Xu Hướng 12/2023 # Mâm Cỗ Tết Của Người Tày Khao # Top 12 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Mâm Cỗ Tết Của Người Tày Khao được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Apim.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Trong các nghi thức ngày tết thì, nghi thức cúng gia tiên chiều 30 tết và cúng giao thừa là nghi thức quan trọng nhất của người Tày Khao. Vì vậy, mâm cỗ cúng gia tiên được chuẩn bị rất công phu.

Xôi ngũ sắc của người Tày Khao

Trong mâm cỗ tết của người Tày Khao không thể thiếu được món xôi và cá suối nướng, dâng cúng tổ tiên, thần linh để bày tỏ lòng biết ơn, cầu mong một năm mới sung túc.

Ngoài ra, mâm cúng còn có bánh chưng gù, bánh nẳng và đĩa rau rừng luộc. Theo quan niệm của người Tày Khao, bánh chưng gù tượng trưng cho người phụ nữ cần cù, còn bánh nẳng là biểu tượng của hạnh phúc và đoàn kết của cộng đồng.

Bánh chưng gù của người Tày Khao

Đặc biệt, người Tày Khao có tục lấy nước vào đêm giao thừa, khoảnh khắc chuyển giao năm cũ sang năm mới. Các gia đình đều mang ống ra suối lấy nước mới về cúng tổ tiên. Nước mới để thờ cúng phải trong, những mong con cháu có một năm làm ăn sung túc.

Các sản vật nông nghiệp của người Tày Khao được tạo ra bằng phương pháp thủ công truyền thống, chất lượng của nguyên liệu sạch, an toàn. Hiện nay với sự phát triển thương mại, du lịch, các loại xôi, bánh của người Tày Khao đã trở thành sản phẩm đặc trưng, được một số gia đình làm bán ở các chợ, cung cấp cho các nhà hàng phục vụ đám cưới, bán cho khách du lịch, đem lại nguồn thu ổn định cho người dân.

Bánh nẳng của người Tày Khao

Ngoài ra, các sản vật thu được ở nương, rẫy như ngô, khoai, sắn… cũng được đồng bào Tày Khao sử dụng trong việc chế biến thành thức uống và các loại bánh như: bánh sắn, bánh ngô làm quanh năm với gia vị và màu sắc lấy từ rễ, lá cây có sẵn trong tự nhiên. Cùng với đó, người Tày Khao ở xã Đông Cuông còn luôn chú trọng giữ gìn và phát huy các nét văn hóa truyền thống, từ đó có những hướng đi phù hợp nhằm phát triển du lịch cộng đồng./.

Mâm Cỗ Tết Của Người Bình Định

Mâm cỗ Tết của người Bình Định

Đó là một tác phẩm nghệ thuật thực sự với đủ màu sắc và hương vị của những thức ăn quê cảnh được làm từ chính đôi bàn tay của những phụ nữ đảm đang trong gia đình.

Việt Nam nói chung, Bình Định nói riêng vốn rất trọng ông bà tổ tiên, mỗi dịp cúng giỗ, lễ, Tết thường sắm sửa những mâm cỗ cúng thịnh soạn, đẹp mắt để thể hiện lòng thành kính của mình với người đã khuất và chiêu đãi bạn bè, hàng xóm. Ở Gia Lai, có nhiều người dân từ Bình Định lên sinh sống lập nghiệp, quê nắng vàng cát trắng song nơi an cư lại là vùng đất bazan hai mùa mưa nắng, tuy sống ở đâu họ vẫn mang theo nét văn hóa cúng giỗ cùng ẩm thực rất độc đáo của quê hương.

Tết đến xuân về là dịp con cháu nhắc nhớ đến tổ tiên, từ những ngày đầu tháng Chạp âm lịch, dù bận rộn công việc đến mấy thì mọi người trong gia đình đều tạm gác lại, đàn ông đảm nhiệm việc đến nghĩa trang dọn dẹp, tu sửa mộ phần của ông bà tổ tiên trong gia đình, dòng họ mình và thỉnh mời người đã khuất về nhà ăn tết cùng con cháu họ tộc. Những phụ nữ cùng nhau chuẩn bị mâm cỗ cúng.

Tôi quê gốc Bình Định nhưng sinh ra và lớn lên ở Pleiku, tôi yêu thích việc nấu nướng từ nhỏ thế nên hàng năm cứ vào dịp lễ, tết đều theo mẹ và các chị em trong dòng họ chuẩn bị cỗ cúng. Theo truyền thống của dân quê tôi thì trong mâm cỗ ngày tết của gia đình lúc nào cũng có những món như: thịt kho tàu, giò heo hầm măng khô, bánh tét, bánh chưng, mắm kiệu, chả lụa, chả ram, bún xào, đậu cô ve xào, canh bún tàu, cơm trắng, lòng heo luộc, gà luộc, bánh tráng nướng… Ngoài những món ăn mặn còn có những món ngọt như: bánh in, bánh thuẫn, mứt dừa, mứt gừng, kẹo thèo lèo, xôi đậu đen… Bởi người quê tôi quan niệm “sống sao thác vậy”, ” trần sao âm vậy”.

