Xu Hướng 12/2023 # Lên Với Tết Tây Nguyên # Top 20 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Lên Với Tết Tây Nguyên được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Apim.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Lên với Tết Tây Nguyên

Thứ Tư, ngày 18/01/2012

Lên cao nguyên đi anh. Chiều như mơ như thực. Hương cà phê thơm ngát. Khói lam chiều mênh mang… Lên cao nguyên với em. Hoà nhịp chiêng rộn ràng. Nối vòng dài mãi. Đêm rượu cần ngất ngây…

Trong một quán cà phê ven hồ Thiền Quang vào một chiều đông với bảng lảng sương hồ xa xa, trong hương cà phê ngào ngạt quện vào da, vào tóc, Anh – một người bạn lớn của tôi, người mà gần như cả cuộc đời gắn bó với vùng đất cao nguyên đầy nắng, đầy gió đã chầm chậm kể cho tôi nghe về vùng đất hùng vĩ ấy, về những người con của Đăm San, Xinh Nhã, đặc biệt là tục ăn Tết ở đây.   Thực ra thì người Tây Nguyên không ăn Tết vào ngày đầu năm Âm lịch như người Kinh mà cứ dịp vụ mùa xong, đầy ắp lúa gạo trong nhà thì họ mới lo ăn Tết. Mọi nguồn cội lễ hội thường được tổ chức sau một mùa lúa chín. Đối với người Jrai, Bahnar, Xê Đăng, M’nông… sống trên mảnh đất Tây Nguyên hùng vĩ, thì với họ Tết đúng nghĩa nhất đó là lễ hội mừng lúa mới. Sở dĩ người Tây Nguyên không “ăn Tết” Nguyên đán, bởi vì Tết lúa mới vào khoảng cuối tháng 12 hàng năm, gần với Tết Nguyên đán, vả lại đó là vấn đề phong tục tập quán, tâm linh.   Ngày Tết được xem như ngày lễ hội mà lễ hội được coi như ngày ăn uống, nghỉ ngơi, vui chơi, ca hát, nhảy múa… Ngày lễ tết không phải là của riêng từng gia đình mà là ngày hội họp chung vui của cả dân làng.   Để chuẩn bị đón Tết, đồng bào các dân tộc Tây Nguyên chuẩn bị rất chu đáo, như dọn dẹp, sửa sang lại nhà rông, chuẩn bị trâu để mở lễ hội đâm trâu… Nhìn chung đây là một cái “Tết” lớn nhất, mang đầy đủ ý nghĩa mong những điều tốt đẹp đến mọi người, ước vọng mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, thực sự là nghi lễ lớn và có nhiều trò chơi dân gian như hóa trang, làm các con rối; đàn ông đàn bà đều diện những bộ khố, váy, trang phục thổ cẩm hết sức cầu kỳ, sặc sỡ.   Không gian Tết Tây Nguyên hừng hực với những bếp lửa lớn, những xiên thịt khô nướng thơm lừng. Và một thứ không thể thiếu đó là những ché rượu cần đầy ắp. Thường thì, trong mỗi nhà đều có sẵn vài cái ché để cất rượu dành sử dụng trong dịp Tết. Rượu cần Tết được làm cẩn thận hơn, nguyên liệu chủ yếu là lúa nếp. Trong những ngày Tết, ché rượu đã được ủ từ trước được để giữa nhà đã được châm đầy nước. Khách tới thăm cùng ngồi trên chiếu, chuyền nhau giữa khách và chủ, nói chuyện đất trời, rồi thì cứ ngậm cần rượu mà uống.   Ngày Tết  cũng là ngày làm lễ bỏ nhà mồ, tổ chức ăn mừng vui chơi quanh nhà mồ. Đêm trước dân làng trong buôn đã nhộn nhịp chuẩn bị đón xuân. Trai làng đem những chiêng trống, thanh la đến khu vực nhà mồ đánh liên hồi như thức tỉnh hồn ma, thần linh về cùng ăn Tết. Vùng nhà mồ vốn hiu quạnh trở nên tưng bừng với rượu ghè, thịt, ánh lửa bập bùng với những bài ca tiếng nhạc cổ truyền khua động núi rừng.   Những ngôi mộ được sửa sang, dọn dẹp sạch sẽ và trang hoàng vui mắt. Quanh nhà mồ cắm những cành tre, trên cột những miếng vải trắng hoặc đỏ phất phơ, trước mộ dựng cây nêu cao vút, bên trên còn vài chùm lá lưa thưa, cột lủng lẳng những tượng gỗ, những bùa chú xanh đỏ. Dưới chân cây nêu xếp tròn những ghè rượu cần, thịt heo, thịt gà để cúng vong linh người dưới mộ và các thần linh. Họ cầu xin các vị thần phù hộ cho linh hồn những người quá cố, chứng giám tấm lòng thành kính của họ trong những năm qua đã hết lòng chăm sóc cho mồ yên mả đẹp, giờ hãy đi chỗ khác cho họ bỏ nhà mồ. Sau khi khấn vái xong, người ta tin là linh hồn người chết dưới mộ đã hài lòng và chịu nhận lời cầu nguyện, mọi người bắt đầu ăn uống. Cuộc vui cư thế kéo dài thâu đêm suốt sáng cho tới tận tối hôm sau.   Với cư dân bản địa Tây Nguyên, ngày “Tết” mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, và ở đó chứa đựng toàn bộ vốn sống của đồng bào về nhân sinh quan, thế giới quan, những phong tục, tập quán, tín ngưỡng được trao truyền từ đời này sang đời khác.   Mùa xuân thường được nói đến với mai vàng, đào đỏ, với những cơn mưa bụi giăng mờ, với cái rét đài rét lộc giêng hai. Nhưng mùa xuân Tây Nguyên lại khác. Mùa xuân nơi đây đầy ắp nắng vàng, ngăn ngắt trời xanh, lồng lộng gió, nơi nào cũng nở hoa. Đà Lạt, Đắk Lắk, Đắk Nông hay cả KonTum đều có quỳ hoa. Hoa quỳ nở từ tháng 10, kéo đến qua Tết. Rải rác đâu đó có những vườn cà phê bắt đầu trổ hoa. Màu hoa cà phê trắng, mùi hương thơm dịu, khiến cho không gian thêm thấm đượm ân tình.  

