tài đức, công lao của ông, văn cũng hát:

“Giáp bạc bao phen rực lửa hồng Xông pha trăm trận cũng như không Ra tay cứu nước trừ nguy biến Tiếng để ngàn thu với non sông […] Gươm thần ba thước tay ngang dọc Tài dậy trời Tây, chí lấp bể Đông”

Hay khi nói về những cuộc dạo chơi khắp sơn thoải đại giang của ông, văn thường hát theo điệu dọc:

“Chiếc thuyền nan nổi dòng Xích Bích Đua mái chèo du lịch bốn phương Có phen tuần thú sông Thương Trở ra tỉnh Bắc qua giang Lục Đầu […] Có phen chơi ngã ba Bạch Hạc Bạn loan ngồi đàn hát vui chơi Dạo xem phong cảnh mọi nơi Qua hang Anh Vũ sang chơi nước người”

Và còn có một đoạn rất hay nói về tài phép của quan:

“Hoá tức thì lâu đài điện các Dâng nước về Thuỷ Quốc một khi Có phen lấy ngọc lưu ly Đùng đùng dâng nước phép thì ai đang”

Từ những giá trị về lịch sử và kiến trúc nghệ thuật cổ truyền dân tộc của Đền Lảnh Giang, ngày 5/11/1996, Bộ Văn hóa Thông tin đã cấp bằng công nhận đền Lảnh Giang là Di tích lịch sử văn hóa quốc gia.

chúng tôi

Tổng hợp

Bản Văn: Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ

Trịnh giang biên giành ngân lai láng

Đôi vầng hồng soi rạng nam minh

Con vua thủy quốc Động Đình

Đệ tam thái tử giáng sinh đền Rồng

Dọc:

Đức gồm vẹn thung dung hòa mặc

Bẩm sinh thành tư chất long nhan

Thỉnh mời thái tử thái tử vương quan

Phi phương diện mạo dung nhan khác thường

Hằng tấu đối thiên đường thủy phủ

Trấn nam minh quy đủ bốn phương

Ra uy chấp chính kỉ cương

Cầm cân nảy mực sửa sang cõi đời

Chốn long giai cầm quyền thay chúa

Phép màu quan tối tú tối linh

Lệnh truyền thủy bộ chư dinh

Sửa sang đai giáp chơi miền trần gian

Dâng một triền nhang lòng thành dâng một triền nhang

Tấu về thủy phủ các ban các tòa thiên đình cho tới diêm la

Thiên đình cho tới diêm la tấu vè thoải phủ vua cha động đình

Chốn ấy là chốn thủy cung

Phú:

Nhanh dâng một chuyện tâu thỉnh đức vương quan

Đệ tử con tiến văn đàn

Dâng sự tích đệ tam hoàng thái tử

Sơn xuyên dục tú “hà hải chung linh”(2)

Người con vua thoải quốc động đình

Sắc phong tặng vương quan hoàng thái tử

Văn thần cẩm tú võ tổng lược thao

Bẩm dung y diện mạo hồng hào

Ngôn trung chính tài cao quán cổ

Thơ:

Giáp bạc bao phen nhuộm đỏ hồng

Xông pha trăm trận dạ như không

Ra tay cứu nước trừ nguy biến

Tiếng để ngàn thu với núi sông

Xá lửng:

Chiếc thuyền lam nổi dòng Xích Bích

Đưa quân chèo du lịch bốn phương

Có phen tuần thú sông Thương

Trở ra tỉnh Bắc , Quế Dương, Lục Đầu

Có phen ngự sông Dâu sông Hát

Khi lên ghềnh xuống thác vui chơi

Có phen vào lạch ra khơi

Sai quân lấy gỗ xoan đào chò hoa

Có phen chơi ngã ba Bạch Hạc

Bạn tiên ngồi đàn hát vui chơi

Dạo xem phong cảnh mọi nơi

Qua hang Anh Vũ sang chơi nước người

Có phen chơi cửa đài cửa bích

Khi ra khơi vào lạch thảnh thơi

Thuyền rồng trăm chiếc chèo bơi

Dọc ngang Tuần Lảnh là nơi đi về

Trải giang khê lên ngàn xuống bể

Lảnh Giang từ quý địa danh lam

Đền thờ quan tam tía kiệu vàng

Long môn hổ bàn thạch bàn uy nghi

Hóa tức thì lâu đài điện các

Dâng nước về thủy quốc một khi

Có phen lấy ngọc lưu ly

Đùng đùng dâng nước phép thì ai đang

Khắp sông Thương , sông Thao , sông Cả

Kéo quân về đóng ngã ba Tranh

Xướng ca đàn hát tập tành

Thi ngâm phú đọc đàn tranh chơi bời

Có phen lại về nơi thủy phủ

Đóng cân đai áo mũ vào tâu

Dăm ba đồng tử theo hầu

Vào tâu Vương phụ ra chầu Mẫu vương

Cũng có khi phi thường biến hóa

Qua Nghệ An thượng hạ đại giang

Thuyền rồng chèo quế buồm lan

Khi chơi Tô Lịch khi sang sông Cầu

Có phen ngự Nam lâu Bắc điện

Trở ra về đến huyện Thiên Tôn

Dạo miền thác cái thác con

Khi chơi sông Hát khi sang sông Bờ

Dạo thẩn thơ Tản Viên Tam Đảo

Truyền chư quân đôi đạo tiên phong

Chuông kêu cờ phất trống dong

Bè sau thuyền trước giữa dòng lênh đênh

Trống cầm canh chiêng vang anh ỏi

Lốt xanh vàng chìm nổi dư muôn

Triều thần văn vũ bách quan

Sai lên đón rước vương quan về chầu

Trên các lầu thơ ngâm phú đọc

Ngoài sân rồng ca chúc chén tiên

Vua cha giá ngự ngai vàng

Phán đòi thái tử vương quan vào chầu

Ngự giờ lâu phán lời nhân thứ

Sai ông lên cứu trợ trần gian

Một tay thái tử vương quan

Cứu sinh cũng lắm đọ oan cũng nhiều

Nay ông đã về chầu nhân đức

Độ nhân gian vạn ức siêu sinh

Nay ông về chốn thủy đình

Cuông phù đệ tử khang ninh thọ trường.

Quan Lớn Đệ Nhị Là Ai? Sự Tích Quan Lớn Đệ Nhị

Trong Ngũ Vị Tôn Quan có một vị trong 5 ông cai quản sơn lâm, vậy ông là ai thì ông chính là Quan Lớn Đệ Nhị hay còn được gọi Quan Đệ Nhị…

Trong Ngũ Vị Tôn Quan có một vị trong 5 ông cai quản sơn lâm, vậy ông là ai thì ông chính là Quan Lớn Đệ Nhị hay còn được gọi Quan Đệ Nhị Giám Sát. Vậy Quan lớn Đệ Nhị là ai, sự tích quan lớn đệ nhị như thế nào, tiệc quan lớn đệ nhị là ngày nào thì kính mời quý độc giả cùng Đền Thánh Mẫu xem chi tiết ngay sau đây:

1. Quan Lớn Đệ Nhị là ai?

Ông là vị quan đứng thứ 2 trong Ngũ Vị Tôn Ông , và Quan Lớn Đệ Nhị cũng chính là người con trai thứ 2 của Vua Cha Bát Hải. Ông là một trong ba vị của Ngũ Vị Tôn Ông hay về dự hầu. Khi ngài vệ dự thì Quan Lớn Đệ Nhị khoác trên mình bộ y phục màu xanh có thêu rồng và hổ phù. Khi hầu ngài thì ngày hay làm lễ tấu hương, múa kiếm, khai quang.

2. Sự tích Quan Lớn Đệ Nhị

Thời xa xưa, ông vốn là người con trai thứ hai của Vua Cha Bát Hải , do theo lệnh của cha nên đã đầu thai vào một Hoàng Cung thuộc một vương triều nào đó mà sách sử không có ghi rõ. Lớn lên, Quan Lớn Đệ Nhị trở thành một người khôi ngô, tuấn tú, văn võ song toàn, chính trực, ngay thẳng. Được nhiều người ngưỡng mộ, coi trọng ngài. Khi ngày hóa về trời thì ông được ngọc hoàng giao cho cai quản, chăm sóc Sơn Lâm của Thượng Ngàn. Khi ông giáng thế để ban phúc lành cho con dân, khi dân có chuyện gì mà cầu ông thì lập tức ngài phù hộ độ trì.