Thời nay, cuộc sống hiện đại đủ đầy các mặt hàng thực phẩm, cái gì cũng có thể ra chợ mua được, tuy nhiên nhiều gia đình trong đó có gia đình tôi vẫn giữ được nét văn hóa cúng giỗ và ẩm thực truyền thống như là tự nấu những món ăn cổ truyền cũng như tự làm các loại bánh trái ngày tết như bánh tét, bánh chưng, làm mắm kiệu, làm mứt gừng, mứt dừa, bánh in, bánh thuẫn… Cách làm ấy cũng là dịp để thế hệ trẻ chúng tôi biết thêm nét đẹp độc đáo trong văn hóa ẩm thực của quê hương Bình Định, là cơ hội để những người thuộc thế hệ 8X, 9X chúng tôi học hỏi kinh nghiệm, lễ nghi truyền thống mà ông bà, cha mẹ đã giữ gìn và truyền lại, đây còn là dịp để con cháu tụ họp, quây quần bên nhau mỗi khi tết đến xuân về.

Thú vị nhất, chính là lúc mâm cỗ đã được sắp xong và dâng lên tổ tiên. Nó là một tác phẩm nghệ thuật thực sự với đủ màu sắc và hương vị của những thức ăn quê cảnh được làm từ chính đôi bàn tay của những phụ nữ đảm đang trong gia đình. Trong không gian hương khói thơm ngát, ấm cúng, cả gia đình chắp tay thành tâm khấn nguyện tổ tiên phù hộ độ trì toàn gia và dòng họ một năm an khang thịnh vượng, dữ ít lành nhiều. Vẻ đẹp của mâm cỗ tết luôn được tôi ghi nhớ, nó chính là vẻ đẹp sắc màu dân tộc đặc trưng của người miền Trung giản dị, thật thà và nồng hậu.

Vui nhất là sau khi thực hiện nghi thức cúng tổ tiên, cả gia đình quây quần thưởng thức mâm cỗ thịnh soạn, từ người lớn tuổi cho tới đứa trẻ nhỏ đều được ngồi dự cỗ, mọi người vừa ăn vừa trò chuyện rôm rả, thanh âm cuộc sống vang lên trong những căn nhà ngày cuối năm, ai cũng có thể lắng nghe một cách đầy đủ cung bậc cảm xúc của người thân yêu. Sau những cười đùa giòn tan, những chúc mừng thành đạt, những dạy bảo ân cần của người trên, người trẻ chúng tôi nhận ra gia đình và nét văn hóa sum họp truyền thống cùng mâm cơm tết có ý nghĩa vô cùng, nó là bài học thực hành có giá trị hơn bất kỳ loại sách vở nào.

Dẫu không khí ăn tết trong thời hiện đại có nhiều thay đổi về cách thức và hương vị nhưng những món ăn truyền thống và nghi lễ cúng bái cổ truyền vào mỗi dịp lễ, tết của người quê Bình Định vẫn luôn được coi trọng, giữ gìn, phát huy. Tất cả để nhắc nhở thế hệ tiếp nối biết sống trung hiếu, tự lập, cần kiệm, nhẫn nại, coi trọng đạo đức, nhân ái trên con đường lập thân, lập nghiệp.

Theo Bích Trâm (Báo Gia Lai)

Mâm Cỗ Tết Truyền Thống Của Người Việt

Cỗ Tết miền Bắc

Mâm cỗ Tết của người miền Bắc không chỉ đa dạng về món mà còn chú trọng đến hình thức, màu sắc và thường rất bài bản theo đúng nét cổ truyền của dân tộc. Mâm cỗ thường có 4 bát, 4 đĩa tượng trưng cho tứ trụ, bốn mùa và bốn phương; cỗ lớn thì có 6 bát, 6 đĩa hoặc 8 bát, 8 đĩa tượng trưng cho phát lộc, phát tài. Có khi mâm cỗ lớn phải xếp cao đến 2,3 tầng. Cỗ xưa được đựng trong bát chiết yêu, đĩa cây mai và được bày lên mâm gỗ hoặc mâm đồng.

