Xu Hướng 9/2023 # Phục Hồi Chức Năng Khớp Gối Sau Phẫu Thuật Kết Xương Vỡ Mâm Chày # Top 14 Xem Nhiều | Apim.edu.vn

Xu Hướng 9/2023 # Phục Hồi Chức Năng Khớp Gối Sau Phẫu Thuật Kết Xương Vỡ Mâm Chày # Top 14 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Phục Hồi Chức Năng Khớp Gối Sau Phẫu Thuật Kết Xương Vỡ Mâm Chày được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Apim.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Khớp gối là khớp phức tạp bao gồm hai khớp: khớp giữa xương đùi và xương chày là khớp lồi cầu – ổ chảo, khớp giữa xương đùi và xương bánh chè là khớp phẳng.

– Lồi cầu xương đùi gồm lối cầu trong và lồi cầu ngoài, giữa hai lồi cầu là rãnh liên lồi cầu.

– Diện khớp trên của xương chày gọi là mâm chày, có mâm chày trong tiếp khớp với lồi cầu trong và mâm chày ngoài tiếp khớp với lồi cầu ngoài. Giữa mâm chày trong và mâm chày ngoài có gai mâm chày là các điểm bám của dây chằng chéo trước và dây chằng chéo sau.

– Sụn chêm: Sụn chêm trong hình chữ C nằm đệm giữa mâm chày trong và lồi cầu trong. Sụn chêm ngoài hình chữ O nằm đệm giữa mâm chày ngoài và lồi cầu ngoài. Sụn chêm trong gắn với bao khớp ở phía trong, sụn chêm ngoài gắn với bao khớp ở phía ngoài. Sụn chêm chia khoang khớp làm hai khoang, khoang trên sụn chêm và khoang dưới sụn chêm. Sụn chêm làm cho ổ chảo sâu thêm và sụn chêm trượt ra trước khi gấp gối và trượt ra sau khi duỗi gối.

– Dây chằng: Ngoài bao khớp, khớp gối được tăng cường bởi các dây chằng. Dây chằng bên trong (bên chày) và dây chằng bên ngoài (bên mác). Hai dây chằng chéo nằm ở giữa khớp, bắt chéo nhau hình chữ X là dây chằng chéo trước giữ cho mâm chày không bị trượt ra trước so với lồi cầu và dây chằng chéo sau giữ cho mâm chày không bị trượt ra sau so với lồi cầu. Phía trước có gân cơ bánh chè và các mạc phía trong và phía ngoài xương bánh chè. Phía sau có dây chằng khoeo chéo và dây chằng cung khoeo.

Khớp gối có hai loại vận động: vận động bản lề gấp-duỗi và vận động xoay nhưng vận động xoay chỉ thực hiện khi khớp gối ở tư thế gấp.

Mâm chày là phần xương xốp có bề mặt sụn cấu tạo nên một phần khớp gối. Khi người ta đứng hoặc đi lồi cầu xương đùi đè lên mâm chày và trọng lượng của cơ thể dồn lên mâm chày để xuống cẳng chân. Như vậy mâm chày là phần xương chịu sức nặng của toàn bộ cơ thể.

Mâm chày là phần xương xốp nên khi gãy dễ liền xương nhưng vì là xương xốp nên khi gãy dễ bị lún mất xương. Mâm chày có mặt sụn khớp nên khi gãy sẽ làm mất phẳng sụn khớp, bề mặt sụn khớp sẽ bị khấp khểnh. Khi nắn chỉnh không chính xác sẽ gây hạn chế vận động khớp và làm nhanh thoái hóa khớp về sau.

Vì là xương xốp nên sau phẫu thuật kết xương bệnh nhân không được phép đi chống chân ngay sau phẫu thuật do mâm chày sẽ bị bung ra dưới sức nặng của cơ thể. Thời gian để xương liền khoảng ba tháng vì vậy sau ba tháng bệnh nhân mới được phép đi chống chân xuống đất và tăng lực chống chân dần dần cho đến khi chịu toàn bộ sức nặng của cơ thể mà không gây đau.

Tùy theo loại gãy xương, kiểu kết xương và trọng lượng bệnh nhân mà thời gian được phép đi chống chân có thể thay đổi nhưng không được dưới ba tháng. Thời gian bình phục để có thể đi lại bình thường, gấp duỗi gối bình thường thông thường khoảng 6 – 8 tháng.

Có nhiều cách phân loại gãy mâm chày của các tác giả khác nhau nhưng đều có những điểm chung là căn cứ vào loại gãy hình nêm, nén ép, hai bình diện.

– Hohl (1958) phân gãy mâm chày thành gãy có di lệch và gãy không di lệch. Gãy di lệch gồm nén ép khu trú, nén ép tách, lún hoàn toàn bình diện và gãy nát.

– Moore (1967) phân gãy mâm chày thành 5 loại:

+ Loại I: Gãy tách mâm chày trong theo mặt phẳng trán

+ Loại II: Gãy hoàn toàn một bình diện mà đường gãy bắt đầu ở khoang đối diện qua gai chày đến bình diện gãy.

+ Loại III: Gãy bong bờ chày (các loại gãy này thường có tỉ lệ cao kèm theo chấn thương mạch máu, thần kinh).

+ Loại IV: Chấn thương nén ép bờ chày kèm với tổn thương dây chằng đối bên.

