Bạn đang xem bài viết Phần 1 Giáo Huấn Của Kinh Thánh được cập nhật mới nhất trên website Apim.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
KINH THÁNH TUYÊN BỐ là sự mặc khải đặc biệt từ Đức Chúa Trời, chính là Lời của Đức Chúa Trời. Nhưng các nhóm tôn giáo khác cũng tuyên bố rằng các bản văn của họ được tiết lộ bởi Đức Chúa Trời. Chẳng hạn, người Hồi giáo tin rằng sách Kinh Koran được soi dẫn từ vị thần của họ; họ nói rằng thiên sứ trưởng Gáp-ri-ên đã tiết lộ điều đó cho Mô-ha-mét. Người Mormon tin rằng Joseph Smith đã nhận được một sự mặc khải trực tiếp từ Đức Chúa Trời được khắc trên những tấm bảng vàng, sau đó ông đã biên dịch và xuất bản chúng với tên gọi là Sách Mormon. Các tôn giáo khác cũng có những tác phẩm mà họ xem là thánh. Những tín đồ của họ xem những tác phẩm này truyền đạt những chân lý về những điều cơ bản.
Bởi vì những tác phẩm khác nhau này có những thông điệp khác nhau, nên tất cả chúng không thể đến từ Đức Chúa Trời là Đấng không thể nói dối. Vậy thì làm sao chúng ta có thể biết được “sách kinh” nào trên thực tế là tiếng nói của Đức Chúa Trời? Tất nhiên, chúng ta không thể để một số người có thẩm quyền cao hơn nói với chúng ta rằng “Đây là tiếng nói của Đức Chúa Trời” hoặc “Đây không phải”. Nếu có ai đưa ra quyết định như vậy, người đó phải là người có thẩm quyền trên Đức Chúa Trời. Nhưng điều này là không thể nếu chúng ta chấp nhận định nghĩa chung về Đức Chúa Trời là Đấng Tối cao.
Khi xem xét những lời dạy trọng tâm của Kinh Thánh, chúng ta thấy rằng phạm vi và uy quyền của chúng vượt xa tất cả các tác phẩm khác của con người. Tất cả những lời hay nhất của các bậc thầy, đơn giản là không thể so sánh với những giáo huấn trong Kinh Thánh. Như F. W. Farrar đã viết, “Những vấn đề nào mà cuốn sách này chưa được khám phá? Độ sâu nào mà chưa được thăm dò? Độ cao nào mà chưa được xác định? Lời an ủi nào mà chưa được nói ra? Lương tâm nào mà chưa bị khiển trách? Tấm lòng nào mà chưa được chạm đến?”1
Chúng ta tìm kiếm một chân lý trong thế gian; để chọn lấy
Cái tốt đẹp, cái trong sáng, cái đẹp đẽ
Từ bảng đá khắc chữ và cuộn giấy viết
Từ tất cả những cánh đồng hoa cằn cỗi của tâm hồn;
Và, khi những người tìm kiếm điều tốt nhất đang mòn mỏi
Chúng ta quay lại với đầy những câu hỏi,
Để tìm thấy nơi tất cả các nhà hiền triết đã nói
Có phải tất cả được tìm thấy trong Quyển Sách mà những bà mẹ chúng ta đã đọc.2
KHÁI NIỆM VỀ ĐỨC CHÚA TRỜI
Từ đầu đến cuối, Kinh Thánh tập trung vào Đức Chúa Trời. Quan điểm này của Đa-vít được ghi trong 1 Sử-ký 29:11, “Hỡi Đức Giê-hô-va sự cao cả, quyền năng, vinh quang, toàn thắng, và oai nghi đáng qui về Ngài; vì muôn vật trên các từng trời và dưới đất đều thuộc về Ngài. Đức Giê-hô-va ôi! nước thuộc về Ngài; Ngài được tôn cao làm Chúa tể của muôn vật.” Ngài là Đức Chúa Trời quyền năng, Đấng cai trị vũ trụ, hướng mọi vật đến mục đích cuối cùng của chúng vì sự vinh hiển của Ngài.
Ngoài ra, Đức Chúa Trời là Đấng hoàn toàn thánh khiết, và sự thánh khiết của Ngài đã tôn cao Ngài lên xa khỏi con người tội lỗi. Sau khi hình dung về Đức Chúa Trời trong sự thánh khiết đáng kinh ngạc, Ê-sai đáp: “Khốn nạn cho tôi! Xong đời tôi rồi!” (Ê-sai 6:5). Cùng với tội lỗi, chúng ta không thể tồn tại trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, cùng với sự thánh khiết của Ngài, Ngài có lòng nhân từ, tình yêu thương và lòng thương xót vô hạn. “Đức Giê-hô-va làm lành cho muôn người,” Đa-vít tuyên bố, “sự từ bi Ngài giáng trên các vật Ngài làm nên” (Thi. 145:9). Trong sự thánh khiết, yêu thương và công bình, Đức Chúa Trời đã vạch ra một kế hoạch cứu rỗi cho những con người tội lỗi chúng ta.
Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh, đặc biệt là trong sự thánh khiết của Ngài, trái ngược với con người tội lỗi là lẽ tự nhiên; do đó Ngài không phải là một phát minh của con người, như nhiều người đã khẳng định. Nhà biện giáo Cơ đốc Cohn Chapman đã nói, “Điều khó chịu về Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh là Ngài thường xuyên cắt ngang những ước muốn và khao khát cá nhân của chúng ta. Ngài không cho phép chúng ta ích kỷ và luôn đối đầu với chúng ta bằng một tiêu chuẩn cao không thể thỏa hiệp. Đây không phải là kiểu Đức Chúa Trời mà con người làm ra khi con người đặt mục tiêu làm ra một vị thần theo ảnh tượng của chính mình.”3
Bản chất của Đức Chúa Trời là mầu nhiệm mà không một con người nào có thể hiểu hết được. Trong suốt lịch sử, con người đã tin vào nhiều vị thần (đa thần) hoặc một vị thần Nhất thể duy nhất. Chỉ riêng Kinh Thánh trình bày về Đức Chúa Trời duy nhất, đồng thời cũng là một Đức Chúa Trời Ba ngôi — Cha, Con và Thánh Linh. Khái niệm Ba Ngôi này về Đức Chúa Trời không mâu thuẫn với lý trí của con người, như một số người suy nghĩ. Ba Ngôi không có nghĩa là có ba Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời là một Đấng Thánh tồn tại đời đời trong ba thân vị. Mặc dù không phải là một sự trái ngược phi lý, nhưng khái niệm về Đức Chúa Trời Ba Ngôi Hiệp Một không hoàn toàn dễ hiểu đối với tâm trí con người, cũng như không được tìm thấy trong bất kỳ tôn giáo nào khác. Tất cả những điều này lập luận rằng Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh không phải là một sự trình bày, diễn đạt từ con người mà là một sự mặc khải thiên thượng.
Hơn nữa, về bản chất ba ngôi, Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh trả lời cho sự tìm kiếm của con người về sự hiểu biết Đức Chúa Trời và mối quan hệ với Ngài sâu sắc hơn bất kỳ tôn giáo nào khác. Niềm tin vào một vị thần tối cao được tìm thấy trong nhiều tôn giáo, thậm chí một số tôn giáo có nhiều vị thần thấp hơn. Nhưng các vị thần trong các hệ thống tín ngưỡng đó siêu phàm và xa vời đến mức không thể biết được. Giống như một trong những vị thần của người A-thên vào thời của sứ đồ Phao-lô là một “thần không biết” (Công vụ 17:23). Người Hindu, khi mô tả bản chất của một vị thần, đã sử dụng những cách diễn đạt như “Bóng tối thánh” hoặc “Đấng mà không ai có thể nói lên được.”4 Đối với người theo đạo Phật, bất cứ thực tại nào cũng không thể được định nghĩa hoặc mô tả. Họ nói rằng chúng tôi chỉ có thể giữ một “sự im lặng kính phục” khi đối mặt với những điều không thể biết được.5 Tương tự như vậy, các tôn giáo Phi châu cổ xưa chỉ nói về một “chủ thể không biết”6. Sự nhấn mạnh của Hồi giáo về quyền năng siêu đẳng nơi thần của họ là thánh Allah. Họ cũng xem Allah như là một vị thần trong tự nhiên thần giáo, về cơ bản nằm ngoài tầm hiểu biết với ít sự liên kết với con người và không có đặc tính tình yêu thương!7
Đức Chúa Trời duy nhất trong Kinh Thánh đáp ứng nhu cầu của chúng ta không chỉ về sự mặc khải mà còn cả về sự cứu chuộc. Nhà cải chánh vĩ đại Martin Luther đã nói rất đúng, “Không có cách nào khác hơn là thông qua một thân vị đời đời, chúng ta có thể được cứu khỏi sự sa ngã khủng khiếp của tội lỗi và sự chết đời đời; chỉ một thân vị như vậy mới có thể có quyền trên tội lỗi và sự chết, để bôi xóa tội lỗi của chúng ta và thay vào đó ban cho chúng ta sự công bình và sự sống đời đời; không một thiên sứ hay tạo vật nào có thể làm điều này, nhưng phải do chính Đức Chúa Trời làm.” Chỉ có Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh mới ban sự cứu chuộc và đó chính là Đức Chúa Trời mà chúng ta phải thờ phượng.
Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh, là Cha, Con và Thánh Linh, cũng là lời giải thích duy nhất về một Đức Chúa Trời yêu thương đời đời. Một Đức Chúa Trời duy nhất không thể bày tỏ tình yêu thương trong mối quan hệ cá nhân nếu không tạo ra một đối tượng cho tình yêu thương của Ngài. Chỉ khi có những mối quan hệ cá nhân với chính Đức Chúa Trời thì Ngài mới có thể là Đức Chúa Trời – Ngài là “tình yêu thương” với bản chất từ muôn thuở. Chỉ khi Đức Chúa Trời có sự liên kết trong bản thể của Ngài thì Ngài mới có thể cung cấp một mô hình cho sự hiệp nhất trong mối liên hệ giữa chúng ta với nhau (xem Giăng 17:21-22).
Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh cũng đáp ứng nhu cầu về một Đấng siêu việt — tể trị trên tạo vật và lịch sử như là một Đấng có toàn quyền — và về một Đấng đang hiện diện với chúng ta. Con người luôn có xu hướng đánh mất Đức Chúa Trời bởi một trong hai tà thuyết. Thứ nhất,, Ngài có thể bị lạc trong một sự trừu tượng đến nỗi Ngài hầu như không thể được biết đến, điều này đúng trong nhiều tôn giáo của con người. Thứ hai, Ngài có thể được coi là nội tại bên trong sự sáng tạo đến mức về cơ bản Ngài bị lu mờ bởi chính các tiến trình của tự nhiên và lịch sử, như trong thuyết phiếm thần và thần học tiến trình (process theology). Chỉ có Đức Chúa Trời Ba Ngôi bước vào lịch sử để bày tỏ chính Ngài, đồng thời vẫn ở bên ngoài lịch sử với tư cách là một Đức Chúa Trời siêu việt.9
Bởi vì Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh nằm ngoài lý trí của con người, do đó Ngài không thể là sản phẩm từ sự sáng chế của con người. Như một người đã cảnh báo cách đây nhiều năm, “khi một người phủ nhận giáo lý cơ bản của Cơ đốc giáo (Đức Chúa Trời Ba Ngôi), người đó có thể đánh mất linh hồn của mình, nhưng khi cố gắng để hiểu thấu đáo giáo lý này, người đó có thể sẽ mất trí khôn.”10 Là những người tin Chúa, chúng ta vui mừng được thờ phượng Đức Chúa Trời là Đấng tối cao, vĩ đại và bản chất của Ngài chúng ta không thể hiểu hết được bằng trí óc hữu hạn của mình. Vì chính trong bản chất ba ngôi của Ngài, Ngài làm thỏa mãn ước muốn sâu xa nhất trong lòng chúng ta vì một mối quan hệ với Ngài là Đức Chúa Trời ở trên chúng ta, vì chúng ta và ở trong chúng ta.
KHÁI NIỆM VỀ ĐẤNG CHRIST
Trong tất cả các tác phẩm thánh của các tôn giáo khác, không có người nào giống như Chúa Giê-su Christ. Được sinh ra bởi một nữ đồng trinh trong một nơi thấp hèn, Ngài là Con của Đức Chúa Trời. Ngài là Đấng tạo dựng muôn vật, nhưng Ngài đã chết trên cây thập tự bởi tay của con người. J.N.D Anderson tóm tắt vị trí độc nhất của Đấng Christ trong vòng tất cả các tôn giáo. “Các tôn giáo khác, thực sự, có thể bao gồm cả việc tin rằng Đức Chúa Trời, hoặc một trong các vị thần, hiện thân một lần hoặc nhiều lần, trong hình dạng con người, hoặc trong một số ‘vật chất nào đó – ánh sáng thánh’ đã truyền từ một cá nhân này sang một người kế thừa thuộc thế hệ khác. Nhưng chỉ riêng Cơ đốc giáo dám tuyên bố rằng ‘Đấng duy nhất, toàn tại, toàn tri, là căn nguyên của mọi sự tồn tại’ đã can thiệp cách độc nhất vào sự sáng tạo của mình, không phải bằng cách giả định hình dạng đơn thuần hay vẻ ngoài của một con người, mà bằng cách thực sự trở thành Con Người trong hình dạng bằng xương bằng thịt; không phải bằng cách sống và giảng dạy đơn thuần, nhưng bằng cách thực sự chết như một người phạm tội trọng ‘cho loài người chúng ta và cho sự cứu rỗi của chúng ta’ và đã đóng ấn cho lẽ thật này bằng cách sống lại từ cõi chết.”
Đấng Christ là duy nhất về nguồn gốc và về bản chất Con Người và sự sống của Ngài. Ngài đã bước đi trên đất trong những hình thái bình thường của một con người. Tuy nhiên, Ngài không phạm tội (Giăng 8:46). Ngài không bao giờ phải xin lỗi khi cầu xin sự tha thứ cho bất cứ điều gì Ngài đã làm. Những người đương thời đã kinh ngạc trước sự dạy dỗ của Ngài. “Chẳng hề có người nào đã nói như người nầy!” (Giăng 7:46). “Vì Ngài dạy như là có quyền, chớ không giống các thầy thông giáo” (Ma-thi-ơ 7:29). Ngài không bao giờ xin lời khuyên hay sự cho phép của con ngưởi. Những phép lạ Ngài làm cũng chỉ ra sự độc nhất vô nhị. “Người nầy là ai, mà gió và biển đều vâng lịnh người?” (Ma-thi-ơ 8:27). “Người ta chẳng bao giờ nghe nói có ai mở mắt kẻ mù từ thuở sanh ra” (Giăng 9:32).
Các nhà lãnh đạo tôn giáo khác tuyên bố dạy về cách sống mà họ tìm thấy. Nhưng Đấng Christ tuyên bố Ngài là con đường, là sự sống (Giăng 14:6). Người Hồi giáo giải thích rằng Mô-ha-mét là một tiên tri truyền đạt sự mặc khải của Allah; ông không phải là nền tảng cho đức tin của họ. Đức Phật cũng đã không kêu gọi mọi người đến với ông. Khi ông chết, những môn đệ đã hỏi làm thế nào để họ có thể nhớ đến ông. Câu trả lời của ông là “có nhớ đến tôi hay không thì không quan trọng. Điều cốt yếu là nằm ở lời dạy của tôi.” Nhưng không lâu trước khi Chúa Giê-su qua đời, khi thiết lập Tiệc thánh, Ngài đã truyền lệnh cho các môn đồ, “Hãy làm điều này để nhớ đến Ta” (Lu-ca 22:19).
Tuy nhiên, trong tất cả sự hoàn hảo về đạo đức, sự dạy dỗ có thẩm quyền và việc thi hành phép lạ của Chúa Giê-su, Ngài chưa bao giờ tỏ ra kiêu hãnh hay tỏ thái độ xa cách với mọi người. John Stott nói rằng có một sự nghịch lý ở Đấng Christ mà không thể giải thích theo cách tự nhiên được. “Không hề có một chút gì về sự tự cho mình là quan trọng. Ngài rất khiêm nhường. Chính nghịch lý này đã khiến mọi người bối rối. Ngài kết hợp trong chính Ngài lòng tự trọng cao nhất và sự hy sinh lớn nhất. Ngài biết chính Ngài là Chúa của tất cả mọi người, nhưng Ngài tự nguyện trở thành tôi tớ cho tất cả mọi người. Ngài nói rằng Ngài sẽ phán xét thế gian, nhưng Ngài đã rửa chân cho các môn đồ của mình.”
Có phải các trước giả Phúc âm đã dựng nên một bức chân dung của một người như vậy, hay họ đang tường thuật lại những gì họ đã thấy, sự mặc khải độc nhất của Đức Chúa Trời? Bức chân dung rất hạn chế về Ngài được các trước giả Kinh Thánh làm chứng cho những người sau này. Việc đọc truyện thần thoại của các dân tộc khác nhau cho thấy xu hướng của con người muốn tô điểm sự thật bằng trí tưởng tượng bay bổng. Ngay cả những tác phẩm bên ngoài Kinh Thánh nói về Chúa Giê-su, kể về thời niên thiếu của Ngài, miêu tả Ngài như một thần đồng thời thơ ấu hướng dẫn các thầy của Ngài những bí ẩn trong bảng chữ cái và làm kinh ngạc gia đình và bạn cùng lứa bằng những việc làm siêu phàm. Theo những sách thứ kinh này, vào một dịp nọ khi mới 5 tuổi, Chúa Giê-su được cho là đã tạo hình mười hai con chim sẻ bằng đất sét vào ngày Sa-bát. Khi Giô-sép hỏi về việc làm như vậy trong ngày thánh, Chúa Giê-su đã vỗ tay và chim sẻ bay đi hót líu lo.
Ngược lại, Kinh Thánh miêu tả những phép lạ của Đấng Christ với sự rõ ràng, đơn giản. Mục đích của chúng không phải để mua vui cho khán giả hoặc giải trí cho những người hiếu kỳ, nhưng để chứng tỏ sự vinh hiển của Cha phù hợp với mục tiêu của cuộc đời Ngài. Leon Morris chỉ ra một thực tế đáng kinh ngạc là không ai trong số những người viết các sách Phúc âm tường thuật về Chúa Giê-su mà đã từng tôn vinh Ngài. Họ thỉnh thoảng tường thuật Ngài được nhiều người ca ngợi, nhưng bản thân họ không khen ngợi Ngài một lời nào. Điều này thật khó giải thích nếu những lời kể của họ là những câu chuyện phóng đại nhằm làm cho Chúa Giê-su trở thành một điều gì đó khác hơn một con người. Một số người cho rằng các trước giả Kinh Thánh đã tôn thờ Đấng Christ giống như Đức Phật được các đệ tử của ông tôn thờ! Nhưng phải đến nhiều thế kỷ sau khi Đức Phật mất, ông mới được coi là một vị thánh và chỉ trong một phạm vi giới hạn. Nhưng bức chân dung về Chúa Giê-su trong Thánh Kinh là Con của Đức Chúa Trời được viết trong khi những người biết Ngài vẫn còn sống trong suốt thời gian Ngài còn trên đất.
Tất cả các bằng chứng đều chỉ ra một thực tế là các trước giả Phúc Âm đã cho chúng ta một lời tường thuật khách quan về con người độc nhất này ở giữa vòng họ đang sống. Họ làm như vậy vì họ muốn người khác tin vào sự trung thực của các sách phúc âm. Hơn nữa, Con Người (Christ) mà họ mô tả là quá siêu việt đến mức khiến người ta không nghĩ rằng Ngài có thể được sáng tạo ra từ các tác giả bình thường, đặc biệt là những ngư dân vùng Ga-li-lê. Ngay cả Jean-Jacques Rousseau (1712-1778), nhà triết học đã mở đường cho chủ nghĩa tự do nhân văn, cũng thừa nhận nguồn gốc siêu nhiên của phúc âm. Ông nói “Phúc âm bày tỏ một lẽ thật quá vĩ đại, nổi bật, và hoàn hảo không thể bắt chước và người phát minh ra nó còn đáng thán phục hơn một anh hùng.” Nếu các trước giả Phúc âm nghĩ ra câu chuyện hư cấu, thì chúng ta phải thừa nhận lời của Robert Dabney nói rằng “những kẻ nói dối này đã tạo ra một hình mẫu về lẽ thật cao quý nhất và đẹp nhất từng thấy ở loài người. Hơn nữa, họ đã sử dụng tất cả nghệ thuật kỳ diệu để tạo nên một bức chân dung tưởng tượng mà kết quả là lên án sự giả dối của chính họ.”
Có lẽ hầu hết tất cả hình ảnh Đấng Christ được các trước giả Kinh Thánh miêu tả đều khó chịu đối với con người mang bản chất tội lỗi, đến nỗi không thể tin rằng người ta có thể hoặc sẽ bịa ra một ý tưởng về một Đấng như vậy. H.G. Wells, mặc dù không phải là một Cơ đốc nhân chính thống, nói rằng Chúa Giê-su “giống như một thợ săn đạo đức đang đào bới nhân loại ra khỏi những cái hang ẩn náu mà họ đã sống cho đến nay …. Có lạ gì khi con người bị lóa mắt và mù lòa đã phản đối chống lại Ngài? … Chúng ta sẽ ngạc nhiên biết bao khi có thể hiểu biết hết về người đàn ông Ga-li-lê này!”
