Bạn đang xem bài viết Ngôi Nhà Chết Chóc Bí Ẩn Ở Thái Bình: Cả Trăm Nhà Tâm Linh Bỏ Chạy (5) được cập nhật mới nhất trên website Apim.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Ngôi nhà chết chóc bí ẩn ở Thái Bình: Đại tang trong lễ cúng trăm ngày (4) Thầy cúng bỏ chạySau cái chết bất đắc kỳ tử của bà Nguyễn Thị Đào và cháu nội Trần Quốc Khánh, cùng hàng loạt người bất tỉnh nhân sự tại lễ cúng trăm ngày ông Trần Văn Rạng, thì đại gia đình và nhân dân xóm 9 (Vũ Tây, Kiến Xương, Thái Bình) hoang mang tột độ.
Không khí và khung cảnh ngôi làng thoi loi giữa cánh đồng khi đó quả thực vô cùng nghiêm trọng. Hàng trăm nhà tâm linh vào cuộc cũng không ngăn được thảm họa kinh hoàng.
Khoa học bó tay
Sự việc kỳ lạ này không còn giới hạn trong xóm 9, mà đã lan ra khắp tỉnh. Đích thân bà Hà Thị Lãm, khi đó đương chức Phó Chủ tịch UBND tỉnh Thái Bình, đã nhiều lần về tận nơi, chỉ đạo sát sao các lực lượng chức năng cùng vào cuộc, đảm bảo an ninh trật tự, tuyên truyền để bà con an tâm sinh sống. Lực lượng công an cũng vào cuộc điều tra, truy tìm nguyên nhân những cái chết xảy đến với gia đình ông Trần Văn Rạng.
Anh Trần Văn Việt nhớ lại: “Hồi đó, tôi chỉ là thằng bảo vệ quèn ở một nhà máy, mà công an chìm nổi bám theo suốt. Có hôm, đi ăn sáng, đã thấy mấy ông ngồi phía xa, lúc thì trong vai xe ôm, lúc ngồi quán nước, lúc lượn lờ ngay cạnh, có lúc hở cả súng ở cạp quần. Đến nỗi, đêm hôm mò đi ăn bát cháo, mà cũng có mấy người đi theo. Tôi biết thừa họ theo sát ngày đêm để tìm xem có ai ám hại những người trong gia đình tôi không, nhưng chẳng có đâu, vì cái thảm kịch nhà tôi là chuyện tâm linh, chứ nhà tôi có làm ăn, lừa đảo ai cái gì đâu mà có kẻ ám hại”.
Anh Trần Văn Việt.
Tìm hiểu từ những gia đình hàng xóm nhà ông Rạng, như nhà ông Nguyễn Văn Thung, bà Nguyễn Thị Tuyết, thì đúng là thời điểm đó có rất nhiều cán bộ an ninh đã túc trực ở nhà dân trong xóm suốt ngày đêm để nắm tình hình.
Có tới mấy chục nhà khoa học cũng vào cuộc. Các nhà nghiên cứu đã về tận nơi lấy mẫu vật đất xung quanh nhà, lấy nước trong bể, nước ở ruộng, nước giếng đem đi phân tích. Họ còn lấy rau cỏ trong vườn, ngoài ruộng, mẫu gạo, thóc trong nhà đem đi. Thậm chí, một nhóm nhà khoa học đã chuyển các mẫu đất ra nước ngoài để phân tích, tìm nguyên nhân, tốn kém cả tỷ bạc, số tiền rất lớn ngày đó.
Ông Nguyễn Văn Thung, là anh trai bà Đào, tức anh vợ ông Rạng nhớ lại: “Hồi đó, ngày nào tôi cũng phải đón tiếp, trả lời mấy nhà khoa học. Họ cứ hỏi đi hỏi lại, vặn vẹo lung tung, đến nỗi tôi từ chối không muốn tiếp nữa. Có lúc tôi phải bảo các anh thông cảm, từ sáng đến chiều tôi cứ tiếp các anh, chưa được ăn miếng nào, tôi mà ngã ra đây, thì các anh cũng không tìm được nguyên nhân nào đâu, lại chỉ gây thêm hoang mang dư luận mà thôi”.
Thời điểm đó, cán bộ điều tra đã thu thập mấy miếng vỏ thuốc trừ sâu vứt ở bờ ruộng, cạnh nhà ông Trần Văn Rạng. Từ việc thu thập mẫu vật đó, mà người dân đồn ầm lên rằng có việc bỏ độc giết người do thù oán.
Ông Nguyễn Văn Thung là anh vợ ông Rạng, nắm rất rõ câu chuyện tang thương ở nhà ông Rạng.
Tuy nhiên, lời đồn này nhanh chóng bị loại bỏ. Cảnh sát điều tra không tìm ra nguyên nhân, động cơ gây án nào. Gia đình ông Rạng chỉ làm thuần nông, không có mâu thuẫn với ai trong làng ngoài xóm. Những vỏ thuốc trừ sâu chỉ là do người dân bỏ lại bờ mương khi pha thuốc phun ruộng lúa, đó là việc hết sức bình thường ở vùng quê lúa.
Trong quá trình diễn ra thảm kịch, các nhà khoa học cũng không tìm được bất cứ loại chất độc nào tồn tại trong mẫu nước, đất, rau, củ, quả ở nhà ông Rạng. Điều này cũng đã được các bác sĩ khẳng định lại bằng việc không tìm ra chất độc nào trong máu những nạn nhân tự dưng lăn ra ngất, co giật, chết. Tóm lại, những kết luận của bệnh viện trong quá trình điều trị cho các nạn nhân nhà ông Rạng, chỉ là suy nhược cơ thể, huyết áp không đều…
Rất nhiều chuyên gia, với máy móc hiện đại cũng đã được điều về nhà ông Rạng để đo phóng xạ khu vực sinh sống. Tuy nhiên, người ta cũng không phát hiện ra điều gì bất thường ở mảnh đất này.
Nhiều chuyên gia phong thủy về đây còn khẳng định, mảnh đất với cây cỏ tốt tươi thế này thì không thể có tia đất xấu, phong thủy xấu. Trong con mắt của các nhà phong thủy, mảnh đất nhà ông Rạng có tới 2 mặt là cánh đồng, thoáng mát, sạch sẽ, trong lành, là chỗ đắc địa để sinh sống.
Và cho đến tận hôm nay, các kiến thức, trí tuệ cũng đã đều bó tay trước những cái chết kỳ lạ này. Câu trả lời cho những cái chết xảy đến với gia đình ông Rạng vẫn được gia đình, xóm làng, kể cả chính quyền địa phương mong chờ. Không có được kết luận chính xác, thì người dân, với vốn hiểu biết chưa ra khỏi lũy tre làng, chỉ có thể đổ cho nguyên do “thánh vật”.
Những nhà tâm linh kỳ lạ
Không biết bấu víu vào đâu, đại gia đình ông Rạng chỉ biết trông chờ vào những ông thầy cúng, thầy bùa. Nhưng khi sự việc trở nên đình đám, họ Trần ở làng này không phải đi tìm thầy nữa, mà thầy cúng, thầy pháp, thầy bùa, nhà ngoại cảm ở khắp cả nước tự đến tìm cách hóa giải kiếp nạn giúp gia đình.
Khi gia đình ông Rạng liêu xiêu, thì ông Nguyễn Văn Thung và ông Trần Văn Lưu là người đứng ra lo liệu mọi việc cho gia đình ông Rạng, kể cả mặt tâm linh. Ông Thung bảo, suốt thời điểm kéo dài cả năm trời, ông không nhớ nổi đã có bao nhiêu thầy bà đến giúp, có lẽ con số phải lên đến cả trăm người.