+ Loại V: Gãy bốn phần mà gai chày bị tách ra từ bình diện và thân xương chày.

Phân loại của Moore đã tính đến hậu quả mất vững khớp gối.

– Schatzker (1979) phân ra 6 loại:

+ Loại I (gãy tách): Gãy chẻ hoàn toàn mâm chày ngoài tạo thành mảnh gãy hình chêm.

+ Loại II (lún-tách): Gãy chẻ mâm chày ngoài mà phần mặt khớp còn lại bị lún vào hành xương.

Loại I (gãy tách) mâm chày ngoài Loại I (gãy tách) mâm chày ngoài

Hình 3: Gãy mâm chày loại I và II (phân loại của Schatzker)

+ Loại III: Gãy lún hoàn toàn trung tâm của mâm chày ngoài mà bờ xương còn nguyên vẹn.

Loại III: Gãy lún trung tâm mâm chày ngoài Loại IV: Gãy mâm chày trong

Hình 4: Gãy mâm chày loại III và IV (phân loại của Schatzker)

+ Loại V: Gãy 2 diện mâm chày (trong và ngoài) mà đường gãy thường tạo thành chứ “Y” đảo ngược.

+ Loại VI: Gãy loại V có sự tách ra giữa hành xương và thân xương, có thể có độ nát khác nhau của một hay hai diện mâm chày và mặt khớp.

Loại V: Gãy hai diện mâm chày Loại VI: Gãy loại V có tách hành và thân xương

Hình 5: Gãy mâm chày loại V và VI (phân loại của Schatzker)

Phân loại của Schatzker hiện nay được sử dụng phổ biến vì nó tính đến phương pháp kết xương, hậu quả mất vững khớp. Honkonen và Jarvinen gần đây đã sửa loại VI trong phân loại của Schatzker thành hai loại nhỏ là nghiêng trong và nghiêng ngoài để tính đến kết quả chức năng khớp trong điều trị với di lệch gập góc còn lại.

– Phân loại của hiệp hội chấn thương chỉnh hình (OTA) dựa trên phân loại của AO/ASIF: đầu trên xương chày được qui định là đoạn 41 và được chia thành 3 loại chính.

+ Loại A là gãy ngoài khớp chia ra A1, A2 và A3

Hình 6: Loại A (phân loại AO)

+ Loại B là gãy một phần mặt khớp, chia ra :

Hình 7: Loại B (phân loại AO)

+ Loại C là gãy hoàn toàn mặt khớp, chia ra:

C1: gãy đơn giản mặt khớp và hành xương.

C2: gãy đơn giản mặt khớp và gãy nhiều mảnh hành xương.

C3: gãy nhiều mảnh mặt khớp.

Hình 8: Loại c (phân loại AO)

– Giảm đau, giảm nề tại chỗ, tăng cường dinh dưỡng kích thích làm mau liền xương

– Duy trì trương lực cơ, phục hồi sức cơ đùi và cẳng chân bên tổn thương

– Phục hồi tầm vận động khớp gối trở lại bình thường.

2.2.1. Giai đoạn 1: giai đoạn chưa được chống tỳ sức nặng lên chân tổn thương (thường kéo dài 3 tháng đầu)

+ Duy trì sức cơ, trương lực cơ đùi và cẳng chân bên tổn thương.

+ Bất động tương đối khớp gối nhưng duy trì tầm vận động các khớp lân cận.

+ Đặt chân (cổ chân và gối) cao hơn mức tim (20 – 30cm trên mặt giường).

+ Chườm lạnh bằng túi nước đá hoặc túi nước lạnh lên vùng khớp gối cách lớp băng gạc và lớp khăn lót dày 1cm thời gian 10 – 15 phút/lần, 3 – 5 lần/ngày.

+ Tập gấp duỗi khớp cổ chân chủ động hết tầm 10 lần tăng dần lên 20 lần cho mỗi lần tập, tập 2 lần/ngày.

+ Tập co cơ tĩnh (co cơ đẳng trường) cơ đùi và cơ cẳng chân 10 lần tăng dần lên 20 lần cho mỗi lần tập, tập 2 lần/ngày.

+ Nâng chân lên khỏi mặt giường ở tư thế gối duỗi giữ càng lâu càng tốt sau đó hạ xuồng nghỉ 5 phút rồi nâng tiếp 10 lần, tăng dần lên 20 lần cho mỗi lần tập, tập 2 lần/ngày.

+ Khi đau giảm, khuyến khích bệnh nhân chủ động gấp và duỗi gối (loại trọng lực chi) bên tổn thương với biên độ càng rộng càng tốt trong phạm vi có thể chịu đựng được.

+ Giảm nề, tăng cường tuần hoàn dinh dưỡng để kích thích liền sẹo và can xương.

+ Duy trì trương lực cơ, tăng cường sức cơ đùi và cẳng chân bên tổn thương.

+ Điều trị nhiệt nóng vào khớp gối tổn thương bằng bức xạ hồng ngoại hoặc túi nhiệt 20 phút/lần, 2 – 3 lần/ngày.

+ Điều trị từ trường vào khớp gối cường độ 0,8 – 1,5 mT, 20 phút/lần, 2 lần/ngày để kích thích can xương.

