Bạn đang xem bài viết Lược Sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được cập nhật mới nhất trên website Apim.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Lịch sử của đức Phật từ trước đến này vốn không có sự đồng nhất. Có nơi lạm dụng văn chương hoa mỹ, có phần quá đáng. Vì vậy đối với vấn đề chân tướng của ngài ngày nay chúng ra cũng rất khó để xác định rõ về hình trạng. Nay chúng tôi chỉ lấy phần tương đối thuật lại đôi nét cơ bản cuộc đời của đức Phật.
Ngày Phật Đản hay ngày Giáng sinh của đức Phật, tiếng Pali gọi là Vesak. Vesak là tên của một tháng, thường trùng vào tháng Năm Dương lịch. Vesak cũng là tên của một ngày có ý nghĩa trọng đại nhất đối với hàng phật tử khắp thế giới. Đức Phật sinh vào ngày trăng tròn tháng Vesak, vào buổi sáng, trong thành Kapilavastu (Ca-ty-la-vệ) gần biên thùy giữa đông bắc Ấn Độ và Népal. Đó là Thái tử Siddatha Gotama. Cha của ngài là Hoàng đế Tịnh Phạn (Cuddhodana) họ Cù Đàm (Gotama) và mẹ của Ngài là Hoàng hậu Ma Gia (Mayadevi) Ngài tên là Siddhartha Gotama.
Mẹ của ngài, là hoàng hậu Ma Da, trong một kiếp quá khứ khi còn là một thiên nữ ở cung trời Đâu Suất, đã cầu nguyện tha thiết rằng: “sau này bà sẽ được tái sinh nơi cõi người và trở thành người mẹ sinh hạ ra một vị Phật”.
Hoàng hậu Ma Da là người mẹ vĩ đại nhất với lời nguyện cầu tha thiết trong tiền kiếp đã sinh ra thái tử Tất Đạt Đa. Bà là người phụ nữ cao quý nhất đã có công sinh ra một bậc vĩ nhân kiệt xuất của nhân loại, để chúng ta có được đạo Phật mà nương theo, có được Chính pháp mà tu tập, hướng đến sự giác ngộ và giải thoát ra khỏi luân hồi sinh tử.
Trong dòng tộc Thích Ca, vua Tịnh Phạn là người đứng đầu gia tộc và cũng là người đứng đầu trị vì đất nước, nơi ấy ngày xưa gọi là nước Ca Tỳ La Vệ thuộc phía Nam. Vua Tịnh Phạn kết hôn cùng với công chúa Ma Da là người em gái của Vua Thiện Giác dòng tộc Câu Lợi ở phương bắc. Hoàng hậu Ma Da là bậc mẫu nghi của nước Ca Tỳ La Vệ, dung mạo tuy không phải là tuyệt thế, nhưng tâm hồn bà trong sáng như hoa sen. Bản thân hoàng hậu cũng thường làm việc bố thí và cứu giúp những người nghèo khổ ở khắp nơi, khiến cho người dân trong nước ai ai cũng đều mến phục đức hạnh của bà.
Từ khi kết hôn cùng với vua Tịnh Phạn đã trải qua hơn hai mươi năm vẫn chưa có thái tử để nối ngôi. Vì thế hoàng hậu thường khuyên vua Tịnh Phạn làm nhiều điều hiền thiện, tạo phúc cho dân. Thế rồi, cho đến vào một đêm vắng lặng, lúc thiếp đi, trong một giấc mơ, bà thấy có con voi trắng sáu ngà từ không trung bay đến, đi vào hông bên phải của bà. Hoàng hậu giật mình tỉnh giấc, kể lại giấc mộng. Các quan đại thần đều đoán rằng đây là điềm lành, chắc chắn hoàng tộc sắp có tin vui. Quả nhiên, từ đó hoàng hậu mang thai Thái tử. Vua Tịnh Phạn rất vui mừng cùng thần dân mơ tiệc ăn mừng.
Hoàng hậu mang thai đã được mười tháng, sắp đến ngày hạ sinh, bà xin phép vua cho Hoàng hậu về nhà mẹ đẻ để hạ sinh theo đúng phong tục thời bấy giờ. Vua Tịnh Phạn đã đích thân dẫn đoàn tùy tùng đi hộ tống Hoàng hậu về quê hương. Hôm đó là ngày trăng tròn theo lịch Ấn Độ, gió tháng Tư hiu hiu thổi, khí trời ấm áp. Khi đoàn người đi ngang qua vườn Lâm Tỳ Ni tại vươn quốc Ca Tỳ La Vệ, ngày nay thuộc nước Nepal (thuộc thành kapilavastu) cảnh vật nơi đây rất tuyệt đẹp, mọi người ai cũng thấy dễ chịu. Hoàng hậu cho dừng kiệu để vào vườn nghỉ ngơi một chút. Lúc này là mùa xuân, hạ giao mùa, trong vườn Lâm Tỳ Ni hoa đang nở rộ, muôn chim đua hót. Hoàng hậu ngồi cạnh hồ nước chiêm ngưỡng cảnh vật thiên nhiên, rồi bà đứng dậy dạo quanh vườn hoa, đến cây hoa vô ưu có cành lá sum suê nở rộ. Hoàng hậu đưa tay lên định ngắt lấy một nhành hoa, bỗng ngay lúc ấy Thái tử chào đời. Lúc ấy nhằm ngày mồng 8 tháng 4 (ÂL).
