Xu Hướng 3/2023 # Nghi Lễ Vòng Đời Người Công Giáo Việt Nam – Giáo Phận Cần Thơ # Top 4 View | Apim.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Nghi Lễ Vòng Đời Người Công Giáo Việt Nam – Giáo Phận Cần Thơ # Top 4 View

Bạn đang xem bài viết Nghi Lễ Vòng Đời Người Công Giáo Việt Nam – Giáo Phận Cần Thơ được cập nhật mới nhất trên website Apim.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

print

Nghi Lễ Vòng Đời Người Công Giáo Việt Nam

(TRƯỜNG HỢP TÂY NAM BỘ)

Fx. Cao Dương Cảnh

Bất kì nền văn hóa, tôn giáo nào đi chăng nữa, các cột mốc trong đời người rất quan trọng. Các cột mốc này làm cho con người nhớ mãi các biến cố sự việc, lắm khi nó trở thành động lực để phát triển bản thân, gia đình và xã hội. Tùy mỗi nền văn hóa, tôn giáo mà có những nghi lễ về vòng đời khác nhau, nhưng tất cả đều có điểm chung đều quy về con người, đánh dấu các chặng đường con người trải qua. Ta không thể nói rằng nghi lễ này đẹp hơn nghi lễ kia, vì đối với nghi lễ không nghi lễ nào cao hơn nghi lễ nào, và nghi lễ chỉ là cách thức con người diễn tả ý nghĩa sâu sắc quan niệm về chính bản thân mình trong mối liên hệ với thế giới siêu nhiên.

Nếu ta không tìm hiểu kỹ nghi lễ vòng đời của từng văn hóa, tôn giáo, chắc chắn chúng ta sẽ có cái nhìn phiến diện, quy kết. Nghi lễ vòng đời của người Công giáo Việt Nam không chỉ là một nghi lễ, mà nó còn là một Bí tích. Thế nên việc tìm hiểu nghi lễ vòng đời của người Công giáo Việt Nam gắn với bí tích tôn giáo là một việc hết sức quan trọng. Đề tài tập trung chỉ ra:

Các nghi lễ vòng đời của người Công giáo, gắn với Bí tích tôn giáo.

Chỉ ra các tiếp nhận văn hóa Việt để diễn ta quan niệm về thế giới siêu nhiên với con người qua các nghi lễ của vòng đời.

Cách nghĩ của Công giáo về các giai đoạn của vòng đời

Nghi lễ với cuộc sống phôi thai

Theo quan niệm của người Việt Nam đôi hôn nhân không chỉ dừng lại ở chỗ, sống chung và xây dựng hạnh phúc  một cách chính thức về mặt pháp lí, văn hóa hay tôn giáo. Mà nó còn vươn lên cao và xa hơn đó là việc sinh sản. Việc sinh sản đó không phải là một ước muốn đơn thuần mà nó còn là bản năng để bảo tồn nòi giống.

Thế nên đối với những đôi hôn nhân khi tổ chức đám cưới, mọi người dân Việt nam không chỉ chúc đôi tân hôn đó “trăm năm hạnh phúc” mà còn kèm thêm câu “sớm sinh quý tử”. Như thế ta thấy nếu niềm vui của đôi tân hôn lấy nhau là niềm vui một, thì việc có con là niềm vui được tăng lên gấp bội.

Khi người nữ mang thai, người dân Việt dùng từ chỉ trường hợp này rất đẹp, đó là đã có “tin mừng” và họ cũng thường hỏi đôi vợ chồng sau vài tháng kết hôn, thế đã có “tin mừng” chưa. Câu hỏi này mặc định ý đã có con chưa.

Người Công giáo Việt Nam không chỉ nằm trong khung này, mà nó còn nâng việc sinh sản là một việc nghĩa vụ thiêng liêng. Sách giáo lí Hội thánh Công giáo số 2366 dạy “truyền sinh là một ân huệ, một mục tiêu của hôn nhân” [12,662] và số 2367 nói “thông truyền sự sống, đôi vợ chồng tham dự vào quyền năng sáng tạo và tư cách làm cha làm mẹ cùng với Thiên Chúa” [12, 662], hay số 2378 “Đứa trẻ không phải là một của nợ, nhưng là một hồng ân”[12, 665]. Thế nên những đương sự nào bất lực[1]trước và vĩnh viễn khi kết hôn thì những cuộc hôn nhân đó vô hiệu về mặt bí tích.

Nếu quan niệm dân gian Việt nam chỉ quan tâm từ khi thời gian đậu thai, có nghĩa là thời gian phôi thai. Thì người Công giáo còn quan tâm xa và rộng hơn đó là việc trước khi hình thành phôi thai trong lòng người nữ. Giáo hội Công giáo lên án các trường hợp trực tiếp hay gián tiếp của y khoa để ngăn ngừa sự sống. Cách thức ngừa thai nhân tạo áp dụng cho nam giới gồm những phương pháp: thắt ống dẫn tinh, bao cao su, xuất tinh ngoài âm đạo, , thuốc diệt tinh trùng…Cách thức ngừa thai nhân tạo áp dụng cho nữ giới gồm những phương pháp : thắt ống dẫn trứng, thuốc tránh thai (uống, tiêm hoặc cấy dưới da), dụng cụ như vòng xoắn, màng ngăn, cấy tinh trùng vào tử cung… Giáo hội cũng lên án sựu can thiệp của “kỹ thuật sinh sản” [13,180] để “tách rời hành vi kết hợp vợ chồng ra khỏi hành vi sinh sản” [13,180], chẳng hạn: “gieo tinh” [13,180], “thụ tinh nhân tạo đồng nguồn” [13,180]. Vì xem kết quả “đứa trẻ đó được sinh ra là kết quả của một hành vi công nghệ hơn là kết quả tự nhên của một hành vi nhân linh” [13,180]

Nói thế không có nghĩa Công giáo bắt buộc các cuộc hôn nhân phải sinh sản một cách vô thức, không có trách nhiệm. Sách giáo lí số 2367 dạy rất rõ: “Nhiệm vụ sinh sản và giáo dục con cái là sứ mạng riêng biệt của vợ chồng. Trong khi thực hiện nhiệm vụ ấy, họ biết rằng mình cộng tác vào công trình sáng tạo của Đấng Tạo Hóa và trở thành những kẻ diễn đạt tình yêu của Ngài. Bởi vậy, họ sẽ chu toàn bổn phận của mình với trách nhiệm của một con người và của một Kitô hữu’’ [12, 662]. Thế nên sinh sản có trách nhiệm là một điều bắt buộc và là mục đích của hôn nhân Công giáo.

Công giáo mời gọi đôi hôn nhân ngừa thai một cách tự nhiên, số 2370 giáo lí Công giáo nói: “Tiết dục định kỳ cũng như những phƣơng pháp điều hòa sinh sản đặt nền tảng trên việc tự quan sát và sử dụng những thời gian không thể thụ thai, đều phù hợp với các tiêu chuẩn khách quan của luân lý. Những phương pháp này tôn trọng thân thể của vợ chồng, khuyến khích họ âu yếm và giúp nhau hướng đến tự do chân chính. Ngược lại, “mọi hành động nhằm mục đích hay tạo phương thế ngăn cản sự truyền sinh trước, hoặc trong khi giao hợp, hoặc trong diễn tiến các hiệu quả tự nhiên của việc giao hợp, tự bản chất là xấu” [12, 663]. Giáo hội mời gọi có thể dựa vào “trật tự nhân học, người ta được phép vận dụng sự tiết dục định kì trong thời gian có thể mang thai của người phụ nữ.” [13,179]. Qua hai phương pháp giúp xác định ngày trứng rụng, cũng như xác định trong chu kỳ kinh nguyệt của người phụ nữ những ngày nào có thể thụ thai và những ngày nào không thể thụ thai. Đó là phương pháp Ogino-Knauss và phương pháp quan sát chất nhờn.

Không khác người Việt, người Công giáo Việt Nam cũng kiêng cử trong thời gian mang thai, lo cho sức khỏe và tinh thần của sản phụ hết sức chu đáo. Họ cũng kiêng cữ các món ăn, đi đứng, vị trí và cách ngồi, có thể gây hại cho thai nhi. Những điều này được gọi thai giáo. Những phụ nữ Công giáo mang thai thường treo ảnh các thánh, nhất là Đức mẹ, Thánh Giuse, hay Chúa Giesu để nhìn với quan niệm cầu mong con mình sẽ thánh thiện và xinh đẹp như các đấng họ tôn thờ. Việc cầu chúc của người Công giáo ngoài “mẹ tròn con vuông”, mà họ còn thêm câu “xin Chúa chúc lành, gìn giữ, bình an”

Sinh con là một khó, chăm sóc, giáo dục một đưa con lại càng khó hơn, và đây cũng là mục đích của hôn nhân Công Giáo đó là sinh sản và giáo dục luôn đi đôi với nhau.

    Từ hài nhi đến tuổi đi học

    Từ khi trẻ em sinh ra thì việc chăm sóc cho trẻ rất quan trọng, và người mẹ cũng không kém phần quan trọng. Dân gian cũng quan tâm đến việc đứa con son là trai hay gái. Đối với những người không có tư tưởng trọng nam thì nói: “Ruộng sâu nái không bằng con gái đầu lòng”, bởi vì con gái đầu lòng sẽ đỡ đần cho cha mẹ hơn con trai. Nhưng đối với những người có tư tưởng trọng nam thì bảo: “Nhất nam viết hữu, thập tử viết vô”. Thế nên những người không có tư tưởng trọng nam thường nói những người có tư tưởng trọng nam: “có hoa mừng hoa, có nụ mừng nụ”. Đây cũng chính là quan điểm của Công giáo, dù gái hay trai thì vẫn là những đứa con của mình, một món quà Thiên Chúa ban tặng.

    Tín đồ Công giáo cũng cữ ngày thăm nôm sản phụ và đứa bé theo dân gian, thường sau khi sản phụ về nhà, mà tín đồ đến thăm sau 7 ngày đối với con trai, và 9 ngày đối với con gái. Sở dĩ được tính như vậy là vì quan niện theo mỗi con người đều hồn và vía. Tuy nhiên Công giáo lại không có cúng Bà Mụ nặn thành, vì quan niệm con cái là món qua Chúa ban chứ không phải do bà Mụ.

    Lễ thôi nôi (đầy tháng) còn gọi là lễ thử, lễ này người Công giáo cũng làm cho đứa trẻ, nhưng còn lồng ghép vào một nghi thức đó là thực hiện bí tích Rửa tội của người Công giáo. Trong ngày này không chỉ vui về mặt dân gian mà nó còn vui hơn khi đứa bé trở thành người Kito hữu qua sự bảo lãnh của cha mẹ. Ngày lễ này người Công giáo không chỉ mời tham dự lễ đầy tháng (thôi nôi) tại tư gia mà còn mời tham dự nghi lễ rửa tội cho đứa bé tại nhà thờ.  

    Các hình thức buổi lễ này cũng được người Công giáo còn giữ như là không thể thiếu trong đời sống dân gian, đó là việc đứa bé bốc đạo cụ trong mầm đã chuẩn bị sẵn. Người ta chuẩn bị sẵn các món đồ phù hợp với giới tính của đứa bé, chẳng hạn như giấy bút, đàn sáo, cung tên… dành cho bé trai, kim chỉ, dao kéo…. cho bé gái. Người ta tin rằng đây là hành động có giá trị thực tiễn, đoán định khuynh hướng phát triển của đứa bé. Tuy nhiên người Công giáo vẫn làm như trong tâm thức không tin vào mấy việc này, vì để biết được ước muốn khuynh hướng của một người không thể chỉ dựa vào việc lễ thử.

    Trong ngày này cũng bắt đầu công bố tên đứa bé là gì, đối với người Công giáo không chỉ có tên gọi họ và tên mà còn có tên thánh đứng trước tên đứa bé, chẳng hạn: Maria Nguyễn Thị Mai, Giuse Nguyễn Văn Lành…Công giáo cũng không quan trọng đứa bé mang họ cha hay họ mẹ, mang tên thánh nam hay nữ.

    Với tục bán khoán dân gian quan niệm để đứa bé đó được nuôi nấng dễ hơn dù đứa bé đó phát triển rất tốt về thể lý và trí não, hay những đứa bế cầu tự, hoặc hó nuôi, họ thường làm nghi lễ bán con thần thánh đối với nhưng người có niềm tion tin tôn giáo. Đối với không theo tôn giáo thường sợ ma quỷ quấy phá. Ngày xưa mỗi lần ẵn đứa bé ra khỏi nhà là bôi vết nhọ lễ trán hoặc thủ theo chiếc đũa hoặc cây kéo để bảo vệ vía. Thế nên việc bán khoán này rất chi tiết, đứa bé phải được một trăm ngày tuổi, chọn ngày lành tháng tốt, có thể mang lễ vật lên Chùa thực hiện nghi thức. Người Công giáo cũng có việc bán khoán này, tuy không hành lễ một cách chính thức, nhưng người tín đồ cũng dâng con cái mình cho Chúa, Đức mẹ gìn giữ.

    Dạy con là một việc không thể yếu trong đời sống hôn nhân, có thể nói việc thai giáo đã nói lên một phần nào tầm quan trọng của việc dạy con từ trong phối thai. Chẵng hạn người mẹ không được ăn cua vì đứa bé sẽ ngang như cua…

    Khi đứa bé bắt đầu lớn và bắt đầu vào những lớp học, thì bổn phận của cha mẹ Công giáo không chỉ dạy điều hay lẽ phải, kính trên nhường dưới, dạy từ cách đi, chách ăn, cách giao tiếp, mà quan trọng hơn hết dạy các em các câu kinh và giáo lí. Khi các em vào lớp hai ngoài trường thì các em đã được tham dự các lớp giáo lí trong tôn giao, các em sẽ được học song song các chương trình giáo lí cho đến khi các em hết chương trình lớp 12 ngoài đời. Trong thời gian này các em sẽ được chịu các Mình Thánh Chúa, Giải tội, Thêm sức, và xức dầu bệnh nhân (nếu có nguy tử). Như thế các em không chỉ được giáo dục về mặt tri trức hay còn được tiếp nhận các vấn về thuộc đạo đức cách sống tâm linh, mà ở đây mang dáng vóng luân lý Công giáo.