Dù tiết xuân đã tới nhưng trời vẫn còn rất lạnh, do vậy người miền Bắc đón Tết bằng những món ăn giàu năng lượng, nhiều chất béo như bánh chưng, giò lụa, nem rán, canh măng chân giò,giò thủ, cá kho riềng, canh bóng thả, canh mọc nấm, nộm su hào, thịt nấu đông… Trong đó, không thể thiếu chiếc bánh chưng xanh gói vuông vức. Người miền Bắc có câu: “Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ/ Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh”, không có thịt mỡ, dưa hành, bánh chưng thì không gọi là Tết.

Cũng do khí hậu lạnh mà món ăn độc đáo trong ngày Tết của người miền Bắc là món thịt đông. Dù là cỗ Tết xưa hay Tết nay, món thịt đông vẫn luôn được các bà nội trợ chuẩn bị chu đáo cho ngày sum họp, đoàn viên của gia đình trong năm. Món thịt đông qua bàn tay khéo léo của các bà, các mẹ trở nên rất bắt mặt, bề mặt trong suốt, nhìn rõ những miếng thịt chân giò thơm ngon, sợi mộc nhĩ giòn tan, đen nhánh bên trong. Thịt đông ăn kèm với dưa hành là đủ cảm nhận hương vị của ngày Tết.

Cỗ Tết miền Trung

Người miền Trung đón xuân với những món ăn dân dã như: tôm chua, dưa món, nem chua, chả tré, bò ngâm dấm, giò thủ, thịt chua và tai heo… Ngoài ra, cỗ Tết miền Trung không thể thiếu các món bánh đặc sản như bánh lá, bánh nộm… Riêng ở Huế, cố đô xưa của người Việt, món ăn truyền thống ngày Tết phải là những cao lương mỹ vị, các món ăn cung đình được chế biến công phu, bày biện tinh tế, vừa ngon miệng, vừa đẹp mắt.

Bên cạnh những món mặn, cỗ Tết miền Trung không thể thiếu món tôm chua. Tôm chua có màu ửng đỏ tự nhiên, mùi thơm hấp dẫn của riềng, tỏi. Món này thường ăn cùng thịt ba chỉ luộc, có thể kèm khế chua, chuối chát để thêm ngon miệng.

Dưa món cũng là một món ăn được ưa chuộng trong ngày Tết ở miền Trung. Món ăn này phải được chuẩn bị từ cả tháng trước Tết; gồm những nguyên liệu đơn giản như: su hào, cà rốt, đu đủ, củ kiệu, ớt… Tất cả được thái lát, tỉa hoa cho đẹp, phơi nắng rồi ngâm trong dấm, mắm… cho đến khi ăn thấy giòn, dai, đủ vị mặn, ngọt, chua là được. Dưa món thường ăn với bánh chưng, bánh tét.

Người Huế lại có một món ăn đặc sản trong ngày Tết là chả tré, làm từ thịt bò và thịt ba chỉ rán vàng, thái sợi, trộn với riềng, ớt, tỏi, muối, đường và thính gạo rang thơm. Chả tré ăn kèm với bánh tráng và rau ngò thơm rất hợp vị.

Cỗ Tết miền Nam

Vùng đất phương Nam được thiên nhiên biệt đãi với cây trái bốn mùa, sản vật phong phú nên mâm cỗ Tết ở đây cũng rất đa dạng, nhiều món. Người miền Nam ăn Tết với những món ăn đặc trưng của vùng khí hậu nóng ẩm như: thịt kho trứng vịt, thịt kho dưa giá, tai heo ngâm giấm, canh khổ qua, giò bì, giò thủ, giò lụa… Người dân miền Tây thì có các món cá lóc hấp hoặc nướng, bánh tráng cuốn… Cỗ Tết miền Nam không thể thiếu bánh tét. Nguyên liệu và cách làm bánh tét cũng gần giống như bánh chưng ở miền Bắc, nhưng bánh được gói bằng lá chuối; nếp nấu bánh thường xào qua cốt dừa để tăng bị béo. Bánh ở miền Nam không được gói thành hình vuông như bánh chưng mà được gói thành hình chữ nhật, trung bình mỗi đòn có đường kính chừng 10cm và nặng khoảng 1 kg, dài khoảng 40cm. Nhân bánh tét cũng rất phong phú, ngoài nhân đâu xanh, thịt ba chỉ còn có bánh tét nhân đậu đen, nhân chuối hay bánh tét thập cẩm với nhân tôm khô, trứng, lạp xưởng, hạt sen, thịt giò, trứng bắc thảo, đậu phộng, đậu xanh, nấm đông cô.