Ngay sau đó có một cơn mưa nhẹ sau đó đã gội rửa cho cả người mẹ và hoàng tử. Cùng ngày đó, bảy sinh mệnh khác cũng được xuất sinh, lần lượt là cây bồ đề, công chúa Da Du Đà La (Yashodhara), con ngựa Kiền Trắc (Kantaka), người đánh xe ngựa Sa Nặc (Channa), con voi Kaludayi (người bạn thời thơ ấu của hoàng tử), và bảy kho báu vô chủ.
Hoàng tử được đưa trở về kinh thành ngay đêm hôm đó. Năm ngày sau, hoàng tử được đặt tên là Tất Đạt Đa (Siddhartha), nghĩa là “người mà sẽ đạt được mục đích của mình”. Rất nhiều nhà thông thái đã đến để gặp mặt và cầu chúc cho vị hoàng tử mới sinh, trong số đó có đạo sĩ A Tư Đà, vốn là thầy dạy học cũ của nhà vua và là một người tu hành khổ hạnh đã đạt được nhiều thành tựu.
Nhà vua cảm thấy rất vinh dự bởi chuyến thăm của đạo sĩ A Tư Đà (Asita), nên cho người mang đứa trẻ đến bên vị đạo sĩ để đứa bé tỏ lòng tôn kính với ông. Ngay lập tức, đạo sĩ A Tư Đà đứng dậy và nhận ra ngay những đường nét trên cơ thể hoàng tử báo hiệu một khuynh hướng tâm linh và tôn giáo. Với năng lực siêu thường, ông nhìn thấy sự vĩ đại trong tương lai của vị hoàng tử mới sinh và chào đón với những cái siết tay thật chặt.
Nghe thấy như vậy đức Vua Tịnh Phạn vô cùng sung sướng với ý tưởng con trai mình sẽ trở thành một thủ lĩnh vĩ đại. Do đó, nhà vua vô cùng chiều chuộng con trai, để ngăn ngừa Thái tử nhìn thấy những điều khiến cậu chuyển sang khuynh hướng tôn giáo. Mọi người biết về dấu hiệu này đều biết rằng Tất Đạt Đa rất xuất chúng, đặc biệt là Tịnh Phạn Vương. Nhưng nhà vua quan sát sự trưởng thành của đứa con trai nhỏ tuổi ham hiểu biết và lo lắng về những lời tiên tri. Ông lo ngại, một ngày nào đó, Thái tử sẽ rời bỏ Hoàng cung và trở thành một nhà lãnh đạo tôn giáo, chứ không trở thành một thủ lĩnh của bộ tộc Thích Ca.
Sau khi hạ sinh được bảy ngày thì Hoàng hậu Ma Da qua đời, để lại vị trí của bà cho người em gái tên là Kiều Đàm Di (Mahaprajapati), thay thế hoàng hậu san sóc nuôi dưỡng hoàng tử với sự yêu thương, chăm sóc hết mực. Tuy tuổi còn nhỏ nhưng trí tuệ của hoàng tử đã vượt người tầm thường, tất cả các học thuyết của thế gian như: kỹ nghệ, điển tích, văn chương, thiên văn, lịch số, và các môn võ nghệ như bắn cung, đua ngựa…sức khỏe hơn người, không có bất kỳ môn nào mà hoàng tử không thông suốt, khiến mọi người đều kính nể không ai là không hàng phục. Trên từ đức vua Tịnh Phạn dưới đến dân thường, tất cả mọi người đều yêu mến và cho rằng sau này hoàng tử sẽ là người chinh phục bốn phương, thống nhất bờ cõi. Khi đó nhà vua đã cho gọi các nhà hiền triết đến để dự đoán tương lai của hoàng tử. Họ đều nói rằng hoàng tử Tất Đạt Đa sẽ quyết định theo lối tu hành khổ hạnh nếu hoàng tử nhìn thấy các dấu hiệu của sinh, lão, bệnh, tử hoặc gặp một nhà tu hành khổ hạnh.
Đến năm 19 tuổi Hoàng tử kết hôn với công chúa Da Du Đà La và hạ sinh được một người con đặt tên là La Hầu La. Tuy thân ở tại trần gian nhưng tâm hoàng tử không nhiễm dục lạc, mọi quan niệm và cảm tính đều hoàn toàn khác với thế tục. Sau những lần hoàng tử dạo chơi bốn của thành nhìn thấy cảnh tượng giữa người và vật tranh giành với nhau, tang tóc, rên rỉ, khổ đau…Hoàng tử suốt đêm không ngủ ngồi tư duy, đem lòng thương chúng sinh phát khởi mạnh mẽ, luôn nghỉ đến nỗi khổ đau của chúng sinh những nơi Ngài đi qua. Đây là động lực chính khiến Ngài phát sinh tu đạo.