Có những hôm, thầy cúng, thầy tâm linh nhiều đến nỗi ngồi kín nhà, tràn ra cả sân, vườn. Họ tự chuẩn bị lễ, tự lo ăn uống và làm việc thiện giúp gia đình, chứ gia đình ông Rạng khi đó người chết, kẻ bệnh, kinh tế cạn kiệt, không còn sức lực nào để lo cho những ân nhân đó nữa.
Ngôi nhà xây dở trên nền ngôi miếu của anh Trần Văn Út.
Trong số những ông thầy cúng, thì gia đình ông Rạng ấn tượng nhất với ông Phương ở xã Vũ Đông. Ông này vốn được mời đến để lo phần âm giúp gia đình ông Rạng ngay từ những ngày đầu.
Hôm trăm ngày ông Rạng, thầy Phương cũng được mời đến. Sau khi cúng bái, ông này tuyên bố hăng lắm. Ông nói, chỉ có ông mới trị được, không ai làm được chuyện này. Thế nhưng, ông vừa tuyên bố xong, thì hàng loạt người lăn ra bất tỉnh, người chết tại chỗ, người chết ở bệnh viện, người phải đi cấp cứu.
Sau sự việc đó, ông Phương cũng quay lại làm tiếp. Ông lập đàn ngũ phủ 5 tầng, lễ bái ghê gớm ở ngôi miếu. Tuy nhiên, đang đốt nhang, lửa cháy đùng đùng, tin rằng sức mình không làm nổi, ông này bỏ chạy thoát thân, không dám quay lại nữa.
Sau khi bà Đào chết được vài hôm, thì mấy chục người đi trên một xe khách lớn đến tận nhà ông Rạng. Họ giới thiệu là hội tâm linh ở mãi chúng tôi Họ không hỏi gia đình điều gì, cũng không làm phiền đến gia đình. Họ chỉ xin một chỗ trong sân để làm lễ.
Ban thờ lạnh lẽo khói hương với rất nhiều di ảnh.
Ông Thung kể: “Tôi tiếp xúc với một người trong hội đó, thì họ bảo do bề trên yêu cầu họ về tận làng để giúp gia đình ông Rạng tai qua nạn khỏi. Mấy chục người ngồi thành hàng thành lối. Không ai nói câu gì. Họ tụng kinh hộ niệm hay giải nghiệp gì đó trong vòng 30 phút. Làm lễ xong, họ bảo gia đình cứ yên tâm sinh sống, từ này không phải lo lắng chuyện “ma hành, thánh vật” nữa. Họ đã giải hoàn toàn nghiệp chướng cho gia đình.
Nói xong, họ ra xe rồi vào thẳng Sài Gòn. Đến giờ tôi cũng không hiểu vì sao họ lại nhiệt tình như thế. Họ đi về vất vả mấy ngày trời chỉ để ngồi tụng kinh mấy chục phút. Nhưng rồi, công sức của họ cũng công cốc. Những người trong gia đình ông Rạng, rồi hàng xóm vẫn cứ lăn ra giãy đành đạch, người chết, người phải đi viện cấp cứu”.
Trong số các nhà tâm linh, còn có một người phụ nữ, là tiến sĩ, cô này được các đệ tử đi theo giới thiệu là đã có nhiều năm học ở Trung Quốc, chuyên trị các vấn đề tâm linh. Cô này dùng nhiều máy móc đo đạc, rồi ngồi trước ngôi miếu tập trung tư tưởng, “gọi thần linh” lên “nói chuyện”. Cách làm của cô này vừa mang tính khoa học, vừa tâm linh huyền bí. Suốt một ngày trời cô loay hoay làm lễ, cúng bái, “nói chuyện với các đấng tối cao” ở chỗ ngôi miếu sát bờ ao, nhưng rốt cục cũng chẳng mang lại kết quả gì.
Rồi một ông sư mặc áo vàng, từ trong Nam ra. Ông này đến một mình, mang theo một chiếc chuông nhỏ, một chiếc coong đồng. Ông ngồi theo tư thế kiết già ở giữa sân. Trời nắng trang trang mà vị sư này không thèm che ô, đội mũ, cứ ngồi dưới cái nắng như đổ lửa, rồi hơi nóng hầm hập bốc lên từ sân gạch.
Lối vào nhà ông Rạng ít người dám qua lại.
Nhiều người nhìn cảnh ấy mà xót xa, muốn đem ô, đem mũ, thậm chí dựng căn lều ở chỗ vị thiền sư ngồi, song ông từ chối. Ông yêu cầu gia đình không được giúp đỡ ông, cũng không được làm phiền ông, cứ coi như ông không có mặt ở mảnh đất này.
Sau khi phơi nắng suốt một ngày, đến chiều trời nổi giông gió, mây đen ùn ùn kéo đến, rồi mưa như trút nước. Tuy nhiên, vị sư với dáng người còm nhom vẫn ngồi bất động. Miệng ông niệm rất nhỏ, như thể chỉ để ông nghe thấy. Thi thoảng ông vươn tay gõ vào chiếc coong đồng kêu coong coong.
Nhiều người nhìn cảnh vị sư dãi nắng dầm mưa mà không khỏi xót xa, rơi nước mắt. Nhiều người không vái thánh thần ở ngôi miếu, mà cứ xì xụp khấn vái vị sư kỳ lạ nọ. Điều kỳ cục là ông cứ ngồi kiết già giữa sân như thế đến tận sáng hôm sau.
Đến khoảng 9 giờ sáng, đúng thời điểm ông bắt đầu kiết già hôm trước, tức là đủ 24 giờ thì ông đứng dậy. Trong suốt thời gian đó, vị sư này không ăn, không uống, cũng không nói với ai câu gì. Lúc ông hoàn thành công việc, ông cũng không trả lời bất cứ câu hỏi nào. Ông chỉ chắp tay vái chào những người trong gia đình, nói hai chữ “Mô Phật”, rồi quay gót đi. Ngoài đầu đường làng, chiếc xe con sang trọng đã mở cửa sẵn chở vị sư kỳ lạ này đi.
Vị “Thánh” xuất hiện?
Hành động kỳ lạ của vị sư khiến mọi người đều nghĩ đó là một vị thánh. Ai cũng tin rằng, vị thánh đã đến đất này hóa giải mọi kiếp nạn. Nhưng thật trớ trêu, là sau khi ông sư này đi, thì không những kiếp nạn trong đại gia đình ông Rạng không được hóa giải, mà tiếp tục diễn ra cái chết của anh Trần Văn Út. Sau một thời gian nằm Bệnh viện Bạch Mai, thấy sức khỏe hồi phục, nên các bác sĩ cho về. Về nhà hôm trước, hôm sau anh Út lăn ra đột tử.
Ngay sau hôm anh Út chết, thì một nhóm tâm linh gồm 40 người, là các Phật tử từ Hà Nội về, do một vị sư dẫn đầu. Cảm động với tấm lòng của các Phật tử, con cháu gia đình ông Rạng đã đề nghị mổ gà, làm cơm, nhưng họ đều từ chối. Họ chỉ nhờ gia đình nấu cho mấy nồi nước lã.
Họ đề nghị gia đình không được giết con gì, không được sát sinh trong thời điểm họ tổ chức buổi tụng kinh và trong mấy ngày tới. Nhóm Phật tử này cứ ngồi như vậy đọc kinh từ chiều đến tận sáng hôm sau. Họ không ăn, cũng không ngủ, không nghỉ ngơi gì cả.