      Hôn nhân

      Quan niệm về hôn nhân

      Từ việc thông báo với rộng rãi về sự chấp nhận của xã hội và các bên thành hôn về cuộc hôn nhân. Thế nên hôn nhân người Việt không chỉ là việc của cặp hôn nhân đó, mà còn là việc của gia đình, dòng họ, gia tộc. Các tiêu chí chọn người phối ngẫu cũng khác phức tạp phải môn đăng hộ đối, sự trinh khiết của người nữ, tam tòng tứ đức, lấy vợ kén tông, lấy chồng kén giống…Ngày hôm nay các đòi hỏi trên cũng nhẹ đi phần nào, nhưng đâu đó vẫn còn.

      Đối với người Công giáo hôn nhân không chỉ dừng lại việc thông báo với rộng rãi về sự chấp nhận của xã hội và các bên thành hôn về cuộc hôn nhân của đôi bạn. Mà nó còn vươn lên sự kết hợp bất khả phân ly trong hôn nhân Công giáo, nó được nâng lên về mặt thiêng liêng, được gọi Bí tích.

      Trong Công đồng Vaticanô II văn kiện đã dành ra một chương khá lớn để nói về phẩm giá cao quý của hôn nhân và gia đình trong Hiến Chế Mục Vụ Gaudium et Spes (“Vui mừng và Hi vọng”). Đặc biệt lưu tâm đến vấn đề truyền sinh, tình yêu, giáo dục.

      Bộ giáo luật 1983 ở điều 1053 quy định “giao ước hôn nhân” dành cho “một người nam và một người nữ” mục đích của hôn nhân “sinh sản” và “giáo dục con cái” và “chính Chúa Kitô đã nâng giao ước hôn nhân giữ hai người đã được rửa tội lên hàng bí tích” [10,333]. Đặc tính hôn nhân Công giáo được điều 1504 chỉ rõ mang tính “đơn nhất” và “bất khả phân ly” [10,333]. “Sự đồng thuận của ý chí”, “chấp nhận nhau qua một giao ước bất khả thu hồi” [10,333] được điều 1057 nói đến. Điều 1141 cũng nói đến trường hợp tháo gỡ khi hôn nhân không thành sự theo giáo luật và lí do “tử vong” [3,353]. Điều 1059 nói rõ “Hôn nhân của những người Công giáo bị chi phối không chỉ luật Thiên Chúa mà còn luật của Giáo hội Công giáo nữa” [10,333]. Trong Giáo hội Công giáo có hai loại luật đó là luật Thiên Chúa và luật Hội thánh. Đối với luật Thiên Chúa là luật không bao giờ được thay đổi, còn luật Hội thánh có thể thay đổi.

      Nghi thức hôn nhân

      Ngày nay tục thách cưới, nạp cheo, mai mối mờ nhạc với các cuộc hôn nhân. Các nghi thức cũng được đơn giản hóa bởi các yếu tố khách quan và chủ quan. Nếu ngày xưa nghi lễ cổ truyền của người Việt gồm 6 lễ: Nạp thái, vấn danh, nạp cát, nạp tài, thỉnh kỳ, thân nghinh. Thì ngày hôm nay chỉ còn 2 lễ: nạp cát và thân nghinh nhằm đơn giản hóa các nghi lễ, thích nghi với cuộc sống hiện tại.

      Người Công giáo vẫn giữ các nghi thức truyền thống từ nạp cát đến thân nghinh. Các nghi thức rước dâu, vái lạy bàn thờ tổ tiên, dâng rượu cho ông bà mất, cũng nhưng các bậc còn sống. Các yếu tố mà người Công giáo lồng ghép vào trong các buổi lễ xuát giá hay đón dâu là các giờ kinh nguyện ngắm, cầu nguyện cho đôi hôn nhân. Nghi thức dân gian tại gia đình Công giáo có vẻ đơn giản hơn, qua các lạy bàn thờ, hay cửu quyền thất tổ. Lễ lại mặt sau ngày cưới cũng được người Việt Công giáo gìn giữ. Nhưng các yếu bố xem tuổi xem giờ cưới thì người Công giáo chính thống không bao giờ thực hiện.

      Ngoài việc chu toàn các lễ nghi truyền thống, người Công giáo còn phải lo trên hết là các phép tắc bên nhà đạo. Trước khi diễn ra các lễ truyền thống của hôn nhân, bên Công giáo thường hỏi ý kiến của đôi hôn nhân về vấn đề tôn giáo. Có chọn theo Công giáo hay “đạo ai người nấy giữ”. Nếu đôi hôn nhân đó đều là Công giáo hoặc một bên đồng ý theo, thì quy trình diễn ra như sau:

      Để chuẩn bị cho hôn nhân, người tín đồ đã phải chuẩn bị xa, chuẩn bị gần và chuẩn tức thì để học hỏi về bí tích hôn nhân. Giáo luật không ấn định thời gian chuẩn bị bao nhiêu là xa hay gần.

      Chuẩn bị xa là việc tín đồ học giáo lí từ nhỏ đã được giáo huấn về giá trị bí tích hôn nhân, hay qua các bài giảng của linh mục nói đến các vấn đề hôn nhân theo quan niệm của Kitô giáo. Giáo luật Điều 1063/1 nhắc nhở: “bằng việc giảng thuyết bằng việc huấn giáo thích hợp cho nhi đồng, thanh niên và người thành niên, và cùng bằng việc sủ dụng  các phương tịên truyền thông xã hội nhờ đó  các Kitô hữu đựoc giáo huấn về ý nghĩa hôn nhân Kitô giáo và về vai trò của người phối ngẫu cũng như của các bậc cha mẹ Kitô giáo”. Thường tại giáo xứ ngoài các chương trình học về giáo lí căn bản, tín đồ còn được tham gia lớp giáo lí hôn nhân để chuẩn bị sau này khi kết hôn, sau khóa học được cấp chứng nhận đã hoàn thành lớp giáo lí hôn nhân.

      Chuẩn bị gần là việc chính tín đồ đã xác định đối phương và muốn cử hành bí tích hôn nhân. Cũng xin nói thêm theo quan niệm của Giáo hội Công giáo, riêng bí tích hôn phối này chính người tín đồ cử hành, linh mục chỉ là người chứng hôn thay mặt giáo hội. Việc chuẩn bị thường người tín đồ phải trải qua các bài học về gia đình, theo hướng dẫn của Ủy Ban Giáo Hoàng về Gia Đình thì việc chuẩn bị bao gồm việc giáo huấn về: “Những tương quan liên vị giữa người nam và người nữ trong chương trình của Thiên Chúa về hôn nhân và gia đình; Ý thức về sự tự do ưng thuận như là nền tảng của sự kết hợp đơn nhất và bất khả phân ly của hôn nhân; Khía cạnh nhân bản của tính dục hôn nhân, hành vi kết hợp vợ chồng; Khái niệm đúng đắn trách nhiệm cha mẹ; Những yêu cầu và mục đích, sự giáo dục con cái đúng đắn. Vào phần cuối của chuẩn bị gần này, đôi bạn cần biết những điều tốt đẹp của hôn nhân và cách sống giữa cộng đoàn, cũng như làm thế nào để “bảo vệ và nuôi dưỡng tình yêu sau này… làm thế nào để tránh những ‘khủng hoảng’ vợ chồng”.

      Chuẩn bị tức thì là việc cặp tín đồ tập thử các nghi thức sẽ diễn ra trong nghi thức bí tích, cách đi như thế nào, cách đọc kinh thánh ra sao và đặc biệt là việc đọc lời nguyện trao nhẫn và đoạn thề cùng nhau.

      Việc chuẩn bị trên giáo luật không ấn định là bao lâu, nhưng tùy theo giáo phận mà có thời gian ấn định riêng. Có những trường hợp khẩn cấp chẳng hạn: Đã lỡ có thai, phải kết hôn để bảo vệ danh dự; Có người thân như cha, mẹ, ông, bà sắp qua đời, phải cưới gấp để chạy tang; Bên lương đã định ngày kết hôn, do tin vào ngày tốt xấu. Lúc này dựa vào phân định của linh mục mà xử lí cách khôn ngoan nhất, vừa hợp giáo luật vừa thuận lòng đương sự. Nhưng phải xác định hôn phối có thực lòng yêu thương nhau, muốn tiến tới kết hôn, chứ không phải vì áp lực nào khác. Tiếp đến là khả năng trưởng thành nhân bản của mỗi bên, là có thể chu toàn nghĩa vụ hôn nhân. Trong trường hợp này, yêu cầu về hiểu biết giáo lý hôn nhân, có thể được giảm nhẹ.

      Thủ tục kết hôn của người tín đồ lần lượt qua các bước:

      Việc tiếp nhận hồ sơ và rao báo là việc đầu tiên thực hiện trong thủ tục này. Theo luật cũ, bên nữ sẽ là nơi tiếp nhận hồ sơ và nơi của hành bí tích Hôn phối. Nhưng với luật hiện hành bên nam hoặc bên nữ, đều được thụ lí hồ sơ nếu điều đó thuận tiện và được ưng thuận của đôi bạn trẻ.

      Nếu với cặp hôn phối bình thường (cả hai đều là Công giáo, hay một bên là tân tòng trước khi các bí tích theo luật định) thì giấy tờ cần:

      Giấy giới thiệu kết hôn

      Nếu trường hợp là người Công giáo thì linh mục chánh xứ có trách nhiệm gởi thông tin về cho linh mục chứng hôn xác nhận thời gian tín đồ cư trú. Cho biết là sơ khởi không thấy ngăn trở tiêu hôn hay cấm hôn nào, ít ra trong thời gian người kết hôn cư ngụ ở giáo xứ.

      Trường hợp đương sự là không phải là người công giáo, có thể là người lương hay người theo tôn giáo khác thì linh mục chánh xứ nơi đương sự đang cư ngụ, linh mục sở tại có thể giúp linh mục chứng hôn đó một số việc, chẳng hạn dạy giáo lí và rao hôn phối. Nhưng trong trường hợp này đương sự phải cung cấp cho linh mục sở tại hai loại giấy tờ: giấy chứng nhận độc thân và xác nhận cư trú của chính quyền thuộc ranh giới giáo xứ của linh mục sở tại.

      Giấy chứng nhận Rửa tội và Thêm sức

      Điều tất yếu phải có là giấy chứng nhận Rửa tội và thêm sức của tín đồ gửi cho linh mục chứng hôn. Thông tin phải ghi đầy đủ các chi tiết tên tuổi, thời gian (ngày, tháng, năm), giáo xứ, của nơi Rửa tội và Thêm Sức. Chứng thư Rửa tội phải không nên quá sáu tháng, để tránh sự thiếu cập nhật những tình trạng nhân thân, vì một số tình trạng nhân thân thay đổi như kết hôn, được giải gỡ hôn phối, chịu chức thánh, khấn dòng… được ghi chú vào sổ Rửa tội.

      Bản khai trước kết hôn

      Bản khai hay còn gọi là bản tra vấn kết hôn mà hiện nay vẫn thường làm. Bản khai cần có nội dung:

      Lý lịch ngắn gọn, nhưng cần có số điện thoại của người khai và thân nhân để có thể liên lạc, điều tra.

      Sự ý thức và chấp nhận tự do của đôi bạn về hôn nhân: bất khả phân ly, đơn nhất, sinh sản và giáo dục con cái.

      Liệt kê những ngăn trở tiêu hôn và ngăn trở bất hợp luật để đôi bạn xem xét và khai báo.

      Những hoàn cảnh có thể xảy ra khiến sự ưng thuận bị hà tỳ như: thiếu khả năng phán đoán hay tâm lý, bệnh tật, khả năng sinh sản, lầm lẫn, đặt điều kiện kết hôn…

      Người khai, vì vậy, không được giấu giếm những điều mà có thể gây lầm lẫn làm nhiễu loạn đời sống hôn nhân do: bệnh đồng tính, bệnh nan y, nghiện, vô sinh, có con riêng, nợ nần lớn, đang có quan hệ nam nữ với người khác. ..

      Giấy rao hôn phối

      Nguyên tắc rao hôn phối được đề cập ở Giáo luật Điều 1067: “Hội Đồng Giám mục phải ấn định những quy tắc về việc khảo hạch các đôi bạn, cũng như về việc rao hôn phối và về những phương thế thích hợp khác. Để thực hiện những cuộc điều tra, những việc đó là cần thiết trước khi cử hành hôn nhân; một khi những quy tắc ấy được tuân giữ cẩn thận, cha sở có thể tiến hành việc chứng hôn”.

      Hội đồng Giám mục Việt Nam ấn định: Hôn phối được rao ba lần, thường được rao vào ba Chúa nhật liên tiếp. Cha sở có quyền tha rao một lần, cha Quản hạt tha rao hai lần, và Bản quyền địa phương tha rao ba lần. Linh mục chứng hôn có trách nhiệm lập tờ rao gởi về giáo xứ một trong đôi bạn trẻ, các linh mục nhận tờ rao này phải thực hiện rao và trả kết quả về cho linh mục chứng hôn.