II. NGÀY XUẤT GIA VÀ THÀNH ĐẠO
Ngài trưởng thành trong một cung điện xa hoa. Khi còn thơ ấu, đặc quyền đã cho phép ngài hưởng thụ mọi sự nuông chiều. Nhưng, một ngày, Ngài đã từ bỏ tất cả để có được trí tuệ tận cùng. Khi Ngài giác ngộ được rằng vạn vật là vô thường, có rồi không, thành rồi bại, có sinh có tử, có già, có bệnh. Có bao nhiêu vinh hoa, phú quý, khoái lạc vật chất dẫy đầy trước mắt chẳng qua là một bã hư vô, Ngài mới nhất định xuất gia, bỏ hẳn thế sự, để đi tìm đâu là sự thật, đâu là tịnh lạc. Sau khi quan sát và cảm thông về nổi khổ đau cùng cực của chúng sinh. Vào nửa đêm mồng 7 tháng 2 lúc mọi người an giấc nồng bốn bề yên tỉnh, hoàng tử bèn sai người giữ ngựa tên là Xa Nặc đánh ngựa kiền trắc vượt khỏi cung thành đến phía đông nước Lamma vào rạng sáng mùng 8 tháng 2, ngài đã cởi bỏ mũ báu cùng áo cẩm bào cạo bỏ râu tóc trở thành vị Sa môn. Năm ấy Ngài 29 tuổi, từ biệt ra đi đã dũ sạch nợ trần, để đi tìm một con đường giải thoát cho nhân loại.
Suốt sáu năm khổ hạnh, hy sinh, chịu đựng muôn ngàn đau khổ với một tấm lòng sắt đá, kiên trì, với một niềm tin vô biên và luôn luôn xả thân để phụng sự. Đây là cuộc đời phấn đấu mà sức phàm khó lòng chịu nổi. Ngài ngày đêm siêng năng chiến đấu ma quân nhưng chỉ nhọc nhằn không đạt được kết quả. Ngài nhận thấy pháp tu khổ hạnh chỉ là nhọc công vô ích, bèn xuống sông Ni Liên Thiền tắm gội thọ bát sữa của nàng Tu Xà Đề dâng cúng khi thọ dụng bát sữa xong sức khỏe lần hồi phục, Ngài đã thấu suốt các pháp thế gian và đã dứt trừ các pháp đó, rồi một mình thẳng tiến đến cây Tất Bát La kết tòa ngồi kiết già và phát nguyện rằng: “tôi không chứng quả vị vô thượng bồ đề thì dù có tan thân mất mạng quyết không rời khỏi chỗ này”. Sau khi phát nguyện xong Ngài nhập vào kim cang định, dùng lực kim cang tam muội chặt đứt vô minh của chi đầu tiên trong 12 nhân duyên, tức là ngài đã giải quyết xong vô minh đoạn trừ sinh tử ưu bi khổ não không còn nữa.
Vào ngày 8 tháng 12, sao mai vừa ló dạng thì Ngài đã dứt sạch sinh tử, nhập vào trạng thái an tĩnh chứng đắc quả vị Chính Đẳng, Chính Giác. Quả này là kết tinh cuối cùng của một lòng tự tin, tự lực, tự giác, chớ không phải nhờ ở một quyền lực siêu nhiên nào giúp đỡ. Ngài đã diệt được bao điều chi phối của ngoại cảnh đối với thân tâm để trở thành thanh tịnh chứng pháp, lĩnh hội rõ ràng chân tính của một sự vật: Ngài đã là Toàn Giác, thành Phật. Lúc bấy giờ Ngài 35 tuổi. Từ đó người ta gọi Ngài là đức Phật Cồ Đàm (Gotama), một vị Phật trong trường chi vô lượng Phật quá khứ và vị lai. Như vậy vị trí của đức Phật Thích Ca Mâu Ni thật là độc nhất vô nhị, ngay trong tiền kiếp của thời hiện đại của chúng ta, và ở trong thế giới mà hiện chúng ta đang sống. Từ nơi vị trí Phật độc nhất vô nhị này, trong Tăng Chi Bộ Kinh tập I trang 29 nói rõ thêm rằng:
“Một người, này các Tỳ kheo, khi xuất hiện ở đời, là xuất hiện một người không hai, không có đồng bạn, không có so sánh, không có tương tợ, không có đối phần, không có người ngang hàng, không có đặt ngang hàng, bậc tối thượng giữa các loài hai chân. Một người ấy là ai? Chính là Như Lai, bậc A La Hán, Chính Đẳng giác; một người này khi xuất hiện ở đời, là xuất hiện một người không hai, không có đồng bạn, không có so sánh, không có tương tự, không có đối phần, không có người ngang hàng, không có ngang bằng, không có đặt ngang bằng bậc Tối thắng giữa các loài hai chân”.
Trước tiên, chúng ta cần nhấn mạnh đến vị trí có một không hai của đức Phật, vị trí này cho chúng ta thấy không thể có một đức Phật thứ hai trong suốt hiền kiếp đức Phật tại thế, vị trí này còn giúp chúng ta nhận rõ những đóng góp của đức Phật Thích Ca Mâu Ni cho nhân loại, cho thế giới này thật là đặc biệt vô song, có vậy, chúng ta mới đánh giá đúng đắn sự xuất hiện rất đặc biệt của vị Bổn sư của chúng ta.