Ông Thung kể: “Thấy mấy chục bà, người già, người yếu, mà ngồi tụng kinh từ chiều đến sáng hôm sau, tôi lo lắng lắm. Khuyên họ nghỉ ngơi, ăn uống không được, tôi mắng rằng, các thầy không ăn uống uống gì thì sống thế nào được. Nếu các thầy không chịu ăn uống, nhỡ lăn ra chết thì chúng tôi chôn sao cho xuể. Thú thực, lúc đó tôi cũng sợ họ lăn ra co giật, bất tỉnh. Từng ấy người mà bị một lúc, thì gia đình chúng tôi làm sao mà lo được”. Sáng hôm sau, họ bảo đã cúng xong, rồi đi luôn.
Trong số những thầy cúng, thầy bùa, thầy pháp, nhà tâm linh, thì có một ông thầy rất kỳ lạ tên Khương.
Bữa đó, vào buổi chiều, có một người đàn ông chừng 40 tuổi, rất to béo, nhưng ăn mặc rách rưới, da ngăm đen, tướng tá đặc nông dân lam lũ. Thế nhưng, đôi mắt anh rất sáng, toát lên vẻ hiền từ.
Gặp mọi người trong gia đình ông Rạng, anh này từ tốn bảo: “Thưa các thí chủ. Tôi không biết các thí chủ là ai, tên là gì, nhưng tôi biết rõ đại họa xảy đến với gia đình thí chủ. Thánh đã cử tôi phải trực tiếp về đây để giải quyết chuyện này”.
Theo lời kể của người đàn ông giới thiệu tên là Khương này, thì anh ta quê ở mãi Bình Phước, giáp biên giới Campuchia. Gia đình anh này có mấy héc-ta trồng cao su cùng với 4 héc-ta trồng cam, quýt. Từ xưa đến nay, anh này vốn không tin những chuyện tâm linh, thậm chí, anh còn không thờ cúng gì cả.
Ngôi miếu được gia đình ông Rạng xây lại ở bờ ao.
Sinh ra ở vùng núi non biên giới, mới về Sài Gòn đôi lần, chưa ra miền Bắc bao giờ, nên tỉnh Thái Bình ở đâu anh cũng chẳng biết. Thế nhưng, theo lời kể của anh, hôm đó, anh cùng gia đình đang tiến hành thu hoạch cam, trong giấc ngủ trưa chập chờn tại gốc cây bóng mát giữa rẫy cam, thì một vị “Thánh” râu tóc bạc phơ xuất hiện trước mặt rõ mồn một. Lúc đó, rồi cả sau này, anh cũng không giải thích được đó là giấc mơ, hay là sự thực hiển nhiên trước mắt.
Khi anh đang ngủ, thì ông cụ xưng là “Thánh” này đánh thức anh dậy. Vị “Thánh” này nói: “Tôi là Thánh và tôi đề nghị anh phải lập tức ra Thái Bình giúp đỡ một gia đình đang gặp cảnh chết chóc thảm hại”. Anh Khương bảo: “Tôi có mấy héc-ta cam đang thu hoạch làm sao bỏ đi được? Với lại, tôi đầu tư hết tiền bạc vào vườn cam này, còn đang nợ nần chồng chất, một xu dính túi không có, thì làm sao đi xa thế được”.
Ông cụ râu tóc bạc phơ này nói tiếp: “Anh cứ đi, sẽ có xe đưa xe đón, có người cho tiền để ăn”.
Không biết lời kể của vị thầy pháp này có đúng không, nhưng theo anh ta thì hàng loạt điều kỳ lạ đã xảy ra. Khi anh ta ra khỏi rẫy, thì gặp một anh lái xe tải trong ấp có việc xuống Sài Gòn. Anh lái xe đã mời anh Khương cùng đi cho vui. Anh ta đã chở anh Khương đến tận bến xe Miền Đông.
Khu vườn đầy những câu chuyện kinh dị.
Anh này tìm xe khách về tận Thái Bình. Khi xe chuyển bánh, bà chủ xe, người thu tiền đã trò chuyện với anh. Anh này tâm sự thật về chuyện có một vị “Thánh” bảo cứ ra Thái Bình, để giúp một gia đình đang gặp đại nạn, chết chóc liên tục, chứ bản thân anh cũng chưa biết đi đâu.
Nghe anh này kể vậy, bà chủ xe tái mặt. Hóa ra, bà chủ xe này là người ở xã Vũ Tây, biết rõ chuyện “ma hành, thánh vật” đang gây náo loạn trong tỉnh. Bà khẳng định rằng, “Thánh” hiển linh chỉ anh về xã Vũ Tây cứu giúp đại gia đình ông Trần Văn Rạng.
Mặc dù đã chuẩn bị một chút tiền trong túi, nhưng khi trả tiền, bà chủ xe này nhất định không lấy. Không những thế, bà còn trả tiền ăn cho anh trong suốt hành trình. Bà chủ xe này nhất nhất xưng là con, gọi anh ta bằng cậu.
Khi về đến bến xe Thái Bình, bà kêu xe ôm chở anh về tận nhà ông Rạng và trả tiền trước cho xe ôm. Bà cũng hẹn “cậu” có mặt ở bến xe vào mấy hôm nữa, để bà đưa “cậu” vào Sài Gòn, lo cho “cậu” về đến tận Bình Phước mà không mất bất cứ đồng nào.
Nghe câu chuyện về ông thầy pháp tên Khương này, con cháu ông Rạng hết sức cảm kích. Anh này không đòi hỏi gì, cũng không yêu cầu gia đình phải phục vụ cơm nước. Theo lời anh ta, bình thường anh ăn rất khỏe, mỗi bữa 4-5 bát cơm không biết no, thế nhưng, thời gian ở nhà ông Rạng, anh từ chối mọi đồ ăn. Đến bữa, anh này chỉ hái mấy quả mướp ở vườn nhà ông Rạng luộc ăn, rồi lại ngồi kiết già, nhắm mắt nói bằng thứ tiếng mà không ai hiểu gì.
Bản thân anh này, lúc tỉnh táo lại, cũng không biết anh đã nói gì. Anh bảo rằng, khi ngồi nhắm mắt, vị “Thánh” đã nhập vào anh, nói thay anh. Khi đó, anh không điều khiển được lý trí của mình. Theo kế hoạch mà vị “Thánh” kia sai bảo, thì việc cúng bái tại nhà ông Rạng phải diễn ra liên tục 3 ngày 3 đêm.
Ông thầy pháp tên Khương bảo: “Tôi làm việc nghĩa, không lấy đồng nào của gia đình, đến cả lễ lạt cũng tự tôi bỏ tiền sắm sửa, tôi cũng không làm phiền đến làng xóm, cớ gì anh đuổi tôi?”.
Không bắt bẻ được gì, ông trưởng thôn bỏ đi. Tuy nhiên, lát sau ông quay lại với chiếc gậy trên tay. Ông trưởng thôn cứ cầm gậy chọc vào ông thầy pháp này. Đúng lúc đó, tại nhà ông Rạng xuất hiện thêm mấy nhà tâm linh nữa. Thế nhưng, ông trưởng thôn đã đuổi họ về hết.
Không thể tiếp tục cúng bái, thầy pháp tên Khương này buộc phải rời nhà ông Rạng. Anh ta đi bộ từ xã Vũ Tây lên bến xe Thái Bình. Một người con của ông Rạng đã phóng xe máy đuổi theo nhưng không kịp. Vị thầy pháp bí ẩn đã lên xe đi mất.