+ Tiếp tục tập vận động khớp cổ chân, co cơ tĩnh và nâng chân khỏi mặt giường như trước.

+ Tập đi bằng nạng hoặc khung tập đi mà không tì sức nặng lên chân tổn thương.

+ Tập đi bằng nạng không tì lên chân tổn thương.

+ Tiếp tục điều trị nhiệt nóng và từ trường như trước.

+ Tiếp tục tập gấp duỗi khớp cổ chân, co cơ tĩnh và nâng chân lên khỏi mặt giường như trước.

+ Tập đi bằng nạng hoặc khung tập đi không tì lên chân tổn thương.

+ Chân tổn thương chịu sức nặng tăng dần lên 25% trọng lượng cơ thể.

+ Tiếp tục điều trị nhiệt nóng và từ trường như trước.

+ Tiếp tục tập gấp – duỗi khớp cổ chân, co cơ tĩnh và nâng chân lên khỏi mặt giường như trước.

+ Tập đi bằng nạng hoặc khung tập đi có tì chân tổn thương tăng dần sức nặng tới 25% trọng lượng cơ thể.

+ Tăng dần sức nặng lên chân tổn thương dần dần đạt tới 100% trong lượng cơ thể.

+ Tiếp tục điều trị nhiệt nóng và từ trường như trước.

+ Tiếp tục tập gấp – duỗi khớp cổ chân, co cơ tĩnh và nâng chân lên khỏi mặt giường như trước.

+ Tập đi bằng nạng hoặc khung tập đi có tì chân tổn thương tăng dần sức nặng để đạt tới 100% trọng lượng cơ thể vào cuối tháng thứ 6.

+ Tập hòa nhập gồm tự phục vụ và trở lại công việc.

+ Tập dáng đi bình thường, cân đối không nạng.

+ Tập lên xuống cầu thang và đi trên các địa hình phức tạp.

+ Tập tự phục vụ và trở lại công việc

+ Tập đi bộ nhanh hoặc chạy bộ nhẹ nhàng.

Mức độ đau được đánh giá theo thang điểm VAS. Dùng một thước chia các khoảng cách đều nhau từ 1 – 10 cho người lớn và các hình vẽ các vẻ mặt cho trẻ em. Hướng dẫn để bệnh nhân tự đánh giá có sự hỗ trợ của người đánh giá.

Hình 9: Thang điểm đánh giá mức độ đau VAS

Bảng 1: Đánh giá mức độ đau theo thang điểm VAS

Đo vòng chi so sánh với bên lành.

Sử dụng thước đo góc hai cành, đo và đánh giá kết quả theo phương pháp zero.

Lượng giá theo thang điểm Lysholm (Lysholm Knee Scale 1985), tổng 100 điểm, trong đó dáng đi 5 điểm, đau 25 điểm, chống đỡ xuống chân tổn thương 5 điểm, sưng nề 10 điểm, kẹt khớp 15 điểm, lên xuống cầu thang 10 điểm, tính ổn định của khớp 25 điểm, ngồi xổm 5 điểm:

hang điểm Lysholm (Lysholm Knee Scale 1985)

Nguồn: Hà Hoàng Kiệm (2023). Vật l‎ trị liệu và Phục hồi chức năng. Giáo trình dùng cho đại học. Bộ môn VLTL – PHCN HVQY. NXB QĐND.

CHIA SẺ BÀI VIẾT

Chấn Thương Khớp Gối: Phẫu Thuật Chức Năng Sau Vỡ Mâm Chày

Bài viết bởi Thạc sĩ, Bác sĩ Phạm Thị Hải Yến – Khoa phục hồi chức năng – Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City Sau khi bị vỡ mâm chày (vỡ xương bánh chè), tùy theo phương pháp điều trị bảo tồn hay phẫu thuật mà có các chương trình phục hồi chức năng phù hợp giúp bệnh nhân trở lại hoạt động bình thường.

1. Vỡ xương bánh chè là gì?

Xương bánh chè giữ chức năng chính trong hệ thống duỗi gối.Vỡ xương bánh chè dạng gãy kín hoặc gãy hở là loại gãy xương nội khớp trừ gãy cực dưới. Hay gặp trong chấn thương vùng gối do tai nạn giao thông, lao động hoặc sinh hoạt.

Có nhiều loại gãy khác nhau: Gãy ngang là dạng phổ biến nhất, gãy dọc, gãy nhiều mảnh, gãy hình sao.

Điều trị bảo tồn: Bó bột ống đùi cổ chân với gối gấp 5-10o, để bột 3 – 6 tuần khi gãy xương bánh chè dạng nứt rạn, không di lệch; người cao tuổi không còn đi đứng hoặc có bệnh nội khoa nặng kèm theo.

Điều trị phẫu thuật: Phần vỡ rời xa nhau quá 4mm, gãy vụn khi diện khớp của các mảnh gãy khấp khểnh hoặc có mảnh rời di lệch vào khớp gối.

Tùy theo phương pháp điều trị bảo tồn hay phẫu thuật mà có các chương trình PHCN phù hợp giúp bệnh nhân trở lại hoạt động bình thường.