3. Các đền thờ Quan Lớn Đệ Nhị

Hiện tại trên nước ta có một số đền phủ có thờ Quan Lớn Đệ Nhị như: Đền Quan Lớn đệ nhị ở Thái Bình – ngôi đền này nằm gần đền Đồng Bằng. Ngôi đền này gắn với sự tích Ngài đã cùng vua cha Bát Hải đánh giặc ngoại xâm, bảo vệ nước nhà.

Đền Quan Giám Hữu Lũng, Lạng Sơn – Đây là nơi ngài hạ phàm để dạo chơi.

4. Các ngày tiệc Quan Lớn Đệ Nhị

Để tưởng nhớ ngài thì dân gian đã chọn ngày ngài hạ phàm để chọn làm ngày tiệc chính của ông tức là ngày 10/11 âm lịch.

Những thông tin trên đã giải đáp chi tiết cho quý độc giả về quan Lớn Đệ Nhị là ai, sự tích quan lớn đệ nhị như thế nào. Những do tài liệu còn sơ sài, thiếu sót nên thông tin trên chưa được đầy đủ. Cho nên chúng tôi sẽ cập nhật thường xuyên về Quan Lớn Đệ Nhị, mời quý vị hãy theo dõi bài viết này của chúng tôi. Chúc quý độc giả có một ngày làm việc hiệu quả và may mắn.

Sự Tích Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh

Quan Lớn Đệ Ngũ có tên đầy đủ là Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh. Tước phong là Đệ ngũ tôn quan thượng đẳng tối linh thần – Cao Lỗ đại vương – Đệ ngũ Tuần Tranh.

Ngọc Hoàng ban cho Ngài thống lĩnh thiên địa binh, thay quyền tam tứ phủ đại diện cho con người (nhân vi chúa tể), thu chấp kim ngân tài mã, giải oan nghiệp sớ cho trần gian. Đề thờ chính: Đền Ngài được lập ở đền Kỳ cùng Lạng Sơn, Đền Ninh Giang Hải dương và các cửa sông vùng duyên hải.

Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh, hay còn gọi là Ông Lớn Tuần Tranh. Ông là con trai thứ năm của Vua Cha Bát Hải Động Đình. Ông cũng giáng dưới thời Hùng Định Vương (Hùng Triều Thập Bát), trong một gia đình ở phủ Ninh Giang (nay là Hải Dương), ông cũng là vị tướng quân tài ba kiêm lĩnh thuỷ bộ, được giao quyền trấn giữ miền duyên hải sông Tranh. Ông đã lập được nhiều công lao to lớn nên được sắc phong công hầu.

Đến thời Thục Phán An Dương Vương, vua tập hợp thuyền bè để chống Triệu Đà ở ngay bến sông Tranh, nhưng tại chỗ dòng xoáy đó, thuyền bè không tài nào qua được mà lại có cơn giông tố nổi lên giữa dòng. Vua bèn mời các vị lão làng đến lập đàn cầu đảo thì lập tức sóng yên bể lặng, hơn nữa, quân sĩ ra trận cũng được thắng to. Ghi nhớ công đức, vua Thục giải oan cho ông và phong là Giảo Long Hầu. Sau này ông còn hiển thánh linh ứng, có phép nhà trời, cai quản âm binh, ra oai giúp dân sát quỷ trừ tà, dẹp hết những kẻ hại nước hại dân.