Cho nên trong Tăng Chi Bộ Kinh tập I, trang 37 ghi chép: “Sự kiện này không xảy ra, này các Tỳ kheo, không có được trong một thế giới có hai vị A La Hán Chính đẳng giác, không trước không sau, xuất hiện một lần. Sự kiện này không xảy ra. Và sự kiên này có xảy ra, này các Tỳ kheo. Trong một thế giới, chỉ có một vị A La Hán Chính đẳng giác, xuất hiện, sự kiện này có xảy ra”.
Trong kinh Hoa Nghiêm có đoạn viết: “Sau khi thành đạo ngài cảm thán nói rằng: Lạ thay! Lạ thay! Nào hay tất cả chúng sinh đều có đầy đủ đức tính trí huệ Như Lai, bởi do ngu si mê hoặc mà không thấy không biết… Ta nay sẽ đem thánh đạo giáo hóa khiến cho chúng sinh dứt hẳn vọng tưởng, một khi vọng tưởng dứt trừ tất sẽ chứng được vô lượng trí tuệ của Như Lai.”
Như vậy thì lễ Vesak không những là kỷ niệm ngày Giáng sinh mà cũng là ngày đắc đạo của đức Phật. Khi đã được hoàn toàn sáng suốt và đắc quả Chính Đảng, Chính Giác rồi, Ngài gia tâm đi hoằng hoá pháp mầu để rọi sáng dẫn dắt kẻ khác. Được hoàn toàn giải thoát, Ngài gia tâm giải thoát chúng sinh bằng một lối đường Trung Đạo.”Mở rộng cửa chân lý cho những ai muốn tìm chân lý; rót thẳng niềm tin tưởng vào tai những ai muốn tìm niềm tin tưởng.” Đó là câu bất hủ mà ngài đã thốt lên lần đầu tiên, khi bắt đầu xứ mạng hoằng dương đạo pháp của Ngài.
Sau khi thành đạo, ngài liền đi đến vườn lọc uyển xứ Ba La Nai tìm các vị đồng tu với ngài trước đây để thuyết pháp. Đức Phật vì năm anh em Kiều Trần Như (1- Kiều Trần Như; 2- Kiều Trần Na; 3- Kiều Trần Nhi; 4- Kiều Trần Thi; 5- Kiều Trần Nga) nói bài pháp đầu tiên là Tứ Diệu Đế. Ngài dạy người xuất gia có hai thứ chướng ngại là sinh tâm đắm trước cảnh dục lạc không vượt thoát đó là nguyên nhân không thể giải thoát, và không suy nghỉ chín chắn cội nguồn khổ đau của bản để cầu giải thoát, cho nên không thể đạt được sự giải thoát. Vì vậy người xuất gia cần phải xa lìa hai món chấp trước đó mới là trung đạo, rồi siêng năng tu tập có thể đạt đến đạo quả Niết bàn. Năm vị này đều được khai ngộ, và trở thành năm vị đầu tiên của Phật. Đây là móc son lịch sử khởi đầu cho công cuộc hoằng dương chính pháp của ngài và cho mãi về sau những đệ tử chân chính của ngài luôn ghi nhớ bài pháp này và cũng là nền tảng cho hệ thống giáo lý của đức Phật. Trong Tương Ưng bộ kinh V, chương 12, phẩm II, kinh chuyển pháp luân, trang 611… “Sau khi nghe đức Phật thuyết pháp Tứ diệu đế, thành kiến me lầm tan vỡ, trí tuệ siêu thoát xuất hiện, năm vị này được giác ngộ, chứng nhập quả vị A La Hán. Đó là năm vị đầu tiên của đức Phật thích Ca.” Như vậy Tam bảo được hình thành từ đây. Phật bảo là đức Phật thích Ca; Pháp bảo là bài pháp Tứ Diệu Đế; Tăng bảo là năm anh em Kiều Trần Như.
Vậy chúng ta có thể nói rằng Tăng đoàn Phật giáo đã được thành lập ngay vào năm thứ nhất kể từ lúc đức Phật chứng đạo. Sau đó, Ngài tiếp tục hóa độ và thâu nhiếp tôn giả Yasa cùng 54 người khác gia nhập Tăng đoàn tại thành phố Ba La Nại. Khi Tăng đoàn lên đến 60 vị, đều là A La Hán, đức Phật khuyên họ chia nhau đi khắp nơi để hoằng pháp lợi sinh. Đây là hạt giống đầu tiên hết sức nhỏ bé mà Ngài đã gieo, để rồi về sau này nở muôn ngàn bốn phương: Là Giáo hội Tăng già. Đó cũng chính là giai đoạn Ngài khai sinh và xây dựng Tăng đoàn, từng người một, từng ngày một, để đặt nền móng nhưng đồng thời cũng thiết kế và hoàn thiện một công cụ thiện xảo với chức năng, thay Ngài sau này, duy trì bánh xe Chính pháp được quay đều, và quay bền vững, trong không gian vô tận và thời gian vô cùng.
Trải qua 45 năm, đức Phật đã đi khắp xứ Ấn Độ rộng lớn bao la, hết nước này đến nước khác. Hễ chỗ nào có chân Ngài giẫm đến là ánh đạo vàng bừng tỏa huy hoàng.