                 Chứng chỉ giáo lý hôn nhân

      Việc có chứng chỉ giáo lý hôn nhân nhằm minh chứng là đôi bạn trẻ này đã có bước chuẩn bị xa, gần. Việc cấp chứng chỉ thì nơi giáo xứ nào cấp cũng được, vì lí do mục vụ người tín đồ có thể bất kì ngôi nhà thờ nào thuộc giáo hội công giáo. Việc xác nhận lại chứng chỉ này có thực hay không, không thể thiếu trong yêu cầu này. Linh mục chứng hôn có thể khảo lại vài câu hỏi về bí tích Hôn nhân, hay trực tiếp điện thoại đến giáo xứ cấp chứng chỉ để xác minh, nếu ban đầu linh mục chứng hôn không gởi đương sự đi học.

      Giấy chứng nhận kết hôn dân sự

      Việc có giấy chứng nhận kết hôn dân sự không thể thiếu, nếu thiếu sẽ không thực hiện được bí tích. Giáo luật Điều 1071/2 quy định: “hôn nhân nào không thể hiện được công nhận hay không thể được cử hành chiếu theo quy tắc của luật dân sự”.

      Giấy miễn chuẩn ngăn trở hay giấy phép kết hôn, nếu cần thiết

      Trong trường hợp có ngăn trở tiêu hôn như kết hôn dị giáo, có họ máu, có họ kết bạn… thì cần phải xin miễn chuẩn ngăn trở nơi Đấng Bản quyền địa phương. Nếu không có miễn chuẩn ngăn trở tiêu hôn, kết hôn vô hiệu.

      Đối với những trường hợp Giáo luật đòi xin phép, như thiếu giấy đăng ký kết hôn dân sự, kết hôn hỗn hợp… thì cần xin phép Đấng Bản Quyền địa phương để được hợp luật.

      Các đơn xin được miễn chuẩn ngăn trở tiêu hôn hay đơn xin phép kết hôn, không nhất thiết là phải gởi đến Giám Mục giáo phận. Có thể gởi đơn đến một trong các linh mục khác cũng có địa vị là Đấng Bản Quyền địa phương, như linh mục Tổng Đại diện, linh mục Đại diện Giám mục, hay linh mục nào khác được Giám mục ban quyền miễn chuẩn. Đơn xin ít nhất phải làm thành hai bản, để lưu Tòa Giám mục một bản.

      Miễn chuẩn được Giáo luật Điều 85 định nghĩa: “Miễn chuẩn, hay là sự nới lỏng một luật thuần tuý Giáo hội trong một trường hợp đặc biệt, có thể được ban do những người có quyền hành pháp, trong giới hạn thẩm quyền của mình, cũng như do những người minh nhiên hay mặc nhiên có quyền miễn chuẩn, hoặc do chính luật, hoặc do một sự uỷ quyền hợp pháp.” Có nghĩa nếu gặp trường hợp này thì tín đồ phải xin miễn chuẩn của giáo quyền qua giám mục địa phương , theo ngôn ngữ của tín đồ gọi là “đạo ai người nấy giữ”.

      Giáo luật, huấn quyền đã chỉ dẫn, nếu tín đồ làm trái luật thì bị phạt rất nặng, dẫn đến tình trạng “bị rối”. Không chỉ đương sự bị phạt vạ mà ngay cả những đương sự tham sự, nhưng việc phạt này tùy vào mỗi giáo phận, mà giám mục có những nguyên tắc và quy định của những cuộc hôn nhân này.

      Tu trì

      Đối tượng nhận bí tích này là người nam đã được Rửa Tội, các chức thánh là chức Giám mục, chức linh mục và chức phó tế.

      Hiện tại Giáo hội Công giáo có hai cách sống dành cho linh mục, gọi là linh mục triều hay dòng.

      Linh mục triều (secular priests), phục vụ trong các giáo xứ, ở giữa dân chúng hay “giữa thế gian” (theo tiếng Latin, thế giới là “saeculum”), còn được gọi là các linh  mục giáo phận (diocesan priests), “nhập tịch” vào giáo phận, trực thuộc giáo phận, trực tiếp dưới quyền Giám mục giáo phận, vâng lời và thi hành chức vụ linh mục, đảm nhận những công tác do Giám mục chỉ định. Thông thường, các linh mục triều hoạt động trong địa hạt Giáo phận của mình.

      Linh mục quản xứ tại giáo xứ Đức Mẹ Vô Nhiễm là linh mục triều, trực thuộc Giáo phận Long Xuyên, do giám mục Giuse Trần Văn Toản lãnh đạo.

      Linh mục dòng hội nhập vào các dòng tu, là tu sĩ, phần tử của các dòng tu, tuyên giữ lời khấn dòng (khiết tịnh, khó nghèo, và vâng lời bề trên), trực tiếp vâng lời bề trên dòng trong mọi sự việc và đảm nhận những công tác do bề trên chỉ định. Các công việc của các linh mục dòng tùy thuộc đoàn sủng mỗi dòng (gọi là Linh Đạo Dòng). Họ có thể thi hành những việc về phụng vụ, quản trị, mục vụ, truyền giáo, giáo dục, xã hội, y tế, nghệ thuật, truyền thông, lao động… Các linh mục dòng có thể được gửi đi hoạt động bất cứ nơi nào nhà dòng được phép hoạt động,  cũng được bề trên gửi đến các Giáo phận để phục vụ như các linh mục triều và trong khi phục vụ khó phân biệt họ với linh mục triều.

      Người chuẩn nhận hay nhận bí tích Chức thánh điều là những người nam độc thân, Luật độc thân có từ lâu trong truyền thống Giáo hội Công giáo. Ngày nay đang đặt lại vấn đề này vì xét về mặt khách quan những tín đồ theo đuổi nhận bí tích ngày càng ít, nhất là những nước phương Tây và một điều chẳng hay gì, mà Giáo hội Công giáo đang đối đầu là việc giáo sĩ lạm dụng tình dục. Nhưng trên phương diện chủ quan Giáo hội Công giáo vẫn chưa bỏ luật này đối với những tiến chức theo nghi lễ Tây phương.

      Người nữ không tham gia vào bí tích này, việc người nữ cũng khấn dòng (nữ tu) hay cũng có tiến trình đào tạo giống như những người nam (dù thời gian nhanh hơn) nhưng không được tham gia vào bí tích này.

       Việc giáo xứ hay gia đình có người nhận bí tích chức thánh hay đi tu làm nữ tu là niềm vinh dự cho đương sự, gia đình và giáo xứ. Đối với người tin đồ đó là hoa trái thiêng liêng, và là một ơn gọi Chúa dành riêng. Được tín đồ quan niệm thiêng liêng hơn lập gia đình.

        Lên lão

        Các từ bô lão, ra lão, vào lão, lên bô, sửa nóc nhà đều có ý nghĩa ngang nhau với lên lão. Theo truyền thống dân gian lên lão là cột mốc đánh dấu con người đầy phúc đức, có thế giá về mặt xã hội. Bên cạnh đó giải phóng khỏi trách nhiệm nặng nề, hưởng phước qua đàn con cháu. Tùy vùng mà có những quy định về độ tuổi riêng, chẳng hạn: một số làng ở Bắc Ninh là 55 tuổi, các làng ở Hà Nội xưa là 50 tuổi.. Quy chung lại độ tuổi lên lão thường 60 tuổi. Các lễ mừng thọ ông bà con chau chuẩn bị rất chu đáo chỉnh tề, bằng nhiều hoạt động nghi lễ thể hiện tinh thần đạo hiếu sâu sắc.

        Đối với tín đồ Công giáo lên lão không chỉ thể hiện bao nhiêu đó, mà nó còn gắng với đời sống tôn giáo một cách sâu sắc. Tuy không có quy định về độ tuổi lên lão nhưng khi các tín đồ về già, thì được chăm sóc rất đặc biệt về đời sống thế tục cũng như tôn giáo.

        Theo quan niệm Công giáo tuổi lên lão là tuổi được Thiên Chúa ban ân huệ đặc biệt cho người công chính, phản ánh sự khôn ngoan, được Thiên Chúa chăm sóc một cách đặc biệt, và Thiên Chúa muốn mọi người con cái chăm sóc các cụ một cách đặc biệt.

        Trong thời gian này các cụ không chỉ được chăm sóc bằng đời sống thế tục như về sức khỏe thể lí, như: về dinh dưỡng, ăn mặc cư trú, giải trí thể thao, chữa trị bệnh tật… Mà còn về đời sống tôn giáo, như: tạo điều kiện các cụ cầu nguyện tốt nhất, cho các cụ tham gia vào các hội bô lão của Công giáo nhằm giúp cho các cụ ít chán nản và suy nghĩ tiêu cực về tuổi già mất giá trị, đặc biệt liệu sao lo cho các cụ về vấn đề các bí tích cuối cùng trước khi mất, đó là bí tích xức dầu bệnh nhân.

        Xức dầu bệnh nhân được giáo luật điều 998: “Qua bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân, Giáo Hội phó thác những tín hữu bệnh tật hiểm nghèo cho Chúa chịu nạn và vinh quang để Người nâng đỡ và cứu chữa họ; bí tích này được ban bằng việc xức dầu trên bệnh nhân và đọc những lời đã được quy định trong sách phụng vụ”. [10, 317]

        Đối tượng tín đồ nhận bí tích này không phân biệt lớn hay nhỏ, chỉ cần thỏa điều kiện là tín đồ đã rửa tội. Bởi thế thời gian thích hợp để lãnh nhận khi người tín hữu bắt đầu đau nặng hay nguy tử vì bệnh tật hay già yếu. Trong cùng một cơn bệnh, có thể lãnh nhận bí tích này nhiều lần, cứ mỗi lần trở nặng. Trước khi chịu đại phẫu, hoặc người lớn tuổi, suy yếu cũng nên lãnh nhận bí tích Xức Dầu bệnh nhân. Không ban bí tích này cho người lương và những tín đồ mặc nhiên công khai từ bỏ đức tin. Giáo luật Điều 1007: “Không được ban bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân cho những người cố chấp sống trong tội trọng công khai.” [10, 319]. Việc không nhận bí tích trước khi lâm chung, tín đồ quan niệm chết không lành, bởi thế trước cơn nguy tử tín đồ thường gặp linh mục để xin ban bí tích này.

          Tiễn đưa

          Quan niệm về cái chết

          Đã là người ai cũng phải chết, cái chết không từ một ai. Theo quan niệm dân gian Việt cái chết là một cõi đi về thế giới bên kia – cõi âm. Người Việt dùng từ “về” để chỉ ra quan niệm về cái chết là một sự chuyển bước, từ một kiếp sống này sang kiếp sống khác. Bên cạnh đó người Việt quan niệm về kiếp này sẽ quyết định kiếp sau, tùy vào phúc đức kiếp này để lại.

          Công giáo quan niệm cái chết đã vào trần gian vì con người đã phạm tội, và chỉ nhờ được cái chết và sự sống lại của Chúa Giê su mới đem cho con người sự sống đời đời. Cái chết của người Công giáo là một sự thất bại những cũng là một sự chiến thắng. Thật thế người tín đồ Công giáo luôn ý thức về cái chết, xem cái chết giống như người Việt là một cuộc trở về với cái gốc. Cái gốc của người Công giáo ở đây là Thiên Chúa.

          Tín đồ Công giáo tin xác loài người sau sẽ phục sinh, cuộc sống trên trần gian là một cuộc hành về nhà Chúa, thuộc giáo hội lữ hành. Người Công giáo tin rằng sau cái chết sẽ là một cuộc phán xét riêng, sách giáo lí hội thánh Công giáo số 1022 dạy: “Ngay khi lìa khỏi xác, linh hồn bất tử sẽ chịu phán xét riêng để được thưởng hay bị phạt đời đời; tùy theo đời sống của mình trong tương quan với Đức Ki-tô, linh hồn hoặc phải trải qua một cuộc thanh luyện”. Bên cạnh đó tin có cuộc phán chung qua ngày tận thế, được diễn ra ngay sau khi mọi người đã chết được sống lại, người công chính cũng như người có tội, giáo lí số 1040 đã đề cập: “Phán xét chung sẽ diễn ra khi Đức Ki-tô quang lâm. Chỉ có Chúa Cha mới biết ngày giờ; chỉ một mình Người quyết định khi nào sự kiện này sẽ xảy ra….”

          Sau cái chết người Công giáo quan niệm có ba tình trạng: trước tiên là luyện ngục là tình trạng tín đồ chết trong ơn nghĩa với Chúa qua việc kết hợp mật thiếu trong đời sống tôn giáo, nhưng còn thiếu xót một số lỗi nhỏ, thế nên cần một thời gian thanh luyện để được hưởng thiên đàng. Thiên đàng là tình trạng tín đồ trước khi chết sống đúng luật Chúa và hội thánh, mà không bị vướn mắc các lỗi dù là nhỏ hay trải qua thời gian thanh luyện (luyện ngục) sẽ được hưởng thiên đàng. Tình trạng này là tình trạng viễn mãn đời đời không tái chuyển luân hồi. Hỏa ngục là một tình trạng dành cho tín đồ khi sống dứt khoát tự loại trừ khỏi sự hiệp thông với Thiên Chúa và chư thánh, tình trạng này được diễn khóc lóc nghiến răng, thiêu đốt bằng lửa, hình phạt đầy đau khổ.