BẢN GHI CHÉP TRONG KINH THÁNH VỀ CON NGƯỜI
Ai sẽ vẽ một bức tranh về những người như chúng ta tìm thấy trong Kinh thánh? Xu hướng của con người là đề cao bản thân hơn những gì họ thực sự là, hoặc hạ thấp bản thân mình xuống dưới bản chất thực sự của họ. Học giả người Hà Lan Desiderius Erasmus (1466-1536) hỏi, “Con người đối với con người hoặc là thần linh hoặc là sói dữ?”
Một mặt, các triết học và thần học của con người thường đưa con người lên cấp độ thần thánh. Nhà triết học Hy Lạp Heraclitus (khoảng năm 540-480 trước Công nguyên) tuyên bố, “Các vị thần là những người bất tử, và loài người là những vị thần phàm trần.” Rất lâu sau đó, nhà triết học người Đức Georg Hegel (1770-1831) đã nói về “thần tính tiềm ẩn” của tất cả mọi người, và các nhà thần học nói về tia lửa thần thánh trong những người cần được thổi bùng lên thành ngọn lửa.
Mặt khác, với ảnh hưởng gần đây của quá trình tiến hóa tự nhiên, các nhà triết học coi con người là quý tộc của động vật. Theo một số nhà tiến hóa, chúng ta chỉ là những sinh vật phức tạp mà hành động của chúng được kiểm soát bởi môi trường của chúng ta, giống như những con chó của Pavlov được huấn luyện để phản ứng với một số tác nhân nhất định.
Sự vĩ đại của con người – sự tự do, sự sáng tạo, khả năng bay lên trên thế giới bằng tâm linh của chúng ta – và sự ràng buộc của chúng ta đối với môi trường tự nhiên như các sinh vật trên trái đất khiến chúng ta cảm thấy bối rối về bản chất của chính mình. Những câu hỏi lớn mà tất cả con người đặt ra – Tôi là ai? Tôi đến từ đâu? Mục đích tồn tại của tôi là gì? —Không bao giờ có thể trả lời được từ nghiên cứu về tự nhiên. Chỉ có sự mặc khải từ Đấng Tạo Hóa mới có thể trả lời câu hỏi của chúng ta. Và không nơi nào ngoại trừ trong Kinh Thánh, chúng ta tìm thấy một bức tranh về bản chất con người giải thích cho thực tế tồn tại của con người.”
Chúng ta là những tạo vật trên đất (Sáng thế Ký 2:7), nhưng chúng ta cũng được tạo dựng theo hình ảnh của Đức Chúa Trời (1:27). Chúng ta thuộc về thế giới này, và do đó chúng ta phải lao động để duy trì môi trường tự nhiên như ngôi nhà của mình. Nhưng chúng ta cũng được tạo dựng để tương giao với Đức Chúa Trời, và do đó nếu không có mối tương giao này chúng ta không bao giờ có thể hài lòng với bản chất con người của mình.
Nhưng nan đề về con người hiện tại không chỉ bắt nguồn từ bản chất của chúng ta là những tạo vật được tạo ra. Nó đến từ tội lỗi. Nếu chúng ta là ảnh tượng của Đức Chúa Trời, tại sao chúng ta không hành động giống như Đức Chúa Trời? Một lần nữa Kinh Thánh cung cấp câu trả lời theo cách mà chúng ta không mong đợi từ những trước giả. Theo Kinh Thánh, phẩm chất của chúng ta bị hoen ố vì tội lỗi là cái mà chúng ta phải chịu trách nhiệm. Để chắc chắn, chúng ta phải nhận ra sự thất bại của mình trong những việc chúng ta làm. Chúng ta phải nhận ra sự “vô nhân đạo” của mình đối với người khác. Nhưng nếu không có sự mặc khải thiên thượng, mọi người sẽ cố gắng giải thích lỗ hổng này bằng sự thiếu hiểu biết hoặc qua một số dấu hiệu tiến hóa từ một động vật hung dữ. Tất cả những lời giải thích này giúp con người hoàn toàn thoát khỏi trách nhiệm tội lỗi; họ không thừa nhận sự nổi loạn cố ý chống nghịch lại Đức Chúa Trời. Khi tội lỗi được xem như là sản phẩm đáng thương của môi trường tiến hóa, thì loài người trở nên thấp kém hơn con người vốn được tạo nên.
Có lẽ sự mô tả trong Kinh Thánh về sự xáo trộn nội tâm trong ý thức của chúng ta cung cấp một bằng chứng sâu sắc nhất về kiến thức siêu nhiên của bản chất con người chúng ta. Robert Dabney viết về bức tranh trong Kinh Thánh về “sự mặc khải sâu sắc và sầu muộn của ý thức bên trong chúng ta”, bao gồm sự trống rỗng của những mưu cầu trần thế mà chúng ta bị thúc đẩy bởi lương tâm hư hỏng, những vi phạm tội lỗi của lương tâm và dục vọng, nhưng lại bất lực trong việc thực hiện đổi mới đạo đức. Sau đó, ông thấm thía hỏi: “Bằng sự khôn ngoan nào mà cuốn sách này đã tiết lộ một cái nhìn sâu sắc hơn, trung thực hơn và thấu suốt hơn bất kỳ một triết lý nhân sinh nào, một cái nhìn thấu vào sâu thẳm bên trong lương tâm khốn khổ chúng ta? Khi tâm hồn tội lỗi của con người tìm kiếm một chân lý cho nó trong mọi tiếng rên rỉ hối hận và nỗi thống khổ của mình, há đó chẳng phải là từ tiếng nói của Đấng mà đôi mắt của Ngài đang nhìn thấu đến, dò xét lòng của những đứa con loài người?”
KHÁI NIỆM CỦA KINH THÁNH VỀ SỰ CỨU CHUỘC
Tất cả các tôn giáo đều cung cấp một số phương cách để giải thoát cuộc sống đau khổ của con người và mang lại hòa bình và hạnh phúc. Nhưng sự cứu rỗi được bày tỏ trong Kinh Thánh chỉ nói về một phương cách thiên thượng duy nhất. Các phương cách “cứu rỗi” khác nhau được tìm thấy trong các tôn giáo trên thế giới đều dựa trên một khái niệm: Sự giải thoát đến từ những nỗ lực của con người. Điều này được minh họa trong câu chuyện sau đây về một số người theo đạo Hindu.
Chúng tôi quay lưng lại với dòng sông và đến một bãi đất trống, lần theo con đường mòn bằng đá giữa các cánh đồng, được bao bởi bức tường đất sét thấp và những bụi gai. Trời bắt đầu nắng lên với mỗi bước chân đạp trên con đường đất bụi. Sau một lúc, chúng tôi gặp một người đàn ông trẻ tuổi, nằm thẳng trên mặt đất và dường như đang tập thể dục. Anh ta chồm dậy, vươn tay trái về phía sau hết mức có thể, nhặt một viên đá từ một đống đá nhỏ nằm ở đó, rồi nằm thẳng người trên mặt đất, vươn tay phải về phía trước càng xa càng tốt, và đặt viên đá đó lên một đống đá nhỏ tương tự …. Tiến sĩ Govindam giải thích với tôi rằng người thanh niên này không được phép nói chừng nào anh ta còn say mê với hình thức parikrama (vòng luân hồi) đặc biệt đáng khen này. 108 viên sỏi phải được thu lượm và sau đó di chuyển từng viên sỏi đến một chỗ nào đó, như cách mà người thanh niên đã làm, theo chiều dài của cơ thể mỗi lần. Sau khi tất cả 108 viên sỏi đã được di chuyển với khoảng cách khoảng hai bước chân, thì chu kỳ này lập lại với từng viên sỏi. Vậy thì phải mất bao lâu để thực hiện việc làm này theo cách này? Có lẽ vài tuần, hoặc vài tháng. Chúng tôi đi qua những người mộ đạo khác là người chọn cách chuộc tội này, trong số đó có một góa phụ già. Tiến sĩ Govindam giải thích với chúng tôi rằng có lẽ bà ấy đang làm việc đó để nhận lấy công đức cho chồng mình ở thế giới bên kia …. Nhiều tuần sau đó, chúng tôi thấy bà ấy vẫn ở đó cách nơi mà chúng tôi đã nhìn thấy bà lần đầu tiên vài kilômet. Bà ấy dường như yếu đến nỗi cứ sau hai mươi mét là bà ấy nằm kiệt sức bên cạnh đống đá nhỏ của mình?”
Cho dù là theo con đường chính nghĩa của người Hindu, kỷ luật theo Bát chánh đạo của Phật giáo, hay là cầu nguyện và ăn chay của người Hồi giáo, tất cả các tôn giáo ngoài Kinh Thánh đều tìm cách tìm kiếm sự cứu rỗi bằng các việc làm. Cách nghĩ phổ biến là để vào được thiên đường phải “làm tốt nhất những gì mình có thể.” Điều này dễ hiểu khi chúng ta nhận ra rằng những người này có ý thức hay vô thức về bản chất sa ngã của mình, đang bị ràng buộc bởi tội lỗi. Tình trạng của họ được mô tả trong lần phạm tội đầu tiên của tổ phụ loài người: “Ngươi sẽ như Đức Chúa Trời” (Sáng 3: 5). Thật khó để một “vị thần” thừa nhận rằng mình không thể làm được gì cho bản thân!
Tuy nhiên, trong một số tôn giáo, mọi người tin vào những vị thần cứu tinh là những người ban sự cứu rỗi cho các tín đồ của họ. Hình thức Phật giáo được chấp nhận rộng rãi nhất ở Nhật Bản dựa trên câu chuyện về Amita, người đã tích lũy một kho công đức khổng lồ trên đường đến với Phật đến mức ông ấy đã thề sẽ ban sự tái sinh cho tất cả những ai tin vào ông ấy và liên tục lặp lại cụm từ “A Di Đà Phật”. Khái niệm vị thần cứu tinh cũng phổ biến ở Ai Cập cổ đại và vùng Lưỡng Hà.
Tuy nhiên, ngay cả khi người ta tin vào những vị thần cứu tinh, thì họ vẫn tin rằng công đức là cần thiết để được các vị thần ban ơn. Hơn nữa, họ không có cách nào để đối phó một cách nghiêm túc với thực tế rõ ràng của tội lỗi. Như Leon Morris đã chỉ ra, “Những nhà tư tưởng sâu sắc nhất trong nhân loại luôn nghĩ rằng sự tha thứ thực sự chỉ có thể có được khi sự quan tâm thích đáng được trả theo luật đạo đức …. Chúng ta hẳn đã không thấy đây là điều mà Đức Chúa Trời đã gieo vào sâu thẳm trong lòng con người sao. Đối mặt với một tội ác ghê tởm, ngay cả những người vô cảm nhất trong vòng chúng ta cũng có thể thốt lên rằng: ‘Điều đó đáng bị trừng phạt!’” Không có cảm giác được thỏa mãn về sự công bình trong các tôn giáo sai lầm.