Câu chuyện về ông thầy pháp này có lẽ sẽ không để lại nhiều dấu ấn, bởi trong thời gian đại gia đình ông Rạng diễn ra nhiều chuyện liêu xiêu, có tới cả trăm nhà tâm linh tìm đến giúp đỡ một cách tự nguyện, nếu không có chuyện mấy năm sau, vị trưởng thôn này qua đời một cách kỳ quái – như đồn thổi của người dân trong làng.
Hoài Thu @ 22:27 14/09/2018 Số lượt xem: 94
Bí Ẩn “Hồn Ma” Trong Ngôi Nhà Có 10 Người Điên Ở Hải Phòng
Sự bí ẩn, cùng nỗi sợ hãi không chỉ khiến người dân ở đây tò mò về ngôi nhà “ma ám” số 57 ngõ 239 đường Đà Nẵng, TP Hải Phòng. Nhiều thầy địa lý, thầy cúng, thầy phong thủy, thậm chí cả thiền sư có tiếng đã tìm đến ngôi nhà này để trấn yểm nhưng tất cả đều lực bất tòng tâm.
Cho đến thời điểm hiện tại, nhiều người dân trong con ngõ 239 trên đường Đà Nẵng, thành phố Hải Phòng vẫn cảm thấy “rờn rợn”, mỗi lần đi ngang qua ngôi nhà vào buổi đêm. Sự bí ẩn, cùng nỗi sợ hãi không chỉ khiến người dân ở đây tò mò về ngôi nhà”ma ám” này. Mà thậm chí nhiều thầy địa lý, thầy cúng, thầy phong thủy, thậm chí cả thiền sư có tiếng đã tìm đến ngôi nhà này để trấn yểm, rồi cũng phải bỏ của chạy lấy người vì lực bất tòng tâm. Để rồi, những người sống trong ngôi “nhà ma” này, từng người một, cứ thế phát điên một cách đầy bí ẩn. Trước những thông tin đồn đoán về ngôi “nhà ma” hiện hữu ngay tại khu phố sầm uất, không thể không chú ý.
Bí ẩn trong ngôi nhà “ma”
Đi sâu vào con ngõ nhỏ ngoằn ngoèo, không khó để nhận ra ngôi nhà “ma ám” của bà Nở. Căn nhà rộng chừng 60 – 70m2 ở cuối ngách 9, cũ nát, lúp xúp, tường lở loang lổ, cổng sắt hoen rỉ, xộc xệch, ngôi nhà có vẻ hoang vắng lạnh lẽo lạ thường. Sau một hồi gọi cửa, một người đàn bà đầu tóc rũ rượi, áo quần xộc xệch vội vàng ra mở cửa đón khách. Trong nhà chỉ có bà và cô con gái út tên Bích, thấy chúng tôi cô gái vội vàng núp sau cánh cửa, đôi mắt đầy vẻ hoảng sợ. Vừa bước chân vào nhà, cảm giác một luồng khí lạnh chạy dọc sống lưng, khiến chúng tôi không khỏi rùng mình. Nắm chặt hai bàn tay lại với nhau để chấn an, đưa mắt nhìn quanh ngôi nhà chúng tôi thấy trên bức tường loang lổ, là chi chít những lá bùa với nhiều hình thù kỳ quái. Như thể đoán ra được suy nghĩ của chúng tôi bà Nở nói: “Đấy toàn là những lá bùa hộ mệnh, dùng để đuổi tà ma mà các thầy pháp, cũng như các thầy cúng tìm đến nhà tôi để giúp trấn yểm đấy”.
Bà Nguyễn Thị Nở xót xa khi nói về những bí ẩn quanh ngôi nhà được cho là có “ma” của mình.
Theo bà Nguyễn Thị Nguyệt – Tổ trưởng tổ dân phố Cầu Tre cho chúng tôi biết: trong 10 người con của bà, có 3 người bị thất lạc. 4 người được cơ quan nhà nước đưa đi chữa trị ở trung tâm dưới Vĩnh Bảo, trong đó có một người là Nguyễn Văn Đức đã chết được 4 năm vì uống nước nhà vệ sinh. Một người con trai của bà tên là Hậu hiện đang đi làm ở trong Miền Nam, giờ trong nhà chỉ còn bà và cô con gái út tên Bích. Hai người con sau cùng của bà Nở này tuy không phải đi chữa trị, nhưng hàng tháng vẫn phải dùng thuốc, vì bị mắc bệnh thần kinh phân liệt.
Theo bà Nở, thì gia đình bà đã chuyển về sống ở ngôi nhà này đã được hơn 20 năm. Cũng chính từ khi về đây, tại họa cứ thế liên tiếp ập đến với gia đình bà. Bà Nở chia sẻ: “ngôi nhà gia đình bà ở là mua lại của một anh lái tàu biển quê Đà Nẵng rất giàu có. Anh ta mua ngôi nhà này cho vợ ở và thi thoảng về thăm vợ mỗi chuyến cập bến Hải Phòng. Mỗi lần về, anh ta lại mang về một nắm vàng, vợ đựng đầy ống bơ. Hai vợ chồng vàng đeo lủng liểng khắp người. Thế nhưng, một ngày, hai vợ chồng anh này nổi điên, mọi người ở đây đồn là họ bị ma ám. Lúc tỉnh táo, anh ta đã gọi vợ chồng bà đến, bán cho với giá bằng nửa tháng công bốc vác xi măng. Sau đó hai vợ chồng anh này chuyển đi đâu, giờ sống chết thế nào tôi cũng không rõ nữa”.
Không biết lời đồn có đúng hay không, hay là do nặng nợ truyền kiếp nữa. Nhưng số phận gia đình bà Nở từ khi chuyển đến sống trong ngôi nhà ở Cầu Tre này, thì tai họa cứ ập đến với những người thân trong gia đình bà một cách đầy bí ẩn. Còn chuyện thấy linh hồn người chết thì bà Nở thấy nhiều lắm, bà tâm sự: “Tôi không rõ lắm chuyện tâm linh, nhưng từ khi chuyển về ngôi nhà này sống, thỉnh thoảng trong giấc mơ tôi lại thấy cả một đoàn người, đông lắm, bộ đội có, tây đen cũng có, họ cứ đi rầm rầm quanh nhà. Người thì cụt tay, người cụt chân, máu me dính bê bết trên khắp cơ thể. Họ kêu gào đau đớn, nhiều người còn đòi tôi cho ăn, đòi tôi cho ngủ…sau những lần đó tôi có kể lại cho chồng tôi nghe, nhưng ông ấy nói là tôi mê tín. Nhiều lúc tôi cũng muốn mua đồ ăn, đồ cúng về để thắp hương cho những vong hồn này lắm, nhưng khổ nổi nhà 10 đứa con, đến cái ăn còn không có huống chi nghĩ đến chuyện tâm linh”, nói rồi bà đưa tay gạt vội những giọt nước mắt vừa lăn dài trên hai gò mà nhăn nheo bất hạnh.
