Xu Hướng 6/2023 # Nên Tụng Kinh Gì Trong Tháng Bảy Âm Lịch? # Top 14 View | Apim.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Nên Tụng Kinh Gì Trong Tháng Bảy Âm Lịch? # Top 14 View

Bạn đang xem bài viết Nên Tụng Kinh Gì Trong Tháng Bảy Âm Lịch? được cập nhật mới nhất trên website Apim.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Tháng bảy âm lịch hằng năm chúng ta lại nô nức đón mừng mùa Vu Lan hiếu hạnh, không chỉ đối với những người Phật tử, mà hầu như tất cả người dân của dân tộc Việt Nam đều biết về dịp lễ Vu Lan, hay dân gian thường gọi là rằm tháng bảy.

Ngày tự tứ mùa Vu Lan trong Phật giáo

Tháng bảy âm lịch: Mùa Vu Lan báo hiếu

Những ngày tháng bảy âm lịch, nhà lại nhà, trên khắp nước Việt mình đều thành kính bước vào mùa Vu Lan, mùa báo hiếu. Tới ngày Rằm tháng bảy, bà, mẹ, chị dù bận đến đâu cũng cẩn trọng sắp mâm cỗ chay đủ đầy, thành kính dâng tặng tổ tiên, ban cho chúng sinh và chuyển đi thông điệp nhân văn của cuộc sống: Hãy nghĩ về Mẹ – Cha, mở lòng với đồng loại để thương yêu nhau nhiều hơn.

Những ngày này, chúng ta sẽ không lạ khi chứng kiến những hình ảnh đầy xúc động: dù già hay trẻ, trai hay gái dự lễ Vu Lan đều thành kính và ngập trong cảm xúc khi đón nhận một bông hoa hồng cài trang trọng lên ngực áo.

Khi mùa Vu Lan trở về, nơi nào có người con Phật, và nhất là trên mọi miền đất nước, những hình ảnh chùa, tự viện, tịnh xá, tịnh thất… đều khởi sắc một mùa Vu lan báo hiếu. Đối với những ai có tín ngưỡng hay không tín ngưỡng, tất cả đều có một cảm niệm chung, là nghĩ đến những phút giây chạnh lòng về công ơn trời biển của cha mẹ, âm thầm lắng nghe những tình tự nơi sâu kín của cõi lòng vô hạn, sự rung động ấy chính là Hiếu Tâm, Hiếu Hạnh. Vu Lan là lễ báo hiếu, là một trong những ngày lễ chính của Phật giáo.

Ý nghĩa ngày Rằm tháng Bảy – Lễ Vu Lan

Vu Lan Báo Hiếu là thể hiện nếp sống tốt đẹp của người học Phật. Hiếu là ý nghĩa của đạo đức, và cũng là phẩm chất của đời sống hạnh phúc và giác ngộ. Vu Lan không phải là một ngày lễ hội thông thường trên bình diện tín ngưỡng mà đó là một thông điệp nhắc nhở chúng ta biết tri ân và báo ân đối với cha mẹ, nhắc nhở chúng ta tu tập trong tinh thần tự lợi và lợi tha.

Theo tín ngưỡng dân gian, rằm tháng Bảy là ngày mở cửa ngục, ân xá cho vong nhân nên có lễ cúng Cô Hồn (vào buổi chiều tối) cho các vong linh không nhà cửa không nơi nương tựa, không có thân nhân trên Dương thế thờ cúng.

Ngày hội Vu lan là ngày để người con Phật bày tỏ lòng hiếu thảo của mình, để thực hiện nghĩa cử tri ân báo ân đối với hai đấng sinh thành, đối với tổ tiên, ông bà, trải rộng lòng thương đến cả những vong linh cô hồn và cả những mảnh đời bất hạnh hiện đang còn sống. Đây là một ngày lễ hội rất có ý nghĩa, cần phải được bảo tồn và phát triển, phải làm sao để nó trở thành một ngày lễ hội của quần chúng, vượt qua giới hạn của tôn giáo, tín ngưỡng, để cho tinh thần hiếu đạo được thấm nhuần trong lòng mọi người, để cho con người trở nên thuần từ và trung hiếu hơn.

Mùa Vu Lan tháng bảy âm lịch nên tụng kinh gì?

Trong Phật giáo thì Kinh A Di Đà chính là một bản kinh rất phổ biến được truyền tụng hàng ngày trong đời sống đạo của các Phật tử ở các nước Châu Á, đặc biệt là ở Việt Nam.

Kinh A Di Đà là kinh khen ngợi công đức và được tất cả chư Phật hộ niệm. Kinh này chuyển tải nội dung rất sâu xa do đức Phật Thích Ca Mâu Ni tự giảng nói. Nhận ra ý này nên Hòa Thượng Thích Trí Quảng nói: “Niệm Phật không phải là kêu Phật. Đa số người lầm tưởng kêu tên Phật là niệm Phật. Niệm Phật hoàn toàn khác với kêu tên Phật. Suốt ngày chúng ta đọc Nam-mô A Di Đà Phật là kêu tên Phật để vãng sanh thì không thể nào vãng sanh được.”

Danh hiệu A Di Đà Phật nói lên điều gì?

Pháp niệm A Di Đà là chỉ nơi tâm mà hành trì, chứ không qua trung gian phương tiện giúp chúng ta đạt đến nhất tâm bất loạn. Cõi tịnh độ của Phật A Di Đà được ẩn dụ cho sự vô thủy vô chung. Còn gọi là vô lượng thọ, vô lượng quang, hay pháp giới tạng thân.

Danh từ Vô lượng, nếu miêu tả xét theo không gian, sẽ là Vô lượng quang; nếu trên cương vị thời gian, thì là Vô lượng thọ. Đấy là Pháp thân (Dharma – kàya). Pháp thân này là Báo thân (Sambhoga – kàya) nếu Phật được coi như là đức Phật “giáng hạ thế gian”. Nếu Ngài được coi như một Bồ Tát đang tiến lên Phật quả, thì Ngài là một vị Phật sẽ thành, như Bồ Tát Cần Khổ (Đức Phật Thích Ca Mâu Ni). Nói cách chính xác hơn, nếu chúng ta mô tả một vị Phật dựa trên căn bản giác ngộ viên mãn, chúng ta sẽ đi đến một lý tưởng về Phật, nghĩa là Vô lượng quang biểu tượng của trí tuệ giải thoát (Phật trí); Vô lượng thọ biểu tượng của đại định (tâm giải thoát), ở ngoài các vọng tưởng phân biệt. Ý nghĩa Vô lượng quang và Vô lượng thọ, và nhân cách giác ngộ của trí tuệ và từ bi vô cùng tận, tất cả chỉ giản dị là những giải thích về Vô lượng.