Mỗi ngày Ngài theo một thời dụng biểu, một chương trình nhất định, không bao giờ xao lãng, giải đãi, từ khi trẻ cho đến già, từ mùa mưa cho đến mùa nắng. Trong năm có mười hai tháng, thì hết tám tháng Ngài giãi dầu phong sương khắp chốn, không quản gì thân. Ngài tế độ chúng sanh như vậy suốt bốn mươi lăm năm trường.
Một hôm, khi cảm thấy sức đã kiệt, ngày lâm chung sắp đến, Ngài gọi tất cả đệ tử về và nói rằng: “Kiếp sống thật là ngắn ngủi; Thầy nay tuổi đã già. Thầy sắp xa lìa các con! Từ lâu vẫn nương tựa nơi Thầy. Các con hãy cố gắng chuyên cần tinh tấn, hãy kỹ càng thận trọng và luôn luôn giữ một lòng đạo đức cao cả, với những tư tưởng trong sạch siêu mẫn, các con hãy giữ gìn bản tâm cho chu đáo. Nhờ tôn chỉ và kỷ luật này, với một đời sống tích cực hoạt động đạo đức, các con sẽ được thoát khỏi vòng sinh tử, tử sinh và chấm dứt được phiền não, đau khổ. Vạn vật cấu tạo là vô thường. Các con hãy cố gắng lên !.
Năm ấy đức Phật thọ 80 tuổi. Ngài trở về Kusinara, là một làng nhỏ bé xa xôi, nơi đây êm ái và an tịnh. Ngài tịch diệt, thân nằm giữa hai cây long thọ (Sala), hôm ấy đúng ngày Rằm vào tháng Vesak. Như thế Vesak là ngày kỷ niệm gồm ba: Giáng sinh, Thành Đạo, và Tịch Diệt (Niết bàn) của đức Phật. Ngày nay phật tử khắp hoàn cầu cử hành cuộc lễ gồm ba phần đã nêu ở trên với một niềm tin tuyệt vời và một đạo tâm chơn thành.
Để kỷ niệm ngày đức Phật giáng trần và cũng là ngày đắc Đạo sau sáu năm khổ hạnh và 49 ngày tịnh toạ trên mớ cỏ khô dưới cội Bồ Đề tại Bồ Đề Đạo Tràng (Buddagaya). Hàng năm cứ gần đến ngày Rằm tháng Tư Âm lịch là toàn thể các tín đồ Phật giáo thuộc các giáo hội trên khắp thế giới nao nức tổ chức kỷ niệm ngày Đản sinh. Tại Việt Nam các chùa, viện thuộc Bắc tông, Nam tông hay Đại thừa và Tiểu thừa, Mật tông, hay Thiền tông đều tổ chức trọng thể và trang nghiêm. Để nhắc nhở người con Phật ôn lại những lời vàng ngọc răn dạy tinh hoa của đức Thế Tôn, làm kim chỉ nam cho đời sống hiện tại cho mỗi người trên trần gian này. Đây là thông điệp của đức Phật đi vào cuộc đời, làm cho con người hiểu được bản chất của kiếp sống là vô thường, là đau khổ, từ đó thúc giục con người sớm theo lời dạy của Ngài tu hành để được giác ngộ và giải thoát.
Thích Thiện Hạnh
Sự kiện nổi bật
Tìm kiếm
Ý Nghĩa Và Cách Thờ Cúng Tượng Phật Thích Ca Mâu Ni
Hiện nay trên thị trường có rất nhiều loại Tượng Thích Ca Phật Đài về mặt kích thước và chất liệu.
Đầu tiên chúng ta phải nói đến dòng Tượng Phật Thích Ca Mâu Ni được điêu khắc bằng gỗ. Việt Nam là một đất nước có diện tích rừng lớn, các dòng sản phẩm được làm từ gỗ luôn rất tinh xảo và có giá trị kinh tế cao. Tượng Phật Thích Ca bằng gỗ hầu hết được điêu khắc từ các dòng gỗ quý. Ngoài vấn đề bền chắc thì Tượng Phật Thích Ca bằng gỗ đều có một mùi hương dịu nhẹ, chịu được nhiệt và độ ẩm trong không khí. Thông thường để điêu khắc Tượng Phật Thích Ca các nghệ nhân thường sử dụng gỗ trầm hương có mùi dịu nhẹ. Khi đặt Tượng Phật Thích Ca bằng gỗ trầm hương trong nhà không chỉ tăng thêm không khí nghiêm trang, tôn trọng đối với phật giáo mà mùi hương của gỗ còn có tác dụng an thần rất tốt. Đặc biệt Tượng Phật Thích Ca bằng gỗ thường có khối lượng nhẹ hơn so với những chất liệu khác nên dễ vận chuyển và đặt ở những vị trí gia chủ mong muốn. Tuy nhiên dù được bảo quản và sử dụng gỗ quý thì Tượng Phật Thích Ca bằng gỗ vẫn cần phải chú trọng việc bảo quản.