Lấy lại bình tĩnh, bà Nở cho chúng tôi biết thêm: “Sau nhiều lần tôi gặp ma trong mơ, họ đòi tôi không được thì họ quay qua dọa tôi. Tôi nhớ hôm đó có một người mặc áo trắng, nhưng da thì đen xì nói với tôi rằng: nếu bà không trả lại nhà cho tôi, thì tôi sẽ làm cho các con bà phát điên, rồi từ từ mà chết. Quá sợ hãi, tôi giật mình tỉnh dậy thì biết là mình nằm mơ. Rồi tôi lại thiếp đi lúc nào không biết. Sau đó tôi lại thấy người đàn ông lúc trước cứ nắm tóc tôi đuổi tôi ra khỏi nhà, tôi sợ hãi khóc thét lên, thì người đàn ông này lại dùng tay chọc mạnh vào mạng sườn làm tôi đau đớn…Sau giấc mơ ấy, thời gian ngắn từ cái Lan là đến lượt Tâm, Dung, Đức…cho tới đứa cuối cùng là con Bích, đến hẹn lại lên, chừng tuổi đôi mươi là chúng nó giở chứng nói cười lảm nhảm, nhiều đứa điên khùng cởi quần áo đi khắp xóm nữa”, bà Nở vừa dứt lời, thì cô con gái tên Bích của bà, tự nhiên cười rú lên một cách đầy ma quái. Bà Nở chua xót: “Lúc nào nó cũng nghĩ nó bị ma nhập vào người, tội nghiệp nó mấy chú ạ. Bình thường không sao, nhưng khoảng 7 – 8 tháng nó lại phát bệnh một lần, tuổi tôi ngày càng yếu đi, không biết sau này ai sẽ chăm sóc cho nó nữa”.
Thật khó có sự sợ hãi nào khủng khiếp hơn, khi một người mẹ dứt ruột đẻ tới 10 đứa con, con trai đẹp như tượng, con gái đẹp như hoa, đều bỗng nhiên lần lượt điên khùng. Chính bởi những điều lạ lùng này, mà câu chuyện về gia đình bà Nở cùng với những đứa con điên của bà, luôn là những câu chuyện khiến người dân ở khu phố vẫn phải xì xào bàn tán, mỗi lần có ai đó, hoặc có tổ chức nào đó tìm đến để nghiên cứu, hoặc hộ trợ gia đình. Những lúc đó, người dân phố Cầu Tre, cũng như bà Nở lại thêm một lần hi vọng, để rồi sau đó, lại là một nỗi thất vọng mới.
Chị Bích con gái út của bà Nở ngồi lặng lẽ bên góc nhà
Nhìn hình ảnh người đàn bà khắc khổ, bên nỗi đau đớn của những đứa con điên đang phải vật lộn với cuộc sống, với những nỗi ám ảnh ma quỷ hiện hữu trong căn nhà nhỏ, trống hơ, trống hoác. Có lẽ ít ai hình dung ra được, sự kiên cường của bà Nguyễn Thị Nở thủa ấu thơ, khi bà một thân một mình phải chống chọi với nạn đói khủng khiếp của những năm 45. Cái đói không quật ngã được bà, nhưng giờ đây sóng gió cuộc đời, bi kịch gia đình đã khiến cho người phụ nữ này không còn sức để chống đỡ, bà Nở bảo: “Sinh ra vào năm 1945, đói rạc cả tuần không chết, rồi về già, tự tử cũng vẫn không chết. Có lẽ các vị sư nói đúng, kiếp trước tôi nặng nợ nhân gian nhiều quá nên kiếp này phải trả nợ. Đất này vốn có ma quỷ đã sống ở đây nhiều đời. Thôi, tôi đành sống cho nốt kiếp khổ này để trả nợ!”.
Sau nhiều năm vật lộn với cuộc sống, với nỗi bất hạnh khi chứng kiến 10 người con lần lượt phát điên của mình, mà không có cách nào chữa trị. Đến năm 2002 sau cái chết đột tử của ông Phong chồng bà Nở, thì nỗi đau lại nhân lên gấp bội. Cũng từ đây, bao nhiêu câu chuyện được thêu dệt, được đồn thổi xung quanh ngôi nhà của bà. Mọi người nói nhiều hơn đến chuyện ma trước đây bà mơ thấy, nhiều người còn cho là gia đình bà đang sống trên một ngôi mộ tập thể (?), rồi không biết thông tin từ đâu, hàng trăm thầy cúng, thầy đồng, pháp sư ở khắp mọi nơi tìm về nhà bà, họ đến đây cũng chỉ với mục đích duy nhất đó là “bắt ma” trừ ta, bà Nở kể: “Tôi không nhớ là có bao nhiêu thầy tìm về đây để trừ ta ma giúp chúng tôi, nhưng gần đây nhất tôi nhớ có bà Đồng ở Đông Khê có đến nói đất nhà tôi hiện nay có 306 con ma, rồi bà ấy cúng giải hạn nguyên một ngày, sau đó thì không thấy quay lại nữa. Bẵng đi một thời gian thì lại xuất hiện thầy Từ ở chợ Đà Nẵng đến trấn yểm những lá bùa lên tường nhà tôi, sau đó thầy còn đóng 7 cái đinh vào các góc nhà, góc vườn để trừ tà. Thầy Từ vừa đóng đinh được hôm trước, thì khoảng 3 hôm sau có một cô đồng trẻ tìm đến nhà tôi đòi đuổi ma giúp, sau đó cô ấy lại đòi gỡ mấy lá bùa của thầy Từ đi, rồi dán thêm mấy lá bùa mới…thật sự giờ đây tôi thấy hoang mang lắm”.
Thầy cúng thì cứ cúng, những đứa con của bà bị điên thì cứ bị điên. Họ chẳng chế ngự được cái điên rồ triền miên trong ngôi nhà này. Nỗi đau đớn bà vẫn phải gánh chịu, nỗi đau ấy khiến bà chai lì, bà bình thản và cam chịu đón tin dữ như một sự tất yếu. Trước những bi kịch của gia đình bà Nở, hàng loạt các cơ quan chức năng đã vào cuộc. Những đứa con bị điên nhất của bà đã được thăm khám, và đưa đi chữa trị tại trung tâm dành cho những người mắc bệnh tâm thần ở Vĩnh Bảo. Tài sản duy nhất của bà bây giờ là mấy cuốn sổ chứng nhận các con bà bị bệnh tâm thần. Bà bảo, nhờ mấy cuốn sổ ấy mà con bà được nhà nước trợ cấp. Số tiền trợ cấp ấy tuy ít ỏi, nhưng cũng giúp bà vơi bớt gánh lo toan. Tuy vậy, mấy năm nay, thấy lưng mỏi, chân đau, bà biết, bà chẳng còn sống được bao lâu nữa. Khi về với tổ tiên, với bà thì coi như trút hết muộn phiền, nhưng bà lo cho các con của mình lắm. Không biết chúng sẽ bấu víu vào đâu khi lơ ngơ trên cõi đời này. Ngôi nhà đáng giá tiền tỷ bỗng dưng hiu quạnh, bị người đời xa lánh bởi lời đồn ma ám. Những con bà tại sao lại bỗng dưng lần lượt phát điên, cũng không ai giải thích được. Đến lúc này, tất cả đều được đổ lỗi cho một thế lực siêu nhiên, và đó chính là “ma”.