Tựa đề của Kinh Địa Tạng là “U minh Giáo chủ Bổn Tôn Địa Tạng Bồ tát Ma ha tát”. Có nghĩa là đấng giáo chủ cõi U minh là Bổn Tôn Địa Tạng Bồ tát. Một Ngài Bồ tát tên Địa Tạng, Ngài cầm trong tay phải một cây tích trượng và tay trái một hạt minh châu. Ngài xuống địa ngục làm giáo chủ, dùng tích trượng đập phá cửa địa ngục để cứu vớt chúng sinh, nếu chúng sinh chí thành niệm danh hiệu của Ngài. Tuy nhiên, đó có phải là ý nghĩa thực sự?

“Bổn” là Bổn tâm. “Tôn” là tôn quý, “Địa” là tâm địa, “Tạng” là Như Lai tạng. Chỉ có Bổn tâm mới là tôn quý nhất, đó là kho Như Lai tạng tâm địa; chỉ có Bổn tâm mới làm chủ được cõi U minh, tức làm chủ cõi địa ngục tham, sân, si của chính mình.

Nguyện lực của Địa Tạng Vương

Địa ngục chính là địa ngục tham, sân, si. Chúng sinh khổ là do tham, sân, si đầy dẫy trong tâm, phiền não khởi phát. Muốn phá được cửa địa ngục này cần phải là Bổn Tôn Địa Tạng của chính mình vậy. Quan trọng là bản thân nhận ra được bản tính Như Lai trong tâm, thì mình mới có thể đập phá được địa ngục tham, sân, si và cứu giúp chúng sinh muôn loài.

Nếu ta hiểu Ngài Địa Tạng là một vị Bồ tát có hình tướng rõ ràng, và có một cõi địa ngục thật sự, thì chúng ta sẽ ỷ lại vào tha lực, rồi vô tình gạt bỏ quy luật nhân quả. Nếu thật sự có một Ngài Bồ tát đủ khả năng đập phá cửa địa ngục, thì chúng ta khỏi cần tụng kinh, tọa thiền hay tinh tấn tu học, chỉ cần một lòng cầu Ngài Bồ tát, chờ đến lúc chết sẽ có Ngài đến cứu.

Như vậy thì tinh thần ỷ lại, dựa dẫm, mong chờ sự cứu rỗi của Ngài Bồ tát càng tăng lên. Quy luật Nhân Quả cũng không có ý nghĩa. Điều đó dẫn đến sự ra đời của Đức Phật cũng là vô nghĩa. Vậy tại sao chúng ta phải nỗ lực tu hành? Nếu chúng ta không dứt trừ các nghiệp ác nơi thân, khẩu, ý, thì có vị Bồ tát nào cứu vớt mình được? Chúng ta tu là tu tâm của chúng ta, nếu thanh tịnh cũng là thanh tịnh chân tâm; khi giác ngộ là giác ngộ tự tâm. Ngoài tâm sẽ không có cái gì cả.

Địa ngục chính là tham, sân, si, phiền não của chúng sinh. Địa ngục cũng chính là cảnh giới của ba nghiệp ác, từ thân khẩu ý phát sinh ra. Địa ngục là sự tối tăm ám chướng, là sự mê muội trong tâm thức của mỗi người. Đó chính là địa ngục tự tâm.

Phật nói kinh Địa Tạng là muốn cảnh tỉnh tất cả chúng ta dẹp bỏ tham sân si nơi tự tâm, tu tập ba nghiệp lành nơi tâm mình, rồi dứt nghiệp cũng nơi tự tâm và giải trừ vô minh tăm tối cũng nơi tự tâm. Cuối cùng trở về với Bổn Tôn Địa Tạng của chính mình. Đó là nội dung cốt yếu của toàn bộ Kinh Địa Tạng.

Về phần chính văn trong Kinh Địa Tạng, khi đọc kỹ và hiểu theo nghĩa lý sâu mầu của Kinh, ta sẽ thấy nhiều điều hết sức mới mẻ, mầu nhiệm. Khi hiểu rõ ý kinh, sự trì tụng mới đầy đủ ý nghĩa, đời tu của chúng ta mới đúng theo quỹ đạo tu hành; nếu không, chúng ta có thể rơi vào đường tà, vào mê tín, thì uổng một đời làm đệ tử của Đức Phật. Chúng ta là đệ tử Phật, tắm mình trong ánh hào quang của Phật, hào quang ấy là trí tuệ Phật tâm sẵn đủ của chính mình.

Kinh Vu Lan có thể được đọc tụng hàng ngày để hồi hướng công đức cho cha mẹ hiện tiền, đồng thời thắp sáng truyền thống hiếu đạo cho con cháu. Ngoài ra, nghi thức này có thể được sử dụng trong những dịp chúc mừng sinh nhật mẹ cha, chúc thọ cho ông bà và ngay cả các khóa lễ kỳ siêu cho cha mẹ quá cố và cửu huyền thất tổ. Thuật ngữ Vu Lan viết đủ là Vu Lan Bồn là từ dịch âm của người Trung Quốc về chữ Phạn “Ullambana”. Một dịch âm khác nữa là Ô Lam Ba Na, tuy tương đối gần âm với chữ Phạn hơn nhưng chữ này lại không thông dụng trong giới Phật giáo.

Sự khác biệt giữa đức Bồ tát Địa Tạng Vương và Bồ Tát Mục Kiền Liên

Theo quan niệm thông thường, “ullambana” được ngài Trí Húc dịch nghĩa là “giải đảo huyền”, về sau được diễn dịch thành “giải đảo huyền, cứu thống khổ”. Giải là động từ có ý nghĩa là cởi trói, hay giải phóng ai ra khỏi một cái ách nào đó. Đảo là “ngược” hay “dốc đầu xuống đất, chân chỏng lên trời”, nhằm ám chỉ cho hình thức nghiêm khắc và đau đớn tột độ của hình phạt. Huyền là “treo”. Như vậy “giải đảo huyền” có nghĩa là “tháo bỏ các cực hình treo ngược của nghiệp xấu” và “cứu thống khổ” là cởi trói ách đau khổ cùng cực của chúng sanh trong các đường dữ.