Chất liệu thứ hai thường được sử dụng để điêu khắc là Tượng Phật Thích Ca bằng đá. Loại đá để điêu khắc Tượng Phật Thích Ca không phải loại thông thường mà là một loại đá đặc biệt. Loại đá này thường có tính chất cứng rắn, màu sắc tươi sáng và đồng bộ. Hầu hết các đơn vị điêu khắc Tượng Phật Thích Ca Mâu Ni đều sử dụng đá cẩm thạch để đảm bảo về chất lượng. Đá cẩm thạch có độ cứng vừa phải có thể dễ dàng điêu khắc những chi tiết nhỏ nhất làm cho tượng được điêu khắc sống động như thật. Tuy nhiên việc điêu khắc đá cẩm thạch không phải là chuyện dễ dàng, mỗi một Tượng Phật Thích Ca đều được điêu khắc từ nguyên khối. Nghĩa là một khối đá sẽ được các nghệ nhân tạo hình chi tiết thành Tượng Phật Thích Ca. Việc điêu khắc đá nguy hiểm và chiếm rất nhiều thời gian vì thế mà giá thành của Tượng Phật Thích Ca bằng đá cũng không hề rẻ. Đặc biệt trọng lượng lại rất lớn, hầu hết những Tượng Phật Thích Ca được điêu khắc bằng đá cẩm thạch luôn có khối lượng lớn đặt tại các chùa miếu nhiều hơn. Các gia đình cũng có thể đặt Tượng Phật Thích Ca bằng đá với khối lượng nhỏ hơn nhưng sẽ không tiện bằng những chất liệu khác.
Đồng là chất liệu dùng để đúc Tượng Phật Thích Ca Mâu Ni nhiều nhất hiện nay. Theo quan niệm của phật giáo công đức đúc tượng là công đức lớn nhất. Vì thế hầu hết các chùa miếu đều có ít nhất một pho Tượng Phật Thích Ca bằng đồng. Ngoài tính chất đặc biệt của đồng có thể giữ cho bức tượng truyền lưu vĩnh viễn thì đồng còn có độ bóng, bền và rất dễ trong việc tạo khuôn hình. Các Tượng Phật Thích Ca bằng đồng có thể tùy ý chỉnh kích cỡ. Ở các địa điểm thờ cũng như chùa, miếu thì hầu hết những Tượng Phật Thích Ca bằng đồng đều có kích thước và khối lượng lớn được đặt nghiêm trang ở chính điện. Ngoài ra thì cũng có những dòng Tượng Phật Thích Ca bằng đồng được đúc với khối lượng nhỏ hơn phù hợp cho các gia đình tự thờ cúng. Tuy nhiên vì chất liệu đặc biệt là giá thành của Tượng Phật Thích Ca bằng đồng cao nhất so với những chất liệu khác trên thị trường.
Cuối cùng là Tượng Phật Thích Ca được làm bằng sứ. Nghề gốm sứ của Việt Nam vô cùng phát triển vì chúng ta có được tài nguyên phong phú. Những bức tượng được đúc bằng sứ luôn rất tinh xảo, các chi tiết được tỉ mỉ khắc lên. Hầu hết những bức tượng Phật Thích Ca làm bằng sứ đều có kích thước nhỏ phù hợp cho các gia đình thờ cúng bởi chất liệu rất dễ bị vỡ khi chịu va đập. Chính vì thế mà khi các gia chủ lựa chọn Tượng Phật Thích Ca bằng sứ cần phải có những biện pháp bảo quản và thờ cúng cẩn thận, tránh những va đập không cần thiết.
Ý nghĩa của việc thờ cúng Tượng Phật Thích Ca
Như chúng ta đã nhắc đến ở trên việc thờ cúng Tượng Phật Thích Ca luôn có một ý nghĩa quan trọng đối với những tín đồ phật giáo. Thích Ca Mâu Ni được biết đến là người khởi nguồn và truyền thụ phật giáo đầu tiên trên thế giới. Chính vì thế mà uy vọng của người rất lớn được các tín đồ phật giáo tôn trọng. Việc thờ cúng Tượng Phật Thích Ca là một tín ngưỡng để cho các gia chủ gửi gắm được tâm tư, nguyện vọng vào đó. Theo triết lý của phật giáo thì Phật ở ngay trong lòng của mỗi người. Khi chúng ta nghĩ đến phật, một lòng hướng phật thì sẽ đạt được những cảnh giới của phật giáo. Tượng Phật Thích Ca được đặt lên đài sen thể hiện sự thanh tịnh, giải thoát con người khỏi những bể khổ của nhân gian.
Đôi mắt của Tượng Phật Thích Ca luôn được điêu khắc một cách rất tỉ mỉ thể hiện là một đôi mắt trầm tĩnh. Với đôi mắt có thể nhìn thấu mọi vật, quan sát chúng sinh Tượng Phật Thích Ca luôn cho người thờ cúng tự kiểm điểm, tự tĩnh tu để có thể nhìn nhận mọi thứ xung quanh mình, giác ngộ chân lý của cuộc sống.
Hầu hết những Tượng Phật Thích Ca đều được đặt ngồi trên đài sen sáng chói. Điều này thể hiện được tính bao dung của phật giáo đến với tất cả chúng sinh.
Việc thờ cúng Tượng Phật Thích Ca dù ở đâu, sử dụng chất liệu gì đều chỉ đến mong muốn của con người là cuộc sống bình an, thanh tịnh được phật giáo che chở khỏi giông bão cuộc đời.