Trong hàng Ngũ Vị Tôn Ông, cùng với Quan Lớn Đệ Tam, Quan Lớn Đệ Ngũ cũng là một vị quan lớn danh tiếng hết sức lẫy lừng, được nhân dân xa gần tôn kính phụng thờ. Tuy trong hàng Năm Toà Ông Lớn, ông được thỉnh cuối cùng nhưng lại hay ngự về đồng nhất (bất cứ ai hầu Tứ Phủ, bất cứ dịp tiệc, đàn lễ nào đều phải thỉnh Quan Tuần Tranh về ngự). Khi ngự đồng ông mặc áo lam thêu rồng, hổ phù; làm lễ tấu hương, khai quang, chứng sớ tán đàn rồi múa thanh long đao. Khi có đại đàn mở phủ hay bất cứ lễ tiệc nào, sau khi thỉnh các quan lớn về, đều phải đợi đến khi giá Quan Lớn Đệ Ngũ về chứng một lần hết tất cả các đàn mã sớ trạng rồi mới được đem đi hoá.

Quan Lớn Tuần Tranh cũng được thờ ở rất nhiều nơi nhưng phải kể đến hai nơi nổi tiếng bậc nhất: đầu tiên là Đền Ninh Giang hay Đền Quan Lớn Tuần Tranh lập bên bến sông (bến đò) Tranh ở Ninh Giang, Hải Dương (là nơi chính quán quê nhà của ông, nơi ông trấn giữ duyên hải sông Tranh, cũng là nơi ông hiển tích) và Đền Kì Cùng lập bên bến sông Kì Cùng, qua cầu Kì Lừa (là nơi ông bị lưu đày). Ngày tiệc chính của quan là ngày 25/5 âm lịch (là ngày ông bị lưu đày và bảo nhân dân quê ông làm giỗ vào ngày này), ngoài ra vào ngày 14/2, các đền thờ ông cũng mở tiệc đón ngày đản sinh của quan.

Văn Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh

Trong khi thỉnh ông về, văn thường hát:

“Uy gia lẫm liệt tung hoành Trừ tà sát quỷ nên danh tướng tài Ninh Giang chính quán quê nhà Dấu thiêng ghi để ngã ba Kì Cùng”

Hay nói về nỗi oan của ông, văn hát sử oán rằng:

“Nào ngờ đâu đất trời thay đổi Người anh hùng mang tội xiềng gông Tháng năm đày chốn Kì Cùng Oan vì tuyết nguyệt đổi lòng ái ân Trước cung điện triều đình tra xét Bắt long hầu truyền hết mọi nơi Oan vì bướm lả ong lơi Triết hoa đoạt vũ tội trời không dung Lệnh viễn xứ sơn cùng thuỷ kiệt Nỗi oan này có thấu cao minh Áo bào đã nhuộm chàm xanh Tấm thân bách chiến tử sinh lẽ thường”

Hoặc có cả những đoạn ca ngợi công lao, tài đức của ông:

“Loa đồng hỏi nước sông Tranh Đao thiêng dẹp giặc, anh hùng là ai Sông Tranh đáp tiếng trả lời Anh hùng lừng lẫy là người Ninh Giang”

Còn khi quan ngự đồng, khai quang chứng sớ điệp, ra oai giúp dân trừ tà thì văn hát rằng:

“Ông về truyền phán các quan Tả cơ hữu đội lưỡng ban đáo đàn Quân thuỷ quân bộ đôi hàng Chư binh vạn mã hằng hà kéo ra Lệnh truyền thiên đội vạn cơ Quan Tuần bây giờ trắc giáng anh linh Trước là bảo hộ gia đình Sau ra thu tróc tà tinh phen này Ra oai trần thế biết tay Ngự lên đồng tử cứu rày nhân gian Cứu đâu thời đấy khỏi oan…”

Văn Khấn Tại Đền Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ Chuẩn Tín Ngưỡng Đạo Mẫu Việt Nam

Văn khấn tại đền Quan lớn đệ Tam Thoải Phủ chuẩn tín ngưỡng đạo Mẫu Việt Nam

Tín ngưỡng văn hóa đạo Mẫu Việt Nam có Tam Tòa Thánh Mẫu, Ngũ vị tôn Quan, Thập vị ông Hoàng,… Mỗi người đều ngự riêng tại bản đền, bản điện với bài văn khấn đền và quyền phép khác nhau. Cùng chúng tôi tìm hiểu về Quan lớn đệ Tam Thoải Phủ qua bài viết sau đây.