Trao đổi với TS Vũ Thế Khanh – Tổng giám đốc Liên hiệp UIA, người trực tiếp tham gia khảo nghiệm và là chủ nhiệm của chương trình nghiên cứu khả năng đặc biệt của con người, ông cho biết: “Tôi không tin có ma quỷ trong ngôi nhà đó. Ngay cả các thầy bói, thầy cúng, thầy pháp đến xem đất nhà bà Nở, mỗi người phán một kiểu. Người bảo do kiếp trước gây tội ác, người bảo do hồn ma người TQ, người bảo có vong, người bảo không có vong hồn gì… Tôi tin rằng, căn bệnh tâm thần của 10 người con nhà bà Nở là bệnh lý di truyền. Ngoài ra, do áp lực đồn đại ghê gớm quá khiến những người sinh sống ở đó khiếp sợ, bị ảnh hưởng thần kinh, dẫn đến tâm thần. Điều cần thiết là ổn định tâm lý những người trong gia đình đó và đặc biệt là phải điều trị cho họ bằng thuốc men do bác sĩ chuyên khoa chỉ định”.
Bí Ẩn Trong Ngôi Chùa Cầu Con Nổi Tiếng Sài Gòn
Yên bình giữa lòng phố thị
Theo các tài liệu, ban đầu chùa có tên là Ngọc Hoàng Điện thờ Ngọc Hoàng thượng đế, kiến trúc mang đậm phong cách của người Hoa, với nhiều hoa văn họa tiết độc đáo, được xây dựng bằng gạch xưa, mái lợp ngói lưu ly với nhiều màu sặc sỡ.
Theo sử sách ghi lại, ban đầu ông Lưu Minh (người Quảng Đông) xây dựng để thờ cúng cho việc làm ăn thuận lợi. Đến năm 1982 chùa được hòa thượng Thích Vĩnh Khương tiếp quản. Kể từ đó ngôi chùa đã thuộc quản lý của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.
Chùa Phước Hải mang một nét độc đáo riêng, khác với những ngôi chùa khác ở Việt Nam thường thờ Phật, chùa Phước Hải lại thờ Ngọc Hoàng. Trong chùa chỉ có duy nhất một điện thờ Phật Dược Sư. Với dân gian Ngọc Hoàng là vị thánh tối cao và cũng là vua trên trời. Chùa Phước Hải ngày nay đã trở thành một di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia.
Du khách khi bước vào ngôi chùa này, sẽ thấy thanh tịnh với hồ nước ở giữa sân, trong làn khói hương mờ ảo khắp sân trên ngôi chùa cổ kính.
Chùa Phước Hải hay chùa Ngọc Hoàng
Hiện tại, nếu du khách đến chùa có thể thấy hồ chứa nước rất sạch sẽ, số lượng cá nhiều chủng loại, sống khỏe mạnh. Đặc biệt, trong hồ cá du khách sẽ thích thú khi chiêm ngưỡng chú cá trê màu trắng do người dân phóng sinh, ngoài đời rất hiếm gặp loại cá trê có màu sắc này.
Phía bên phải hồ nước có 1 khu nuôi ba ba hay còn gọi là cua đinh và nuôi rùa. Trong hồ nuôi cua đinh có một chú cua đinh màu trắng. Những chú cua đinh bình thường có màu đen nên việc trong chùa có 1 chú cua đinh màu trắng khiến du khách thích thú.
Rùa tại chùa.
Bên trái hồ nước là nơi được xây dựng một khu chuồng để nuôi rùa cạn. Những chú rùa này được Phật tử nhiều nơi mang đến để phóng sinh. Vì phật tử phóng sinh nhiều nên nhà chùa xây thêm nơi đây để nuôi. Nhiều du khách đến thăm thường mang thức ăn cho những chú rùa này.
Đi qua hồ nước là tháp để phật tử thắp hương trước khi vào chùa. Phía bên phải của tháp này có một hồ nước. Dưới hồ nước này cũng có rất nhiều rùa. Những chú rùa này mang theo những câu chuyện của nhiều người đến chùa cầu may, cầu tự…
Nhìn tổng thể bên ngoài, chùa Phước Hải được bao bọc dưới tán đa cổ thủ trăm tuổi, tạo nên vẻ cổ kính, thanh tịnh. Giữa lòng phố thị ồn ào, bước vào chùa Phước Hải du khách có thể cảm nhận được sự yên bình đến lạ. Nó dường như cách ly con người ta khỏi thế giới xô bồ…
Kiến trúc độc đáo thu hút
Trong chùa có tổng cộng trên 300 tượng thờ, được phân bố trong ba gian thờ, mỗi gian nhà thờ là một tác phẩm kiến trúc mỹ thuật mang nét đặt sắc giữa thiên – địa giao hòa.
Gian lớn nhất là tiền điện nằm ở giữa, sau đó là trung điện và chánh điện. Gian ở giữa là gian thờ các bậc thiên tướng và Ngọc Hoàng, theo thứ tự từ ngoài vào trong gồm có: Thổ địa bên trái cửa vào, Môn Quan bên phải cửa vào và Phật Dược Sư đặt ở giữa chánh điện.
Cung thờ Ngọc Hoàng ở giữa, du khách có thể thấy được vẻ uy nguy, khuôn mặt chữ điền bình thản, hai má cao và rộng, hai tay cầm cầm tịnh liễn, đầu đội mũ bình thiên, có các văn võ đứng hầu, đây là pho tượng lớn nhất trong chùa.
Bên trái là cung thờ Chuẩn Đề Quan Âm với chiếc áo vàng nhiều cánh tay còn bên phải là cung thờ Thái Ất Chân Nhân cưỡi chim hạc ở trên cao và tứ đại kim quang, hòa thượng Đạo Minh, Bắc Phương Trấn Võ. Ngoài ra còn có các tượng thờ khác như: Nam Tào, Bắc Đẩu, Hoa đà tiên sư…
Sau đó, du khách bước vào gian trung điện, hai gian này ngăn cách nhau bởi hành lang nhỏ chỉ đủ một người đi lại. Gian bên trái từ ngoài vào, từ trước ra sau có những hương án với các tượng thờ Kim Hoa thánh mẫu, mười hai bà mụ và các nhũ mẫu chạm trổ tinh tế, họa tiết ấn tượng trong các tư thế nuôi dạy cho trẻ nhỏ.
Mười bức chạm gỗ diễn tả các hình phạt tại địa ngục được chạm khắc trên chất liệu gỗ quý.
Gian tiếp theo là Thập Điện Diêm Vương, gồm có thờ các Nhị Vị song án, Mã tướng quân, Thành Hoàng Lỗ Ban và Thái Tuế, trước đó là mười bức chạm gỗ cảnh mười cửa ngục phân bổ đều trên các bức tường. Mười bức chạm gỗ diễn tả các hình phạt tại địa ngục. Nối liền 2 gian có các tượng thờ: Quan Âm, Kim Đồng, Ngọc Nữ, Địa Tạng Vương bồ tát… Những mảng gỗ sậm từ tường cột đến từng bức tượng tạo cho không gian một vẻ tĩnh mặc.
Trong 300 bức tượng trong chùa thì có đến gần 100 bức tượng được làm hoàn toàn bằng giấy bồi. Chỉ với giấy bồi và nan tre, các nghệ nhân đã đắp nên những bức tượng rất sống động, đầy vẻ oai nghiêm nhưng vẫn ẩn chứa sự hiền hòa, bình an. Gần trăm năm kể từ lúc những bức tượng này ra đời, vẫn còn giữ được nét mới, và hầu như chưa thấy dấu ấn thời gian tác động trên những bức tượng có một không hai này.
Mỗi gian điện thờ gắn liền với những câu chuyện thú vị mà khách thập phương truyền tai nhau. Người đến cầu tài cầu lộc thì qua điện Ngọc Hoàng. Người đến cầu tự thì vào điện Kim Hoa thánh mẫu… Khách đến cũng có những thủ tục và hành động tín ngưỡng nhất định để mong rằng lời khẩn cầu của mình sẽ thành hiện thực. Chính vì vậy, chùa Phước Hải còn được nhiều người truyền tai nhau là nơi cầu tự, cầu duyên linh thiêng bậc nhất Sài Thành.