Theo tinh thần của Kinh Vu Lan, cái khổ nguy khốn nhất của chúng sinh là bị sinh vào cảnh giới quỷ đói. Do đó, tháo gỡ cái cực hình treo ngược là tháo gỡ cái ách bị đày đọa trong cảnh giới ngạ quỷ và địa ngục.

Ngày Vía Đức Quan Thế Âm Bồ Tát Tụng Kinh Gì

1.1. Quán Thế Âm Bồ tát thường được gọi là vị bồ tát của đại từ bi.

Trong tiếng Phạn thì “AVALOKITESHVARA” có nghĩa là vị cứu giúp , quán chiếu thế giới với lòng từ bi.

Người Hoa thì gọi ngài là “KUAN SHIH YIN” hoặc QUAN YIN. Ngài đã phát thệ nguyện cứu khổ cứu nạn các chúng sanh.

Ý nghĩa tên gọi Quán Thế Âm Bồ Tát

Quán là quán xét, thấy nghe, biết đối tượng thật rõ ràng

Thế là cõi đời, cỏi hữu tình thế gian.

Âm là tiếng niệm, tiếng kêu cứu, tiếng cầu nguyện từ mọi nơi đau khổ phát ra.

Bồ Tát là độ thoát cho loài hữu tình, cứu thoát, giác ngộ cho tất cả các loài chúng sinh có tình cảm được vượt thoát ra khỏi khổ đau ách nạn.

Đức Quan Thế Âm Bồ Tát đạt được diệu quả Nhĩ căn viên thông nên quán xét và nghe, thấy, biết cùng tột tiếng kêu đau khổ khắp cõi thế gian, hiện ngay nơi đó để cứu độ chúng sanh được vượt thoát tất cả những hiểm nguy. Vì vậy gọi là Quan Thế Âm. Do công hạnh cứu độ tự tại nhiệm mầu đó, nên trong kinh điển còn gọi là Quán tự tại Bồ tát.

1.2. Hình tượng Quan Thế Âm Bồ Tát

Tranh tượng thường trình bày Quan Âm dưới nhiều dạng khác nhau, nhưng phổ biến nhất là hình vị Bồ tát tay phải cầm nhành dương liễu và tay trái cầm bình tịnh thủy đứng giữa hồ nước. Có khi Quan Âm đứng có con chim mỏ ngậm xâu chuỗi bồ đề, bên dưới có đứa trẻ bận khôi giáp chắp tay đứng hầu. Phật tử cũng hay vẽ Quan Âm đứng trên hoa sen, cưỡi rồng và cá trong mây, trên thác nước hay hồ sen. Hình ảnh Quan Âm đứng trên một hải đảo cứu người bị nạn cũng phổ biến, biển cả tượng trưng cho luân hồi. Những hình khác cũng khá phổ biến là vị Bồ tát nghìn tay nghìn mắt gọi là Bồ 1 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Tâm Minh biên dịch, tr. 183-4. 6 tát Chuẩn đề là một hoá thân của Quan Thế Âm có 18 tay và 3 mặt. Đầu: từ 1 đầu, 3 đầu, 5 đầu, nghìn đầu, cho đến 84.000 đầu (đầu tượng trưng cho sự tính toán chịu đựng, gánh vác đương đầu khó khăn). Mắt: từ 2 mắt, 3 mắt, cho đến 84.000 mắt (mắt tượng trưng cho thấu hiểu, trí tuệ, trí tuệ sáng suốt và tùy theo căn cơ đưa họ về an ổn hạnh phúc). Tay: từ 2 tay, 4 tay, cho đến 84.000 tay (tay là tượng trưng cho từ bi vươn tới. Do từ bi mà phát xuất vô lượng phương tiện uyển chuyển khéo léo để độ sanh). Với nhiều đầu, nhiều tay nhưng biểu trưng tấm lòng của ngài sẽ dùng mọi cách giúp người khổ nạn, nên ngài được xem như vị Bồ-tát hoạt động rất tích cực năng nổ, đầy tình thương, luôn luôn sẵn sàng cứu độ, giúp đỡ, chăm sóc mọi chúng sinh khi cần thiết. Hình tượng nhành dương liễu và bình cam lồ là tượng trưng cho lòng từ bi và trí giác ngộ của Ngài sẽ rưới tắt và làm vơi diệu bao nỗi đau khổ, bao điều phiền não đang bừng cháy trong lòng chúng sanh. Hình vẽ một vị Bồ tát ngự trên hoa sen trắng, cưỡi rồng hay cá voi trong biển động ba đào với ý nghĩa rằng: chúng ta đang hụp lặn nổi trôi trong dòng đời đầy sóng gió đau khổ tai nạn nhưng nếu chúng ta thành tâm niệm Quan Thế Âm thì cũng thoát nạn.

1.3. Quan Âm Bồ Tát trong Tượng Di Đà Tam Thánh

Tượng vẽ Đức Phật A Di Đà đứng giữa, trên tòa sen lớn, hai bên có hai vị Bồ tát đứng trên hai tòa sen nhỏ hơn (có khi vẽ cả ba vị đều ngồi) là Quán Thế Âm (bên trái) và Đại Thế Chí (bên phải). Cũng tương tự như trường hợp hai Bồ tát Văn Thù và Phổ Hiền; Bồ tát Quán Thế Âm tượng trưng cho Bi, Bồ tát Đại Thế Chí tượng trưng cho Trí. Cả hai vị này hộ trì Đức Phật A Di Đà giáo hóa và dẫn đạo chúng sinh về cõi Tịnh độ Cực lạc.

Tượng vẽ Đức Phật A Di Đà đứng giữa, trên tòa sen lớn, hai bên có hai vị Bồ tát đứng trên hai tòa sen nhỏ hơn (có khi vẽ cả ba vị đều ngồi) là Quán Thế Âm Bồ Tát (bên trái) và Đại Thế Chí Bồ Tát (bên phải). Cũng tương tự như trường hợp hai Bồ tát Văn Thù và Phổ Hiền; Bồ tát Quán Thế Âm tượng trưng cho Bi, Bồ tát Đại Thế Chí tượng trưng cho Trí. Cả hai vị này hộ trì Đức Phật A Di Đà giáo hóa và dẫn đạo chúng sinh về cõi Tịnh độ Cực lạc.