Cách thờ cúng Tượng Phật Thích Ca
Với các tín đồ phật giáo thì trong nhà thờ cúng Tượng Phật Thích Ca cũng là điều bình thường. Ngay cả những người làm kinh doanh không hẳn đã là tín đồ của phật giáo cúng Tượng Phật Thích Ca trong nhà hay tại cơ sở kinh doanh như là một tín ngưỡng, sự yên lòng và gửi gắm những nguyện vọng vào đó. Cách thờ cúng Tượng Phật Thích Ca cũng không quá mức phức tạp lắm chủ yếu là các gia chủ phải hiểu được ý nghĩa của Tượng Phật Thích Ca và mục đích của mình.
Việc đặt Tượng Bổn Sư Thích Ca tại nơi thờ cúng cần phải đúng với phong thủy trong nhà. Mỗi gia đình sẽ có cách luân chuyển phong thủy khác nhau bởi còn phụ thuộc vào cung mệnh của từng người, hướng nhà các điều xung khắc trong đó. Trước khi đặt Tượng Phật Thích Ca lên nơi thờ cúng gia chủ cần phải chú ý đến những vấn đề kiêng kị như là: không đặt Tượng Phật Thích Ca lên bàn thờ gia tiên mà cần lập một bàn thờ khác. Các dụng cụ sử dụng trên bàn thờ Tượng Phật Thích Ca không được sử dụng với mục đích khác, khi thỉnh Tượng Phật Thích Ca từ cửa hàng phải đi luôn về nhà không được dừng ngang, rẽ dọc đi đâu cả.
Khi đặt bàn thờ Tượng Phật Thích Ca không được đặt đối diện với nhà vệ sinh hay bếp hoặc các nơi xú uế vì như vậy là không tôn trọng với bậc thầy giác ngộ tối cao. Ngoài ra khi đặt bàn thờ Tượng Phật Thích Ca cần phải đảm bảo được sự vững chắc, bình ổn. Phật giáo hướng đến sự bình đẳng của chúng sinh, không sát sinh. Chính vì thế khi thờ cúng Tượng Phật Thích Ca gia chủ nên chuẩn bị đồ chay để thể hiện sự thành tâm của mình.
Một điều đặc biệt nữa là khi thờ cúng Tượng Phật Thích Ca luôn thành tâm, không cầu xin hay nguyền rủa ai cả. Phật giáo chỉ hướng đến những điều tốt đẹp nên luôn cần gia chủ tịnh tâm, biết đủ và có tấm lòng bao dung.
Vậy nên mua tượng Phật Thích Ca thế nào ? giá ra sao ?
Tượng Phật Thích Ca đẹp hiện nay có hai loại là Tượng Phật ngồi trên đài sen và Tượng Phật đứng trên đài sen tay bắt quyết. Dù là loại nào đều có thể thờ cúng trong nhà. Mỗi gia chủ sẽ xem xét điều kiện của gia đình mình để có thể lựa chọn Tượng Phật Thích Ca phù hợp nhất.
Tượng Phật Thích Ca giúp cho gia đình bình an, các thành viên khỏe mạnh, điều hòa âm dương trong nhà hài hòa nhất. Thờ cúng Tượng Phật Thích Ca không chỉ là vấn đề tôn giáo nữa mà còn đem lại cho các gia chủ sự kính cẩn, thành tâm răn dạy con cháu hướng hiện, có lòng bao dung và luôn hướng đến điều tốt đẹp nhất.
Xưởng tranh tượng Phật Mandala với các nghệ nhân nhiều năm kinh nghiệm luôn sẵn sàng chế tác các tác phẩm tượng Phật theo yêu cầu của quý Phật tử với mức giá phù hợp nhất.