Thần tích Quan lớn đệ Tam Thoải Phủ

Quan Lớn Đệ Tam được biết đến là con trai thứ ba của Vua Cha Bát Hải Động Đình. Ông được vua cha yêu mến và tín nhiệm, giao cho quyền cai quản chốn Long Giai Động Đình, cận bên cạnh phụ vương. Dưới thời Hùng Vương, theo lệnh vua cha, ông cùng hai người em (có sách nói là hai người thân cận) lên giúp Vua Hùng chỉ huy thuỷ binh, lúc này ba vị giáng ở đất Hà Nam, được nhân dân tôn thành “Tam Vị Đại Vương”, trong đó, Quan Đệ Tam là người anh cả trong ba người.

Có điển tích lại kể rằng Quan Tam Phủ giáng trần vào nhà quý tộc dưới thời Hùng Vương, ông trở thành vị tướng quân thống lĩnh ba quân thuỷ lục. Ông đã hy sinh trong một trận huyết chiến và hạ thân (mình) trôi về hai bên bờ con sông Lục Đầu). Ông hoá đi, về chầu Long Cung, là người cầm cân nảy mực, thông tri Tam Giới, quyền cai các thanh đồng đạo quan. Vậy nên có khi người ta còn gọi là Ông Cai Đầu Đồng.

Hầu như những người đã ra hầu Tứ Phủ, khi hầu hàng Quan Lớn, ai cũng phải hầu về Quan Đệ Tam. Ông là một trong những vị quan lớn hay về ngự đồng nhất. Khi ngự đồng, ông mặc áo trắng thêu rồng, hổ phù; làm lễ tấu hương, khai quang, chứng sớ điệp và ông múa đôi song kiếm. Khi có đại tiệc khai đàn mở phủ, người ta thỉnh quan về chứng đàn Thoải Phủ (gồm có long chu phượng mã, lốt tam đầu cửu vĩ,… tất cả đều màu trắng).

Trong hàng quan lớn, bởi danh tiếng lẫy lừng nên ông được thờ phụng ở khắp nơi. Nhưng đầu tiên phải kể đến Đền Lảnh Giang ở Mộc Nam, Duy Tiên, Hà Nam (gần Hưng Yên) tương truyền là nơi hạ thân của ông trôi về, sau đó phải nói đến Đền Xích Đằng cũng thuộc Hà Nam (hai ngôi đền này chỉ cách nhau cây cầu Yên Lệnh nối hai bờ sông Lục Đầu) là nơi thờ thượng thân của ngài. Ngoài ra còn có Đền Cửa Đông tại thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn (gần Đền Mẫu Thoải)

Tiệc Quan lớn đệ Tam diễn ra vào ngày nào ?

Ngày mở tiệc được tổ chức tại ngày 24/6 âm lịch, dân gian còn gọi đây là ngày đản sinh của ngài.

Văn khấn Quan lớn đệ Tam Thoải Phủ chuẩn tín ngưỡng đạo Mẫu Việt Nam

“Trịnh giang biên giành ngân lai láng

Đôi vầng hồng soi rạng nam minh

Con vua thủy quốc Động Đình

Đệ tam thái tử giáng sinh đền Rồng

Đức gồm vẹn thung dung hòa mặc

Bẩm sinh thành tư chất long nhan

Thỉnh mời thái tử thái tử vương quan

Phi phương diện mạo dung nhan khác thường

Hằng tấu đối thiên đường thủy phủ

Trấn nam minh quy đủ bốn phương

Ra uy chấp chính kỉ cương

Cầm cân nảy mực sửa sang cõi đời

Chốn long giai cầm quyền thay chúa

Phép màu quan tối tú tối linh

Lệnh truyền thủy bộ chư dinh

Sửa sang đai giáp chơi miền trần gian

Dâng một triền nhang lòng thành dâng một triền nhang

Tấu về thủy phủ các ban các tòa thiên đình cho tới diêm la

Thiên đình cho tới diêm la tấu vè thoải phủ vua cha động đình

Chốn ấy là chốn thủy cung”

Cập nhật thông tin chi tiết về Sự Tích Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ trên website Apim.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!