Sự cứu rỗi được mô tả trong Kinh Thánh khác nhau như thế nào! Mong muốn tự nhiên của con người trong việc tìm kiếm công đức để nhận được sự cứu rỗi là hoàn toàn không thể; vì mọi vinh quang trong sự cứu rỗi đều thuộc về Đức Chúa Trời. Theo lịch sử thì thực tế về tội lỗi và hình phạt dành cho nó được xác nhận đầy đủ. Sự cứu rỗi được thực hiện bởi tình yêu thương vô tận của Đức Chúa Trời theo một cách mà vẫn bảo tồn sự thánh khiết của Ngài. Sự thánh khiết của Đức Chúa Trời đòi hỏi sự công bình trong việc trừng phạt tội lỗi; và tình yêu thương của Ngài đáp ứng điều đó qua sự hy sinh của Con Ngài. “Đức Chúa Giê-su Christ, là Đấng Đức Chúa Trời đã lập làm của lễ chuộc tội, bởi đức tin trong huyết Đấng ấy. Ngài đã bày tỏ sự công bình mình như vậy, vì đã bỏ qua các tội phạm trước kia, trong buổi Ngài nhịn nhục; tức là Ngài đã tỏ sự công bình Ngài trong thời hiện tại, tỏ ra mình là công bình và xưng công bình kẻ nào tin đến Đức Chúa Giê-su” (Rô-ma 3: 25-26). Vì vậy, trái ngược với các phương cách khắc phục sự khốn khổ của con người do tội lỗi gây ra bằng cách cố gắng tìm kiếm sự phục hồi từ bản chất sa ngã là điều không thể, hoặc phương cách đặt sự thánh khiết và công bình của Đức Chúa Trời qua một bên đều là vô ích. “Phương cách cứu rỗi được đưa ra để con người tham gia vào trong sự toàn năng, tình yêu và sự khôn ngoan của chính Đức Chúa Trời, vừa để thỏa mãn sự công bình tuyệt đối của Ngài, vừa để khôi phục lại sự hư hoại của con người do tội lỗi; vì vậy sự giải cứu này sẽ đáp ứng đầy đủ mọi yêu cầu của thiên đàng, và là mọi điều cần thiết cho nhân loại.”
Sự chết của Con Đức Chúa Trời, như là phương tiện cứu rỗi, trái ngược với tất cả những tôn giáo khác. Ajith Fernando, một học giả Cơ đốc giáo đã phục vụ nhiều năm ở Sri Lanka, kể về một “nhà văn Phật giáo nổi tiếng”, người đã nói với ông rằng “Đức Phật cao cả hơn Chúa Giê-su bởi vì Chúa Giê-su đã bị đánh bại bởi sự chết trong trận chiến vì sự công chính của Ngài.” Từ điển bách khoa Do Thái khẳng định, “Không có Đấng Mê-si-a nào mà người Do Thái biết lại có thể chịu chết như vậy; vì ‘Kẻ nào bị treo ắt bị Đức Chúa Trời rủa sả’ (Phục truyền 21:23), là một ‘sự xúc phạm đến Đức Chúa Trời” (Targum, Rashi). Tương tự như vậy, người Hồi giáo cũng từ chối lẽ thật về Chúa Giê-su bị đóng đinh. Kinh Koran nói, “Chúng tôi đã giết Đấng Mê-si-a là Chúa Giê-su, con trai của Ma-ri, Sứ đồ của Allah.’ Họ đã không giết Ngài, cũng không đóng đinh Ngài, nhưng họ nghĩ rằng họ đã làm như vậy” (Sura 4: 156). Rõ ràng thập tự giá của Đấng Christ, như Phao-lô đã viết là “sự người Giu-đa lấy làm gương xấu, dân ngoại cho là rồ dại” (1 Côr. 1:23). Nhưng đó là “quyền phép của Đức Chúa Trời và sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời” cho sự cứu chuộc (1:24).
Hơn nữa, sự cứu chuộc của Đức Chúa Trời không bắt nguồn từ những câu chuyện thần thoại hay những ý tưởng khai sáng, mà là trong lịch sử. Những lời của Gresham Machen đã tóm tắt sự độc đáo về lời dạy cứu rỗi trong Kinh Thánh. “Theo Kinh Thánh, sự cứu rỗi không phải là điều được khám phá ra, mà là điều đã xảy ra. Do đó thể hiện tính độc nhất của Kinh Thánh. Tất cả các ý tưởng trong Cơ đốc giáo có thể được tìm thấy trong một số tôn giáo khác, nhưng ý tưởng của các tôn giáo khác thì không có trong Cơ đốc giáo. Vì Cơ đốc giáo không phụ thuộc vào các ý niệm phức tạp, nhưng dựa trên lời tường thuật về một sự kiện. Nếu không có sự kiện đó, thế giới, trong cái nhìn của Đấng Christ, hoàn toàn tối tăm, và nhân loại bị hư mất bởi tội lỗi. Không thể có sự cứu chuộc bằng việc khám phá ra lẽ thật vĩnh cửu, vì lẽ thật vĩnh cửu mang lại sự tuyệt vọng, bởi vì tội lỗi. Nhưng một diện mạo mới được khoác lên cuộc sống bởi điều phước hạnh mà Đức Chúa Trời đã làm khi ban chính Con một của Ngài.
Sự cứu chuộc ấy quá xa lạ đối với con người tự nhiên, nhưng lại rất vĩ đại và thỏa mãn những khát vọng sâu thẳm trong lòng của tất cả mọi người đến nỗi nó không thể được tạo ra bởi loài người. Phao-lô, người đã cố gắng tự cứu mình bằng những việc làm của con người, đã tóm tắt tính chất siêu nhiên về sự cứu chuộc của Đức Chúa Trời: “Vì Đức Chúa Trời đã nhốt mọi người trong sự bạn nghịch, đặng thương xót hết thảy. Ôi! sâu nhiệm thay là sự giàu có, khôn ngoan và thông biết của Đức Chúa Trời! Sự phán xét của Ngài nào ai thấu được, đường nẻo của Ngài nào ai hiểu được!” (Rô-ma 11: 32-33).
còn nữa
trích từ UNDERSTANDING CHRISTIAN THEOLOGY translated by VMI
Tìm Hiểu Về Giáo Lý, Giáo Luật Và Lễ Nghi Của Phật Giáo Hòa Hảo
Về giáo lý
, Phật giáo Hòa Hảo tuy mượn danh Phật giáo nhưng không dùng giáo lý chính thống của Phật giáo, chủ yếu dựa vào tín ngưỡng dân gian và các câu sấm giảng của Trạng Trình để thu hút và gây niềm tin sâu sắc trong tín đồ. Ông Huỳnh Phú Sổ khuyên tín đồ ăn ngay ở lành, ra sức làm những điều thiện, bài xích bọn tham ô quan lại áp bức bất công, đả kích đồng bóng mê hoặc dân chúng làm tiền. Những lời giáo huấn, cầu nguyện, tiên tri do ông Huỳnh Phú Sổ truyền dạy được chép thành từng cuốn gọi là Sấm giảng viết theo dạng thơ hoặc văn vần, giản dị dễ nhớ.
Kinh sách của Phật giáo Hòa Hảo bao gồm phần Sấm giảng giáo lý và phần Thi văn giáo lý. Sấm giảng giáo lý chủ yếu dựa vào hình thức tín ngưỡng thần bí, vào các câu sấm giảng của Trạng Trình. Giáo lý của Phật giáo Hòa Hảo tóm gọn trong 4 chữ “Học Phật tu Nhân” và cốt lõi của học Phật tu Nhân là Tứ ân: Ân tổ tiên, cha mẹ; Ân đất nước; Ân tam bảo; Ân đồng bào nhân loại.
Sức lôi cuốn của Phật giáo Hòa Hảo với tín đồ về phương diện giáo lý chính là nêu cao đạo lý làm người, biểu hiện trước hết ở Tứ ân. Giáo lý Phật giáo Hòa Hảo chứa đựng các tư tưởng của Nho, Phật, Lão bởi “Tứ ân” là một hình thức “Tam giáo đồng nguyên”. Trong đó Phật giáo là tính trội. Theo Phật giáo Hòa Hảo học Phật tạo nên đức, tu nhân tạo nên công, có công có đức mới trở thành bậc hiền nhân.
Về giáo luật,
Phật giáo Hòa Hảo chủ trương niệm Nam Mô A Di Đà Phật (tức niệm lục tự Di Đà). Tín đồ thực hiện 8 điều răn của Đức Giáo chủ, xem đó như là giới luật của đạo:
Một là, không nên uống rượu, cờ bạc, thuốc phiện, chơi bời, đàng điếm, phải giữ trọng luân lý tam cương, ngũ thường.
Hai là, không nên lười biếng, phải cần kiệm, sốt sắng lo làm ăn và lo tu hiền chân chất, không nên gây gổ lẫn nhau, hãy tha thứ tội lỗi cho nhau trong khi nóng giận.
Ba là, không nên ăn xài chưng diện thái quá và lợi dụng tiền tài mà quên nhân nghĩa đạo lý, đừng ích kỷ và xu phụng kẻ giàu sang, phụ người nghèo khó.
Bốn là, không nên kêu Trời, Phật, Thần, Thánh hoặc nguyền rủa, vì thần thánh không can phạm đến ta.
Năm là, không ăn thịt trâu, bò, chó và sát sinh hại vật mà cúng Thần, Thánh vì Thần Thánh không bao giờ dùng hối lộ mà tha tội cho ta, vì nếu ta làm tội sẽ chịu tội, còn những hạng ăn đồ cúng mà hết bệnh là Tà Thần; nếu ta cúng kiếng mãi thì chúng ăn quen sẽ nhiễu hại ta.
Sáu là, không nên đốt giấy, tiền, vàng, bạc, giấy quần áo mà tốn tiền vô lý, vì cõi Diêm Vương không bao giờ ăn hối lộ của ta, mà cũng không xài được nữa, phải để tiền lãng phí ấy cứu trợ cho những người nghèo khổ, tàn tật.
Bảy là, đứng trước mọi việc gì về sự đời, hay đạo đức, phải suy xét cho minh lý rồi sẽ phán đoán việc ấy.
Tám là, phải yêu thương lẫn nhau như con một cha, dìu dắc nhau vào con đường đạo đức, nếu ai giữ được trọn lành, trọn sáng về nơi cõi Tây phương an dưỡng mà học đạo cho hoàn toàn đặng trở lại cứu vớt chúng sinh.
Những lời khuyên răn trên phê phán mê tín dị đoan, dùng tà thuật bùa chú chữa bệnh và phê phán việc “hối lộ” Thần Thánh để chuộc tội là những tư tưởng tiến bộ của Phật giáo Hòa Hảo.