          Từ các tình trạng sau chết người Công giáo quan niệm về sự hiệp thông trong giáo hội. Giáo hội lữ hành dành cho các tín đồ còn sống, giáo hội đền tội dành cho các tín đồ đã chết (luyện ngục hay hỏa ngục), giáo hội khải hoàn. Trong mầu nhiệm hiệp thông Công giáo tin rằng các giáo hội này có mối liên hệ với nhau. Các tín hữu còn sống có thể cầu nguyện, làm việc phúc đức, tham dự thánh lễ để cầu nguyện cho các tín đồ đã chết đang ở luyện ngục. Các tín đồ được lên thiên đàng hay đền tội ở luyện ngục xong được lên thiên đàng cầu nguyện cho các tín đồ còn sống cũng như đang ở luyện ngục. Các tín đồ đã chết không còn cơ hội tạo công đức nữa, phù thuộc hoàn toàn vào lời cầu nguyện của tín đồ còn sống và các thánh. Người Công giáo quan niệm tất cả ơn ban chết sống đều do Thiên Chúa ban phát, còn tín đồ các thánh chỉ là cầu xin chuyển cầu.

          Nghi lễ cơ bản trong tang chế

          Lễ mộc dục: Nếu dân gian Việt khi diễn ra lễ này chuẩn bị con dao nhỏ, một vuông vải, một cái lược, cái thìa, một ít đất ở ông đầu rau, một nồi nước ngũ vị hương, và nồi nước nóng. Sau khi tắm gội cho xác người chết xong, đắp chăn hay giăng màn, đặt cúng cơm, và dùng dao để trên bụng để trừ tà. Thì đối với người Công giáo cũng diễn ra lễ mộc dục này, nhưng loại bỏ tất cả các nghi thức này, thay vào đó chỉ tắm rửa sạch cho người quá cố. Vẫn giăng màn hay đắp chăn cho người quá cố, không đặt dao hay vật gì trên bụng người mất, họ có thể để tay cầm thánh giá hay tràng chuỗi mân côi, trước đầu nằm thì để cây thánh giá thay cho các bát cơm.

          Lễ phạn hàm: lễ này là việc dùng gạo và muối bỏ vào miệng người chết, nhà nào giàu có thể bỏ vàng hay tiền. Việc này xãy ra nhầm để tránh các việc nhập tràng. Sau đó thực hiện nghi lễ nhập quan. Người Công giáo vẫn thực thiện nghi lễ nhập quan qua một nghi thức cầu nguyện. Không bỏ vào miệng người chết bắt kì vật gì. Sau khi nhập quan xong vị trí quan tài được đặt chính giữ nhà.

          Lễ thiết linh: là lễ thiết lập linh vị đặt bàn thờ tang. Vị trí đặt bàn thờ này người Công giáo cũng đặt giống người Việt đặt trước đầu quan tài. Nếu trước công đồng Vatican II thì người Công giáo không có di ảnh, nhang, đèn, hoa qua, thánh giá, nước thánh. Thì sau công đồng Vatican II đã có những vật này, thể hiện tinh thần hội nhập văn hóa.

          Lễ thành phục, phát tang: là việc phát tang cho những người thuộc gia đình người quá cố, tuy theo vị thế đối với người quá cố mà có những quy định riêng. Người Công giáo cũng có nghi lễ này, có nghi thức riêng cho việc phát tang. Sau khi an táng người Công giáo có thể xả tang ngay lập tức hay mang tang 49 ngày, 100 ngày hay một năm, hoặc cả đời. Người Công giáo thay chiếc tang sau an táng bằng chiếc khuây màu đen, có một số trường hợp mang tang đến nhà thờ tham dự thánh lễ.

          Phúng điếu: là việc tinh thân hiệp thông sâu sắc, ngoài các vòng hoa, nhang, đèn hoa quả, tiền của… người Công giáo còn cái tinh thần hiệp thông khác là việc tập hợp lại cầu nguyện qua các giờ kinh. Vị thế của người quá cố này như thế nào đối với cộng đồng tôn giáo thì số lượng phúng điếu hiệp thông cầu nguyện càng nhiều. Bên cạnh đó cũng có bảng cáo phó về thời gian chôn cất để người còn sống sắp xếp phúng điếu. Trong bảng cáo phó này có một chút thay đổi, ngoài các thông tin về ngầy giờ mất, nhập quan động quan. Thì có thêm một số thông tin sau: tên thánh của người quá cố, các giờ các hội đoàn đến cầu nguyện, giờ lễ… Người Công giáo dùng các câu kinh thánh để thay thế cho các câu đối dân gian, chẳng hạn: “Khi chết đi là vui sống muôn đời” – lời kinh hòa bình, hay “Ta là đường là sự thật và là sự sống”… thể hiện quan niệm về cái chết của Công giáo, một niềm hi vọng.

          Cất đám: là việc người sống đem người mất an táng vào lòng đất hay thiêu. Người Công giáo thay việc đọc văn tế bằng Thánh lễ tại nhà thờ, đối với Công giáo điều tốt lành nhất cuối đời là được thánh lễ cuối cùng tại nhà thờ. Sau khi thánh lễ diễn ra xong người tín đồ di chuyển quan tai ra đất thánh, nơi này chôn tập trung các tín đồ đã mất trong giáo xứ. Đối với những trường hợp xa nhà thờ không thể đến nhà thờ được hoặc nhà thờ không có đất thánh thì linh mục sẽ đến trực tiếp nhà tang lễ dâng thánh lễ. Về thứ tự của đoàn đưa tiễn cũng phân theo hội đoàn, gia đình tang quyến, các người tham dự khác, 2 vị trí đặc biệt là linh cữu và nơi dâng thánh lễ. Trước khi hạ nguyệt vẫn có nghi thức làm phép nguyệt, sau khi hạ nguyệt mỗi tín đồ lấy một nắm đất thả vào nguyệt, nói lên ý nghãi, kiếp bụi tro sẽ trở về tro bụi. Việc xây đắp thành mộ, trên ngôi mộ vẫn khắc ghi họ và tên ngày mất của người quá cố, đặc biệt là tên thánh. Trên mộ có một cây thánh giá, hay các thiên thần bảo vệ…

          Nghi lễ cơ bản sau tang lễ

          Lễ cúng tế ngu: việc này chưa có thẻ thống nhất, có nơi tính 3 ngày từ khi ngày mất của người quá cố, có nơi tính 3 ngày sau ngày chôn cất.  Theo tục là mở cửa mổ mả. Người Công giáo thì không có mở cửa mả vì quan niệm khi chết chỉ thuộc 3 tình trạng (hỏa ngục, luyện ngục, thiên đàng) không về dân gian nữa. Thế nên người Công giáo thay 3 ngày này bằng việc đến tư gia gia quyến đọc kinh cậu nguyện cho người mất, thể hiện tinh thần hiệp thông.

          Lễ cúng chung thất: là lễ sau 49 ngày, tùy vào nghiệp mà có thể đầu thai luân hồi. Người Công giáo vẫn giữ ngày này nhưng không quan niệm về việc đi đầu thai, họ vẫn tổ chức các cuộc đọc kinh cầu nguyện.

          Lễ cúng cơm 100 ngày: người Công giáo không quan niệm người mất có thể dùng cơm như người bình thường, thế nên họ không cúng cơm. Trong ngày này họ có thể đọc kinh cầu nguyện và thực hiện nghi thức xả tang.

          Ngày cúng giỗ: có 3 loại lễ giỗ là lễ tiểu tường (lễ đầu tiên sau 1 năm mất) và lễ đại tường (là lẽ thứ 2 sau ngày mất, còn gọi là giỗ hết) và lễ cuối lễ Đàm (là việc đưa bàn thờ phụ đang thờ người mất sang bàn thờ chính). Đối với người Công giáo vẫn tổ chức các lễ giỗ hằng năm, nhưng không có quy định bao nhiêu năm mới được di dời bàn thờ, mà nó phụ thuộc vào điều kiện của mỗi gia đình. Nhưng điểm chung ở đây dù lễ giỗ bao nhiêu năm thì người Công giáo vẫn đọc kinh cầu nguyện cho người quá cố trong tinh thần hiệp thông. Vẫn tổ chức các bữa tiện ăn, để kỉ niệm ngày mất, nhưng không cúng đồ ăn cho người quá cố.

            Lễ tiết

            Lễ tiết là một bộ phận không thể thiếu trong đời sống văn hóa của người Việt nam. Nó bao gồm các nghi lễ, lễ hội theo bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Lễ tiết thuộc bộ phận văn hóa tinh thần. Các ngày lễ tiết trong năm gồm có một số lễ: Tết nguyên đán, tết thanh minh, ngày Phật đản, tết đoan ngọ, lễ thất tịch, tết trung nguyên, tết trung thu, tết trùng cửu, tết trùng thập. Trong các lễ vừa đề cập, người Công giáo chỉ tiếp nhận 3 lễ tết sau:

            Tết nguyên đán

            Đây là ngày lễ đầu năm của người Đông á, trong đó có Việt nam. Không thể xác định người việt bắt đầu ăn lễ tết nguyên đán từ khi nào, nhưng có thể chắc chắn một điều lễ tiết đã có từ xưa, cũng nhu ảnh hưởng từ phương Bắc.

            Lễ tết nguyên đán được thổi lửa khi lễ tết táo quân kết thuc, lúc này nhà nhà bắt đầu sửa sang lại nhà cửa, lau chùi, chuẩn bị ăn tết. Bận rộn nhất là 28, 29 và 30 (nếu có) giết mổ con vật để chuẩn bị cho 3 ngày tết nguyên đán.

            Người Công giáo Việt Nam không nằm ngoài lễ tết này. Nếu đêm 30 dân gian đón ông bà thì người Công giáo có một thánh lễ cuối năm. Ngày mùng 1 nếu dân gian làm cổ cúng gia tiên, cúng thổ công thì Công giáo có thánh lễ đầu năm tạ ơn Thiên Chúa. Trong ngày này người Công giáo cũng hái lộc, nhưng lộc ở đây là những câu kinh thánh ngắn gọn, để tín đồ sống một năm. Ngày mùng 2 người Công giáo dành riêng để kính nhớ tổ tiên, qua các Thánh lễ được cử hành, đặc biệt là tại đất thánh. Ngày mùng 3 người Công giáo tiếp tục dâng thánh lễ để cầu nguyện cho công ăn việc làm.

            Người Công giáo vẫn giữ tập tục chúc nhau ngày tết, tham viếng nhau, tham gia các sinh hoạt hội hè do làng, thôn xóm tổ chức, sống hòa nhập với cộng đồng. Vẫn dựng nêu, đến nhà thờ cầu nguyện, trang hoàn cơ sở tôn giáo, tại tư gia vẫn trưng bày mâm ngũ quả…

            Tết thanh minh

            Đây là lễ nhớ về cội nguồn nơi bắt đầu của mỗi người. Tuy ngày nay không còn lễ thanh minh, nhưng dấu ấn vẫn còn thông qua việc tảo mộ. Do đó ngày tảo mộ cũng được gọi là tết thanh minh. Ngày này người Việt đi thăm các mộ, quét dọn, sơn mới lại các phần mộ của người mất. Đặc biệt là cúng cơm cho người mất.

            Một số tín đồ vẫn thực hiện ngày này, nhưng không thức hiện việc cúng cơm. Họ cũng dọn dẹp sạch sẽ khu vực và phần mộ của người quá cố. Vẫn có một buổi cầu nguyện cho người quá cố.

            Tết Trung thu

            Là lễ tết dành cho thiếu nhi, được tổ chức vào ngày rằm tháng tám. Đây là lễ mà nói với trẻ con Việt nam đầy mơ ước và có thể nói đây là lễ mong chờ hơn tết nguyên đán. Dù biết rằng lễ này có nguồn gốc không phải dành cho thiếu nhi. Nguồn gốc lễ này xuất phát từ Trung quốc, nó được hình thành vì ý nghĩa vào ngày lễ này sẽ cúng tế sức mạnh của thần linh đất đai.

            Xu thế chuẩn bị cho ngày này cũng khá nhộn nhịp, trước 1 tháng ngày lễ, thì tất cả cá nơi buôn bán đều ráo riết chuẩn bị lồng đèn, bánh trung thu, bánh bía. Các đội lân cũng bắt đầu nhộn nhịp trên đường phố.

            Người Công giáo vẫn tiếp nhận lễ tết trung thu này, ngày này Công giáo có thánh lễ cầu nguyện cho các em thiếu nhi. Sinh hoạt trung thu thì có chương trình văn nghệ, chú cuội hằng nga, phát bánh trung thu cho các em, và đây được xem là ngày vui nhộn tại nhà thờ

            KẾT LUẬN

            Công giáo là một trong những tôn giáo lớn tại Việt Nam. Tuy trong quá khứ có những xung đột về văn hóa, ý thức hệ, nhưng nhìn chung Công giáo vẫn chảy chung dòng chảy văn hóa Việt , đóng góp không nhỏ cho nền văn hóa Việt

            Tiểu luận đã phân tích các cột mốc trong nghi lễ vòng đời của người Công giáo Việt nam nói chung, vùng Nam bộ nói riêng. Chứng minh các giai đoạn phát triển song song của nghi lễ dân gian và bí tích Công giáo. Từ khi sinh ra đã có bí tích Rửa tội, khi bắt đầu có trí khôn và tham gia các lớp giáo lí con người bắt đầu đón nhận thêm các bí tích: giải tội, mình thánh Chúa, thêm xức. Khi quyết định đời sống của của mình người Công giáo có 3 hướng quyết định: một là lập gia đình có bí tích hôn nhân, hai là đi tu có bí tích truyền chức thánh và cuối cùng là sống đời sống độc thân (tại gia hoặc tham gia vào các dòng tu không có truyền chức thánh: như các sơ. Hay sống độc thân bên ngoài xã hội)

            Nghi lễ đời vòng đời của người Công giáo không chỉ dừng lại ở nghi lễ dân gian, mà còn mặc lên bí tích của tôn giáo. Giúp cho người Công giáo ý thức về nghi lễ của vòng đời của mình gắn với tôn giáo tin theo. Không dị biệt giữa nghi lễ dân gian với bí tích đời sống tôn giáo. Mà dùng nghi lễ dân gian để diễn tả đời sống đức tin, xem nghi lễ dân gian là phương tiện để gắn bó với tôn giáo.

            DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

            Bùi Xuân Mỹ. (2007). Lễ tục trong gia đình người Việt. Hà Nội: NXB Văn hóa Thông tin

            Bùi Xuân Mỹ. (2002). Tục thờ cúng của người Việt. Hà Nội: NXB Văn hóa Thông tin

            Cao Ngọc Lân (2013). Tìm Hiểu Văn Hóa Tâm Linh Của Người Việt. Hà Nội: NXB Lao động.

            Dương Ngọc Dũng (2016). Tôn giáo nhìn từ viễn cảnh Xã hội học. Hà Nội: NXB Hồng Đức.

            Đỗ Minh Hợp (2005). Tôn giáo lí luận xưa và nay. Thành Phố Hồ Chí Minh: NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

            Đỗ Minh Hợp (2009). Tôn giáo học nhập môn. Hà Nội: NXB Tôn giáo.

            Đỗ Quang Hưng (2012). Công giáo trong mắt tôi. Hà Nội: NXB Tôn Giáo.

            Đỗ Quang Hưng (chủ biên). (2001). Tôn giáo về mấy vấn đề tôn giáo Nam bộ. Hà Nội: NXB Khoa học xã hội Hà nội

            Giáo hoàng Học Viện, Thánh Piô X (2016). Điển ngữ thần học Thánh Kinh. Hà Nội: NXb Tôn giáo.

            Hội đồng Giám mục Việt Nam (2007). Bộ giáo luật 1983. Hà Nội: NXB Tôn giáo.

            Hội đồng Giám mục Việt nam (2012). Công đồng Vaticnô II. Hà Nội: NXB Tôn giáo.

            Hội đồng Giám mục Việt nam (2019). Sách giáo lí của Hội thánh Công giáo. Hà Nội: NXB Tôn giáo.

            Hội đồng Giám mục Việt nam (2007), Tóm lược học thuyết xã hội của Giáo hội Công Giáo. Hà Nội: NXB Tôn giáo.

            Hội đồng Giám mục Việt nam (2016), Từ điển Công giáo. Hà Nội: NXB Tôn giáo.

            Karl Rahner (Nguyễn Luật Khoa dịch) (2010). Nhân học Kitô. Hà Nội: NXB Từ điển bách khoa.

            Leopold Cadiere (Đỗ Trinh Huệ dịch). Văn hóa, tín ngưỡng và thực hành tôn giáo người Việt. Huế: NXB Thời Đại

            Lê Trung Vũ – Nguyễn Hồng Dương – Lê Hồng Lý – Lưu Kiếm Thành. (2007). Nghi lễ vòng đời người. Hà Nội: NXB Hà Nội.

            Minh Đường. (2010). Phương pháp đặt bàn thờ thờ cúng của người Việt. Hà Nội: NXB Thời Đại

            Minh Đường. (2010). Nghi lễ cúng gia tiên. Hà Nội: NXB Thời Đại

            Nguyễn Đình Gia Bảo. (2016). Luật Tín ngưỡng Tôn Giáo và văn hóa Tín ngưỡng Tôn giáo của người Việt. Hà Nội: NXB Hồng Đức.

            Nguyễn Đức Lộc. (2015). Cấu hình xã hội Cộng đồng Công giáo Bắc di cư tại Nam Bộ. Thành phố Hồ Chí Minh: NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

            Nguyễn Đức Lữ (2013). Tôn giáo với dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Thành phố Hồ Chí Minh: NXB Chính trị quốc gia.

            Nguyễn Hạnh. (2019). Văn hóa tín ngưỡng Việt Nam. Thành phố Hồ Chí Minh: NXB Trẻ

            Nguyễn Hồng Dương (2013). Công giáo trong văn hóa Việt Nam. Hà Nội: NXB Văn hóa Thông tin.

            Nguyễn Hồng Dương. (2004). Nghi lễ và lối sống Công giáo trong văn hóa Việt Nam. Hà nội: NXB Khoa học xã hội Hà Nội

            Nguyễn Hồng Dương (2016). Những nẻo đường Phúc âm hóa Công giáo ở Việt nam. Hà Nội: NXB Tôn giáo.

            Nguyễn Hồng Dương (2012). Quan điểm đường lối của Đảng về tôn giáo và những vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hiện nay. Thành phố Hồ Chí Minh: NXB Chính trị quốc gia.

            Nguyễn Hồng Dương (2013). Tôn giáo trong văn hóa Việt Nam. Hà Nội: NXB Văn hóa Thông tin.

            Nguyễn Hồng Dương. (2004). Tôn Giáo trong mối quan hệ văn hóa và phát triển ở Việt Nam. Hà Nội: NXB Khoa học xã hội Hà Nội

            Nguyễn Mạnh Cường, Nguyễn Minh Ngọc.(2005). Tôn giáo – Tín ngưỡng của các cư dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Thành phố Hồ Chí Minh: NXB Phương đông.

            Nguyễn Phương. (2019). Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và Bản sắc văn hóa của người Việt. Hà Nội: NXB Hồng Đức.

            Nguyễn Văn Khôi (2013). Luân lý Kitô giáo qua 10 điều răn. Hà Nội: NXB Tôn giáo.

            Phan Đăng Thanh – Trương Thị Hòa. (2012). Các chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam xưa và nay. Thành phố Hồ Chí Minh: NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

            Phan Huy Lê. (2017). Vùng đất Nam Bộ quá trình hình thành và phát triển. Thành phố Hồ Chí Minh: NXB Chính trị Quốc gia sự thật.

            Phạm Đình Ái. (2016). Nhìn lại một số vấn đề phụng vụ tại Việt Nam. Hà Nội: NXB Tôn giáo.

            Song Mai – Quỳnh Trang. (2006). Phong tục thờ cúng của người Việt. Hà Nội: NXB Văn Hóa Thông Tin.

            Trần Hữu Hợp. (2012). Công đồng người Việt Công giáo Đồng bằng sông cửu long, Lịch sử hình thành và quá trình hội nhập văn hóa. Hà Nội: NXB Tôn giáo.

            Trần Ngọc Anh. (2015). Nhân học Kitô giáo. Thành phố Hồ Chí Minh: NXB Phương đông.

            Trần Mạnh Hùng (2016). Đạo đức sinh học và những thách đố hiện nay. Thành phố Hồ Chí Minh: NXB Phương Đông.

            Thuận Phước. (2016). Nghi lễ đời người. Thành phố Hồ Chí Minh: NXB Văn hóa dân tộc

            Toan Ánh. (2001). Phong tục thờ cúng tổ tiên trong gia đình Việt Nam. Hà Nội: NXB Văn hóa Dân tộc

            Trương Bát Cần (chủ biên). (2008). Lịch sử phát triển công giáo ở Việt Nam tập 1. Hà Nội: NXB Tôn giáo.

            Trương Bát Cần (chủ biên). (2008). Lịch sử phát triển công giáo ở Việt Nam tập 2. Hà Nội: NXB Tôn giáo.

            Joseph Ratzingger tác giả (2009). Dẫn nhập vào Kitô giáo (Nguyễn Luật Khoa biên dịch). Hà Nội: NXB Từ điển Bách khoa.

            [1] Bất lực khác vô sinh, bất lực có nghĩa là không có khả năng quan hệ tình dục, còn vô sinh thì vẫn có khả năng quan hệ tình dục được, nhưng không thể có con.

            Nghi Thức Tang Lễ Công Giáo

            CÁC CÔNG VIỆC LIÊN QUAN CẦN PHẢI LÀM KHI CÓ NGƯỜI QUA ĐỜI – Liên lạc Nhà Quàn (Funeral Home) để di chuyển xác, tắm rửa và tẩm liệm – Chọn Quan Tài (Áo Quan), gói dịch vụ mai táng. – Chọn Nghĩa Trang, Mộ Huyệt, Bia Đá (nếu an táng – chôn) – Sắp xếp Chương Trình Viếng Xác, Cầu Nguyện, và Thánh Lễ An Táng. – Thông Báo cho họ hàng thân quyến, bà con bạn hữu, xóm làng quen biết, – Thông Báo cho Ông Tổng Thư Ký HĐGX, hay Ông Chủ Tịch Cộng Đoàn. – Phóng Di Ảnh lớn của Người Quá Cố. – Thực hiện sách kinh, sách hát dùng trong giờ cầu nguyện và Thánh Lễ, – Đặt các Vòng Hoa tưởng nhớ. – In Tiểu Sử Người Quá Cố – Sổ Ghi Nhớ cho Khách Viếng Thăm – Chụp hình, quay phim – Giấy Chứng Thực Qua Đời (Clergy Record hoặc Certificate of Death) – Đăng Cáo Phó, Cảm Tạ.(nhà quàn thực hiện). – Chuẩn bị đồ tang (nhà quàn chuẩn bị).

            1. NGHI THỨC CẦU NGUYỆN Ở NHÀ QUÀN HAY TƯ GIA (dành cho người lớn)Phần Khai Mạc (Hướng dẫn viên có đôi lời chào hỏi và mời mọi người đứng dậy, bắt đầu bằng dấu thánh giá).HDV: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen. Nguyện xin ở sủng và bình an của Thiên Chúa, là Cha chúng ta và Ðức Giêsu Kitô ở cùng anh chị em.Cđ: Và ở cùng cha (thầy, ông, bà, anh, chị).HDV: Ðể bắt đầu nghi thức phụng vụ cầu nguyện cho ông/bà T. xin mời mọi người cùng hát bài (Cầu Xin Chúa Thánh Thần hoặc Thánh Thần Xin Ngự Ðến). (Sau khi chấm dứt bài hát)HDV: Anh chị em thân mến, chúng ta tin rằng mọi tương quan bằng hữu và tình cảm trong đời sống đã liên kết chúng ta nên một, và các tương quan ấy không bị hủy diệt bởi sự chết. Chúng ta cũng tin rằng Thiên Chúa luôn nhớ đến các việc lành mà chúng ta đã thực hiển để tha thứ những lỗi lầm của chúng ta. Giờ đây, chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa đưa linh hồn T. lên cùng Chúa. (Giữ im lặng trong giây lát)HDV: Lạy Thiên Chúa, cái chết của người anh/chị em của chúng con đây, là ông/bà T., đã nhắc nhở chúng con về thân phận con người và sự ngắn ngủi của cuộc sống này. Nhưng, với những ai tin tưởng ở tình yêu Thiên Chúa, sự chết không phải là chấm dứt, và nó cũng không tiêu hủy các mối dây liên kết mà Thiên Chúa đã tôi luyện trong đời sống chúng con. Vì được chia sẻ cùng một đức tin với các thánh tông đồ và niềm hy vọng của con cái Thiên Chúa, xin Chúa đem lại ánh sáng phục sinh của Ðức Kitô vào thời gian thử thách và đau khổ khi chúng con cầu nguyện cho ông/bà T. và những người thân yêu của họ. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Giêsu Kitô Chúa chúng con.Cđ: Amen.

            Phụng Vụ Lời Chúa (Chọn các bài đọc cho phù hợp với hoàn cảnh. Mọi người ngồi để nghe các bài đọc) Bài Ðọc 1 Thánh Vịnh Ðáp Ca Phúc Âm Bài Giảng (nếu có linh mục hoặc phó tế) Kinh CầuHDV: Chúng ta hãy quay về Ðức Kitô với niềm tin tưởng trong quyền lực thập giá và phục sinh của Người để dâng lời cầu nguyện.Người Xướng: Lạy Chúa Kitô Phục Sinh, Ngài là gương mẫu muôn đời của chúng con. Xin Chúa thương xót chúng con.Cđ: Xin Chúa thương xót chúng con.X: Lạy Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, Ðấng đã đến để tiêu diệt tội lỗi và sự chết. Xin Chúa thương xót chúng con.Cđ: Xin Chúa thương xót chúng con.X: Lạy Ngôi Lời Thiên Chúa, Ðấng đã giải thoát chúng con khỏi sợ hãi cái chết. Xin Chúa thương xót chúng con.Cđ: Xin Chúa thương xót chúng con.X: Lạy Chúa Kitô, Ðấng Chăn Chiên nhân hậu, Người đem linh hồn chúng con tới chỗ nghỉ ngơi, xin ban bình an muôn đời cho ông/bà T. Xin Chúa thương xót chúng con.Cđ: Xin Chúa thương xót chúng con.X: Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin Người an ủi những ai đang than khóc và sầu khổ. Xin Người chúc lành cho gia đình ông/bà T. và thân bằng quyến thuộc cũng như bạn hữu đang quy tụ nơi đây. Xin Chúa thương xót chúng con.Cđ: Xin Chúa thương xót chúng con.

            Kinh Lạy ChaHDV: Các anh chị em thân mến. Ngôi nhà thật chúng ta là ở thiên đàng. Bởi đó, chúng ta hãy dâng lời cầu khẩn lên Cha trên trời, như Chúa Giêsu đã dạy chúng ta.Cđ: Lạy Cha chúng con ở trên trời?

            Lời Nguyện KếtHDV: Lạy Chúa Giêsu, Ðấng Cứu Ðộ chúng con, Ngài đã sẵn sàng hy sinh chịu chết, để mọi người được cứu chuộc và được đi từ sự chết đến sự sống. Chúng con khiêm tốn nài xin Chúa an ủi các tôi tớ Chúa trong sự sầu khổ và xin Chúa đón nhận ông/bà T. vào vòng tay thương xót của Ngài. Chỉ có một mình Ngài là Ðấng Thánh, và chính Ngài là sự thương xót; Qua cái chết Ngài đã mở cánh cửa sự sống cho những ai tin vào Ngài. Xin Chúa hãy tha thứ những lỗi lầm của ông/bà T., và xin ban cho ông/bà T. một nơi hạnh phúc, ngập tràn ánh sáng và bình an trong vương quốc vinh hiển của Chúa cho tới muôn đời.Cđ: Amen. (Bạn hữu có thể ngỏ đôi lời cùng tang quyến).