Ở miền Tây, bánh tét có nhiều vị hơn với bánh tét ngũ sắc, bánh tét lá dứa, bánh tét gấc; Cần Thơ có bánh tét lá cẩm; Trà Vinh có bánh tét Trà Cuốn rất nổi tiếng; còn ở đảo Phú Quốc thì có bánh tét mật cật…

Đào Minh (Tạp chí Du lịch)

Mâm Cỗ Tết Xưa Của Người Hà Nội

Nhắc đến Tết Hà Nội xưa, trong ký ức của những người đã sống ở đây từ lâu đời không thể quên được nhiều nét đẹp đáng gìn giữ cho muôn đời sau. Ấy là chợ hoa Hàng Lược, chợ hoa Quảng Bá, nồi bánh chưng luộc bập bùng, chợ Tết nhộn nhịp đến trưa ngày 30… Nhưng sẽ là thiếu sót khi không nói đến mâm cỗ Tết của người Hà Thành xưa. Bởi, đất kinh kì vốn từ lâu đã nổi tiếng về sự thanh nhã của con người và cả cách ăn uống rất tinh tế.

Những ngày áp Tết, trong cái rét ngọt mùa đông, chúng tôi đến thăm nghệ nhân ẩm thực Bùi Ánh Tuyết – người giữ hồn ẩm thực Hà Thành nhiều năm qua, để được ôn lại ký ức Tết xưa trong tâm thức của một người đã sống lâu năm ở khu phố cổ. Không chỉ có vậy, nhiều món ăn của Hà Nội xưa vẫn được bà làm mỗi dịp Tết đến, Xuân về.

Ngồi bên chiếc bàn trong căn nhà cổ kính trên phố Mã Mây (Hà Nội), nghệ nhân Ánh Tuyết buông ánh mắt nhìn ra con đường nhộn nhịp người qua lại rồi trầm ngâm nhớ lại những ký ức về Tết đã theo bà cùng năm tháng. Nói đến ngày Tết xưa, tiếng gió rào rào, rít từng hồi cũng khiến người Hà Nội nhớ mãi. Mà theo nghệ nhân Ánh Tuyết, nghe tiếng gió thôi cũng thấy se lòng. “Còn bây giờ hầu như không có tiếng gió ấy, những tiếng gió mùa đông mà các nhà văn miêu tả giờ không còn vì nhà cao tầng mọc lên khắp nơi”, cô Ánh Tuyết nói.

Nhớ Tết xưa

Sống giữa Thủ đô đã lâu đời, chứng kiến biết bao nhiêu đổi thay trong đó có cả mâm cỗ Tết. Theo lời nghệ nhân ẩm thực Ánh Tuyết, mỗi thời có một điều kiện khác nhau. Ngày xưa, thiếu thốn trăm bề, nhiều người phải để dành tem phiếu đợi gần Tết dồn vào cho đủ khẩu phần, để mấy ngày Tết được đủ đầy hơn.

“Trong gia đình, con gái lớn sẽ thể hiện tài nữ công gia chánh khi tự làm mứt Tết để mời cả nhà và dọn tiếp khách. Ngoài thể hiện nữ công gia chánh thì tự làm mứt cũng giúp tiết kiệm một phần tiền”, nghệ nhân Ánh Tuyết nhớ lại.

Nghệ nhân Phạm Ánh Tuyết cho hay, để chuẩn bị được mâm cỗ Tết xưa của người Hà Nội rất kỳ công

Mứt tự làm cũng đa dạng gồm mứt cà chua, mứt bí, mứt sen… độ ngọt diu, màu sắc ấn tượng, tất cả đều rất khéo léo và chu toàn. Tết cũng là cơ hội để chị lớn dạy em gái nhỏ tuổi hơn cách làm sao để làm mứt ngon, làm sao để bao đường rồi nhưng mứt cà chua khi ăn bên ngoài vẫn cứng còn bên trong mềm dẻo. Nhìn thấy độ chuẩn về mứt đã nói lên sự khéo léo của con gái trong nhà, điều đó có nghĩa là Tết không chỉ đơn thuần là thời gian để sum họp mà còn toát nên nét văn hóa của người Việt Nam.

Các cụ xưa không gọi cái bánh chưng mà thường hỏi thăm nhau “năm nay gói được bao nhiêu đồng bánh chưng”. Ngay từ những ngày trước Tết hàng tuần lễ, sự hồ hổi để chuẩn bị cho Tết được các gia đình chú ý ngay từ những việc nhỏ nhất.

“Những ngày áp Tết, mọi người sẽ đưa bát đĩa ra lau chùi sạch sẽ rồi úp lên cho khô ráo, bao xái ban thờ. Nhưng hơn hết đó là cái không khí rạo rực, chờ đón, đôn đáo của tất cả mọi người”, nghệ nhân Ánh Tuyết đánh giá.