2. Ngày vía Quan Âm Bồ Tát vào ngày nào trong năm?

2.1. Mỗi năm có 3 ngày Vía Quan Thế Âm Bồ Tát chính là:

Ngày vía Quan Âm trong tháng 2 – Ngày 19 tháng 2 là ngày Vía Quan Âm Đản Sanh : ngày Quán Thế Âm Đản Sanh. Sự “đản sanh”, “giáng phàm”, “giáng sanh”, “giáng đản”, “đản nhật”, v.v… đều mang ý nghĩa là ngày mà các bậc Phật, Thánh xuất hiện sẽ mang đến sự an vui vĩnh hằng cho nhân thế. Ngày vía Quân Âm Đản Sảnh là ngày mà Đức Quan Thế Âm Bồ Tát sanh ra, cứu độ chúng sanh.

Ngày vía Quan Âm trong tháng 6 : ngày Quán Thế Âm thành đạo.

Ngày vía phật bà Quan Âm tháng 9 : ngày vía quan âm 19 tháng 9 gọi là ngày Quan Thế Âm xuất gia.

Nhưng không nhất thiết ai cũng phải lập bàn thờ cúng Đức Quan Âm Bồ Tát vào đúng ngày vía Quan Âm. Mà bất kể hàng tháng, ngày vía quan âm trong tháng cứ đúng ngày 19 hàng tháng đều có thể cúng Phật Bà Quan Âm, chúng ta luôn hướng thành tâm về Ngài là đủ. Vì Phật luôn ở trong tâm của mỗi người. Tuy nhiên tốt nhất thì ngày Vía Quan Âm nên cúng đúng ngày, một năm có 3 ngày vào các tháng 2, tháng 6 và tháng 9 âm lịch là tốt nhất.

Vào ngày vía Quan Âm Bồ Tát, các Phật tử thường ăn chay, niệm kinh và bày lễ cúng chay. Quan trọng nhất chính là lễ bạc tâm thành, cầu mong Phật Bà Quan Âm phù hộ độ trì cho bản thân và gia đình luôn được bình an vô sự.

Kinh Lăng Nghiêm: Bồ tát Quan Thế Âm có thuật lại phương pháp tu hành của Ngài là do nghe, trầm tư và tu tập mà nhập chánh định. Bắt đầu Ngài tu từ sự nghe. Ngài chuyển dụng khả năng nghe tiếng bên ngoài mà nghe lại tự tánh nghe của mình. Vành tai như cái loa để nghe ngóng thâu nạp, bây giờ hướng vào. Đến lúc những cái sinh diệt, diệt hết những đối đãi buồn vui, thương giận, ghen ghét hết thì tánh vắng lặng hiện ra và khi ấy chứng được “nhĩ căn viên thông,” được hai thứ thù thắng: một là đồng với từ lực của mười phương chư Phật, hai là cảm thông lòng cầu mong thương cứu của chúng sanh trong sáu đường. Trong khi sự cảm thông của chúng ta với người khác thì có giới hạn vì chúng ta không có tha tâm thông hay nhĩ căn viên thông này.

2.2. Ngày Vía Quan Âm Bồ Tát năm 2020 là ngày nào?

Ngày Vía Quan Âm Đản Sản năm 2020 là ngày 19 tháng 2 năm Canh Tý lịch âm, lịch dương tức ngày 12/3/2020

Ngày Vía Quan Âm Thành Đạo năm 2020 là ngày 19 tháng 6 âm lịch năm Canh Tý, lịch dương tức ngày 8/8/2020

Ngày Vía Quan Âm Xuất Gia năm 2020 là ngày 19 tháng 9 âm lịch năm Canh Tý, lịch dương tức ngày 4/11/2020

3. Cúng gì, Làm gì vào ngày Vía Quan Âm để gặp nhiều may mắn

Quan Thế Âm Bồ Tát là biểu tượng của sự đại từ, đại bi, của lòng bao dung và vị tha. Người giúp đỡ tất cả chúng sinh vượt qua đau khổ, cứu khổ, cứu nạn nhân loài. Vậy vào ngày vía mẹ Quan Âm, chúng ta nên làm gì để thể hiện lòng tôn kính, biết ơn tới đức Phật Quan Âm?

Vào ngày vía Quan Âm Bồ Tát các Phật tử mọi nơi thường đi lên chùa chiền tụng kinh niệm phật, một số khác thì thờ cúng ngay tại nhà. Những việc nên làm vào ngày vía của Ngài nhằm thể hiện tấm lòng thành kính, tưởng nhớ biết ơn công đức Bồ Tát. Vậy ngày vía quan âm tụng kinh gì, quý vị nên tụng kinh, niệm phật, đi làm từ thiện, phóng sinh, in ấn kinh Phật,… Hoặc nếu không biết nên làm gì vào ngày vía phật Quan Âm thì chỉ cần không làm điều ác, không làm hại ai, có lòng vị tha, bao dung tất cả và lễ vía quan âm chắp tay thề nguyện 3 điều sau:

3.1. Con xin nguyện luôn yêu thương bản thân mình

Yêu thương bản thân ở đây có nghĩa là yêu cả bản tính tốt và biết cách nhìn nhận những mặt xấu của bản thân để sửa chữa, hoàn thiện bản thân toàn diện hơn. Nếu ta biết cách yêu thương bản thân là đã yêu thương người thân yêu bên cạnh, không còn để người thân phải lo lắng buồn phiền về mình, tự biết cách đi lên, hoàn thiện mình. Ngày Vía Quan Âm Bồ Tát mà làm được như vậy chính là bạn đã hoàn thành được tâm đại nguyện của đức Quan Âm rồi đấy.

3.2. Con xin nguyện được nhẫn nhục trước mọi thuận cảnh hay nghịch duyên

3.3. Con xin nguyện lắng nghe sâu sắc nỗi thống khổ của mọi người xung quanh

Ngày cúng mẹ quan âm bồ tát nên cầu xin sự tĩnh tâm. Bởi tĩnh tâm mới biết lắng nghe nỗi khổ của người khác giúp chúng ta phát sinh tâm từ bi. Từ đó có thể thấu hiểu họ và biết cách làm thế nào để giúp đỡ họ vượt qua khó khăn, buồn phiền trong cuộc sống. Giúp người cũng chính là cách để ta tích đức về sau, sống lương thiện, tâm tịnh kiếp này.