            Chấm Dứt Nghi Thức HDV: Phúc cho những ai được chết trong Chúa; xin cho họ được nghỉ yên khỏi sự lao nhọc, vì những công việc tốt lành họ làm sẽ có giá trị trước mặt Chúa. (vẽ dấu thánh giá trên trán người chết và đọc) Lạy Chúa, xin ban sự nghỉ yên muôn đời cho linh hồn T.Cđ: Và xin ánh sáng bất diệt chiếu soi trên linh hồn ấy.HDV: Xin cho ông/bà T. được nghỉ yên muôn đời.Cđ: AmenHDV: Xin cho linh hồn ông/bà T. , và linh hồn của mọi tín hữu đã qua đời, nhờ lòng thương xót Chúa sẽ được nghỉ yên muôn đời.Cđ: Amen Ban phép lành (Nếu là linh mục hoặc phó tế)HDV: Xin bình an của Thiên Chúa, vượt quá mọi trí hiểu, sẽ gìn giữ tâm hồn và lòng trí anh chị em trong tình yêu và sự nhận biết của Thiên Chúa Cha và Thiên Chúa Con, là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.Cđ: Amen.HDV: Xin Thiên Chúa toàn năng là Cha, và Con, và Thánh Thần, ban phép lành cho anh chị em.Cđ: Amen. Có thể chấm dứt nghi thức phụng vụ bằng một bài hát hoặc thinh lặng cầu nguyện

            Trao Khăn Tang Nếu có phát tang, thêm phần cầu nguyện sau đây trước khi ban phép lành kết thúc.HDV: Giải khăn tang này biểu tượng cho lòng hiếu thảo của con cái, cháu chắt, báo đền ơn nghĩa sinh thành và dưỡng dục của Cha/Mẹ, Ông/Bà, Bác, Chú/Cô, Dì/Dượng … và của mỗi người thân quyến bầy tỏ lòng kính mến, tiếc thương đối với người thân yêu đã lìa trần. Ước mong sao, mỗi người, khi nhận lãnh tấm khăn trắng này, luôn tưởng nhớ đến người thân yêu đã qua đời, bằng những việc hy sinh, hãm mình, bằng lời cầu nguyện để xin Chúa tha thứ cho linh hồn T., và mau được hưởng phần thưởng Nước Trời. (gia đình, con cháu, họ hàng lên nhận khăn tang)

            Chuỗi Mai Khôi Lần chuỗi là một hình thức đạo đức mà Giáo Hội không buộc phải theo một hình thức nhất định nào. Mục đích khi lần chuỗi là suy niệm về cuộc đời Chúa Giêsu. Do đó, thay vì các ngắm mùa vui, mùa thương và mùa mừng như thường lệ, chúng ta có thể thay thế bằng các đoạn Kinh Thánh. Sau mỗi một đoạn Phúc Âm, nên giữ thinh lặng để suy niệm. Chuỗi Mai Khôi Kinh Thánh

            2. NGHI THỨC CẦU NGUYỆN TRƯỚC KHI DI CHUYỂN LINH CỮU VÀO NHÀ THỜ HOẶC RA NGHĨA TRANG Mở ÐầuHDV: Anh chị em thân mến trong Ðức Giêsu Kitô, nhân danh Chúa Giêsu và Giáo Hội của Người mà chúng ta quy tụ nơi đây để cầu nguyện cho ông/bà T., xin Thiên Chúa đưa ông/bà T. đến nơi an nghỉ muôn đời. Chúng ta đau buồn trước sự ra đi của người thân yêu, nhưng lời Thiên Chúa hứa ban sự sống đời đời đã đem cho chúng ta niềm hy vọng. Chúng ta hãy an ủi nhau bằng những lời sau đây:

            Ðọc Sách Thánh Bài trích thư Thánh Phaolô Tông Ðồ gửi tín hữu Colossê (3:3-4) Thật vậy, anh chị em đã chết, và sự sống mới của anh chị em hiện đang tiềm tàng với Ðức Ki-tô nơi Thiên Chúa. Khi Ðức Ki-tô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh chị em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang.

            Hoặc Bài trích thư Thánh Phaolô Tông Ðồ gửi tín hữu Rôma (6:8-9) Nếu chúng ta đã cùng chết với Ðức Ki-tô, chúng ta tin rằng chúng ta sẽ cùng sống với Người. Chúng ta biết rằng, một khi Ðức Ki-tô đã sống lại từ cõi chết, thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người.

            HDV: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu đã đến để phục sinh kẻ chết và an ủi chúng ta với tình yêu của Người. Chúng ta hãy chúc tụng ngợi khen Ðức Giêsu Kitô.Phụ Tá: Lạy Ngôi Lời Thiên Chúa, Ðấng Tạo Thành trái đất mà nay thân xác ông/bà T. sẽ trở về với lòng đất; trong bí tích rửa tội, Ngài đã kêu gọi ông/bà đến sự sống vĩnh cửu để chúc tụng ngợi khen Chúa Cha đến muôn đời. Xin Chúa thương xót chúng con.Ð: Xin Chúa thương xót chúng con.PT: Lạy Ðức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Ngài nâng đỡ người công chính và bao bọc họ với vinh quang Nước Trời. Xin Chúa thương xót chúng con.Ð: Xin Chúa thương xót chúng con.PT: Lạy Ðức Kitô chịu đóng đinh, Ngài đã che chở linh hồn ông/bà T. với quyền năng thập giá của Ngài, và trong ngày tái giáng lâm, Ngài sẽ tỏ lòng thương xót đối với mọi tín hữu đã ly trần. Xin Chúa thương xót chúng con.Ð: Xin Chúa thương xót chúng con.PT: Lúc phán xét kẻ sống và kẻ chết, khi nghe tiếng Chúa, mồ mả sẽ mở tung và những người công chính — đang ngủ yên trong bình an của Chúa — sẽ chỗi dậy và ca tụng vinh quang Chúa. Xin Chúa thương xót chúng con.Ð: Xin Chúa thương xót chúng con.PT: Lạy Ðức Giêsu Kitô, mọi chúc tụng ngợi khen đều quy về Chúa, Ngài nắm cái chết trong tay và mọi sự sống sẽ tùy thuộc vào chỉ một mình Ngài. Xin Chúa thương xót chúng con.Ð: Xin Chúa thương xót chúng con.

            Kinh Lạy ChaHDV: Với đức tin và đức cậy, chúng ta dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa Cha với những lời mà Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ: Lạy Cha chúng con…

            Phần Kết HDV: Lạy Chúa, ông/bà T. nay đã từ giã nơi cư ngụ trần gian và để lại những người thân yêu đang khóc thương ông/bà. Khi chúng con đang đau buồn trước sự ra đi này, xin cho chúng con luôn nhớ đến ông/bà T. và sống với niềm hy vọng vào vương quốc vĩnh cửu là nơi Chúa sẽ quy tụ chúng con lại với nhau. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.Ð: Amen.

            Trước Khi Di Chuyển Linh CữuHDV: Thiên Chúa gìn giữ chúng ta lúc đến cũng như lúc đi. Xin Thiên Chúa ở với chúng ta trong chuyến đi cuối cùng với người anh chị em của chúng ta. (Trong khi di chuyển linh cửu đến nhà thờ hoặc nghĩa trang, có thể hát Thánh Vịnh)

            3. NGHI THỨC AN TÁNG (phần chi tiết xin xem trong sách của Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam)Lời Nguyện Giáo Dân Mẫu A. Lm: Anh chị em thân mến, Ðức Giêsu Kitô đã sống lại từ kẻ chết và đang ngự bên hữu Chúa Cha để cầu bầu cho Giáo Hội của Người. Với niềm tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ lắng nghe những ai tín thác vào Ðức Giêsu Kitô, chúng ta dâng lời cầu nguyện:

            1. Trong bí tích rửa tội, ông/bà T. đã được lãnh nhận ánh sáng của Ðức Kitô. Giờ đây, xin Chúa xua tan bóng tối và dẫn ông/bà vượt qua nước của sự chết. Chúng ta hãy cầu xin Chúa.Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.

            2. Người anh chị em của chúng ta là ông/bà T. đã được nuôi dưỡng ở bàn tiệc của Ðấng Cứu Thế. Xin Chúa đưa ông/bà vào tham dự bàn tiệc trên trời. Chúng ta hãy cầu xin Chúa.Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.

            3. (Nếu người chết là tu sĩ) Anh chị em của chúng ta là T. đã trọn cuộc đời theo Chúa Giêsu trong sự khó nghèo, khiết tịnh và vâng lời. Xin Chúa hãy coi T. như một trong những người thánh thiện đang hỉ hoan trong cung điện trên trời. Chúng ta hãy cầu xin Chúa.Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.

            4. (Nếu người chết là giám mục hay linh mục) Người anh em của chúng ta là T. đã được chia sẻ chức vụ tư tế của Chúa Giêsu trong việc dẫn dắt Dân Chúa cầu nguyện và thờ phượng. Xin Chúa đưa T. hiện diện trước mặt Chúa là nơi T. sẽ được một chỗ trong phụng vụ nước trời. Chúng ta hãy cầu xin Chúa.Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.

            5. (Nếu người chết là phó tế) Người anh em chúng ta là T. đã phục vụ dân Chúa với tư cách của một phó tế trong Giáo Hội. Xin Chúa chuẩn bị cho T. một chỗ trong vương quốc mà tên của T. sẽ được Chúa công bố. Chúng ta hãy cầu xin Chúa.Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.

            6. Nhiều thân bằng quyến thuộc và bằng hữu đã ra đi trước chúng ta và đang chờ đợi phần thưởng nước trời. Xin Chúa ban cho họ một mái nhà vĩnh viễn với Con Chúa. Chúng ta hãy cầu xin Chúa.Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.

            7. Nhiều người bị chết vì võ lực, chiến tranh và đói khát. Xin Chúa xót thương những ai bị đau khổ một cách bất công vì những tội lỗi xúc phạm đến tình yêu của Chúa, và xin đưa tất cả vào vương quốc bình an muôn đời. Chúng ta hãy cầu xin Chúa.Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.

            8. Những người tín thác vào Ðức Kitô hiện đang ngủ yên trong Chúa. Xin Chúa ban bình an, sự nghỉ ngơi tĩnh dưỡng cho tất cả những ai có đức tin mà chỉ có mình Chúa biết. Chúng ta hãy cầu xin Chúa.Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.

            9. Những người thân yêu của T. đang cần sự nguôi ngoai an ủi. Xin Chúa hãy xoa dịu sự đau thương của họ và xua tan những u uẩn, nghi ngờ vì buồn chán. Chúng ta hãy cầu xin Chúa.Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.

            10. Chúng ta đang quy tụ nơi đây trong đức tin và đức cậy để cầu nguyện cho anh chị em chúng ta là ông/bà T. Xin Chúa kiên cường niềm hy vọng của chúng ta để chúng ta có thể sống xứng đáng khi chờ đợi Ðức Kitô tái giáng lâm. Chúng ta hãy cầu xin Chúa.Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.

            Lm: Lạy Thiên Chúa, Ðấng ban phát bình an và chữa lành các linh hồn, xin lắng nghe lời cầu khẩn của Ðấng Cứu Thế, là Ðức Giêsu Kitô, và của dân Người, mà sự sống của họ đã được trả bằng máu của Con Chiên. Xin Chúa tha thứ những lỗi lầm của tất cả những ai đang yên giấc trong Ðức Kitô, và xin ban cho họ một chỗ trong nước trời. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.

            Mẫu B. Lm: Thiên Chúa là Cha toàn năng, Người đã đưa Ðức Kitô chỗi dậy từ cõi chết; với sự tin tưởng chúng ta hãy cầu xin Người gìn giữ tất cả những ai thuộc về Người, dù còn sống hay đã chết. 1. Trong bí tích rửa tội, ông/bà T. đã được hứa ban sự sống đời đời, xin cho ông/bà T. được đón nhận vào cộng đồng các thánh. Chúng ta hãy cầu xin Chúa.Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.

            2. Vì ông/bà T. đã được ăn Mình Thánh Ðức Kitô, là bánh hằng sống, xin cho ông/bà được sống lại vào ngày sau hết. Chúng ta hãy cầu xin Chúa.Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.

            3. (Nếu là phó tế) Vì người anh em của chúng ta là T. đã công bố Tin Mừng của Ðức Giêsu Kitô và phục vụ người nghèo xin cho T. được đón nhận vào cung thánh ở thiên đàng. Chúng ta hãy cầu xin Chúa.Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.

            4. (Nếu là giám mục hay linh mục) Vì người anh em của chúng ta là T. đã phục vụ Giáo Hội với tư cách một linh mục, xin cho T. được một chỗ trong phụng vụ nước trời. Chúng ta hãy cầu xin Chúa.Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.

            5. Xin cho thân nhân và bạn hữu của người quá cố và cho tất cả những ai đã giúp đỡ chúng ta được Chúa đền đáp vì những công việc tốt lành của họ. Chúng ta hãy cầu xin Chúa.Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.

            6. Xin cho những ai đang an nghỉ trong niềm hy vọng sống lại sẽ được chiêm ngưỡng Chúa cách nhãn tiền. Chúng ta hãy cầu xin Chúa.Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.