2. Điều trị phục hồi chức năng 2.1 Nguyên tắc điều trị phục hồi chức năng

Điều trị phục hồi chức năng cho bệnh nhân vỡ xương bánh chè với nguyên tắc kết hợp vật lý trị liệu với các bài tập phục hồi chức năng nhằm tăng tầm vận động khớp gối, tăng sức mạnh cơ, giảm nguy cơ cứng dính khớp gối, giúp người bệnh trở lại các vận động sinh hoạt và chơi thể thao bình thường.

2.2 Điều trị phục hồi chức năng 2.2.1 Các phương thức điều trị vật lý

Hồng ngoại, Parafin: Tác dụng giãn cơ, tăng tuần hoàn, giảm đau, tạo thuận cho các bài tập.

Chườm lạnh: Giai đoạn sưng nóng và sau tập.

Tác dụng chống viêm, giảm phù nề, kích thích tái tạo tổ chức tổn thương

Tác dụng giãn cơ giảm đau, gia tăng tuần hoàn; ức chế dẫn truyền đau

Tác dụng chống viêm (viêm gân, viêm cân cơ, viêm bao hoạt dịch…), gia tăng tuần hoàn; thúc đẩy quá trình hàn gắn tổn thương (xương, dây chằng…), chống xơ dính, cốt hóa mô mềm…

2.2.2 Tập phục hồi chức năng

Mục tiêu:

Lấy lại tầm vận động khớp gối

Kiểm soát đau, phù nề

Kiểm soát có lực cơ tứ đầu đùi

PHCN với điều trị bảo tồn và sau mổ buộc vòng chỉ thép có bó bột tăng cường

Giai đoạn bất động khớp gối:

Tập co cơ tĩnh trong nẹp, bột: 10 giây/ lần, ít nhất 10 lần/ ngày, đặc biệt là cơ tứ đầu đùi.

Tập chủ động các khớp tự do: Háng, cổ chân.

Sau khi bột khô, cho bệnh nhân đứng dậy, tập đi với nạng, chịu trọng lượng một phần lên chân bệnh.

Giai đoạn sau bất động:

Di động xương bánh chè, xoa bóp chống kết dính xung quanh sẹo mổ, xương bánh chè và khớp gối.

Tăng tầm vận động khớp gối bằng kỹ thuật giữ nghỉ và kỹ thuật trợ giúp.

Tập duỗi khớp gối hoàn toàn

Tập gấp gối tăng dần, những ngày đầu tập vận động từ 0 đến 30o

Sau đó tập tăng dần để đạt được tầm vận động gấp 90o sau 6 tuần

Lấy lại tầm vận động khớp gối hoàn toàn sau 12 tuần

Trở lại các hoạt động bình thường sau 6 tháng

PHCN sau néo ép xương bánh chè hoặc các phẫu thuật khác không cần bó bột

Giai đoạn I: từ ngày 01 đến 14 ngày sau phẫu thuật:

Chườm lạnh khớp gối 20 phút cách nhau 2 giờ.

Tập duỗi khớp gối – co cơ tĩnh cơ tứ đầu đùi và toàn bộ chân phẫu thuật.

Tập vận động thụ động khớp gối từ 0 đến 30o trong những ngày đầu, tập tăng dần đến 2 tuần đạt gấp gối 90o.

Tập vận động khớp háng, cổ chân bên bệnh.

Băng chun ép cố định khớp gối, sử dụng nạng nách đến khi di chuyển. Chịu một phần trọng lượng lên chân phẫu thuật.

Giai đoạn II: từ 02 tuần đến 06 tuần sau phẫu thuật

Tập duỗi khớp gối tối đa.

Tập gấp khớp gối tăng dần cho đến hết tầm vận động đến tuần thứ 06.

Tiếp tục chịu trọng lượng lên chân phẫu thuật, bỏ nạng sau 04 tuần.

Tập gia tăng sức mạnh cơ tứ đầu đùi bằng chun, tạ, bao cát hoặc dụng cụ tập khớp gối chuyên dụng.

Tập xuống tấn, tập đạp xe đạp, tập bơi.

Bệnh nhân trở lại các hoạt động bình thường sau 06 tháng.

3. Theo dõi và tái khám

Lần đầu: Sau phẫu thuật 2 tuần.

Các lần tiếp theo cách 1 tháng, đến 6 tháng sau phẫu thuật.

Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec với hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế hiện đại cùng đội ngũ chuyên gia, bác sĩ nhiều năm kinh nghiệm trong khám điều trị bệnh, người bệnh hoàn toàn có thể yên tâm thăm khám và điều trị tại Bệnh viện.

Để được tư vấn trực tiếp, Quý Khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đăng ký trực tuyến TẠI ĐÂY.

Phục Hồi Chức Năng Xương Mâm Chày

Phục hồi chức năng – vật lý trị liệu sau gãy mâm chày: Xương mâm chày là một trong những phần xương quan trọng của đầu gối, có chức năng hỗ trợ sự đi lại, gập đầu gối giữ thăng bằng.

Mâm chày là một bề mặt sụn cấu tạo nên một phần khớp gối, khi người ta đứng và đi lồi cầu xương đùi đè lên mâm chày và trọng lượng cơ thể dồn lên mâm chày để xuống cẳng chân, như vậy mâm chày là phần xương chịu sức nặng của cơ thể.

1. Nguyên nhân gãy xương mâm chày:

Đa số khi bị gãy mâm chày chủ yếu là tai nạn giao thông, đặc biệt ở nước ta bệnh nhân bị tai nạn khi đi xe máy là chủ yếu.