4. 14 Lợi ích khi trì tụng danh hiệu của ngài Quan Âm Bồ Tát.

Oai lực của ngài nổi bật trong việc giải cứu bảy nạn, tiêu trừ được ba độc tham, sân và si, thỏa mãn hai điều mong cầu (con trai hay gái), ứng hóa 32 ứng hóa thân và sử dụng 14 lối thuyết pháp.

Chúng sinh khổ não trong 10 phương thành kính niệm danh hiệu Ngài, liền được giải thoát;

Chúng sinh gặp lửa dữ…, lửa không thể thiêu đốt;

Chúng sinh bị nước cuốn trôi…, nước không thể nhận chìm;

Chúng sinh vào xứ ác quỉ…, ác quỉ không thể làm hại;

Chúng sinh gặp đao trượng…, đao trượng liền gãy;

Chúng sinh gặp ác quỉ, ác thần…, thì chúng không trông thấy;

Chúng sinh bị gông cùm, xiềng xích…, thì xiềng xích được tháo ra;

Chúng sinh khi vào đường nguy hiểm…, giặc cướp không thể cướp đoạt;

Chúng sinh tham dục…, liền dứt khỏi tham dục;

Chúng sinh nóng giận…, liền dứt hết nóng giận;

Chúng sinh mê ám…, liền dứt hết mê ám;

Chúng sinh muốn cầu con trai…, liền được con trai;

Chúng sinh muốn cầu con gái…, liền được con gái;

Chúng sinh niệm danh hiệu Quan Âm thì được lợi ích bằng niệm tất cả các danh hiệu khác.

5. 12 Đại Nguyện Của Ngài Quan Âm Bồ Tát

5.1. Nguyện thứ nhất Khi thành Bồ Tát (Quán Âm Bồ Tát đệ nhất nguyện)

Danh hiệu tôi tự tại quán âm

Viên thông thanh tịnh căn trần

Nơi nào đau khổ tầm thanh cứu liền

Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát

5.2. Nguyện thứ hai Không nài gian khổ (Quán Âm Bồ Tát đệ nhị nguyện)

Nguyện một lòng cứu độ chúng sanh

Luôn luôn thị hiện biển đông

Vớt người chìm đắm khi giông gió nhiều

Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát

5.3. Nguyện thứ ba Ta bà ứng hiện (Quán Âm Bồ Tát đệ tam nguyện)

Chốn u minh nhiều chuyện khổ đau

Oan gia tương báo hại nhau

Nghe tiếng than thở mau mau cứu liền

Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát

5.4. Nguyện thứ tư Hay trừ yêu quái (Quán Âm Bồ Tát đệ tứ nguyện)

Bao nhiêu loài ma quỷ gớm ghê

Độ cho chúng hết u mê

Dứt trừ nguy hiểm ko hề nhiễu nhương

Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát

5.5. Nguyện thứ năm Tay cầm dương liễu (Quán Âm Bồ Tát đệ ngũ nguyện)

Nước cam lồ rưới mát nhân thiên

Chúng sanh điên đảo đảo điên

An vui mát mẻ ưu phiền tiêu tan

Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát

5.6. Nguyện thứ sáu Thường hành bình đẳng (Quán Âm Bồ Tát đệ lục nguyện)

Lòng từ bi thương sót chúng sanh

Hỉ xả tất cả lỗi lầm

Không còn phân biệt sơ thân mọi loài

Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát

5.7. Nguyện thứ bảy Dứt ba đường dữ (Quán Âm Bồ Tát đệ thất nguyện)

Chốn ngục hình ngạ quỷ súc sanh

Cọp beo thú dữ vây quanh

Quán Âm thị hiện chúng sanh thoát nàn

Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát

5.8. Nguyện thứ tám giải thoát tù lao (Quán Âm Bồ Tát đệ bát nguyện)

Tội nhân bị trói hành hình rồi lại khảo tra

Thành tâm lễ bái thiết tha

Quán âm phù hộ thoát ra nhẹ nhàng

Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát

5.9. Nguyện thứ chín làm thuyền Bát Nhã (Quán Âm Bồ Tát đệ cửu nguyện)

Giúp cho người vượt khúc lênh đênh

Bốn bề biển khổ chông chênh

Quán Âm độ hết an nhiên niết bàn

Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát

5.10. Nguyện thứ mười tây phương tiếp dẫn (Quán Âm Bồ Tát đệ thập nguyện)

Vòng hoa thơm, kỹ nhạc lọng vàng

Tràng phan, bảo cái trang hoàng

Quán Âm tiếp dẫn đưa đường về tây

Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát

5.11. Nguyện thứ mười một Di Đà thọ ký (Quán Âm Bồ Tát đệ đệp thập nhất nguyện)

Cảnh tây phương tuổi thọ không lường

Chúng sanh muốn sống mien trường

Quán âm nhớ niệm tây phương mau về

Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát

5.12. Nguyện thứ mười hai Tu hành tinh tấn (Quán Âm Bồ Tát đệ thập nhị nguyện)

Dù thân này tan nát cũng đành

Thành tâm nỗ lực thực hành

Mưới hai câu nguyện độ sanh đời đời

Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát

5. Ngày vía Quan âm tụng kinh gì?

5.1. Kinh Sách Kinh Điển nói về Quan Thế Âm

Trong kinh Đại Phật Đỉnh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật sai Bồ Tát Văn Thù chọn pháp môn nào có thể thích hợp cho chúng sanh cõi ta bà tu tập. Hai mươi lăm vị thánh tuần tự đứng lên trình bày chỗ sở chứng và tâm đắc của mình, Bồ tát Văn Thù chọn Pháp môn Nhĩ căn Viên thông của Bồ tát Quan Thế Âm là hay hơn cả, vì chúng sanh cõi ta bà này dễ lay chuyển bởi âm thanh.

Về tín ngưỡng Quan Âm phát xuất từ Ấn Độ, Tây Vực, sau đó nhờ công tác phiên dịch kinh điển mà được truyền sang Trung Quốc, Tây Tạng, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam v.v… Một trong những bằng chứng cho thấy sự phổ biến của tín ngưỡng này trong văn hóa Trung Hoa là

trong số 42.000 văn bản Phật học được tìm thấy tại động Đôn Hoàng có đến 1.048 bản kinh Pháp Hoa (có Phổ Môn) và 200 bản Phổ Môn như những bản kinh riêng biệt.