Thủ tục nhập đạo: người muốn vào đạo phải đủ 18 tuổi, tự nguyện viết đơn xin nhập đạo, có hai người tín đồ giới thiệu. Đến Ban Trị sự cơ sở ghi danh, học giáo lý, giáo luật và phải xin phép cha mẹ mình về tự nguyện quy y theo đạo.
Nếu muốn ra khỏi đạo, thì báo trước cho người tiến cử và Ban trị sự cơ sở để xóa tên trong danh sách.
Về nghi lễ,
tín đồ Phật giáo Hòa Hảo là cư sỹ tại gia, họ không thờ những thần thánh nếu không rõ xuất xứ, không có nghi thức hành lễ tập thể tại những nơi thờ tự chung mà chỉ có nghi thức hành lễ cá nhân trước bàn thờ Tổ tiên, bàn thờ Phật và bàn thông thiên. Tại các bàn thờ mỗi tín đồ đều có các hoạt động: xá, lạy, nguyện (bài đọc) và niệm Phật. Mỗi gia đình có 3 bàn thờ: bàn thờ Phật đặt nơi cao nhất chỉ treo Trần dà; bàn thờ Tổ tiên đặt dưới bàn thờ Phật; bàn thời Thông Thiên thờ ngoài trời ở trước cửa nhà. Sau này họ có thờ ảnh ông Huỳnh Phú Sổ, thường đặt dưới tấm trần dà. Đi làm ruộng khi xa nhà đến giờ cúng ngó về hướng Tây nguyện rồi xá 4 hướng. Đi xa nhà thì nguyện tưởng trong tâm cũng được.
Về lễ vật thờ cúng: Phật giáo Hòa Hảo thờ Phật, nhưng không bằng tượng cốt, tranh ảnh. Mà thờ Phật bằng tấm vải Trần dà thay cho tấm vải Trần Điều của Bửu Sơn Kỳ Hương, nhưng cùng một quan niệm là “Phật tức tâm, tâm tức Phật”. Đồ thờ cúng Phật, cúng trời đất ở bàn thờ thông thiên thường có nước lạnh, hoa và hương.
Lễ vật cúng ông bà tổ tiên là đồ chay hoặc mặn tùy ý. Không dùng vàng mã trong cúng giỗ, họ cho rằng đó là điều giả tạo, lãng phí không cần thiết.
Tìm Hiểu Về Giáo Lý, Luật Lệ, Lễ Nghi Và Tổ Chức Giáo Hội Của Phật Giáo Hòa Hảo
Thứ nhất về Kinh sách: Giáo lý Phật giáo Hòa Hảo được thể hiện trong cuốn “Sấm giảng thi văn toàn bộ” của Đức Huỳnh Giáo chủ do Ban phổ thông Giáo lý Trung ương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo xuất bản năm 1966. Tâp sách này chia làm hai phần là “Sấm giảng giáo lý” và “Thi văn Giáo lý”, trong đó:
* Sấm giảng giáo lý: được coi là phần nói về giáo lý Phật giáo Hòa Hảo mang tính sấm truyền của ông Huỳnh Phú Sổ – người sáng lập Phật giáo Hòa Hảo. Sấm giảng có 06 quyển gồm:
Quyến một với tựa đề “Sấm giảng khuyên người đời tu niệm” với 912 câu thơ được viết vào năm 1939 sau khi ông Huỳnh Phú Sổ làm lễ khai đạo. Nội dung quyển này, ông Huỳnh Phú Sổ tiên tri về thời vận, từ đó khuyên con người tu hành chân chính.
Quyển 2 với tựa đế “Kệ dân của người khùng” với 476 câu thơ viết tại làng Hòa Hảo vào cuối năm 1939. Nội dung quyển này, ông Huỳnh Phú Sổ lên án các hoạt động mê tín dị đoan đang lan tràn khắp đất nước, khuyên mọi người tu niệm để được cứu rỗi những ngày hạ nguyên tận diệt.
Quyển 3 với tựa đề “Sấm giảng” gồm 612 câu thơ viết tại làng Hòa Hảo vào cuối năm 1939. Nội dung quyển này, ông Huỳnh Phú Sổ phê phán thói sấu bị lôi cuốn theo đời sống vật chất tầm thường và khuyên con ngươi tu nhân tích đức để chuyển nghiệp.
Quyển 4 với tựa đề “Giấc mê tâm kệ” với 846 câu thơ viết năm 1939. Nội dung quyển này ông Huỳnh Phú Sổ thuyết giảng về giáo lý nhà Phật như: Tứ diệu đế, Ngũ uẩn, Bát chánh đạo… để người đời tu học.
Quyển 5 với tựa đề “Khuyến thiện” với 756 câu thơ được viêt năm 1941 tại Chợ Quán, Sài Gòn. Nội dung quyển này, ông Huỳnh Phú Sổ kể lại thân thế sự nghiệp của Phật Thích Ca để từ đó khuyên mọi người hãy noi gương Phật Thích Ca để tu hành theo pháp môn Tịnh độ.
Quyển 6 với tựa đề “Những điểu sơ lược cần biết của người tu hiền” được viết tại Sài Gòn năm 1945 bằng văn xuôi theo kiểu tản văn. Nội dung quyển này, ông Huỳnh Phú Sổ giải thích thêm về Tứ ân, Tam nghiệp, Thập thiện, Bát chánh đạo theo cách hiểu của đạo Phật và trình bày về các nghi thức cúng lễ, hành đạo.
* Thi Văn giáo lý: gồm có 253 bài văn vần và văn xuôi được xếp theo thứ tự thời gian từ năm 1939 đến năm 1947. Đối với tín đồ Phật giáo Hòa Hảo, nếu Sấm giảng giáo lý được coi là sự mạc khải của Tiên phật cho con người mà Đức Huỳnh giáo chủ linh ứng thì phần Thi văn giáo lý lại được coi là lời luận giải giáo lý của Đức Huỳnh giáo chủ.
Đức Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ
Người sáng lập Phật giáo Hòa Hảo
Thứ hai: về giáo lý
Theo sách Sấm giảng thi văn toàn bộ thì Giáo lý Phật giáo Hòa Hảo gồm có hai phần đó là Học Phật và Tu nhân. Có ý kiến cho rằng nếu gọi là Giáo lý của Phật giáo Hòa Hảo thì chỉ có phần học Phật, còn phần tu Nhân chỉ là lối sống đạo. Tuy nhiên để hiểu được nét đặc trưng của giáo thuyết Phật giáo Hòa Hảo thì cần hiểu cả hai quan niệm về học Phật và tu Nhân.
* Phần học Phật: Phật giáo Hòa Hảo dựa vào giáo lý của Phật giáo nhưng khi giải thích lại tập trung vào ba pháp môn chính là Ác pháp, Chân pháp và Thiện Pháp, trong đó:
– Ác pháp: là các pháp làm trở ngại cho thiện pháp, làm cho con người ô nhiễm thân tâm, gây nên tội lỗi và vướng mãi trong vòng luân hồi sinh tử, thuộc về các pháp có các lý thuyết như:
+ Tam nghiệp là thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp tạo ra mười điều các là: sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói dối hai mặt, nói điều ác, nói khoác lác, tham lam, giận giữ, si mê.
+ Thất tình: là bảy trạng thái tình cảm: buồn, yêu, ghét, vui, giận, sướng, muốn.
+ Lục dục là sáu điều ham muốn:danh, tài, sắc, hư, tật
+ Ngũ uẩn là năm thứ mê hoặc tham, sân, si, nhân, ngã mà trở nên đần độn, ngu si, tối tăm cản trở con người đến chỗ siêu thoát (nguyên gốc Ngũ uẩn là lý thuyết rất quan trọng của đạo Phật khi nói về 05 yếu tố là: sắc, thụ, tưởng, hành, thức tạo nên con người)
+ Tứ đổ tường là bốn bức tường làm cho con người sa ngã, tăm tối, tội lỗi là: cờ bạc, rượu chè, trai gái, danh vọng.
– Chân pháp: là các pháp phá tan những mê hoặc tối tăm để bừng sáng về trí tuệ tiến tới giác ngộ chân lý. Thuộc về Chân pháp có các thuyết như:
+ Tứ diệu đến gồm có 04 chân lý, trong đó: tập đế là khi mới vào tu; diệt đế là phải diệt trừ các ác pháp; khổ đế là nhẫn nại, nhịn khổ trong tu tập; đạo đế là đạt đến bậc giác ngộ – thành đạo ( nguyên gốc tứ diệu đế là bốn chân lý cao siêu của Phật khi nói về sự khổ của con người).
+ Thập nhị nhân duyên là 12 nhân duyên chằng chịt tạo ra chuỗi dây nhân quả của vòng luân hồi sinh tử mà con người vướng vào không thoát ra được.
+ Ngũ trược là năm thứ nhơ bẩn làm ô nhiễm nhân tâm nên mải say đắm trong cõi trần ai tục lụy
– Thiện pháp: là các pháp lành mà con người cần tu tập để gây thiện duyên, sửa trị thân tâm cho thanh sạch để chứng các quả vị Phật. Thuộc về Thiện pháp có các thuyết như:
+ Bát chính đạo: là 08 con đường tu hành chân chính, nếu ai theo sẽ diệt trừ được các ác pháp do thân, khẩu, ý tạo ra, cụ thể: chính kiến, chính nghiệp, chính mạng sẽ diệt trừ ác pháp về thân; chính ngữ diệt trừ ác pháp về khẩu và chính tư duy, chính tinh tiến, chính định, chính niệm sẽ diệt trừ ác pháp về ý.
+ Bát nhẫn là 08 điều nhẫn nhịn để vượt qua những thử thách trong xử thế và tu tập, trong đó: nhẫn năng xử thế là giữ cách xử xự với đời; nhẫn giới là giữ nghiêm giới luật; nhẫn hương lân là giữ hòa khí đối với cộng đồng, làng xóm; nhẫn phụ mẫu là giữ đức kính trọng, hiếu thảo với cha mẹ; nhẫn tâm là giữ lòng an định; nhẫn tính là giữ cho tính tình điềm đạm; nhẫn đức là giữ cho đức độ, hòa nhã và nhẫn thành là giữ thành tâm, thành tín.
* Phần tu nhân: giáo thuyết Phật giáo Hòa Hảo nhấn mạnh việc tu học theo Tứ ân tức là bốn điều ân nghĩa: Ân tổ tiên cha mẹ, Ân đất nước, Ân đồng bào, Ân tam bảo. Phật giáo Hòa Hảo giải thích cụ thể như sau:
– Ân đất nước: Mỗi người phải ân nghĩa với đất nước, quê hương vì đó là nơi nuôi ta sống và ông và tổ tiên ta thường sống, đó là nơi cho ta thuần phong mỹ tục, nâng tâm hồn ta lên và nâng bước ta đi. Mỗi con người phải yêu đất nước, yêu quê hương; tùy theo tài lực của mình mà làm cho quê hương giàu mạnh. Mỗi con người phải có trách nhiệm bảo vệ đất nước khi bị ngoại xâm và nhất là không phản bội Tổ quốc, làm tay sai cho ngoại bang.