Lễ Cúng Bến Nước Ở Tây Nguyên

Lễ cúng bến nước ở Tây nguyên

Lễ cúng Bến nước Tuk Pin Ea là một trong những lễ hội quan trọng trong hệ thống các lễ hội cổ truyền của người vùng cao Tây Nguyên Việt Nam. Lễ cúng được tổ chức vào khoảng tháng 3 hàng năm, là lúc chuẩn bị có những cơn mưa đầu mùa, với mục đích tạ ơn thần nước đã đem lại những may mắn trong năm cũ và cầu mưa thuận gió hòa, mùa màng thuận lợi cho năm sau và thường được tiến hành vào sau khi thu hoạch vụ mùa và Lễ mừng lúa mới.

Để làm lễ cúng, người ta chọn một ngày tốt làm vệ sinh buôn, dọn bến và soạn lại máng nước, làm thịt lợn, gà để hiến tế cúng các thần: Thần đất, thần nước, thần núi, tổ tiên. Tất cả dân làng tập trung ra bến nước, người chủ bến nước hoặc thầy cúng sẽ chủ trì lễ cúng với mâm đồ cúng là thịt , và quan trọng nhất là một chậu pha loãng.

Bến nước hôm đó được trang hoàng với cổng chào bằng lá cây, cỏ lá dài, có treo đồ vật trang trí, có dựng cả trụ trang trí dạng như cây nêu của . Sau khi làm thủ tục cúng xong ở bến nước, mọi người cùng lấy vào các vật đựng nước thường là các quả bầu khô, bỏ vào và cõng về nhà lấy khước.