Bản kinh có đề cập đến Bồ tát Quan Âm là:

* Kinh Pháp Hoa Tam Muội (năm 255).

* Chánh Pháp Hoa Kinh – Quan Thế Âm Phổ Môn phẩm (năm 286).

* Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Quan Thế Âm (Bồ tát Phổ Môn phẩm (năm 406).

* Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni (chép: Trong vô lượng kiếp về quá khứ, Đức Quan Thế Âm đã thành Phật hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai. Vì nguyện lực đại bi nên hiện thân Bồ tát để độ chúng sanh.

* Kinh Nhất Thiết Đức Trang Nghiêm Vương thì ngài là thị giả của Đức Phật Thích Ca.

* Theo Mật giáo, Quan-Thế-Âm là hoá thân của Đức Phật A-di-đà

* Kinh Quan Âm Tam Muội (Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng có nói Quan Thế Âm Bồ tát )là một vị cổ Phật ấy

* Kinh Bi Hoa chép trong thời quá khứ Bồ tát Quan Thế Âm là thái tử con vua Vô Tránh Niệm. Đồng thời có đức Bảo Tạng Như Lai ra đời giáo hoá chúng sanh. Thấu triệt giáo lý do Đức Phật ấy truyền dạy, vua phát tâm cầu đạo và giáo hóa chúng sanh. Nhà vua cúng dường Đức Phật luôn trong ba tháng và tinh tấn tu hành, thái-tử cũng vậy. Khi công hạnh vẹn toàn, vua thành Phật hiệu là A-di-đà ở tây phương cực lạc. Thái-tử cũng sanh về thế giới ấy và thành Bồ-tát hiệu Quan Thế Âm để trợ giúp Phật A-di-đà tiếp dẫn chúng sanh về cõi tịnh.

* Trong kinh Địa Tạng, Đức Phật cũng khen Quan Thế Âm có nhân duyên với cõi ta bà này.

* Tâm Kinh là kinh tóm gọn của Kinh Đại Bát Nhã (Prajñā pāramitā) cũng nói về Quán Tư Tại với công hạnh tu tập quán năm uẩn là không.

* Kinh Hạnh Từ bi Nhẫn Nhục minh họa tích Quan Âm Thị Kính bằng tranh lưu truyền trong dân gian.

* Kinh Đại Phật Đỉnh Thủ Lăng Nghiêm chương VI nói về pháp tu phản văn của ngài Quan Thế Âm Bồ Tát

Trong các kinh này, hai tác phẩm nổi bật nhất nói về Bồ tát Quan Thế Âm mà chúng ta thường biết đến là kinh Lăng Nghiêm và Kinh Pháp Hoa.

Trong kinh Pháp Hoa, đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói rằng nếu một chúng sanh đang thống khổ mà nghe được hồng danh của Quán Thế Âm Bồ tát và kêu danh ngài, thì Quán thế Âm Bồ tát sẽ nghe được tiếng kêu và cứu chúng sanh này thoát khổ ách, tai nạn.

Thần chú Mani (Mani Mantra), câu thần chú hộ thân rất phổ biến của ngài là lục tự đại minh chơn ngôn : OM MANI PADME HUM hay Chú Đại Bi khá quen thuộc với các phật tử trong các nghi lễ Phật giáo.

5.2. Ngày Vía Đức Quan Thế Âm Bồ Tát Nên Tụng Kinh Gì

Vào ngày Vía Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, Bạn đọc có thể tụng một số kinh sau

Nếu kết hợp được với ăn chay, bố thí, cúng dường thì càng tốt. Còn nếu không thì cũng vẫn được phước báu.

Văn Khấn Mùng 1, Ngày Rằm Tháng Bảy Âm Lịch

Sắm lễ cúng gia tiên trong tháng 7

“Trong ngày cúng Lễ Vu Lan (rằm tháng 7) bao giờ cũng phải cúng tổ tiên nhà mình. Người ta thường chuẩn bị đồ cúng “trên chay dưới mặn”. Tức là trên hoa quả, dưới là cỗ mặn. Các món được chuẩn bị tùy theo điều kiện của mỗi gia đình, hoặc nấu các món ăn khi xưa ông bà tổ tiên của mình thích.

Nếu người nào là trưởng tộc, thì chỉ cúng xôi và thủ lợn, đuôi lợn và 9 bát xếp chồng lên nhau, 9 đôi đũa. Nếu không có lợn thì cúng gà.

Nếu là con trưởng trong nhà thì cúng 1 mâm cơm. Tùy tâm, có ít cúng ít, nhiều cùng nhiều, nhưng không thể thiếu là 7 cái bát chồng lên nhau.

Nếu không phải con trưởng thì cúng 1 mâm cơm gồm nhiều đồ ăn và 5 cái bát tượng trưng cho ngũ đại đồng đường. Các gia đình nhớ là phải xếp bát chồng lên nhau.

Văn khấn cúng mùng 1/ngày rằm tháng 7 tại nhà

Nam mô A Di Đà Phật ( 3 lần ) ! Con lạy 9 phương trời, con lạy 10 phương đất Con lạy chư Phật mười phương, con lạy 10 phương chư Phật Kính lạy – Hoàng thiên, Hậu thổ chư vị Tôn thần – Ngài Bản cảnh Thành hoàng, ngài Bản xứ thổ địa, ngài Bản gia Táo quân cùng chư vị Tôn thần – Tổ tiên trong họ, tổ khảo, tổ tỷ, bà cô tổ, ông mãnh tại gia, chư vị Hương linh trong nhà Hôm nay con cảm nghĩ thâm ân trời đất, chư vị tôn thần nhớ đức cù lao tiên tổ, mỗi niệm không quên. Con xin chân thành cảm tạ, chân thành tri ân chắp tay trước án Con xin kính mời:

– Ngài Bản Cảnh Thành hoàng Chư vị Đại Vương – Ngài Bản xứ thần linh Thổ địa – Táo quân, Ngũ phương, Long mạch, Tài thần- Ngài Bản gi