Gãy mâm chày thường xảy ra ở va chạm trực tiếp khi đầu gối đập trực tiếp xuống đất, gãy gián tiếp do xe ngã đè lên mâm chày hoặc té ngã trong tư thế đầu gối bị vặn xoắn.

Ngoài ra còn các nguyên nhân như tai nạn trong sinh hoạt, tai nạn lao động, chân thương thể thao.

2. Phục hồi chức năng vận động của xương chày:

Bệnh nhân sau khi phẫu thuật bắt nẹp vít cố định mâm chày cần điều trị tập vật lý trị liệu sớm để lấy lại chức năng vận động của xương như lúc ban đầu.

Nếu không được tập vật lý trị liệu sớm sẽ để lại ảnh hưởng về chức năng vận động khớp gối như cứng khớp gối không lấy lại được tầm vận động và phải chịu dị tật suốt đời, teo cơ đầu đùi hoặc teo toàn bộ chân gãy dẫn đến liệt hoàn toàn.

Trường hợp không lấy lại được chức năng vận động khớp gối dễ bị thoái hóa khớp gối tuần hoàn máu không cung cấp đủ canxi và khoáng chất dễ gây hoại tử mâm chày.

Bệnh nhân có thể áp phương pháp tập vật lý trị liệu tại nhà sau gãy xương mâm chày như sau:

Từ 1 ngày đến 3 ngày: bệnh nhân tập thụ động tại giường, dạng khép chân, tập ngồi dậy xoa bóp vùng khớp gối, di động xương bánh chè, ngốc cổ chân, ngón chân cơ tứ đầu đùi, theo dõi khớp gối và bàn chân có bị sưng phù không…

Từ 3 ngày đến 7 ngày: bệnh nhân tự ngồi dậy xoa bóp cơ đùi, di động xương bánh chè, di động khớp gối, ngồi thả lỏng chân xuống nền giường và làm quen với nạn…

Từ 7 ngày đến 10 ngày: bệnh nhân đã về nhà cần tiếp tục tập vật lý trị liệu ở nhà để lấy lại chức năng khớp gối như lúc ban đầu, kỹ thuật viên điều trị tập xoa bóp cho tăng tuần hoàn máu và di động khớp, tập gập duỗi khớp gối và gập tối đa nếu bệnh nhân chịu được. tăng lực góc độ gập từ 10 độ tăng lên 30 độ.

Từ 10 ngày đến 15 ngày: bệnh nhân tập đứng và tập đi làm quen với nạn xoa bóp di động khớp gối, tập mạnh sức cơ tứ đầu đùi, xoa bóp các nhóm cơ mặt sau cẳng chân, tập ép tăng dần góc độ, bệnh nhân kết hợp ở nhà tự tập để phát triển nhanh giảm không co cứng cơ, cứng khớp giảm sưng phù nề vị gãy.

Từ 15 ngày đến 1 tháng: sau một tháng bệnh nhân đã gập từ 60 độ đến 90 độ. Kỹ thuật viên kết hợp cho bệnh nhân tập đi chịu lực chân gãy và tập đi cho máu lưu thông tăng sức chịu lực lên mâm chày và nhóm cơ tứ đầu đùi.

Từ 4 tuần đến 8 tuần: lúc này chân gãy đã phát triển tốt không còn bị sưng và phù, bệnh nhân có thể tập đi kết hợp đeo tạ chân để mạnh các nhóm cơ cẳng chân và cơ tứ đầu đùi, chịu trọng lực cơ thể xuống chân yêu, vận động khớp gối tối đa để lấy lại tầm vận động, bệnh nhân ngồi trên giường thả chân xuống gập duỗi tối đa vận động.

Sau 2 tháng bệnh nhân phát triển rất tốt gần lấy lại chức năng gập duỗi từ 90 độ lên 120 độ. Bệnh nhân kết hợp với kỹ thuật viên tập vật lý trị liệu để phát triển tốt hơn và rút ngắn thời gian phục hồi

Bệnh nhân tập ở nhà với mức độ vừa sức chịu đựng của cơ và xương gãy nếu trường hợp lúc tập mà bị đau thì nghỉ rồi tập tiếp tránh trường hợp tập mạnh quá rễ gây vỡ cơ và tổn thương vị trí gãy.

3. Theo dõi và thăm khám :

– Tình trạng ổ gãy: đau, sưng nề, di lệch, biến dạng… – Phản ứng của người bệnh trong quá trình tập luyện: thái độ hợp tác, sự tiến bộ… – Tình trạng chung toàn thân – Theo giỏi và tái khám sau 3 tháng, 6 tháng và 1 năm.

Mọi thông tin cần tư vấn về phương pháp phục hồi chức năng – tập vật lý trị liệu sau phẫu thuật gãy xương mâm chày vui lòng liên hệ với chúng tôi để được hướng dẫn:

PHÒNG TẬP VẬT LÝ TRỊ LIỆU ĐỨC ĐIỆP TẠI NHÀ TPHCM

Với đội ngũ y bác sĩ, kỹ thuật viên nhiều năm kinh nghiệm về vật lý trị liệu – phục hồi chức năng chúng tôi luôn đem sự tận tâm, nhiệt tình và hiệu quả nhất cho bệnh. ( Sức Khỏe Là Tài Sản Vô Giá) Mọi thông tin Tư Vấn – Thăm Khám vui lòng liên hệ: Nguyễn Đức Điệp. chuyên khám tập vật lý trị liệu. Website: chúng tôi

Phục Hồi Chức Năng Xương Mâm Chày – Cách Vật Lý Trị Liệu Sau Gãy Mâm Chày

Phục hồi chức năng – vật lý trị liệu sau gãy mâm chày: Xương mâm chày là một trong những phần xương quan trọng của đầu gối, có chức năng hỗ trợ sự đi lại, gập đầu gối giữ thăng bằng. 