            7. Xin cho gia đình và bạn hữu của ông/bà T. được an ủi trong sự buồn sầu của Ðức Kitô, là Người đã thương khóc cái chết của Lagiarô. Chúng ta hãy cầu xin Chúa.Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.

            8. Xin cho tất cả chúng ta đang quy tụ thờ phượng trong cùng một niềm tin sẽ được tái xum họp trong vương quốc Thiên Chúa. Chúng ta hãy cầu xin Chúa. Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.

            Lm: Lạy Thiên Chúa là nơi nương náu và là sức mạnh của chúng con, Ngài đã nghe tiếng khóc than của dân Ngài; xin lắng nghe lời chúng con cầu nguyện cho anh chị em chúng con, là ông/bà T. vừa mới qua đời. Xin thanh tẩy tội lỗi của họ và xin ban cho họ sự no đủ của ơn cứu độ. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.

            4. NGHI THỨC HẠ HUYỆT HDV: Người thân yêu của chúng ta là ông/bà T. đã đến nơi an nghỉ trong sự bình an của Ðức Kitô. Giờ đây xin Thiên Chúa đón nhận ông/bà vào bàn tiệc của con cái Thiên Chúa trên thiên đàng. Với niềm tin và niềm hy vọng trong sự sống vĩnh cửu, chúng ta hãy nâng đỡ ông/bà trong lời cầu nguyện. Chúng ta cũng dâng lên Chúa lời cầu nguyện cho cả chúng ta nữa. Ðể ngày nào đó chúng ta sẽ được tái hợp với người thân yêu của chúng ta, và cùng nhau chúng ta sẽ được gặp Ðức Kitô–là sự sống của chúng ta–mà Ngài sẽ xuất hiện trong vinh quang.

            Trong Sách Thánh, chúng ta đọc (chọn một): A. Bấy giờ Ðức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa.” (Mt 25:34).

            B. Ý của Ðấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. (Gioan 6:39).

            C. Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Ðức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta. (Phil. 3:20).

            D. Xin Ðức Giê-su Ki-tô là vị Chứng Nhân trung thành, là Trưởng Tử trong số những người từ cõi chết chỗi dậy, là Thủ Lãnh mọi vương đế trần gian, ban cho anh chị em ân sủng và bình an. Người đã yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta, làm cho chúng ta trở thành vương quốc và hàng tư tế để phụng sự Thiên Chúa là Cha của Người: kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn thuở muôn đời. A-men! (Kh. 1:5-6).

            Làm Phép HuyệtHDV: Lạy Ðức Giêsu Kitô, nhờ Chúa ở ba ngày trong mộ, Chúa đã thánh hóa các ngôi mộ của những ai tin vào Chúa, và đã biến ngôi mộ trở thành dấu chỉ hy vọng vào lời hứa phục sinh, dù ngôi mộ đang cầm giữ thân xác chúng con. Xin cho ông/bà T. được nghỉ yên trong bình an cho tới khi Chúa đánh thức ông/bà dậy trong vinh quang, vì Chúa là sự phục sinh và là sự sống. Sau đó ông/bà sẽ được thấy Chúa nhãn tiền và được thấy ánh sáng trong sự sáng của Chúa Và nhận biết sự huy hoàng của Thiên Chúa, vì Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời. Ð: Amen.

            Hạ Huyệt Vì Chúa đã gọi ông/bà T. ra khỏi thế gian về với Chúa, chúng ta gửi gấm thi thể ông/bà T. vào lòng đất vì chúng ta là cát bụi sẽ trở về với cát bụi. Nhưng Ðức Giêsu Kitô sẽ thay đổi thân xác hay chết của chúng ta trở nên giống thân xác của Ngài trong vinh quang, vì Ngài đã sống lại, là trưởng tử của kẻ chết. Chúng ta hãy phó thác người thân yêu của chúng ta cho Thiên Chúa, để Người ấp ủ trong bình an, và cho thân xác ấy chỗi dậy trong ngày sau hết. Lời Nguyện Giáo Dân (sau khi hạ huyệt)

            Mẫu A.HDV: Chúng ta hãy cầu xin Ðức Kitô, là Ðấng đã nói: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta, dù có chết, cũng sẽ được sống, và bất cứ ai sống và tin vào Ta sẽ không bao giờ chết.” 1. Lạy Chúa, Chúa đã an ủi bà Mácta và Maria khi họ buồn sầu; xin Chúa hãy gần chúng con, là những người đang thương tiếc ông/bà T., và xin Chúa lau khô mọi giọt lệ của những kẻ khóc than. Chúng con cầu xin Chúa.Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.

            2. Chúa đã nhỏ lệ khi đứng trước mộ Lagiarô, người bạn của Ngài; xin Chúa an ủi chúng con đang trong sự buồn sầu. Chúng con cầu xin Chúa.Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.

            3. Chúa đã làm cho kẻ chết sống lại; xin cho người thân yêu của chúng con được sự sống đời đời. Chúng con cầu xin Chúa.Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.

            4. Chúa đã hứa nước trời cho kẻ trộm biết ăn năn sám hối; xin Chúa đưa ông/bà T. vào hưởng niềm vui nước trời. Chúng con cầu xin Chúa.Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.

            5. Xin Chúa an ủi chúng con đang buồn sầu vì cái chết của người thân yêu; xin cho đức tin của chúng con trở nên nguồn an ủi và sự sống đời đời là nguồn hy vọng của chúng con. Chúng con cầu xin Chúa.Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.

            Mẫu B.HDV: Anh chị em thân mến, với một lòng sùng kính chúng ta hãy dâng lên Chúa lời khẩn nguyện của chúng ta, vì Ngài là nguồn mạch mọi sự thương xót. Lạy Chúa khoan nhân, xin hãy tha thứ tội lỗi cho những ai đã chết trong Ðức Kitô. Chúng con cầu xin Chúa.Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.

            1. Xin Chúa hãy nhớ đến các việc lành mà chúng con đã làm. Chúng con cầu xin Chúa.Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.

            2. Xin Chúa đón nhận ông/bà T. vào sự sống đời đời. Chúng con cầu xin Chúa.Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.

            3. Chúng ta hãy cầu nguyện cho những thân nhân đang thương khóc. Xin Chúa an ủi họ khi sầu muộn. Chúng con cầu xin Chúa.Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.

            4. Xin Chúa gia tăng đức tin và kiên cường niềm hy vọng của họ. Chúng con cầu xin Chúa.Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con. 5. Chúng ta cũng cầu nguyện cho chính chúng ta đang trên đường lữ thứ. Xin cho chúng ta luôn trung thành phục vụ Thiên Chúa. Chúng con cầu xin Chúa. Ð: Xin Chúa nhận lời chúng con.

            Kinh Lạy ChaHDV: Với sự khát khao ngày ngự trị của vương quốc Thiên Chúa, chúng ta cùng cầu nguyện:

            Lạy Cha chúng con…

            Lời Nguyện KếtHDV: Lạy Thiên Chúa toàn năng, qua cái chết của Con Chúa trên thập giá, Chúa đã tiêu diệt sự chết; qua việc Ðức Kitô nằm trong mộ Chúa đã thánh hóa các phần mộ của những ai tin vào Ngài; và qua sự sống lại của Ðức Kitô Chúa đã phục hồi sự sống vĩnh cửu cho chúng con. Lạy Thiên Chúa của kẻ sống cũng như kẻ chết, xin nhận lời chúng con cầu khẩn cho những ai đã chết trong Ðức Kitô và đã được mai táng với Người trong niềm hy vọng sống lại. Vì khi còn sống họ đã trung thành với danh thánh Ngài, xin cho họ được ca tụng Ngài cho đến muôn đời trong niềm vui thiên đàng. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.Ð: Amen.

            Cầu Nguyện Cho Người Tham DựHDV: Mọi người hãy cúi đầu và cầu xin Chúa chúc lành. (sau giây phút thinh lặng) Lạy Thiên Chúa giầu lòng thương xót, Chúa biết thế nào là buồn sầu khổ não, Chúa luôn lắng nghe lời cầu xin của kẻ khiêm nhường. Xin hãy lắng nghe con dân Chúa đang khẩn thiết nài xin Chúa và xin kiên cường niềm hy vọng của họ trong sự nhân từ vô cùng của Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.Ð: Amen. HDV: Lạy Chúa, xin ban sự nghỉ yên muôn đời cho ông/bà T.Cđ: Và xin ánh sáng bất diệt chiếu soi trên họ.HDV: Xin cho ông/bà T. được nghỉ yên muôn đời.Cđ: AmenHDV: Xin cho linh hồn ông/bà T. , và linh hồn của mọi tín hữu đã ly trần, nhờ lòng thương xót Chúa sẽ được nghỉ yên muôn đời.Cđ: Amen

            Ban phép lành A. Nếu là linh mục hoặc phó tếHDV: Xin bình an của Thiên Chúa, vượt quá mọi trí hiểu, sẽ gìn giữ tâm hồn và lòng trí anh chị em trong tình yêu và sự nhận biết của Thiên Chúa Cha và Thiên Chúa Con, là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.Cđ: Amen.HDV: Xin Thiên Chúa Toàn Năng là Cha, và Con, và Chúa Thánh Thần ban phép lành cho anh chị em.Ð: Amen.

            B. Nếu là giáo dânHDV: Nguyện xin tình yêu của Thiên Chúa và bình an của Chúa Giêsu Kitô chúc lành và an ủi chúng ta và lau khô mọi giọt lệ của chúng ta nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần.Ð: Amen.HDV: Hãy ra đi trong bình an của Ðức Kitô.Ð: Tạ ơn Chúa.

            Có thể hát thánh ca kết thúc. Mọi người có thể ném đất hoặc ném bông hoa để tượng trưng cho việc chôn xác kẻ chết.

            5. NGHI THỨC HỎA TÁNGMở đầuHDV: Anh chị em thân mến, Chúng ta đến đây để cử hành nghi thức hoả táng T… Việc hỏa táng nhắc chúng ta nhớ đến thân phận mỏng dòn của con người. Thiên Chúa dựng nên con người từ tro bụi, rồi lại cho con người trở về bụi tro, đợi mai sau thân xác sẽ được tái tạo trong trời mới, đất mới.

            (giữ thinh lặng trong giây phút)

            Chúng ta dâng lời cầu nguyện. Lạy Cha, Cha đã tạo dựng nên lửa và ban lửa cho chúng con. Lửa đã sưởi ấm khi chúng con sinh ra, đã tạo điều kiện tốt cho cuộc sống hàng ngày, và khi chúng con qua đời, lửa còn làm cho thân xác này nên giống của lễ toàn thiêu xưa. Xin Cha chúc lành và thánh hóa ngọn lửa chúng con sắp dùng để hoả táng thân xác người anh (chị) em của chúng con là T… Chúng con cầu xin, nhờ Ðức Kitô Chúa chúng con.Cđ: Amen.

            Lời Nguyện Giáo DânHDV: Anh chị em thân mến, Tác giả thư gửi tín hữu Do Thái (12:29) đã cho chúng ta biết: “Thiên Chúa là một ngọn lửa thiêu. Người đã cho ông Môsê được gặp Người qua bụi gai rực lửa. Người cũng hiện diện giữa dân Người qua cột lửa về ban đêm trong sa mạc. Chính Thiên Chúa Cha đã cho Ðức Giêsu Kitô đến thanh tẩy chúng ta bằng lửa trong Thánh Thần, và đã ban Chúa Thánh Thần như lửa sưởi ấm linh hồn chúng ta. Người cũng mời gọi chúng ta dâng hiến đời sống cho Người như lễ vật toàn thiêu. Với những xác tín ấy, trong việc cử hành nghi thức hỏa táng hôm nay, chúng ta hãy dâng lên Chúa Cha những lời nguyện xin tha thiết, và đầy tin tưởng sau đây:

            1. Lạy Cha, Con một Cha là Ðức Giêsu Kitô đã đem lửa xuống trần gian, và Người không ao ước gì hơn là thấy lửa ấy bừng cháy lên. Xin cho ánh sáng Tin Mừng được thắp lên trong toàn Giáo Hội và trên khắp hoàn cầu. Chúng con cầu xin Chúa. Ðáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con.

            2. Như ngọn lửa vật chất sắp thiêu đốt thi hài T…, xin cho ngọn lửa mến Chúa yêu người cũng luôn nung nấu tâm hồn chúng con. Chúng con cầu xin Chúa. Ðáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con.

            3. Lạy Cha, chúng con tạ ơn Cha đã ban cho T… được làm người và được làm con cái Cha. Chúng con tạ ơn Cha vì muôn ơn lành Cha đã ban cho T… trong suốt cuộc đời, và bây giờ Cha lại gọi T… về với Cha. Xin Cha thương đón linh hồn T… cùng với những việc lành cũng như mọi sự yếu đuối của T… trong cuộc sống làm người. Chúng con cầu xin Chúa. Ðáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con.

            4. Cũng như thân xác của T… sắp thành những hạt bụi mất hút trong lòng đời, xin Cha cho mỗi người chúng con cũng biết quên mình, biết hy sinh trong cuộc sống phục vụ anh chị em. Chúng con cầu xin Chúa. Ðáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con.

            5. Xin cho thân nhân của T… nhận được mọi ơn lành của Cha, và được mọi người quý mến thiết tha như ngọn lửa an ủi sưởi ấm tâm hồn họ. Chúng con cầu xin Chúa.Ðáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con.

            Kinh Lạy ChaHDV: Và giờ đây, chúng ta hãy dâng lên Chúa những lời cầu nguyện mà chính Chúa Giêsu Kitô đã dạy chúng ta.

            Tất cả đọc Kinh Lạy Cha, trong khi linh mục HDV: rẩy nước thánh và xông hương.