- Ân đồng bào, nhân loại: mỗi con người phải sống ân nghĩa với đồng bào của mình, những người sống trong cùng đất nước, cùng màu da, tiếng nói, cùng đất nước, cùng tổ tiên con rồng cháu lạc. Phải sống ân nghĩa với những người xung quanh đã từng chia sẻ với nhau niềm vui, nỗi buồn, từng giúp đỡ nhờ cậy trong lúc khó khăn, hoạn nạn. Không những thế mỗi con người phải ân nghĩa với đồng loại, nhân sinh, không phân biệt màu da, chủng tộc, sang hèn, giàu nghèo.. theo tinh thần từ bi hỉ xả, vô ngã vị tha không gây thù hằn, không vì bản thân, dân tộc mình mà gây hại cho người khác, dân tộc khác.
– Ân tam bảo: Tam bảo là Phật, Pháp, Tăng. Ân Tam bảo là ghi nhớ công ơn Phật, Pháp, Tăng đã khai mở trí tuệ cứu vớt chúng sinh khỏi vòng trầm luân khổ ải. Bổn phận của mỗi con người phải noi theo tiền nhân tôn kính Tam bảo, tu rèn thân tâm để tiến trên con đường giải thoát.
Như vậy với những giáo thuyết như đã nói ở trên phần tu Nhân của Phật giáo Hòa Hảo là sự kế thừa và tiếp nối tư tưởng Tứ đại trọng ân của Phật thầy Tây An mà trực tiếp là Tứ ân hiếu nghĩa của ông Ngô Lợi. Phật giáo Hòa Hảo chủ trương vừa học Phật vừa tu nhân. Học Phật tạo nên đức, tu nhân tạo nên công. Có công đức mới nhanh chóng trở thành bậc tiền nhân được. Tuy nhiên, trong hai phần học Phật và tu Nhân, Phật giáo Hòa Hảo đặc biệt coi trọng phần tu Nhân. Phật giáo Hòa Hảo cho rằng phần tu Nhân phải dựa trên căn bản đạo đức, trước hết là đạo làm người vì “Thiên kinh vạn điển, hiếu nghĩa vi tiên”; thậm chí Phật giáo Hòa Hảo cho rằng không thực hiện được tu nhân thì không có học Phật được, hoặc có học Phật cũng chả có ý nghĩa gì.
Với giáo lý học Phật tu Nhân nêu trên, ông Huỳnh Phú Sổ cho rằng Phật giáo Hòa Hảo là một môn phái đặc sắc nhất trong các môn phái của Phật giáo. Nó sẽ khắc phục được các hạn chế của Phật giáo là có quá nhiều kinh sách, triết lý cao siêu, trừu tượng chỉ phù hợp trong việc giáo hóa cho một số rất ít người có điều kiện xuất gia tu hành. Còn Phật giáo Hòa Hảo mang tính chất phổ quát phù hợp với căn cơ của đại đa số chúng sinh, những cư sĩ tại gia. Pháp môn học Phật và tu Nhân của Phật giáo Hòa Hảo sẽ nhanh chóng đào tạo ra nhiều người hiền, có công đức trong chúng sinh.
* Thứ ba: về luật lệ, lễ nghi
Tín đồ Phật giáo Hòa Hảo là những cư sĩ tại gia nên việc thờ phượng và hành đạo rất đơn giản, chủ yếu được tiến hành tại gia đình. Phật giáo Hòa Hảo chỉ thờ Phật, thờ các vị anh hùng dân tộc. Phật giáo Hòa hảo không thờ thần thánh không rõ căn tích.
Phật giáo Hòa Hảo thờ Phật nhưng không bằng tượng cốt, tranh ảnh mà thờ tấm vải Trần Dà (là tấm vải màu nâu) thay cho tấm vải Trần Điều (là tấm vải màu đỏ) của Phật giáo Bửu Sơn Kỳ Hương với cùng một quan niệm Phật tức tâm, tâm tức Phật; ông Huỳnh Phú Sổ đã giải thích việc đổi thờ Trần Điều thành Trần Dà như sau: Từ trước, chúng ta thờ Trần Điều là di tích của Phật thầy Tây An để lại. Nhưng gần đây có nhiều kẻ sai phép, sai với tôn chỉ của đức Phật nên toàn thể trong đạo của chúng ta đổi lại màu dà. Lại nữa, từ trước đến giờ các sư vẫn dùng màu dà để biểu hiện cho sự thoát tục của mình và màu ấy là màu kết hợp của tất cả các màu sắc khác nên có thể tượng trưng cho sự hòa hiệp của nhân loại, không phân biệt chủng tộc và cá nhân.
Ở mỗi gia đình của Phật giáo Hòa Hảo có 03 bàn thờ: Bàn thờ Phật cao nhất chỉ treo tấm Trần Dà; bàn thờ tổ tiên đặt dưới bàn thờ Phật; bàn thờ thông thiên thờ ngoài trời, ở trước cửa nhà. Sau này tín đồ Phật giáo Hòa Hảo còn thờ ảnh của ông Huỳnh Phú Sổ, thường được đặt dưới tấm Trần Dà. Lễ phẩm cúng Phật hay cúng trời đất ở bàn thông thiên chỉ có hương, hoa và nước lạnh. Nước lạnh thể hiện sự trong sạch, hoa thể hiện sự tinh khiết, hương thơm xua đuổi tà khí. Ông Huỳnh Phú Sổ khuyên tín đồ không nên làm giỗ linh đình và tốn kém, bởi thánh thần và người chết không ăn được. Phật giáo Hòa Hảo tuyệt đối không dùng vàng mã khi cúng giỗ, vì cho rằng đó chỉ là những thứ giả tạo, không cần thiết.
Phật giáo Hòa Hảo không dùng kinh kệ của Phật giáo mà chỉ đọc sấm giảng của ông Huỳnh Phú Sổ và miện Lục tự Di Đà (sáu chữ Nam mô A Di Đà Phật) để tĩnh tâm. Do cách hành đạo niệm Lục tự Di Đà nên Phật giáo Hòa Hảo tự nhận mình là Pháp môn Tịnh độ Phật học tu nhân. Phật giáo Hòa Hảo không lạy người sống, trừ ông bà, cha, mẹ.
Hiện nay, Phật giáo Hòa hảo có các ngày lễ chính sau: Ngày 01 tháng giêng là tết Nguyên đán; ngày 15 tháng giêng là lễ Thượng nguyên; ngày 08/4 lễ Phật đản; ngày 18/5 lễ Khai đạo; ngày 15/7 lễ Trung nguyên; ngày 12/8 lễ Phật thầy Tây An; ngày 15/10 lễ Hạ nguyên; ngày 25/11 lễ sinh Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ; ngày 08 tháng chạp lễ Phật thành đạo. Trong các ngày lễ trên thì lễ Khai đạo và lễ sinh nhật Đức Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ là hai ngày lễ quan trọng. Ngoài ra, Phật giáo Hòa Hảo còn có các ngày lễ khác như lễ giỗ Đức Ông, Đức Bà (là bố, mẹ ông Huỳnh Phú Sổ), lễ vía Phật thầy Tây An và các đệ tử của ông…
Trong cuộc sống, tín đồ Phật giáo Hòa Hảo thực hiện tám điều răn của ông Huỳnh Phú Sổ, xem đó như giới luật của đạo, cụ thể:
Một là không được uống rượu, hút thuốc phiện, chơi bời đàng điếm, phải giữ trọng luân lý tam cương, ngũ thường.
Hai là không được lười biếng, phải cần kiệm, sốt sắng lo làm ăn và lo tu luân chân chất; không được gây gổ lẫn nhau và luôn tha thứ cho nhau khi nóng giận.
Ba là không được ăn sài, trưng diện thái quá và lợi dụng tiền tài mà quên nhân nghĩa đạo lý, đừng sống ích kỷ và xu nịnh kẻ giàu, phụ người nghèo khó.
Bốn là không được kêu trời, phật, thần thánh mà sai, hoặc nguyền rủa thần thánh không can dự đến ta.
Năm là không ăn thịt trâu bò, chó và sát hại sinh vật mà cúng thần thánh vì thấn thánh không bao giờ dùng hối lộ mà tha tội cho ta, vì nếu can tội sẽ chịu tội; còn những hạng ăn đồ cúng mà hết bệnh là tà thần, nếu cúng kiếng mãi thì chúng quên ăn sẽ nhiễu hại ta.
Sáu là không đốt giấy tiền bạc, vàng mã, quần áo mà tốn tiền vô lý vì cõi Diêm Vương không bao giờ ăn hối lộ của ta, mà cũng không sai được nữa, phải để tiền lãng phí ấy cứu trợ cho những người đói rách, tàn tật.
Bảy là đứng trước mọi việc về sự đời và đạo đức phải suy xét cho minh lý rồi sẽ phán đoán sự việc ấy.
Tám là phải thương yêu lẫn nhau như con một cha, dìu dắt nhau vào đường đạo đức. Nếu ai giữ được trọn lành trọn sáng về nơi cõi Tây Phương an dưỡng mà học đạo cho hoàn toàn đặng trở lại cứu vớt chúng sinh.
Ngoài ra, Phật giáo Hòa hảo còn răn dạy tín đồ tôn trọng những người khác tín ngưỡng, nhất là không cậy đông người mà ức hiếp hoặc nói xấu, bài xích; không nên gây oán thù mà phải làm lành với họ. Đối với nhân sinh nói chung thì phải giữ mối quan hệ hòa hợp, gây thiện cảm lẫn nhau; đồng thời phải biết thương xót, giúp đỡ mọi người nhất là những lúc khó khăn, hoạn nạn. Phật giáo Hòa Hảo khuyến khích ăn chay trường, nhưng nếu không có điều kiện thì hàng tháng ăn chay bốn lần vào các ngày 14, 15, 29, 30 hoặc ngày mùng một nếu là tháng thiếu. Những ngày ăn mặn phải kiêng ăn thịt các con vật như trâu, bò, chó vì chúng có ích và sống gắn bó với con người.
Hôn nhân và tang ma Phật giáo Hòa Hảo đơn giản và tiến bộ. Phật giáo Hòa Hảo khuyên cha mẹ không ép buộc tình duyên con cái nhưng phải có bổn phận hướng dẫn, khuyên bảo chúng; không nên để con quá tự do mà thiếu kinh nghiệm làm cho chúng hư hỏng. Phật giáo Hòa Hảo khuyên không thách cưới bằng lễ vật hay tiền, tổ chức lễ cưới đơn giản, tiết kiệm. Hôn lễ và tang lễ của người theo Phật giáo Hòa Hảo cũng giống như người Việt, không có dấu ấn tôn giáo riêng. Ông Huỳnh Phú Sổ còn khuyên mọi người không khóc lóc trong tang lễ vì làm vậy sẽ cản trở sự siêu thoát anh linh của người chết.