Mâm chày là một bề mặt sụn cấu tạo nên một phần khớp gối, khi người ta đứng và đi lồi cầu xương đùi đè lên mâm chày và trọng lượng cơ thể dồn lên mâm chày để xuống cẳng chân, như vậy mâm chày là phần xương chịu sức nặng của cơ thể.

1. Nguyên nhân gãy xương mâm chày:

Đa số khi bị gãy mâm chày chủ yếu là tai nạn giao thông, đặc biệt ở nước ta bệnh nhân bị tai nạn khi đi xe máy là chủ yếu.

Gãy mâm chày thường xảy ra ở va chạm trực tiếp khi đầu gối đập trực tiếp xuống đất, gãy gián tiếp do xe ngã đè lên mâm chày hoặc té ngã trong tư thế đầu gối bị vặn xoắn.

Ngoài ra còn các nguyên nhân như tai nạn trong sinh hoạt, tai nạn lao động, chân thương thể thao.

2. Phục hồi chức năng vận động của xương chày:

Bệnh nhân sau khi phẫu thuật bắt nẹp vít cố định mâm chày cần điều trị tập vật lý trị liệu sớm để lấy lại chức năng vận động của xương như lúc ban đầu.

Nếu không được tập vật lý trị liệu sớm sẽ để lại ảnh hưởng về chức năng vận động khớp gối như cứng khớp gối không lấy lại được tầm vận động và phải chịu dị tật suốt đời, teo cơ đầu đùi hoặc teo toàn bộ chân gãy dẫn đến liệt hoàn toàn.

Trường hợp không lấy lại được chức năng vận động khớp gối dễ bị thoái hóa khớp gối tuần hoàn máu không cung cấp đủ canxi và khoáng chất dễ gây hoại tử mâm chày.

Bệnh nhân có thể áp phương pháp tập vật lý trị liệu tại nhà sau gãy xương mâm chày như sau:

Từ 1 ngày đến 3 ngày: bệnh nhân tập thụ động tại giường, dạng khép chân, tập ngồi dậy xoa bóp vùng khớp gối, di động xương bánh chè, ngốc cổ chân, ngón chân cơ tứ đầu đùi, theo dõi khớp gối và bàn chân có bị sưng phù không…

Từ 3 ngày đến 7 ngày: bệnh nhân tự ngồi dậy xoa bóp cơ đùi, di động xương bánh chè, di động khớp gối, ngồi thả lỏng chân xuống nền giường và làm quen với nạn…

Từ 7 ngày đến 10 ngày: bệnh nhân đã về nhà cần tiếp tục tập vật lý trị liệu ở nhà để lấy lại chức năng khớp gối như lúc ban đầu, kỹ thuật viên điều trị tập xoa bóp cho tăng tuần hoàn máu và di động khớp, tập gập duỗi khớp gối và gập tối đa nếu bệnh nhân chịu được. tăng lực góc độ gập từ 10 độ tăng lên 30 độ.

Từ 10 ngày đến 15 ngày: bệnh nhân tập đứng và tập đi làm quen với nạn xoa bóp di động khớp gối, tập mạnh sức cơ tứ đầu đùi, xoa bóp các nhóm cơ mặt sau cẳng chân, tập ép tăng dần góc độ, bệnh nhân kết hợp ở nhà tự tập để phát triển nhanh giảm không co cứng cơ, cứng khớp giảm sưng phù nề vị gãy.

Từ 15 ngày đến 1 tháng: sau một tháng bệnh nhân đã gập từ 60 độ đến 90 độ. Kỹ thuật viên kết hợp cho bệnh nhân tập đi chịu lực chân gãy và tập đi cho máu lưu thông tăng sức chịu lực lên mâm chày và nhóm cơ tứ đầu đùi.

Từ 4 tuần đến 8 tuần: lúc này chân gãy đã phát triển tốt không còn bị sưng và phù, bệnh nhân có thể tập đi kết hợp đeo tạ chân để mạnh các nhóm cơ cẳng chân và cơ tứ đầu đùi, chịu trọng lực cơ thể xuống chân yêu, vận động khớp gối tối đa để lấy lại tầm vận động, bệnh nhân ngồi trên giường thả chân xuống gập duỗi tối đa vận động.

Sau 2 tháng bệnh nhân phát triển rất tốt gần lấy lại chức năng gập duỗi từ 90 độ lên 120 độ. Bệnh nhân kết hợp với kỹ thuật viên tập vật lý trị liệu để phát triển tốt hơn và rút ngắn thời gian phục hồi

Bệnh nhân tập ở nhà với mức độ vừa sức chịu đựng của cơ và xương gãy nếu trường hợp lúc tập mà bị đau thì nghỉ rồi tập tiếp tránh trường hợp tập mạnh quá rễ gây vỡ cơ và tổn thương vị trí gãy.