Chuyện cầu con, cầu duyên
Không phải ngẫu nhiên mà các hồ trong chùa Phước Hải được người dân phóng sinh nhiều cá, nhiều rùa như vậy. Trước đây, hồ nào trong chùa cũng đầy ắp cá, rùa nhiều con to quá cỡ. Hiện tại số cá, số rùa đã được hạn chế hơn rất nhiều so với trước kia.
Sở dĩ có chuyện như vậy là vì nhiều người cho rằng, khi đến chùa khấn nguyện, tùy vào việc xin điều gì mà người ta phóng sinh con vật cho phù hợp. Ví như thả cá chép vàng, chép đỏ thì cầu làm ăn, cầu tài lộc; cá trê cầu sức khỏe, giải hạn; cá rô bí, ba ba là cầu qua tuổi hạn; phóng sinh chim là cầu siêu cho người đã mất… đặc biệt phóng sinh rùa để cầu con cái.
Nói về cầu tự, ngôi chùa Phước Hải được nhiều người dân cho rằng nổi tiếng linh thiêng. Những cặp vợ chồng đến đây thường thả một cặp rùa ghi tên tuổi của mình. Nghe đâu nếu là cặp rùa mang bầu thì càng ứng nghiệm. Nhìn bể rùa đông đúc và các tiệm bán rùa ở ngoài cổng đủ biết số lượng người cầu con đến chùa đông như thế nào.
Nơi các phật tử cầu tự nằm ở phía bên trái chánh điện có treo biển “Kim Hoa thánh mẫu” và 12 bà mụ. Đây là nơi cầu con cái nên thường đông đúc nhất, người ra vào không dứt. Ở những điện khác trong chùa, người đến chùa tự tay thắp nhang khấn nguyện chỉ trừ nơi thờ Ngọc Hoàng ở chánh điện và ở đây có thêm người của nhà chùa giúp đỡ, như một sự kết nối với đấng thần linh.
Theo tìm hiểu từ nhiều người dến cầu tự, họ cho biết Kim Hoa thánh mẫu là vị thánh coi về việc sinh đẻ trên chốn nhân gian. Bên dưới bà là 12 bà mụ, mỗi bên 6 người tư thế khác nhau. Mỗi bà lo một việc, người nắn tay, kẻ nắn chân, người nắn đầu, kẻ nắn mắt, người dạy trẻ tập bước, tập nói… Những người giúp đỡ họ khấn nguyện giải thích như vậy.
Gian thờ Kim Hoa thánh mẫu
Một người phụ nữ kể rằng, khi muốn cầu tự, người trong chùa sẽ cho họ một dây chỉ đỏ đeo vào tay rồi khấn. Nếu cầu con trai thì khấn xong treo vòng chỉ vào các bức tượng bên phải, và ngược lại, muốn sinh con gái thì treo vòng chỉ vào các bức tượng bên trái. Sau đó xoa vào bụng bà mụ 3 cái rồi xoa vào bụng mình 3 cái. Tiếp đến là xoa vào bụng đứa con nít dưới chân bà mụ 3 cái rồi lại xoa vào bụng mình 3 cái nữa.
Xong phần nghi thức đó, người giúp đỡ những người cầu tự châm đèn và đọc tên tuổi người cầu con. Theo quan sát, số lượng dây chỉ đỏ ở bên nam nhiều hơn hẳn, những bức tượng cũng láng bóng hơn bên nữ, điều này thể hiện việc cầu quý tử nối dõi vẫn chiếm phần đông.
Không biết chuyện cầu con có linh ứng hay không, nhưng dạo qua một vòng quanh chùa để hỏi han dư luận thì nhiều người cho rằng: “Cầu con ở đây linh nghiệm lắm”.
Một người buôn bán trước cổng chùa cho biết rất nhiều trường hợp hiếm muộn đến đây xin con chỉ hai ba tháng sau đã có thai. Khi hỏi vì sao người bán hàng biết những người này đến cầu là có con như ý muốn vậy? Người này cho hay, bà bán hàng ở đây lâu năm nên việc có người đến cầu tự rồi quay lại để tạ lễ là điều không hiếm gặp. Họ chia sẻ niềm vui và tỏ lòng thành kính với chùa.
Mỗi năm, vào đúng ngày sinh của con mình, họ đều đến đây để làm lễ tạ. Dù xa xôi mấy, trong Nam ngoài Bắc, kể cả Việt kiều cũng đều đặn quay lại tạ lễ. Người có điều kiện hơn thì may áo và tham gia vào lễ thay áo cho 12 bà mụ được tổ chức hàng năm.
Một phụ nữ tên Ngọc chia sẻ câu chuyện của mình về ngôi chùa Ngọc Hoàng trên diễn đàn trẻ thơ. Chị cho biết, hồi chị chưa có gia đình thì cảm thấy lận đận về đường tình duyên, quen ai cũng chẳng đi đâu về đâu cả. Rồi tình cờ chị Ngọc nghe người ta nói về sự linh thiêng trong cầu duyên và cầu con ở chùa Ngọc Hoàng (tên người dân hay gọi chùa Phước Hải) nên đến cầu mong gặp được người hợp với mình. Không lâu sau đó chị tình cờ gặp và nên duyên với ông xã bây giờ.
Sau khi lấy nhau, chị có bầu nhưng không may đứa bé bị chết lưu. Vợ chồng chị đã rất khủng hoảng. Sau đó chị tiếp tục vào chùa khấn xin con và có thai trở lại. Năm nay cháu bé đã 3 tuổi và rất khỏe mạnh.
Tuy nhiên, nhiều người được hỏi có tin vào sự linh ứng ở đây không thì họ chia sẻ thật tình: “Có bệnh thì vái tứ phương em ạ, hiếm muộn khổ lắm. Giờ không nhờ được bác sỹ thì chỉ biết đặt niềm tin vào tâm linh thôi em. Biết đâu đấy lại may mắn có được một đứa con thì sao, sống cần phải có hy vọng em ạ”.
Chia sẻ với phóng viên, một nhà sư cho biết: “Tín ngưỡng tôn giáo vốn là để con người khi khổ đau, tuyệt vọng nhất trao gửi niềm tin và là chỗ dựa. Nhưng tin tưởng không có nghĩa là mê tín, để kẻ xấu lợi dụng moi tiền của. Phật tử hiếm muộn, trước tiên nên nhờ đến y học. Cầu con hay cầu duyên là biện pháp giúp tâm an, tăng thêm sự tin tưởng. Song song đó, Phật tử nên làm nhiều việc thiện, tâm an bình thì phước lành sẽ sớm đến”.
Không chỉ có những đóng góp cho hoạt động tín ngưỡng, văn hóa, trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, hòa thượng Thích Vĩnh Khương của chùa Ngọc Hoàng còn tổ chức nuôi giấu cán bộ cách mạng. Chùa Ngọc Hoàng cũng là một địa điểm giấu quân của quân giải phóng.
Những giá trị về kiến trúc, nghệ thuật của điện thờ, và đặc biệt là những pho tượng bằng giấy bồi độc đáo, chùa Ngọc Hoàng đã được công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia vào năm 1994. Hàng năm vào ngày 9 tháng Giêng, chùa tổ chức lễ vía Ngọc Hoàng, đây thật sự là một ngày lễ hội cho người đến chùa trong những ngày đầu năm mới.