Kinh mời các Ngài chứng giám thành tâm, cảm tạ ơn dầy, đại xá tội lỗi cho con Con Xin sám hối trước Gia tiên, Bà Tổ Cô, Thân cô, hiền cô, Quan Bác quan chú Trong họ Kính mời các vị chân linh, tiền chủ hậu chủ ở trong nhà này, đất này đông lâm án tiền, đồng lai hâm hưởng

Độ cho gia đình con được may mắn, cát tường, vạn sự như ý

Bốn mùa không ách hạn nào xâm

Tám tiết hưởng vinh quang thịnh vượng

Tài lộc dồi dào, an nhiên yên ả

Chúng con lâu đời lâu kiếp, nghiệp chướng nặng nề, si mê lầm lạc, nay thành tâm xin sám hối, thề tránh điều dữ, nguyện làm việc lành Ngửa trông ơn các Vị các Ngài từ bi gia hộ bao bọc chở che cho con tâm không phiền não, thân không bệnh tật, Các Vị các Ngài bao bọc cho gia đình con an khang thịnh vượng vạn sự như ý, bản mệnh kiên định, khai tâm khai sáng, nhận biết được thời cuộc, xa lánh kẻ tiểu nhân, thân gần bậc tôn quý, bớt đi những thị phi đố kỵ ghen tị trên trần thế. Nhân duyên vượng, tình duyên tốt, tài lộc dồi dào, sinh cư bình an, thân khang tuệ minh, diên sinh trường thọ, an cư lạc nghiệp, cư địa an bình, gia môn hưng vượng Nhân ngày…. tháng 7, tiết vu lan, vong nhân xá tội, mong cho gia tiên trong họ, hương linh trong nhà, chúng sinh trong vùng sớm được siêu sinh tịnh độ. Sớm đi về cõi niết bàn, truy được sự giải thoát cho đời đời an lạc an yên. Con xin cúi đầu cẩn cáo Con Nam Mô A Di Đà Phật ( 3 lần )

Văn khấn cúng mùng 1/ngày rằm tháng 7 tại cửa hàng

Con lạy chín phương trời, mười phương đất Kính lạy Quan đương niên Hành khiển, Tề vương hành khiển, Ngũ miếu hành binh chi thần Kính lạy các Ngài Thành Hoàng bản cảnh chư vị đại vương, Kính lạy Ông Địa – Tài Thần, Lộc Thần, Phát Thần Con tên là Năm sinh Cửa hàng tại địa chỉ Hôm nay là ngày …tháng…năm ( lịch âm ) Tín chủ tiết vu lan, vong nhân xá tội thời, chọn, giờ thuận lợi tài. Nay xin được dâng lên mâm lễ mọn thành kính tới các Vị Các Ngài Khấu xin Thành Hoàng bản địa, Ông Địa – Thần Tài chứng minh cho lòng thành tâm khấn vái, xin chân thành cảm ơn chư vị thần linh đã phù hộ độ trì cho con trong suốt thời gian qua Cẩn xin chư vị thần tài thổ địa phù hộ độ trì cho con được cư địa an bình, gia môn hưng vượng Vận đáo hanh thông, an định công thành danh toại, kinh thương hữu đa khách hàng, doanh số tăng trưởng phát triển thịnh vượng, tài lộc dồi dào, Bách sự như ý, sở nguyện tòng tâm Mong chư vị gia ân tác phúc cho cửa hàng / cơ quan / công ty con được đắc địa, đắc lợi, đắc tài, đắc lộc. Không cho chúng tiểu nhân quấy nhiễu, độ cho con có quý nhân hỗ trợ. Cho nhân sự được tận tuỵ tận tâm, hữu trách nhiệm hữu tự giác tự thân. Chúng con người trần mắt thịt, việc dương chưa tỏ việc âm chưa thấu, tâm chưa khai quang trí chưa thanh tịnh, nếu có điều gì lầm lỡ mong các Vị Các Ngài bỏ qua đại xá cho Ngửa trong ơn trên ngự gió cưỡi mây, trở về đây thụ hưởng lễ vật Con xin cúi đầu cẩn cáo Nam Mô A Di Đà Phật ( 3 lần )

Chuẩn bị đồ lễ cúng cô hồn tháng 7

Ngoài việc cúng Phật, cúng thần linh và cầu siêu cho gia tiên, người Việt còn có lễ cúng bố thí cho các cô hồn khi tại thế thất cơ lỡ vận, không nơi nương tựa và chịu nhiều oan trái trong xã hội…

Thời gian: Có thể cúng từ ngày mùng 1 đến 15 tháng 7 (âm lịch).

Sắm lễ:

– Tiền vàng từ 15 lễ trở lên, quần áo chúng sinh từ 20 đến 50 bộ.

– Tiền chúng sinh (tiền trinh), hoa, quả 5 loại 5 mầu (ngũ sắc).

– Bỏng ngô, khoai lang luộc, ngô luộc, sắn luộc.

– Kẹo bánh. Tiền mặt (tiền thật, các loại mệnh giá).

– Nếu cúng thêm cháo thì thêm mâm gạo muối (5 bát, 5 đôi đũa hoặc thìa)

– 12 cục đường thẻ.

– Mía (để nguyên vỏ và chặt tùng khúc nhỏ độ 15 cm )

– Nước : 3 chum (hay 3 ly nhỏ ), 3 cây nhang , 2 ngọn nến nhỏ.

Chú ý: Không cúng xôi, gà. Khi rải tiền vàng ra mâm, để 4 hướng Đông, Tây, Nam, Bắc, mỗi hướng từ 3-5-7 cây hương. Bày lễ và cúng ngoài trời.

Bài cúng cô hồn tháng 7

KÍNH LỄ MƯỜI PHƯƠNG TAM BẢO CHỨNG MINH

Hôm nay ngày……tháng……năm………………(Âm lịch).

Con tên là:…………………..tuổi……………….Ngụ tại số nhà …, đường…, phường (xã)… , quận (huyện ) ……………, tỉnh (Tp):…………………

Trân trọng kính mời các chư vị khuất mặt, khuất mày, kẻ lớn, người nhỏ, thập loại cô hồn, các Đảng, âm binh ngoài đường, ngoài xá, hửu danh vô vị, hửu vị vô danh, các chiến sĩ trận vong, đồng bào tử nạn…về nơi đây hưởng lộc thực đầy đủ…

Phát lòng thành tịnh, thiết lập đạo tràng, bày tiệc cam lồ, Kỳ an gia trạch, Kỳ an bổn mạng. Nhờ ơn tế độ, thêm sự phước duyên, nguyện xin gia đình yên ổn, thuận lợi bán buôn, phù hộ được buôn may bán đắt, mọi sự được sở cầu như ý, dòng họ quy hướng đạo mầu, con cháu học hành tinh tiến, nguyện cầu thế giới hòa bình, nhơn sanh phước lạc.