Mâm cỗ Tết xưa lắm kỳ công

Bắt đầu ngày ông Công, ông Táo đã thấy thoang thoảng mùi măng khô ninh, lá mùi già… rất đậm hương vị Tết. Theo nghệ nhân Ánh Tuyết, người Hà Nội xưa sống dựa vào buôn bán nên cách bày biện ngày Tết, chuẩn bị mâm cỗ cũng rất cầu kỳ.

“Ngay cách chọn súp lơ cũng chỉ chọn súp lơ đơn, dù số lượng ít nhưng bát canh sẽ ngọt. Còn nếu chọn súp lơ kép làm được 3 bát canh nhưng không ngon bằng. Hay kén gà bày cỗ cũng là gà ri, lùn, chân vàng. Khi kén gà lễ phải nhìn vào tướng con gà, mào, cờ, lông, đuôi vổng lên”, cô Ánh Tuyết chia sẻ.

Để làm được mâm cô Tết của người Hà Nội xưa cũng lắm kỳ công, mỗi món là một bát, đĩa nhỏ nhưng hương vị phải chuẩn, đậm đà, cách bài trí đẹp mắt (Ảnh: Internet)

Những ngày gần Tết, các gia đình Hà Nội xưa đều dành thời gian để gói bánh chưng. Mọi người hồ hởi, ngồi bên bếp lửa bập bùng chờ bánh chín. Đó là hình ảnh khó có thể phai mờ trong tâm trí nhiều người, bởi tất cả dung dị quá đỗi để đi vào tâm khảm những người Tràng An qua bao thế hệ.

“Thời bao cấp, để mua được lá dong gói bánh cũng phải thức dậy từ 4h sáng. Có khi nghĩ như vậy là đã đến sớm lắm rồi nhưng có người đã đứng đợi từ 2h sáng giữa trời lạnh,gió rít. Thậm chí, có gia đình còn đi mượn nồi của nhau để luộc bánh chưng”, cô Tuyết nhớ lại.

Để làm được mâm cô Tết cũng lắm kỳ công, mỗi món là một bát, đĩa nhỏ nhưng hương vị phải chuẩn, đậm đà, cách bài trí đẹp mắt. Với người Hà Nội, trong ngày Tết không thể thiếu được bánh chưng xanh gói lạt đỏ, chè kho, chè con ong, hoa đào dăm hay hoa hải đường cắm trên ban thờ.

“Không phải thức dậy từ 2h sáng hay 3h sáng là có thể làm nên được mâm cỗ. Mà có những công đoạn đã phải chuẩn bị trước cả tuần lễ”, nghệ nhân Ánh Tuyết nói.

Như món chè kho nhiều người nghĩ đơn giản nhưng thực tế công đoạn khuấy chè thôi cũng đã mất 4 tiếng đồng hồ. Cô Ánh Tuyết tâm sự: ” Người làm phải tỉ mỉ từ công đoạn kén đỗ xanh. Phải chọn được loại đỗ khi vỡ hạt ra làm đôi thì ruột phải có màu xanh. Sau đó, ngâm đỗ, đãi đỗ, giã đỗ…mỗi công đoạn đều đòi hỏi sự chu toàn đến từng chi tiết. Chè làm xong, khi ăn phải mát lưỡi. Ngoáy chè không để chè khê, lửa nhỏ”, cô Ánh Tuyết tâm sự.

Như món chè kho nhiều người nghĩ đơn giản nhưng thực tế công đoạn khuấy chè thôi cũng đã mất 4 tiếng đồng hồ (Ảnh: Internet)

Đĩa xôi gấc màu đỏ tươi tượng trưng cho sự may mắn đầu năm. Cho nên, người làm phải chọn gấc ngon, trộn làm sao để xôi phải có màu đỏ, không được có màu thâm như tiết gà. Thậm chí, trộn gạo nếp và gấc làm sao phải đều. Bởi, một số người quan niệm, nếu để lộ ra hạt gạo trắng tức là xúi quẩy đầu năm.

Theo nghệ nhân Ánh Tuyết, người Hà Nội xưa tùy tiền biện lễ tức là tùy vào điều kiện của gia đình mà bày biện các món ăn trong mâm cỗ sao cho hợp lý. Trong đó, trong đó đặc trưng nhất là giò, nem, măng, mọc. Ngoài ra còn có các món ăn khác như: cá trắm kho riềng, lòng gà xào dứa, gà luộc, bánh chưng, hành muối, thịt đông.

Thịt đông làm sao không được nhạt quá, không mặn quá, khi bày ra đĩa phải thấy được độ trong veo, cắt ra đĩa thấy phần đông rung rinh. “Hiện nay, nhiều người cho thạch vào nên thịt cũng đông nhưng khi cắt ra phần đông bị cứng, vuông thành sắc cạnh chứ không như rựa của lợn. Khi ăn miếng thịt đông vào phải cảm nhận được vị mát”, cô Ánh Tuyết chia sẻ.