Trong khi đó một đoàn người sẽ theo người chủ lễ đi đến cầu thang từng nhà, hát cầu cúng và rưới vào chân cầu thang để cầu may cho nhà chủ . Sau đó cả buôn làng tập trung về để ăn tiệc, uống và nhảy múa trong không khí của lễ hội với âm vang cồng chiêng rộn rã…

Còn nếu chuẩn nhất thì lễ cúng bến nước sẽ như sau: Lễ phải được tiến hành ở 3 nơi là bến nước, ở nhà và sau nhà chủ buôn tức chủ bến nứơc (khoa pin Ea) vào giữa trưa, mỗi nơi do hai thầy cúng tiến hành. Thầy cúng mặc áo khố màu đỏ, chít khăn đỏ. Chủ buôn là người nhà của chủ buôn mới mặc quần áo kiểu truyền thống. Khi cúng ở bến nước, một thầycúng cầm bát rượu hoà với tiết lợn. Một người khác mang khiên, bầu đựng nước để mang nước về đổ vào ché rượu. Thầy cúng lấy 3 hòn đá và để trên đó khiên, dao, bầu, nước, thịt và bát rượu cúng.

Lúc cúng sau nhà chủ buôn, người ta cũng lấy 3 hòn đá và để lên đó thịt, rượu. Cúng xong, người ta lấy gùi úp 3 hòn đá và lấy dao cắm xuống dất giữ gùi. Sau ba hôm mới mở gùi ra.

Các hòn đá là những vật tượng trưng cho thần đất, thần nước và thần núi. Cúng xong tất cả mọi người vào nhà chủ buôn uống rượu, cúng sức khoẻ cho chủ buôn, vừa cúng vừa múa khiên dao, cầu mong cái tốt loại trừ cái xấu. Hôm cúng bến nước, dân làng trong buôn đánh bắt cá không được tắm rữa dưới bến và lúc cúng không được xách nước.Lễ vật cúng xưa kia là lợn hoặc trâu đếu do chủ buôn bỏ ra, sau này cúng là do đồng bào trong buôn góp.

: Ngày nay, do hầu hết các buôn làng đều đã có các công trình nước sạch do nhà nước đầu tư xây dựng và người dân đã biết dùng giếng nên sự quan trọng của bến nước đã dần mất đi. Các bến nước giờ đây cũng không còn được như xưa như ô nhiễm, nguồn nước giảm chất lượng hoặc thậm chí bị cạn kiệt do mất rừng nên các họat động xung quanh bến nước như Lễ cúng cũng mai một,ở nhiều nơi, những người trẻ có khi còn không biết gì về Lễ cúng này. Đây là một điều thật đáng buồn, vì vậy việc các khu du lịch đã hỗ trợ để các buôn làng tổ chức lễ cúng kết hợp kinh doanh du lịch hoặc các đơn vị kết nghĩa cùng phối hợp tổ chức các buổi lễ này là một điều rất đáng được hoan nghênh. Riêng với người Ban mê, việc được tham dự lễ cúng này thật ấn tượng, hi vọng sự quan tâm của mọi người sẽ càng ngày càng tăng lên để một nét văn hóa đặc sắc không bị mất đi theo thời gian.

Dạo này các khu du lịch ở Tây nguyên nhà ta cũng chịu khó tổ chức lễ cúng bến nước lắm, còn với người Ban mê, cái bến nước bé tẹo trong vườn Trohbư sau này mà làm du lịch chắc cũng phải cúng hàng năm đấy nhỉ http://vn.myblog.yahoo.com/dak-lak/article?mid=229 ./.