Ngoài những vấn đề nêu trên, Phật giáo Hòa Hảo còn đề cập đến nhiều vấn đề khác của đời sống xã hội với thái độ tích cực như cấm tuyệt đối việc chơi cờ bạc, hút thuốc phiện và mê tín dị đoan; Phật giáo Hòa Hảo còn khuyên mọi người siêng năng học hành để mở rộng kiến thức và giúp cho việc tu học. Phật giáo Hòa Hảo khuyên tín đồ rèn luyện thân thể, giữ vệ sinh vì thần thánh chỉ gần những kẻ trong sạch, nên nếu ai muốn được tiếp độ thì phải trong sạch cả tinh thần lẫn vật chất. Phật giáo Hòa Hảo không bắt mọi người để tóc dài, nhưng có lẽ một mặt noi theo Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ, mặt khác để chứng tỏ mình không bị ảnh hưởng bởi văn minh phương Tây nên đa số nam tín đồ Phật giáo Hòa hảo thường để tóc dài và búi tó. Tín đồ Phật giáo Hòa Hảo thường mặc áo bà ba, áo dài màu đen hoặc màu dà (màu vàng).
Trước đây Phật giáo Hòa Hảo có quy định về nghi thức nhập đạo và ra đạo khá chặt chẽ, có phần gần giống như tổ chức chính trị. Người muốn nhập đạo cần có một số điều kiện như: Phải tự nguyện, có tuổi từ 18 trở lên, viết đơn xin gia nhập đạo, phải có 02 bổn đạo cũ giới thiệu và bảo lãnh, phải báo cho gia đình biết. Người vào đạo phải nguyện trước bàn thờ tổ tiên và tuyên thệ trước Tam bảo giữ gìn một đời một đạo cho đến ngày chung thân. Sau khi nhập đạo, mỗi người được nhận thẻ tín đồ, được tham gia sinh hoạt đạo và đóng nguyệt liễm.
* Thứ tư: Về cơ cấu tổ chức
Theo truyền thống, Phật giáo Hòa Hảo có 02 đối tượng tu hành đó là tu tại gia và tu xuất gia. Những người tu xuất gia hình thành hàng giáo phẩm trong đạo. Đối với người tu tại gia thì không có hàng giáo phẩm.
Thời kỳ đầu, Phật giáo Hòa Hảo do ông Huỳnh Phú Sổ – Giáo chủ cùng một số người thân tín lãnh đạo giáo hội. Đến giữa năm 1954, sau một quá trình chuẩn bị, ông Huỳnh phú Sổ đã lập ra Ban Trị sự ở các cấp. Tuy nhiên cùng lúc này tồn tại 02 dạng tổ chức bên cạnh Ban Trị sự các cấp đó là Đảng Dân xã và lực lượng vũ trang và trong giai đoạn này vì Phật giáo Hòa Hảo hướng đến nhiều đến hoạt động chính trị nên vai trò của Ban Trị sự lu mờ so với Đảng dân xã và tổ chức vũ trang.
Mãi đến năm 1960, vấn đề tổ chức của Phật giáo Hòa hảo mới được xem xét, củng cố lại, bắt đầu từ việc xây dựng lại Bản Điều lệ đề ngày 19/02/1963; sau đó đổi thành Bản Hiến chương đề ngày 06/12/1964. Tuy nhiên, gần 01 năm sau, tổ chức Giáo hội Phật giáo Hòa hảo mới được chính quyền Sài Gòn công nhận bằng sắc Luật 002/65 ngày 12/7/1965.
Hiến chương Giáo hội Phật giáo Hòa hảo xây dựng tổ chức theo cơ cấu 05 cấp là Trung ương, tỉnh, quận, xã, ấp, cụ thể: Cấp Trung ương đặt dưới sự lãnh đạo của Hội đồng Trị sự Trung ương và Hội đồng bảo pháp, trong đó: Hội đồng Trị sự Trung ương có 23 vị là trị sự viên (01 Hội trưởng, 02 Hội phó, 03 Cố vấn đoàn, 01 Chánh thư ký, 03 Phó thư ký, các Viện trưởng, Phó viện trưởng của các viện: Kiểm soát, Tài chính, Giáo lý, văn hóa- xã hội, tổ chức) và Hội đồng bảo pháp có 21 ủy viên. Ban Trị sự tỉnh có 17 thành viên. Ban Trị sự quận có có 11 thành viên. Ban Trị sự ấp có 09 thành viên. Nhiệm kỳ Hội đồng Trị sự Trung ương là 03 năm; Ban Trị sự tỉnh, huyện, xã là 02 năm; Ban Trị sự ấp là 01 năm.
Sau ngày giải phòng Miền Nam, do một số hoạt động chính trị nên chính quyền cách mạng đã ra thông báo giải tán Ban Trị sự các cấp của Phật giáo Hòa Hảo. Đến khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước đã tiếp tục xem xét, công nhận pháp nhân tổ chức giáo cho một số tôn giáo, trong đó có Phật giáo Hòa Hảo. Sau một thời gian chuẩn bị, dưới sự dẫn dắt của Ban vận động Phật giáo Hòa Hảo do ông Nguyễn Văn Tôn làm Trưởng ban, ngày 26/5/1999, Đại hội Đại biểu Phật giáo Hòa Hảo nhiệm kỳ I được tổ chức tại An Hòa tự (An Giang) và thông qua quy chế hoạt động và bầu Ban Đại diện Phật giáo Hòa Hảo cấp toàn đạo gồm có 11 thành viên do ông Nguyễn Văn Tôn làm Trưởng ban; Ban Đại diện Phật giáo Hòa Hảo là bước quá độ để tiến tới thành lập Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo.
Tổ đình Phật giáo Hòa Hảo
(xưa thuộc làng Hòa Hảo, nay thuộc thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang).
Sau 06 năm hoạt động (từ 1999-2004), ngày 08-09/6/2004, Đại hội nhiệm kỳ II của Phật giáo Hòa Hảo đã được tổ chức long trọng tại An Hòa tự với sự tham dự của 571 đại biểu tín đồ. Đại hội đã thông qua Hiến chương của Phật giáo Hòa Hảo và suy cử Ban Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo. Sau đó ngày 28/6/2004 được sự ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Trưởng ban ban Tôn giáo Chính phủ đã ra văn bản chấp thuận Bản Hiến chương 2004 và danh sách 21 vị trong Ban Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo nhiệm kỳ 2004-2009 do ông Nguyễn Văn Tôn làm Trưởng ban và các ông Nguyễn Tấn Đạt, Bùi Văn Đương, Thái Văn Năng Nguyễn Huy Diễm làm Phó trưởng ban.
Bản Hiến chương năm 2004 xác định đường hướng hoạt động là “Vì đạo pháp, vì dân tộc thực hiện tôn chỉ học Phật, tu Nhân, tại gia cư sĩ; giáo huấn tín đồ về Tứ ân (ân tổ tiên, cha mẹ; ân đất nước; ân tam bảo; ân đồng bào và nhân loại), 08 điều răn cấm và giáo lý chơn truyền của đức Huỳnh giáo chủ, cứu giúp người nguy khó, tương trợ trong quan, hôn, tang, tế và thực hiện hữu ích cho xã hội, cho nhơn sanh”.
Theo bản Hiến chương 2004, cơ cấu tổ chức Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo được hình thành 02 cấp: Ban Trị sự Trung ương và Ban Trị sự xã (phường); ngoài ra ở cấp tỉnh có Ban Đại diện. Ban Trị sự Trung ương có 21 thành viên. Giúp việc cho Ban Trị sự Trung ương có các bộ phận chuyên môn là: Văn phòng, Ban tài chính, Ban Phổ truyền giáo lý, Ban tổ chức và nhân sự, Ban từ thiện xã hội và Ban kiểm soát. Nhiệm kỳ Ban Trị sự Trung ương là 05 năm. Trụ sở Trung ương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo đặt tại chùa An Hòa Tự, xã Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang.
Ban Trị sự cấp xã có từ 05 đến 07 thành viên, gồm Trưởng ban, Phó trưởng ban, Thư ký và Trị sự viên. Tùy theo yêu cầu đạo sự, Phó ban trị sự sẽ kiêm phụ trách các mảng từ thiện xã hội, phổ truyền giáo lý, tài chính, kiểm soát; nhiệm kỳ của Ban Trị sự xã là 05 năm theo nhiệm kỳ Ban Trị sự Trung ương. Ban Trị sự Trung ương và Ban Trị sự cấp xã là hai cấp hành chính đạo chính thức của Giáo hội, có con dấu pháp lý riêng để xử lý việc đạo.
Qua tìm hiểu về giới luật, luật lệ, cơ cấu tổ chức của Phật giáo Hòa hảo cho chúng ta thấy, giới luật, luật lệ, lễ nghi của Phật giáo Hòa Hảo đã đề cập đến những vấn đề đạo đức cụ thể của cuộc sống thế tục và ít nhiều mang giá trị có tính nhân văn. Trên thực tế, những giá trị, chuẩn mực đạo đức quy định trong giáo luật, luật lệ của Phật giáo Hòa Hảo đã có ý nghĩa nhất định trong việc duy trì đạo đức xã hội. Bên cạnh đó với cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, linh hoạt và cách thức hành đạo đơn giản đã giúp cho Phật giáo Hòa Hảo dễ thích nghi đặc biệt đối với quần chúng nhân dân ở các tỉnh Nam bộ.
Phong Tục Tín Ngưỡng Của Người Kinh…
Người Việt ở Quảng Ngãi đa số là dân gốc Thanh, Nghệ, Tỉnh di cư vào trong các giai đoạn khác nhau của lịch sử, cư trú chủ yếu ở 6 huyện đồng bằng, các huyện lỵ, thị xã, các thị trấn, huyện lỵ các huyện miền núi và một số ít sống xen kẽ với các dân tộc thiểu số trong các làng nóc.
Người Việt ở Quảng Ngãi thường xây nhà tranh vách đất. Từ năm 1975 xuất hiện ngày càng nhiều nhà lợp ngói, tường xây. Dưới mái nhà ấy là khoảng không gian văn hóa bảo lưu các nếp sống, tâm lý cộng đồng được sàng lọc qua bao thế hệ. Các tập tục của cộng đồng và dân tộc lần lượt diễn ra trong một gia đình theo một chu kỳ sống của mỗi cá nhân, thế ứng xử với gia đình, gia tộc, xóm làng và xã hội.