Vui lòng liên hệ qua số điện thoại 0981.993.020
Fanpage : https://www.facebook.com/XuongTranhTuongPhatCom/
Bài Khấn Nguyện Ngày Lễ Đức Phật Thích Ca Đản Sanh
Kính lạy Đức Thế Tôn: nhân loại chúng con đang hướng về ngài với lòng thành kính và niềm tri ân vô hạn. Ánh sáng chánh pháp của Ngài đã hướng chúng con biết trở về đúng hướng, đã soi sáng tâm hồn chúng con trên mọi nẻo đường tăm tối khổ đau.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
Tình thương mà Ngài đã đánh thức chúng con trên mọi nẻo tăm tối khổ đau. Tình thương mà Ngài đã đánh thức chúng con thật cần thiết để giữ yên cho thế giới khỏi biến thành biển lửa chiến tranh thù hận. Kính lạy Đức Thế Tôn: đã đến lúc ánh sáng của ngọn đèn chánh pháp phải được vận dụng một cách trịnh trọng để xua tan bóng đêm tà kiến đang bao phủ nhân loại. Đã đến lúc tiếng chuông từ bi phải được lắng nghe một cách tha thiết để mọi trái tim cùng nhịp đập yêu thương,xây dựng tình người để thế giới mãi xanh màu hạnh phúc. Kính lạy Đức Thế Tôn: sức mạnh mà ngài đã khơi dậy trong chúng con thật có hiệu lực và hiệu lực mãi trước một thế giới quá nhiều bạo động và mâu thuẫn. Từ trong đại bi tâm Ngài xuất hiện như một sứ giả hòa bình,mang thông điệp tình thương đến cho cuộc đời thông qua con đường hóa giải. sức mạnh nội tâm đã giúp chúng con vượt qua mọi thử thách để tự chủ. Những lời dạy của Ngài thật thiết thực và hữu ích đã có giá trị suốt 2641 năm và sẽ còn giá trị mãi mãi. “Hận thù không dập tắt được hận thù, chỉ có tình thương mới dập tắt được hận thù” ” Chiến thắng ngàn quân giữa bãi chiến trường chưa gọi là thắng. Tự chiến thắng mình mới là chiến công oanh liệt nhất.” ” chính ngươi là hải đảo vững chắc cho tự thân ngươi. Không một người nào khác,không một nơi nào khác là nơi nương tựa. Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi.” Kính lạy Đức Thế Tôn: Nhân mùa đản sanh của Ngài,chúng con thành kính hái đóa Vô Ưu thanh khiết dâng lên cúng dường dường bậc vô thượng giác, Đấng Thiên Nhơn Sư như là tặng phẩm cao quý nhất xin dâng tặng cho cuộc đời với cầu nguyện chân thành tha thiết:” Mong cho cuộc đời mãi mãi được an vui, hạnh phúc. Người người gặp nhau nhìn nhau với tất cả tấm lòng thương yêu trọn vẹn.
Xin cho khói trầm thơm, kết thành mây năm sắc, dâng lên khắp mười phương, cúng dường vô lượng Phật, vô lượng chư Bồ-tát, cùng các thánh hiền tăng, trên pháp giới dung thông, kết đài sen rực rỡ, nguyện làm kẻ đồng hành, trên con đường giác ngộ, xin mọi loài chúng sanh, từ bỏ cõi lãng quên, theo đường giới định tuê, quay về trong tĩnh thức.
Ngân Ngân / Phật học đời sống
Tăng Ni Phật Tử Các Nơi Cúng Dường Sớt Bát
Tăng Ni Phật tử các nơi cúng dường sớt Bát
Lúc 10h30′ ngày 21.5.Ất Mùi (nhằm ngày 6.7.2015), Ni trưởng Mai Liên, trụ trì Tịnh xá Ngọc Đức, Thủ Đức, chúng tôi đã hướng dẫn gia đình Phật tử có người thân đang bệnh nặng, về trường hạ Ngọc Phương, cúng dường sớt bát, để cầu nguyện cho tật bệnh của người thân được tiêu trừ.
Ni Sư Tín Liên – Phụng Liên, mặc dù đang ở tại Tổ đình Ngọc Phương, để lo Phật sự, nhưng cũng không quên gọi đệ tử là Sư cô Nhiên Liên dắt Phật tử tại thiền viện Minh Đăng về thăm viếng, cúng dường Trường hạ. Phú Cường – Đồng Nai, một vùng đất nghèo khó, từ khi hai Ni sư đến hành đạo, người dân nơi đây đã biết quy hướng Tam Bảo, nay lại biết bố thí, cúng dường.
Hôm nay cũng là ngày kết thúc thời gian luyện thi để thi tuyển vào HVPGVN tại chúng tôi Tăng Ni sinh sau hai tháng luyện thi tại Tịnh xá Ngọc Phương đã hùn phước cúng dường sớt bát, để cầu nguyện cho kỳ thi sắp tới của mình đạt được kết quả tốt đẹp.
Đặc biệt trong buổi trưa 21.5, có gia đình cô Trâm (Lò Bánh Hỏi), đối diện Tổ đình Ngọc Phương cũng sớt bát cúng dường. Không chỉ cúng trong mùa hạ, mà vào ngày rằm, mùng một, mỗi tháng, gia đình đều mang bánh hỏi sang cúng dường đến Chư ni.
Hình ảnh buổi cúng ngọ:
Các Tịnh xá tại Châu Đốc cúng dường Trường hạ ( Liên Chơn , 4880 xem)
Chư Ni và Phật tử cúng dường sớt Bát ( Liên Chơn , 3704 xem)
Phật tử các Tịnh xá cúng dường sớt Bát ( Liên Chơn , 3844 xem)
Tịnh xá Ngọc An cúng dường Trường hạ ( Liên Chơn , 2100 xem)
Các Tịnh xá cúng dường Trường hạ ( Liên Chơn , 2592 xem)
Chư Ni và Phật tử tỉnh Long An cúng dường Trường hạ ( Liên Chơn , 2959 xem)
Tịnh xá Ngọc Minh cúng dường Ngọ trưa ( Liên Chơn , 4400 xem)
Các Tịnh xá tại Mỹ Tho cúng dường sớt Bát ( Liên Chơn , 3300 xem)
TT Bửu Chánh thuyết giảng tại Trường hạ Ngọc Phương ( Liên Chơn , 2852 xem)
Ni Sư Tín Liên thuyết giảng tại Trường hạ Ngọc Phương. ( Liên Chơn , 3320 xem)
Cập nhật thông tin chi tiết về Lược Sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trên website Apim.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!