Thịt đông làm sao không được nhạt quá, không mặn quá, khi bày ra đĩa phải thấy được độ trong veo, cắt ra đĩa thấy phần đông rung rinh

Cá trắm kho riềng đòi hỏi sự kỳ công rất lớn, theo cô Tuyết, để nấu được nồi cá trắm kho riềng phải mất 12 tiếng. Khi ăn phải cảm nhận được vị ngon của cá, miếng riềng ăn vào bụng cảm thấy ấm lòng.

Hay như đĩa dứa xào lòng gà cũng phải biết cách gọt dứa thật khéo léo, khi ăn vị thơm của dứa và lòng gà hòa quyện vào nhau. Trên mẫm cỗ của người Hà Nội xưa, không thể thiếu đĩa dưa hành, cho nên vại dưa hành được muối trước Tết cả tháng trời.

Thời gian thấm thoắt thoi đưa, trong ký ức của nhiều gia đình đã sống nhiều đời ở Hà Nội cũng như cô Ánh Tuyết, có không ít món ăn từng có mặt trong mâm cô Tết nhưng nay chỉ còn lại trong trí nhớ mà thôi. Đó là cuốn bỗng, hạnh nhân, yến…

Cách ăn thanh cảnh, nhẹ nhàng

Nấu mâm cỗ Tết đã là nghệ thuật thì cách thưởng thức từng món ăn cũng tinh tế không kém. Theo lời cô Tuyết, nếu thời tiết sáng mùng 1 trở rét thì ăn món nóng như canh măng, miến, mọc. Nhưng nếu mùng 2 trời nóng lên thì ăn món mát như nấm thả, bóng thả… Điều đó cho thấy, cách ăn của người Hà Nội theo mùa, ăn thanh cảnh, ăn nhẹ nhàng.

“Ăn là một sự thưởng thức, ăn từng đĩa nhỏ, vừa ăn vừa thưởng thức để cảm nhận được hương vị ngon của từng món, chứ không phải ăn vội vàng như thế là ăn thô thiển, không có văn hóa”, cô Tuyết tâm sự.

Sau khi ăn cỗ Tết xong, người Hà Nội thưởng trà và ăn chè kho. “Đó là nét đặc trưng của người Hà Nội. Tiếp khách có thể dùng rượu đào, sau đó thưởng thức mứt, ô mai”, cô Tuyết nói thêm.

Khi mọi người đến chúc Tết, gia đình sẽ bóc bánh chưng. Theo nghệ nhân Ánh Tuyết, thời xưa, thiếu thốn, khó khăn nhưng tấm lòng đều thơm thảo như vậy. Người Hà Nội hiếu khách, “nhịn miệng thết khách”, với khách luôn luôn phải chu toàn.

Mâm Cỗ Tết Của Người Hà Nội Xưa

Người Việt vẫn quen gọi “ăn tết” chứ không phải nghỉ tết, chơi tết hay thưởng tết… có lẽ vì ẩm thực là một yếu tố quan trọng của ngày tết cổ truyền. Mâm cỗ tết với nhiều món ăn ngon được chuẩn bị công phu, kỹ lưỡng, thể hiện sự no ấm và hạnh phúc của mỗi gia đình, cũng như ước mong một năm mới đầy đủ, thịnh vượng và an khang.

Hình ảnh mâm cỗ tết

Nói đến mâm cỗ tết của người Hà Nội xưa, có lẽ chỉ lớp người ở độ tuổi “cổ lai hy” mới hiểu hết tường tận.

Giờ đây, khi nền kinh tế ngày một tiến triển và thịnh vượng, đời sống của người dân cũng ngày một nâng cao. Vì vậy, cả những món ăn thường nhật và các món ngày giỗ, ngày tết, cưới hỏi, tiệc tùng đều được cải biến đa dạng và vô cùng phong phú, không theo một khuôn vàng thước ngọc nào cả. Thí dụ như cỗ cưới ngày nay, không ai đặt giò chả như ngày xưa mà thay vào đó là đồ hải sản: tôm bể, cá bể hấp hoặc nướng, nem hải sản, mực ống nhồi. Cũng là bát canh bóng, nhưng canh bóng nhà hàng hiện nay khác với bát canh bóng ngày xưa nhiều lắm.