Nam mô Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng. Độ cho nhứt thiết siêu thăng thượng đài.

– Chân ngôn biến thực : (biến thức ăn cho nhiều)

NAM MÔ TÁT PHẠ ĐÁT THA, NGA ĐÀ PHẠ LÔ CHỈ ĐẾ, ÁN TÁM BẠT RA, TÁM BẠT RA HỒNG (7 lần)

Chân ngôn Cam lồ thủy: (biến nước uống cho nhiều)

NAM MÔ TÔ RÔ BÀ DA, ĐÁT THA NGA ĐA DA, ĐÁT ĐIỆT THA. ÁN TÔ RÔ, TÔ RÔ, BÁT RA TÔ RÔ, BÁT RA TÔ RÔ, TA BÀ HA (7 lần)

Chân ngôn cúng dường: ÁN NGA NGA NẴNG TAM BÀ PHẠT PHIỆT NHỰT RA HỒNG (7 lần).

Cách mời vong đi sau khi cúng cô hồn

Nhiều gia đình mời cô hồn về nhà cúng chúng sinh, nhưng khi xong nghi lễ không biết mời đi, nên cô hồn vẫn luẩn quẩn trong nhà quấy quả gia chủ. Vì vậy, sau khi nghi lễ cúng xong, các gia đình nhất định phải làm những việc như sau:

Sau khi cúng xong, các vật phẩm cúng cô hồn không đem vào nhà. Đồ mã đốt ngay tại chỗ. Đĩa muối gạo rải ra tám hướng.

Tục giật cô hồn: tức người sống giành giật những mâm cúng, rồi người ta thường đốt vàng mã cho cô hồn, cho tiền người sống bằng cách thảy tiền cùng với bánh kẹo. Họ tin nếu người sống mà giành giật càng đông, tức họ đã mua chuộc được các cô hồn các đảng không đến quấy phá gia đình mình.

Bài viết chỉ có tính chất tham khảo cho những ai quan tâm!

Ý Nghĩa Nghi Lễ Dâng Hương Ngày Rằm Tháng Bảy Âm Lịch

Cách cúng rằm tháng 7 được thực hiện từ trong nhà ra ngoài trời theo thứ tự: cúng Gia Thần, cúng Gia Tiên và cuối cùng mới cúng chúng sinh.

Nghi lễ dâng hương ngày rằm tháng 7 âm lịch có ý nghĩa quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt, thể hiện một nét đẹp trong truyền thống tôn giáo, tín ngưỡng. Ngày rằm tháng 7 năm 2020 rơi vào thứ Tư ngày 2/9 dương lịch nên một số gia đình có thể cúng lễ sớm hơn vào dịp cuối tuần để thuận tiện hơn.

Theo cuốn Tập tục và nghi lễ dâng hương do Hòa thượng Thích Thanh Tứ, Trụ trì chùa Quán Sứ hiệu đính, tiết Trung Nguyên còn có những tên gọi khác như tiết Vu lan hoặc gọi nôm na như dân gian nói là “ngày xá tội vong nhân”, được tiến hành vào ngày rằm tháng Bảy (ngày 15 tháng 7 âm lịch).

Tiết Trung Nguyên của Việt Nam vừa có những yếu tố nguồn gốc văn hóa Ấn Độ (qua Phật giáo) vừa có những yếu tố văn hóa, tín ngưỡng Trung Hoa. Nhưng dù có xuất xứ từ đâu, tiết Trung Nguyên với người Việt cũng là tiết của dịp “xá tội vong nhân” nơi địa phủ. Dân gian cho rằng vào dịp rằm tháng 7 thì mọi tội nhân, trong đó có những vong linh của gia đình, tộc họ mình đang bị giam cầm nơi địa ngục sẽ được dịp ra khỏi âm phủ để lên dương gian.

Nhân dịp này các gia đình làm lễ dâng hương, cúng các đồ hàng mã cho vong linh người thân của gia đình mình.

Dù nghi lễ dâng hương thực hiện tại nhà hay tại các chùa, người ta cũng không quên cúng các vong linh “không nơi nương tựa” hay còn gọi là các “cô hồn”, vật phẩm là những thứ đồ ăn của người nghèo như: cháo hoa, khoai lang, ngô luộc, bỏng, gạo, muối…

không nơi nương tự cũng được gọi là cúng chúng sinh, được thực hiện ngoài trời, ngoài cửa chứ không cúng trong nhà. Cúng chúng sinh là thể hiện đạo đức từ bi của con người nhân dịp “xá tội vong nhân”.

Khác với cúng dâng hương lúc giao thừa là cúng ngoài trời trở vào nhà, cúng lễ ngày rằm tháng 7 được thực hiện từ trong nhà ra ngoài trời: cúng Gia Thần, cúng Gia Tiên và cuối cùng mới cúng chúng sinh.

Việc cúng lễ ngày rằm tháng 7 không đơn thuần là việc cầu cúng theo mê tín mà thể hiện tấm lòng của người còn sống với người đã khuất, cũng là một dịp để tưởng nhớ công ơn những người đã hy sinh vì đất nước.

Từ đó cho thấy ý nghĩa nhân văn, hướng thiện, là dịp thể hiện lòng hiếu thảo của con cháu với ông bà cha mẹ, không chỉ với người quá cố mà còn cả với người đang sống. Đó chính là hạnh hiếu của nhà Phật và tâm hiếu của con người đồng thời cũng là nét đẹp trong truyền thống văn hóa trọng đạo lý của người Việt Nam.

Ngày lễ Vu lan báo hiếu 2020 rơi vào ngày 2/9 dương lịch, đây là một trong 2 ngày lễ quan trọng nhất của Phật giáo. Hiện nay lễ Vu lan đã trở thành một lễ hội văn hóa tinh thần chung của xã hội.

Cập nhật thông tin chi tiết về Nên Tụng Kinh Gì Trong Tháng Bảy Âm Lịch? trên website Apim.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!