            Lời Nguyện Kết HDV: Chúng ta dâng lời cầu nguyện. Lạy Cha, giờ đây chúng con phó dâng linh hồn T… cho tình thương của Cha, và chúng con hỏa táng T… như của lễ toàn thiêu dâng lên Cha. Xin cho lễ hiến dâng này, cùng với tình yêu của gia đình và cộng đoàn chúng con, được kết hiệp với Chúa Giêsu trên thập giá thành của lễ đẹp lòng Cha.

            Xin cho đời sống chúng con và mọi lời chúng con cầu nguyện được như hương trầm toả bay trước thánh nhan Cha, để cầu cho T…, và mọi người đã chết trong ân tình Cha, được vào hưởng vinh quang Cha muôn đời. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.Cđ: Amen.HDV. Lạy Cha, xin cho linh hồn T… được nghỉ yên muôn đời.Cđ. Và cho ánh sáng ngàn đời chiếu soi trên linh hồn ấy.

            Sưu tầm

            Các Nghi Thức Tổ Chức Tang Lễ Của Người Công Giáo

            Đầu tiên: Cầu nguyện cho người hấp hối

            Khi trong gia đình có người thân sắp lâm chung do bệnh hay tuổi cao, dù đã vào bệnh viện thì cũng phải thu xếp mời Cha xứ đến Ban Phép Bí Tích Kẻ Chết lần cuối cùng trước khi người bệnh mất. Trong tang lễ Công giáo, người thân đang hấp hối, con cháu của người đó và cộng đồng sẽ xức dầu xung quanh giường cho người bệnh với mong muốn để người sắp mất được an tâm trước khi nhắm mắt xuôi tay. Sau khi người thân qua đời, tiếng chuông sầu trong nhà thờ Công giáo ngân vang lên từng hồi vọng khắp nơi theo quy ước Nam thất, nữ cửu, đồng nghĩa với việc là người thân đã qua đời và tin buồn được loan báo trong khu xóm. Khi trong giáo xứ có người qua đời, mọi người sẽ chẳng ai bảo ai, mà đều tạm ngưng công việc để đọc kinh cầu nguyện và phụ giúp gia đình làm tang lễ. Đó là một cử chỉ cao đẹp của người Công Giáo, cùng nhau giúp đỡ để đưa người đã khuất về với Chúa Kitô.

            Thứ hai: Các nghi thức khi người thân đã khuất

            Việc đầu tiên mà mỗi gia đình cần phải làm là lập ban tang lễ nhằm phụ trách, điều hành việc tang lễ cho người thân của mình. Trong ban lễ tang cần có người hộ lễ, người thu lễ và người chấp hiệu. Tiếp theo là tiến hành tắm rửa cho người quá cố, chỉ cần dùng khăn ướt lau mặt, chải tóc rồi buộc lại cho ngay ngắn, sau đó lau thân thể và tứ chi. Cắt móng tay, móng chân và mặc quàn áo mới cho người mất. Đặt thi thể người thân nơi sạch sẽ, thoáng mát, đủ ánh sáng, với hướng đầu của người đã khuất ra cửa, chân quay vào trong. Gia chủ cho dán cáo phó, loan báo việc tang lễ được cử hành như thế nào, ngày giờ mất, khi nào động quan, ngày an táng và ghi tên thánh của người đã mất. Việc thứ ba trong các nghi thức của tang lễ Công giáo là nhập liệm. Khi đến giờ, gia đình, hàng xóm và những người trong công giáo sẽ cùng nhau đọc kinh và hát thánh ca trước khi Cha sở làm lễ. Bàn thờ trong đám tang có đặt di ảnh người mất và bát hương, một bình hoa huệ trắng, cây thánh giá, và trước nhà và đầu hẻm có treo cờ báo tang. Trong tang lễ, có nghi thức viếng tang lễ như sau: các khách viếng sẽ thực hiện nghi thức lạy để thể hiện lòng tôn kính đối với người đã mất. Tang quyến có trách nhiệm lạy trả lễ để tỏ lòng biết ơn người đi viếng đã đến chia buồn cũng như hành lễ. Nếu khách viếng lạy 2 lạy thì người nhà sẽ trả lễ 1 lạy, còn khách viếng 3 đến 4 lạy thì sẽ trả lễ 2 lạy. Với nhiều năm trong nghề phục vụ tang lễ cho nhiều tầng lớp tại TP.Hồ Chí Minh với đội ngũ nhân viên lịch sự, phong cách trang trọng, nghiêm trang, dịch vụ tang lễ trọn gói tại cơ sở mai táng Thiện Đức luôn đặt mình là vị trí người thân để phục vụ khách hàng một cách tận tâm nhất, chú đáo nhất với chi phí phải chăng.

            Trong suốt 3 ngày diễn ra tang lễ, gia đình & bạn bè của gia quyến đều viếng thăm và đọc kinh nguyện thay phiên xung quanh hòm người đã mất. Và cho đến trước khi thực hiện nghi thức động quan, gia đình và người thân vẫn quy tụ và tiếp tục đọc kinh thánh cầu nguyện quanh hòm người mất. Sau đó, anh em đạo tỳ sẽ làm lễ bái quan. Trên đầu áo quan, gia đình người thân sẽ đặt tiền thường ít hay nhiều tùy thuộc vào điều kiện kinh tế của họ. Nghi lễ cuối cùng của một tang lễ Công giáo đó là thực hiện lễ di quan. Trước khi thực hiện nghi lễ di quan để đưa tiễn người mất đoạn đường cuối cùng, Cha xứ sẽ thực hiện nghi thức Phục vụ thánh thể. Trong quá trình di quan, sẽ có 3 người đàn ông cầm thánh giá nến cao gồm: cây trượng đài có hình thánh giá, cây trượng đài gắn nến hoặc đèn dầu.

            Nơi luôn đặt lợi ích của khách hàng lên hàng đầu – Cam kết 100% hài lòng

            Báo gói dịch vụ rõ ràng, minh bạch, bán đúng sản phẩm gia đình chọn

            Với những dịch vụ mai táng chuyên nghiệp, chỉnh chu giúp cho lễ an táng của gia chủ thật sự trang trọng.

            Giá cả phù hợp với những chi phí tại gốc, không qua trung gian, Thiện Đức nhận thanh toán sau tang lễ

            Đúng giờ trong các lễ nghi của lễ an táng.

            Với sứ mệnh: “Tận tâm – Lịch sự – nhã nhặn – thân thiện”. Trại hòm Thiện Đức rất mong được phục vụ, chia sẻ cùng nỗi buồn với gia quyến trong những ngày đau buồn của gia đình. Để được biết thêm thông tin chi tiết về sản phẩm dịch vụ tại trại hòm Thiện Đức quý khách hàng vui lòng liên hệ qua hotline 0902.99.40.99 hoặc fanpage của Trại Hòm Thiện Đức

            Tìm Hiểu Về Giáo Lý, Giáo Luật Và Lễ Nghi Của Phật Giáo Hòa Hảo

            Về giáo lý

            , Phật giáo Hòa Hảo tuy mượn danh Phật giáo nhưng không dùng giáo lý chính thống của Phật giáo, chủ yếu dựa vào tín ngưỡng dân gian và các câu sấm giảng của Trạng Trình để thu hút và gây niềm tin sâu sắc trong tín đồ. Ông Huỳnh Phú Sổ khuyên tín đồ ăn ngay ở lành, ra sức làm những điều thiện, bài xích bọn tham ô quan lại áp bức bất công, đả kích đồng bóng mê hoặc dân chúng làm tiền. Những lời giáo huấn, cầu nguyện, tiên tri do ông Huỳnh Phú Sổ truyền dạy được chép thành từng cuốn gọi là Sấm giảng viết theo dạng thơ hoặc văn vần, giản dị dễ nhớ.

            Kinh sách của Phật giáo Hòa Hảo bao gồm phần Sấm giảng giáo lý và phần Thi văn giáo lý. Sấm giảng giáo lý chủ yếu dựa vào hình thức tín ngưỡng thần bí, vào các câu sấm giảng của Trạng Trình. Giáo lý của Phật giáo Hòa Hảo tóm gọn trong 4 chữ “Học Phật tu Nhân” và cốt lõi của học Phật tu Nhân là Tứ ân: Ân tổ tiên, cha mẹ; Ân đất nước; Ân tam bảo; Ân đồng bào nhân loại.

            Sức lôi cuốn của Phật giáo Hòa Hảo với tín đồ về phương diện giáo lý chính là nêu cao đạo lý làm người, biểu hiện trước hết ở Tứ ân. Giáo lý Phật giáo Hòa Hảo chứa đựng các tư tưởng của Nho, Phật, Lão bởi “Tứ ân” là một hình thức “Tam giáo đồng nguyên”. Trong đó Phật giáo là tính trội. Theo Phật giáo Hòa Hảo học Phật tạo nên đức, tu nhân tạo nên công, có công có đức mới trở thành bậc hiền nhân.

            Về giáo luật,

            Phật giáo Hòa Hảo chủ trương niệm Nam Mô A Di Đà Phật (tức niệm lục tự Di Đà). Tín đồ thực hiện 8 điều răn của Đức Giáo chủ, xem đó như là giới luật của đạo:

            Một là, không nên uống rượu, cờ bạc, thuốc phiện, chơi bời, đàng điếm, phải giữ trọng luân lý tam cương, ngũ thường.

            Hai là, không nên lười biếng, phải cần kiệm, sốt sắng lo làm ăn và lo tu hiền chân chất, không nên gây gổ lẫn nhau, hãy tha thứ tội lỗi cho nhau trong khi nóng giận.

             Ba là, không nên ăn xài chưng diện thái quá và lợi dụng tiền tài mà quên nhân nghĩa đạo lý, đừng ích kỷ và xu phụng kẻ giàu sang, phụ người nghèo khó.

            Bốn là, không nên kêu Trời, Phật, Thần, Thánh hoặc nguyền rủa, vì thần thánh không can phạm đến ta.

            Năm là, không ăn thịt trâu, bò, chó và sát sinh hại vật mà cúng Thần, Thánh vì Thần Thánh không bao giờ dùng hối lộ mà tha tội cho ta, vì nếu ta làm tội sẽ chịu tội, còn những hạng ăn đồ cúng mà hết bệnh là Tà Thần; nếu ta cúng kiếng mãi thì chúng ăn quen sẽ nhiễu hại ta.

            Sáu là, không nên đốt giấy, tiền, vàng, bạc, giấy quần áo mà tốn tiền vô lý, vì cõi Diêm Vương không bao giờ ăn hối lộ của ta, mà cũng không xài được nữa, phải để tiền lãng phí ấy cứu trợ cho những người nghèo khổ, tàn tật.

            Bảy là, đứng trước mọi việc gì về sự đời, hay đạo đức, phải suy xét cho minh lý rồi sẽ phán đoán việc ấy.

            Tám là, phải yêu thương lẫn nhau như con một cha, dìu dắc nhau vào con đường đạo đức, nếu ai giữ được trọn lành, trọn sáng về nơi cõi Tây phương an dưỡng mà học đạo cho hoàn toàn đặng trở lại cứu vớt chúng sinh.

            Những lời khuyên răn trên phê phán mê tín dị đoan, dùng tà thuật bùa chú chữa bệnh và phê phán việc “hối lộ” Thần Thánh để chuộc tội là những tư tưởng tiến bộ của Phật giáo Hòa Hảo.

            Thủ tục nhập đạo: người muốn vào đạo phải đủ 18 tuổi, tự nguyện viết đơn xin nhập đạo, có hai người tín đồ giới thiệu. Đến Ban Trị sự cơ sở ghi danh, học giáo lý, giáo luật và phải xin phép cha mẹ mình về tự nguyện quy y theo đạo.

            Nếu muốn ra khỏi đạo, thì báo trước cho người tiến cử và Ban trị sự cơ sở để xóa tên trong danh sách.

            Về nghi lễ,

            tín đồ Phật giáo Hòa Hảo là cư sỹ tại gia, họ không thờ những thần thánh nếu không rõ xuất xứ, không có nghi thức hành lễ tập thể tại những nơi thờ tự chung mà chỉ có nghi thức hành lễ cá nhân trước bàn thờ Tổ tiên, bàn thờ Phật và bàn thông thiên. Tại các bàn thờ mỗi tín đồ đều có các hoạt động: xá, lạy, nguyện (bài đọc) và niệm Phật. Mỗi gia đình có 3 bàn thờ: bàn thờ Phật đặt nơi cao nhất chỉ treo Trần dà; bàn thờ Tổ tiên đặt dưới bàn thờ Phật; bàn thời Thông Thiên thờ ngoài trời ở trước cửa nhà. Sau này họ có thờ ảnh ông Huỳnh Phú Sổ, thường đặt dưới tấm trần dà. Đi làm ruộng khi xa nhà đến giờ cúng ngó về hướng Tây nguyện rồi xá 4 hướng. Đi xa nhà thì nguyện tưởng trong tâm cũng được.

            Về lễ vật thờ cúng: Phật giáo Hòa Hảo thờ Phật, nhưng không bằng tượng cốt, tranh ảnh. Mà thờ Phật bằng tấm vải Trần dà thay cho tấm vải Trần Điều của Bửu Sơn Kỳ Hương, nhưng cùng một quan niệm là “Phật tức tâm, tâm tức Phật”. Đồ thờ cúng Phật, cúng trời đất ở bàn thờ thông thiên thường có nước lạnh, hoa và hương.

            Lễ vật cúng ông bà tổ tiên là đồ chay hoặc mặn tùy ý. Không dùng vàng mã trong cúng giỗ, họ cho rằng đó là điều giả tạo, lãng phí không cần thiết.

            Cập nhật thông tin chi tiết về Nghi Lễ Vòng Đời Người Công Giáo Việt Nam – Giáo Phận Cần Thơ trên website Apim.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!