Ngày xưa, với người Hà Nội, bữa cơm thường nhật cũng đầy đủ cả năm bảy món, không kể các món dưa, cà, và các món ‘mùa nào thức nấy’ như: cà bát, cà pháo (muối xổi, muối nén), dưa cải, dưa cần muối lẫn bắp cải và rau dăm, dưa góp (đu đủ, cà rốt hoặc su hào và cà rốt cắt tỉa thành những bông hoa, cái lá dầm với dấm tỏi và ớt quả, ăn vừa giòn, vừa chua chua, cay cay lại hơi mằn mặn). Củ cải khô dầm với nước mắm ngon và gừng là các món ăn ghép rất hợp khẩu vị của mọi người. Mâm cỗ ngày Tết, ngoài những món thông thường như thịt gà, thịt lợn nấu đông, thịt kho tàu, cá kho riềng, giò, chả còn có long tu, bào ngư, vây, bóng cá thủ… tất cả là những đặc sản người Hà Nội dành cho ngày Tết. Giò có mấy loại: giò hoa, giò lụa, giò thủ, giò nụ. Chả thì có chả quế, chả nạc, chả mỡ, chả chìa. Nem rán thì có nem Sài Gòn, nem chạo… Canh thì có canh bóng, canh miến, canh măng, canh mọc…

Thịt đông là món ăn Tết thường ăn kèm với dưa hành

Canh măng được nấu bằng thịt chân giò và măng lưỡi lợn (măng khô). Giữa bát canh có một miếng thịt ba chỉ vuông, mỗi chiều khoảng 5 cm, khía làm tư để khi ninh nhừ thì nứt ra thành 4 góc. Hành tươi lấy cả củ và dọc thả vào nồi canh cho chín tái, vớt ra vắt lên trên miếng thịt trông như một cái hoa trong bát chúng tôi bóng thì chân tẩy bằng su hào, cà rốt, đậu Hà Lan. Su hào, cà rốt được cắt tỉa hoa, khi nấu lưu ý không để nát.

Giò lụa và trứng tráng mỏng thái chỉ, tôm bông, mỗi thứ để một góc, trên đặt mấy cọng rau mùi. Khi ăn gắp mỗi thứ một ít, bỏ vào bát. Phụ gia còn có tôm nõn và thịt thăn. Hai thứ này cho vào nước dùng nấu trước cho ngọt. Đã là cỗ thì các món đều phải trình bày đẹp mắt, bát đĩa phải đồng bộ. Gần tết, các gia chủ, các bà nội trợ đã phải lo mua sắm các loại thực phẩm để dành cho tết.

(Người Hà Nội)

Mâm Cỗ Ngày Tết Của Người Hà Thành

Mâm cỗ Tết xưa của người Hà Nội được xem là điển hình cho mâm cỗ cổ truyền của dân tộc: Tinh tế về hình thức, chế biến cầu kỳ tỉ mẩn, tượng trưng cho tấm lòng thành kính của con cháu dâng lên tổ tiên và chư vị thánh thần trong những ngày đầu năm, mong được phù hộ độ trì để có một năm may mắn, mùa màng bội thu. Vì người Hà Nội xưa cũng quan niệm, cỗ tết càng cầu kỳ càng tỏ lòng thành kính với tổ tiên.

Mâm cỗ tết của người Hà Nội không cần đầy tú hụ, mà trái lại gây ấn tượng nhờ sự hài hòa màu sắc như bức tranh của một họa sĩ tài hoa. Thường có các món đặc trưng như: bánh chưng, xôi gấc (hoặc xôi đỗ xanh), gà luộc, giò và canh măng. Tuy có giống nhau về các món ăn nhưng sự tỉ mỉ, cầu kỳ của người Hà Nội được thể hiện ngay từ khâu chọn lựa nguyên liệu. Mâm cỗ ngày tết truyền thống của người Hà Nội phải nhiều màu sắc và số lượng món ăn phong phú: món xào, món luộc, món canh…

Trong mâm cỗ ngày tết của người Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng, không thể thiếu được bánh chưng, bởi vậy mà thường có câu:

Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ

Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh

Đấy là những thứ không thể thiếu trong ngày tết thể hiện mong ước một năm đủ đầy, hạnh phúc và ấm no. Bánh chưng làm từ gạo nếp, đỗ xanh, thịt lợn là biểu tượng của Đất – nơi con người sinh sống. Qua thời gian, bánh chưng đã trở thành một đặc sản vô cùng quý giá!

Có bánh chưng thì không thể thiếu dưa hành. Ngày tết đầy ắp các món ăn ngon, nhưng để đỡ bị ngấy và đầy bụng thì các gia đình sẽ ăn cỗ cùng với dưa hành muối chua. Dưa hành muối chua vừa kích thích vị giác vừa gia tăng hương vị cho các món ăn khác.

Ngay sau bánh chưng, dưa hành phải kể tới thịt gà luộc. Từ xưa, dâng cúng thịt gà luộc được tin rằng sẽ mang đến khởi đầu may mắn, thuận lợi và đủ đầy. Gà luộc vàng ươm được chặt thành nhiều miếng đều tay và xếp lên đĩa cho đẹp mắt.