Bên cạnh việc duy trì một số tập tục của dân tộc Việt từ miền Bắc, người Việt ở Quảng Ngãi có một số tập quán riêng như cách xưng hô tên gọi, thứ bậc trong gia đình, cách nấu nướng các món ăn. Họ đã đơn giản hóa nhừng gì rườm rà, tạo nên một nếp sống phù hợp với hoàn cảnh của vùng đất mới.
Cưới hỏi:
Ngày trước, con trai con gái độ 15, 16 tuổi là dựng vợ gả chồng. Có khi hai gia đình ước hẹn thông gia lúc con mới sinh, nhưng hầu như nạn tảo hôn không nhiều.
Trong hôn nhân, ngày trước người ta thường tìm chỗ “môn đăng hộ đối”. Hiện nay việc đó đã giảm, duy vẫn còn tục coi người hợp tuổi, coi ngày để làm lễ hỏi, cưới kiêng kỵ trong nhà có tang. Phía trai chọn người làm “mai dong”, ăn nói lịch thiệp, gia đình hòa thuận, đến thuyết phục gia đình nhà gái. Nếu được nhà gái đồng ý thì nhà trai đem trầu cau dến dạm hỏi, gọi là lễ sơ vấn. Tiếp đến là lễ ăn hỏi. Người cha đằng trai và người mai dong mang trầu cau, trà rượu và đôi bằng tai vàng đến nhà gái làm sính lễ cho cô dâu. Sau đó, chàng rể thường về giúp việc nhà vợ. Ngày tết giỗ chạp, chàng rể phải có mặt ở nhà vợ.
Hai bên gia đình trai gái cùng nhau thỏa thuận lễ vật chọn ngày giờ tốt làm lễ cưới mong tránh khỏi trắc trở về sau. Trong lễ cưới, họ nhà trai gồm bà con thân thích, phù rể và người gánh xiểng (đựng lễ vật) đưa chú rể đến nhà gái. Số người luôn là số chẵn. Ðến ngõ nhà gái, họ nhà gái đốt pháo chào mừng, đón tiếp họ nhà trai vào nhà. Lễ vật được đặt lên bàn thờ tổ tiên trước sự chứng kiến của hai họ. Ðôi tân hôn lạy trước bàn thờ, kính cáo với tổ tiên, ông bà bên vợ và trao nhẫn cưới. Ðại diện hai họ nói những lời tốt đẹp cảm ơn nhau, họ nhà trai nhận dâu, họ nhà gái nhận rể. Sau đó là tiệc mừng giữa hai họ với bà con bên nhà gái. Ðúng giờ đã định, họ nhà trai rước dâu, họ nhà gái đưa dâu về nhà chồng. Số người họ nhà gái đi đưa dâu thường là bằng số người nhà trai. Phía nhà trai cũng tiếp đón tương tự. Ðôi tân hôn lạy trước bàn thờ kính cáo với tổ tiên ông bà, bên phía chồng. Tiếp đó là lễ tơ hồng, tạ nguyệt lão xe duyên cho vợ chồng trăm năm hạnh phúc. Xong lễ cưới, chiều hôm đó hoặc ba ngày sau vợ chồng đưa nhau về bên nhà vợ làm lễ “phản bái” để cảm ơn cha mẹ vợ có công sinh thành nuôi dạy người con gái và tổ chức lễ cưới.
Ngày trước có nhiều gia đình giàu thách cưới rất phiền phức, làm ảnh hưởng đến hạnh phúc của đôi trẻ.
Ngày nay, nam nữ thanh niên đến tuổi trưởng thành tự tìm hiểu nhau, song cha mẹ vẫn giữ vai trò quan trọng trong việc dựng vợ gả chồng cho con. Khi hai bên đã thỏa thụận thì làm thủ tục đăng ký kết hôn tại chính quyền cơ sở. Tục gánh xiểng được thay bằng mang đôi quả đựng lễ vật. Và từ đầu năm 1995, bỏ tục đốt pháo trong lễ cưới.
Sinh con:
Thông thường vợ chồng thích sinh con trai đầu lòng. Con đầu lòng thường sinh ở nhà cha mẹ vợ (con so nhà mạ, con rạ nhà chồng). Trong mỗi làng thường có bà “mụ” chuyên giúp cho sản phụ mẹ tròn con vuông.
Theo tập quán, đứa bé sinh ra, rốn được cắt chôn hoặc giấu cẩn thận, tránh thấm nước mái hiên để đứa trẻ khỏi bị ghẻ ở đầu hoặc loét mắt. Sản phụ nằm ở buồng kín, tránh gió, dưới giường luôn có nồi lửa than, ăn thức ăn khô và mặn. Ðến hôm “đầy cử” (trai bảy ngày, gái chín ngày), sau khi xông muối, xoa nghệ, người mẹ mới được ra khỏi buồng và một tháng sau mới dần trở lại sinh hoạt bình thường. Ðứa trẻ được tắm rửa sạch, quấn tả lót, thường hơ lửa, đánh dầu kỹ lưỡng. Ðến lúc đầy tháng (gái tụt hai, trai tụt một ngày), cha mẹ cùng xin keo và đặt tên cho con. Tên con thường thể hiện ước mong của cha mẹ về tương lai con cái tránh trùng tên tổ tiên, ông bà và những bà con gần gũi. Bên cạnh tên chính, vì mê tín, có khi đứa bé được dặt tên phụ xấu hơn để quý thần quên đi đứa trẻ, cha mẹ dễ nuôi.
Con tròn một năm tuổi, cha mẹ tổ chức lễ.cúng “thôi nôi”. Trong lễ người ta đặt các loại bút giấy, gương lược, kim chỉ, bánh kẹo… để khi đứa trẻ cầm vật gì trước thì người ta dự đoán tương lai nghề nghiệp của nó. Những đứa trẻ “khó nuôi” thường được cha mẹ đem lên chùa xin làm con của Phật, hoặc đem đến thầy cúng làm con tổ tiên (tục này gọi là “khoán”, “bán khoán” đến 10, 12 tuổi làm lễ chuộc về. Khi người khác ẳm đứa trẻ đi đâu thì bôi lọ nồi lên trán để tránh điều không hay. Con khóc đêm (dạ đề) hoặc giật mình thì lấy đồ sắt để ở đầu giường. Con nấc thì lấy lá trầu dán vào trán… Ngày nay các phong tục tập quán lạc hậu trong sinh con chỉ còn rất hiếm, ở vùng xa xôi hẻo lánh. Ða phần phụ nữ đã sinh con tại nhà hộ sinh địa phương hoặc khoa sản bệnh viện. Các lễ đặt tên con, “thôi nôi” đã giản ước và tiến bộ hơn trước.
Tang ma:
Người hấp hối được đưa ra chánh tẩm, con cái tụ lại xung quanh để nghe lời trăn trối. Người chết được tắm rửa bằng trầm hương, thay quần áo sạch, đắp tờ giấy trắng lên mặt. Gia đình lấy ít gạo hoặc ít vàng bỏ vào miệng người chết, gọi là “phạn hàm” (phong tục từ Trung Quốc cổ đại). Phạn hàm xong, người chết được đặt nằm trên chiếu trải dưới đất, sau một lát, đưa lên giường. Người thân thuộc trong nhà đều im lặng, cùng niệm Phật khi có tụng kinh (nếu gia chủ theo đạo Phật), đi chân không, không dùng đồ trang sức, không trang điểm son phấn.
Khâm liệm người chết thì tùy giàu nghèo mà dùng vóc nhiễu tơ lụa, hoặc vải trắng để may đồ đại liệm và tiểu liệm. Ðồ tiểu liệm là tấm chăn nhỏ bọc thi thể, đồ đại liệm là tấm chăn lớn bọc ngoài, có một đai buộc dọc và 5 đai buộc ngang. Ngoài ra còn có. bao bàn tay, bàn chân để giữ cứng các đốt tay chân không rơi vãi khi cơ thể người chết tan rửa.
Khâm liệm xong, người ta đặt thi hài vào quan tài, đem để giữa nhà (nếu trong nhà còn người lớn hơn thì để một bên), đầu quan tài luôn hướng ra ngoài sân. Trên quan tài đặt 7 ngọn đèn, lư hương, một chén cơm bông và hột gà luộc để thờ. Trước linh cửu có đặt linh tọa (bàn thờ vong) gồm bài vị, ảnh, đèn cầy, hồn bạch. Sau đó làm lễ phát tang (lễ thành phục). Thân quyến người chết dâng lễ lên linh tọa, bịt khăn tang, mặc tang phục, thứ tự xếp hàng lễ bái, luân phiên túc trực bên linh cửu để cúng và tạ ơn khách đến viếng. Khi quan tài quàng trong nhà, người ta thường mời phường bát âm xướng nhạc tang tỏ lòng thương tiếc và đưa hồn người chết về nơi siêu thoát.
Hội đua thuyền trên Sông Trà Khúc
Hội ra quân đánh cá đầu năm:
Ngư dân vùng biển có hội ra quân đánh cá vào ngày mồng 3 tháng Giêng âm lịch. Các tàu thuyền đánh cá tập trung làm lễ. Chủ thuyền mặc áo dài khăn đóng rất trang trọng. Thuyền mang nhiều pháo, vừa chạy ra khơi vừa đốt pháo.
Ðánh xong mẻ lưới cá đầu tiên, họ quay vào vui vẻ chúc mừng nhau.
Thờ cá Ông:
Ngư dân có tục thờ cá Ông (cá voi). Cá Ông hiền lành, có khi đỡ thuyền bị nạn, ngư dân tin đó là thần linh. Khi cá chết dạt vào bờ, ngư dân tổ chức lễ mai táng, cúng tế và lập đền thờ. Lúc mai táng và ngày rằm tháng 7 hàng năm có tổ chức, hát bá trạo, điệu hát phổ biến của dân vạn chài.
Tôn giáo:
Ngoài thờ phụng tổ tiên và những người thân yêu đã chết, ngoài đức tin vào thần linh gắn liền với nghề nghiệp, một số dân Quảng Ngãi còn có lòng sùng kính đạo Phật từ hàng trăm năm trước. Ðạo Phật với thuyết từ bi hỉ xã, lấy ăn ngay ở thật làm đầu, không phân biệt giàu nghèo, thứ bậc, nên có sức lôi cuốn nhiều người. Ngoài một số ít người tu hẳn ở chùa, còn hầu hết thiện nam tín nữ thường đi chùa vào các ngày ràm, mồng một nhất là ngày lễ Phật đản và ngày Vu lan.
Chùa Tỉnh hội Phật Giáo
Một số dân trong tỉnh còn theo đạo Thiên chúa, đạo Tin lành, đạo Cao đài với những đức tin khác nhau và nghi lễ thờ phụng khác nhau, cũng với ý thức hướng thiện, tránh điều ác.
Blog mĩ thuật
Cập nhật thông tin chi tiết về Phần 1 Giáo Huấn Của Kinh Thánh trên website Apim.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!