5 Ngôi Chùa Cầu May Nổi Tiếng Nhất Bình Dương
1. Chùa Châu Thới
Tọa lạc trên ngọn núi cùng tên thuộc phường Bình An (thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương), ngôi cổ tự Châu Thới gắn với sự tích hòn đá thần cầu an không thể phá bỏ, kể cả nổ mìn. Đặc biệt, có lời đồn vì hòn đá này mà khu vực quanh chùa không có sóng điện thoại di động. Người dân gọi hòn đá này là “ông Tà”, vị thần giữ cửa chùa.
“Ông Tà”. Ảnh: Pháp luật VN
Ảnh: Youvivu
Theo Pháp luật Việt Nam, đứng từ xa thấy rõ cổ tự với 2 bức tượng phật Quan Âm cao 22,5m, nặng 100 tấn đặt trên đỉnh núi cao. Với 220 bậc thang được xây dựng vào năm 1971 đã tạo nên con đường quanh co uốn lượn lên chùa thật nên thơ.
Ảnh: Youvivu
Đỉnh mái chùa có chín con rồng lớn nhìn ra nhiều hướng với những họa tiết chạm trổ sinh động. Hiện cổ tự Châu Thới đang lưu giữ nhiều pho tượng quý đúc bằng đồng và đá cẩm thạch được các nghệ nhân tận xứ Huế vào chế tác.
Ảnh: Youvivu
Ngoài ra, nhà chùa còn thờ bộ Thập Bát La Hán và Thập Điện Diêm Vương bằng đất nung, là hai bộ tượng xưa và độc đáo cho thấy nghề gốm ở địa phương phát triển khá sớm.
Ảnh: Youvivu
2. Chùa Thái Sơn
Theo Du lịch 24h, chùa Thái Sơn tọa lạc ở xã Định An, huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương, trong Khu du lịch sinh thái Núi Cậu – Hồ Dầu Tiếng. Chùa thuộc Hệ phái Bắc tông.
Ảnh: Tripnow
Đầu tiên, du khách sẽ đến thăm chùa Thái Sơn nằm lưng chừng dưới chân núi Cậu có độ cao chừng 50m. Tuổi Trẻ cho biết, chùa do hòa thượng Thích Đạt Phẩm, còn gọi là Thầy Sáu, xây dựng năm 1988, với khuôn viên trên 5ha gồm các hạng mục như cổng tam quan rất bề thế, lợp ngói xanh giả cổ, ngôi Cửu Trùng Đại Tháp cao 36m có 9 tầng, tượng Nam Hải Quán Thế Âm Bồ Tát cao 12m, chánh điện điện ngọc rất hoành tráng được kiến trúc theo phong cách cổ lầu phương Đông.
Ảnh: Tripnow
Sau khi tham quan cảnh chùa, du khách ra phía sau chánh điện. Ở đây có một con đường lên núi với hơn 1.000 bậc tam cấp đá. Lưng chừng núi có quán giải khát bán nước ngọt, nước suối và có võng cho khách nằm nghỉ mệt.
Đỉnh núi có một am miếu nhỏ hai tầng, dưới thờ tượng “Cậu Bảy” mặc áo nhà võ, thủ tấn, đi quyền trông rất oai phong, lẫm liệt.
Ảnh: Thái Sơn
Du khách có thể ngồi chơi ở nhà mát trên đỉnh núi Cậu, cạnh nhà mát có một cây sung cổ thụ 300 năm tuổi. Vùng núi Cậu còn nhiều loại gỗ quý như gõ, căm xe, giáng hương, bằng lăng… Đây còn là nơi sinh sống của nhiều loài động vật như nai, mễn, heo rừng…
Ảnh: Tripnow
Từ Am Cậu trên đỉnh núi, du khách có thể phóng tầm mắt nhìn bao quát hồ Dầu Tiếng trắng xóa, rộng mênh mang xa tít đến tận chân trời.
3. Chùa Hội Khánh
Theo thông tin trên website của tỉnh Bình Dương, ngôi chùa Hội Khánh tọa lạc dưới chân đồi, cách trung tâm thị xã Thủ Dầu Một 500m về hướng Đông, số 35 đường Bác sĩ Yersin, phường Phú Cường, Thị xã Thủ Dầu Một. Đây là một công trình kiến trúc tôn giáo, nhệ thuật lớn nhất tỉnh, được công nhận di tích lịch sử – văn hóa cấp Quốc gia ngày 7/1/1993.
Ảnh: Youvivu
Nơi đây cũng đón nhận kỷ lục về tượng Phật nhập niết bàn nằm trên mái dài nhất châu Á. Với kích thước dài 52m, cao 12m nằm cách mặt đất 24m.
Ảnh: Youvivu
Đã từ lâu, chùa Hội Khánh là một trung tâm tu học Phật giáo trong vùng. Nhiều thầy đào tạo từ chùa đã ra mở chùa mới và trụ trí ở đó
Ảnh: Youvivu
4. Chùa Tây Tạng
Chùa Tây Tạng là một ngôi chùa Việt Nam, hiện tọa lạc tại 46B Thích Quảng Đức, phường Chánh Nghĩa, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Ngôi chùa này thuộc hệ phái Bắc tông và đã được sách Kỷ lục Việt Nam xác lập kỷ lục là “Ngôi chùa có tượng Bồ Đề Đạt Ma bằng tóc lớn nhất”.
Tượng Bồ Đề Đạt Ma. Ảnh: Du lịch Bình Dương
Nằm dưới rừng đại thọ, chùa Tây Tạng đã được nhiều lần trùng tu và ngày thêm trang nghiêm theo lối kiến trúc kết tân, Du lịch 24h cho hay.
Chính điện thiết kế thờ phượng như một pháp hội khi Phật còn tại thế. Ở giữa điện thờ Phật Thích-Ca (tượng cao thiền tọa 2m3). Chung quanh gồm chư Phật ở các vị trí như tầng dưới thờ Địa Tạng, Di Lặc; tầng kế thờ Phổ Hiền, Văn Thù; tầng trên là Quan Âm, Thế Chí…
Ảnh: Du lịch Bình Dương
Sau lần đại trùng tu vào năm 1992, chùa có dáng dấp gần giống như một ngôi chùa Tây Tạng. Chính điện cấu trúc hình khối vuông, chính giữa là ngôi tháp (stupa), tứ giác có chiều cao trên 15 mét.
Cách thiết kế tầng thượng ở mặt bằng nốc chùa… năm điện thờ năm vị gọi là ‘ngũ trí Như Lai.
5. Chùa Bà Thiên Hậu
Tại khu vực trung tâm của Thủ Dầu Một còn có hai địa chỉ kiến trúc rất đẹp nữa chính là Chùa Bà Thiên Hậu.
Ảnh: Du lịch Bình Dương
Ngôi miếu gồm 3 dãy nhà, ở giữa là chính điện đề ba chữ “Thiên Hậu Cung”, trên hai cánh cửa chính đề bốn chữ “Quốc Thái Dân An”, hai bên là hai cặp câu đối ca ngợi công đức của Bà.
Lễ hội chính ở miếu Bà là Lễ hội Chùa Bà được long trọng tổ chức vào đêm ngày 14 đến rạng sáng ngày rằm 15 tháng Giêng âm lịch hàng năm.
Cập nhật thông tin chi tiết về Ngôi Nhà Chết Chóc Bí Ẩn Ở Thái Bình: Cả Trăm Nhà Tâm Linh Bỏ Chạy (5) trên website Apim.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!