3. Theo dõi và thăm khám :

– Tình trạng ổ gãy: đau, sưng nề, di lệch, biến dạng… – Phản ứng của người bệnh trong quá trình tập luyện: thái độ hợp tác, sự tiến bộ… – Tình trạng chung toàn thân – Theo giỏi và tái khám sau 3 tháng, 6 tháng và 1 năm.

Mọi thông tin cần tư vấn về phương pháp phục hồi chức năng – tập vật lý trị liệu sau phẫu thuật gãy xương mâm chày vui lòng liên hệ với chúng tôi để được hướng dẫn:

PHÒNG TẬP VẬT LÝ TRỊ LIỆU ĐỨC ĐIỆP TẠI NHÀ TPHCM

Với đội ngũ y bác sĩ, kỹ thuật viên nhiều năm kinh nghiệm về vật lý trị liệu – phục hồi chức năng chúng tôi luôn đem sự tận tâm, nhiệt tình và hiệu quả nhất cho bệnh.

( Sức Khỏe Là Tài Sản Vô Giá)

Mọi thông tin Tư Vấn – Thăm Khám vui lòng liên hệ:

Nguyễn Đức Điệp. chuyên khám tập vật lý trị liệu.

☎ : 0906.574.998 – 0987.473.296

Website: www.tapvatlytrilieutainha.vn

Sau Phẫu Thuật Vỡ Mâm Chày Đầu Gối Bao Lâu Có Thể Tập Vật Lí Trị Liệu?

Chồng cháu bị vỡ mâm chè, hỏng sụn, đứt dây chằng chéo trước và chéo sau, dập dây thần kinh ở chân. Cháu muốn hỏi thời gian bao lâu thì có thể tập vật lý trị liệu được?

Thưa BS,

Chồng của cháu bị xe tải tông gãy chân (7/4/2014) BV chẩn đoán là vỡ mâm chè, hỏng sụn, đứt dây chằng chéo trước và chéo sau, dập dây thần kinh ở chân. BS đã phẫu thuật được 3 tuần làm sụn và mâm chày; đóng đinh và bắt vít ở chân; nối dây chằng chéo trước.

Hiện tại, các vết bầm tím cứng ở chân vẫn đau (sau khi ngã xuất hiện nhiều chỗ tím bầm lên và rất cứng). Cháu muốn hỏi thời gian bao lâu thì có thể tập vật lý trị liệu được? BS nói là nếu tập được vật lý trị liệu thì không cần phẫu thuật dây chằng chéo sau. Mong BS tư vấn cụ thể giúp cháu.

Hiện chồng cháu nằm 1 chỗ chỉ điều khiển ngón chân đi xuống được, đi lên thì 4 ngón động đậy trừ ngón cái (không cong lên như ngón chân trái được). Anh ấy đã có thể chống nạng đi được.

(Nguyễn Thu – Hà Nội)

Chào bạn Thu,

Theo như bạn trình bày thì đây là một chấn thương khá nặng ở vùng gối: Vỡ mâm chày phạm khớp, tổn thương sụn, tổn thương thần kinh và dây chằng chéo.

Đầu tiên các bác sĩ sẽ tập trung giải quyết vỡ mâm chày và thương tổn thần kinh (thần kinh hông khoeo ngoài) giúp phục hồi xương và mặt khớp của mâm chày.

Nếu tổn thương dây chằng dưới dạng bung (bật) nơi bám của của dây chằng chéo trước hay chéo sau thì sẽ được đính lại nơi bám của dây chằng phối hợp trong lúc mổ kết hợp xương mâm chày. Nếu tổn thương dây chằng dưới dạng giãn hoặc đứt thì các bác sĩ sẽ xử trí sau khi xương ổn định, lúc đó bệnh nhân sẽ được chụp MRI và khám lâm sàng khớp gối để đánh giá các Test lỏng khớp gối và có hướng xử trí tái tạo dây chằng sau đó.

Tùy theo thương tổn giải phẫu bệnh của vỡ mâm chày mà các bác sĩ sẽ cho bệnh nhân tì nén sau 6 hoặc 8 tuần, nhưng thông thường phải sau 8 tuần bệnh nhân mới có thể tì nhẹ chân đau để tránh lún mâm chày thứ phát.

Vật lý trị liệu là cần thiết cho chồng bạn ngay sau khi phẫu thuật, sẽ có các bài tập cho từng giai đoạn mà các bác sĩ sẽ khám và tư vấn rõ hơn.

Thân mến,

Theo TTƯT.TS.BS Nguyễn Đình PhúPhó giám đốc BV Nhân dân 115

Chữa Viêm Xương, Rò Xương Bệnh Nhân Mổ Vỡ Mâm Chày Khớp Gối 4 Lần

Chữa viêm xương, rò xương bệnh nhân mổ vỡ mâm chày khớp gối 4 lần

Gãy xương mâm chày( gãy mâm chày vùng đầu gối) xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ yếu như có lực tác động đột ngột vào vùng mâm chày đầu gối do tai nạn, chấn thương trong sinh hoạt hoặc thể thao. Thông thường gãy mâm chày thường chiếm tỷ lệ 5-7% của gãy xương cẳng chân nói chung.