Xong xuôi đĩa gà sẽ được rắc lên những sợi lá chanh thái chỉ mỏng dính. Gia vị ăn kèm với món thịt gà luộc không thể thiếu đĩa muối tiêu chanh ớt tạo nên hương vị đặc trưng của món ăn rất đỗi quen thuộc này.

Người Hà Nội thường hay dùng giò lụa, giò thủ hay chả quế. Là một món ăn gia đình thường ngày, nhưng tới ngày tết, phải lựa chọn giò cẩn thận. Miếng giò ngon phải có màu sắc tươi tắn, cầm chắc tay, đậm mùi thịt và dễ cắt.

Rồi tùy vào sự sáng tạo của người nấu cỗ mà khoanh giò chả sẽ được cắt thành các miếng đều nhau và bày biện trên đĩa sao cho đẹp mắt.

Bên cạnh các món truyền thống, mâm cỗ tất niên của gia đình người Hà Nội xưa còn có thêm món nem rán. Nem gồm có thịt lợn băm nhỏ, trộn với trứng, mộc nhĩ và nấm hương, thêm chút miến hay một chút giá, cuốn lại bằng bánh đa gạo, sau đó rán lên. Song, có một thứ rất nhỏ nhưng lại ảnh hưởng lớn đến mùi và vị của nem, đó là nước mắm. Nước chấm nem gồm nước mắm pha với nước lọc, một chút đường, dấm và ớt thái nhỏ. Khi ăn có thể cho thêm dưa góp gồm xu hào, cà rốt thái hình con giống.

Ngoài món nem, món cá trắm kho cũng là thực đơn giúp bữa cỗ tết thêm đậm đà. Nhưng cá trong bữa cỗ cổ truyền phải là trắm đen chứ không chọn trắm trắng. Bởi trắm đen là loài cá thuần Việt, mình dày và chắc thịt. Cách chế biến món ăn này rất cầu kỳ và đòi hỏi người đầu bếp phải tỉ mỉ đến từng chi tiết nhỏ; ngoài riềng, xả, ớt, người ta còn cho cả nước chè tươi, nước dừa và mỡ gà. Trắm đen kho với nước chè xanh cho đến khi khúc cá rắn lại, gắp ra đĩa khúc cá vẫn nguyên, trông vừa ngon mắt vừa thể hiện tôn trọng những người thưởng thức món ăn.

Trong bữa cỗ tất niên của các gia đình người Tràng An cũng không thể thiếu đĩa xôi gấc. Đơn giản thì là đĩa xôi tròn bày trên ban thờ, nhưng nhà cầu kỳ lại đóng xôi trong khuôn làm mâm cỗ có phần sang trọng hơn. Đĩa xôi không dừng ở xôi thuần túy mà phải là xôi gấc với màu đỏ, màu của sự may mắn. Cũng như các vùng miền khác, cỗ to đến mấy đặt lên bàn thờ cúng tổ tiên trong ngày tết luôn có một cốc nước mưa trong, bày tỏ tấm lòng thanh bạch trước tổ tiên.

Theo nghệ nhân ẩm thực Phạm Thị Ánh Tuyết: “Người Tràng An xưa rất khó tính khi chuẩn bị mâm cỗ tết cổ truyền. Cầu kỳ từ bước chọn nguyên liệu, cách chế biến đến cách thưởng thức món ăn. Ví dụ như: mua miếng thịt lợn phải chọn miếng thịt màu tươi, sờ tay vào thấy dẻo, dính mới là thịt ngon, không có tăng trọng. Hay như chọn gà thì phải là gà sống thiến nuôi 3 năm, như vậy mới cảm nhận được mùi vị đặc trưng của miếng thịt. Nguyên liệu có ngon thì món ăn mới hấp dẫn; đặc biệt là không dùng phụ gia, món ăn phải “chất” từ chính trong nguyên liệu”.

Đến với Hà Nội trong những ngày cận tết, du khách nước ngoài không khỏi tò mò và muốn thưởng thức một mâm cỗ truyền thống. Điều này càng chứng tỏ, cỗ tết cổ truyền người Hà Nội không những hấp dẫn về hương vị mà còn trở thành nét văn hóa riêng độc đáo, có một không hai…

Theo thời gian, mâm cỗ tết truyền thống của người Hà Nội có thể có nhiều đổi khác do điều kiện, khẩu vị của từng gia đình nhưng vẫn có điểm chung là để bày tỏ lòng thành kính của con cháu dâng lên ông bà tổ tiên, là bữa cơm hội ngộ trong niềm vui sum vầy của các gia đình./.

Cập nhật thông tin chi tiết về Mâm Cỗ Tết Của Người Tày Khao trên website Apim.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!