Bệnh nhân được chỉ định điều trị bảo tồn trong trường hợp gãy không di lệch, gãy mâm chày ngoài di lệch ít <5mm. Các phương pháp điều trị bảo tồn gãy mâm chày gồm cố định bằng bó bột, kéo liên tục và vận động sớm, bó bột chức năng. Chỉ định phẫu thuật trong trường hợp gãy hở có biến chứng chèn ép khoang, có tổn thương mạch máu hoặc gãy mâm chày ngoài làm mất vững khớp gối, gãy mâm chày trong có di lệch, gãy 2 mâm chày di lệch.

Trường hợp bệnh nhân Bùi Đăng Mùa – 59 tuổi, Ngô Thì Nhậm, Hà Đông, Hà Nội bị gãy mâm chày, bệnh nhân có chỉ định mổ đóng đinh nẹp vít nhưng do cơ địa bệnh nhân dị ứng với đinh nẹp vít dẫn đến viêm cơ sau đó xâm lấn sang viêm xương.

Bệnh nhân Bùi Đăng Mùa Hà Đông, Hà Nội viêm xương, rò xương sau mổ vỡ mâm chày

Lương y Nguyễn Thế Qúy phân tích ngay từ đầu cơ thể bệnh nhân đã không tiếp nhận với đinh nẹp vít chính vì vậy mà sau khi thực hiện nhiều phẫu thuật cơ thể bệnh nhân vẫn đào thải không tiếp nhận dẫn đến tình trạng viêm xương càng nặng, rò xương. Rò xương là tình trạng viêm xương mạn tính, hình thành lên ổ áp se và chảy mủ, chảy dịch liên tục. Bệnh rò xương là một bệnh khá phức tạp và lan giải, bệnh nhân cần được thăm khám và điều trị kịp thời.

Bệnh nhân tìm về nhà thuốc trong tình trạng viêm xương phức tạp, nên việc điều trị đã trở nên khó khăn hơn rất nhiều.

Viêm xương là hậu quả của sự nhiễm trùng mô mềm xung quanh xâm nhập vào xương, có tính khu trú tại chỗ. Thường gặp sau gãy xương hở, sau phẫu thuật trên xương, hoặc các thủ thuật trên xương. Nguy cơ nhiễm trùng tăng lên do vết thương giập nát, hoại tử. máu tụ. Hoặc có các dị vật ngoại lai, di vật của cơ thể hoặc dụng cụ y khoa, sức đề kháng của cơ thể yếu. Độc lực vi khuẩn mạnh.

Phân loại viêm xương

Viêm xương chấn thương phân loại theo thời gian cấp tính: trước 2 tháng, mãn tính sau 2 tháng.

Theo giải phẫu bệnh có 3 độ:

Độ 1 nhiễm trùng mô mềm, chưa đến xương

Độ 2 nhiễm trùng xương, xương hoại tử

Độ 3 nhiễm trùng và mất xương

Viêm xương chấn thương các thể lâm sàng: Nhiễm trùng ổ gãy cấp tính, viêm dò mủ ỗ gãy không có xương chết. Dò mủ mãn tính có xương chết- xương tù. Viêm loét màng xương, loét sẹo xấu, ung thư hóa.

Bệnh nhân được chỉ định điều trị ngoại khoa cắt lọc hết mô hoại tử, xương chết. Lấy bỏ hết các dị vật tưới rửa liên tục mỗi ngày nếu nhiều mủ. Cắt lọc lại nếu diễn tiến không khá hơn, bất động vững chắc ổ gãy. Dùng kháng sinh theo KSĐ, liều cao, kéo dài. Không khâu kín vết thương, nhưng không để lộ xương.

Bệnh nhân tiếp tục mổ cắt lọc mô hoại tử sau đó mổ thay khớp gối nhân tạo song cơ thể vẫn không tiếp nhận tình trạng viêm xương, rò xương vẫn diễn ra.

Lương y Nguyễn Thế Qúy cho biết đối với những trường hợp bệnh nhân gãy xương mâm chày như bệnh nhân Bùi Đăng Mùa ngay từ đầu điều trị tại nhà thuốc bằng phương pháp bó lá chỉ sau 1 tháng xương liền có thể tập phục hồi chức năng vận động. Lương y khuyên bệnh nhân có cơ địa không tiếp nhận với những dụng cụ được đưa từ bên ngoài vào cơ thể hay những bệnh nhân mắc các bệnh nội tiết như tiểu đường nên lựa chọn một phương pháp điều trị bảo tồn phù hợp cho an toàn, tránh những biến chứng đáng tiếc có thể xảy ra.

Việc xử trí ban đầu đối với các chấn thương gãy xương, chấn thương gãy xương chày là vô cùng quan trọng bởi khi lựa chọn phương pháp điều trị không phù hợp thì bệnh nhân có thể gặp phải những biến chứng đang tiếc như viêm xương, rò xương. Việc điều trị lúc này trở nên khó khăn, điều trị bằng Tây y không đạt hiệu quả nữa người bệnh nên tham khảo điều trị bằng Đông y mang lại hiệu quả điều trị cao hơn.

Cập nhật thông tin chi tiết về Phục Hồi Chức Năng Khớp Gối Sau Phẫu Thuật Kết Xương Vỡ Mâm Chày trên website Apim.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!