Lễ cầu mưa của người Ê đê

Tây Ninh Với Những Miếu Thờ Bà

Ở Tây Ninh, các ngôi miếu thờ Bà Chúa xứ và Ngũ hành có mặt ở khắp các huyện, thị, trừ các huyện mới như Tân Châu, Tân Biên. Về miếu Bà Chúa xứ, ta thấy số lượng nhiều hơn trên các miền đất có lịch sử lâu đời như Trảng Bàng, Gò Dầu. Chưa kể tới các miếu, điện thờ Bà Đen có đặc thù riêng. Còn các miếu Ngũ hành, với dân gian Tây Ninh cũng thường kèm theo bộ tượng năm bà, nên cũng được coi như tín ngưỡng dân gian thờ Mẫu.

Như chúng ta đã biết, vị trí miếu Bà ở Nam bộ thường được chọn vị trí ở các bến sông, vàm rạch hoặc một góc rừng còn sót lại với những cây cổ thụ. Điều này cũng được người dân Tây Ninh tuân thủ. Điều đó có thể thấy ở các miếu Bà Chúa xứ có trên đất Tây Ninh. Tại Trảng Bàng, các ngôi miếu cổ thường nằm giữa một cụm cây rừng cổ thụ. Điển hình là miếu Bàu Rong thuộc ấp Gia Tân, xã Gia Lộc. Không gian miếu cổ um tùm cây cối, các loài cây sao, dầu và đặc biệt là một gốc đa có tuổi vài trăm năm, ruột cây đã rỗng ra thành bộng. Trên cây còn là các loại dây leo, tầm gửi vấn vít tạo nên một môi trường lý tưởng cho các loài chim chóc, kể cả loài chim quý hiếm. Mặc dù ấp Gia Tân nay đã thành ruộng rẫy với xóm ấp có cửa nhà san sát, nhưng vào lại khu cổ miếu Bàu Rong, người ta vẫn có cảm giác trở lại với rừng xưa trong không khí ẩm mát, ríu rít tiếng chim kêu. Cùng loại với Bàu Rong, ở xã An Tịnh có miếu bà An Phú, mà hồi xa xưa có tên gọi là Hóc Ớt. Đấy là cách gọi một vùng rừng hẻm hóc, có mọc nhiều cây ớt. Do chiến tranh và sau này là sức ép đô thị hóa nên miếu bà An Phú đã không còn cây cối rậm rạp hoặc cây cổ thụ. Bên ấp An Khương cũng có một ngôi thờ Bà, nằm dưới gốc một cây sao chằng chịt dây rừng.

Ở về phía đông bờ sông Vàm Cỏ Đông, các xã An Hòa, Gia Bình cũng có nhiều miếu Bà Chúa xứ. Vùng tam giác nơi giáp ranh ba ấp: An Lợi, An Thới – xã An Hòa và ấp Chánh – xã Gia Bình là nơi có mật độ dày các miếu thờ Bà. Kể từ ngã tư Gia Bình đi vào có một ngôi ở ấp Chánh, một ngôi ở An Lợi. Ngay tại cửa rạch Trảng Bàng đổ ra sông Vàm Cỏ Đông, gọi là Vàm Trảng cũng có ba ngôi, nhưng đáng kể về cả quy mô và lịch sử lâu đời nhất có lẽ là ngôi ở ngay cạnh Trạm Liên hợp Kiểm soát đường sông Vàm Trảng. Tại đây, ngay bến sông là cây đa to, có vóc dáng kỳ lạ đổ nghiêng ra mặt nước. Ngôi miếu nằm lùi về phía trong bờ, ngoảnh mặt ra sông.

Tại Gò Dầu, xã Phước Thạnh cũng có ngôi miếu Bà Chúa xứ nằm dưới vòm cây đa cổ thụ, thân cây lớn cỡ 3- 4 vòng tay người lớn. Ngoài ra còn là những bụi cây duối có tuổi trên trăm năm. Do vậy mặc dù miếu nhỏ, nhưng đi trên đường trục chính của xã ai cũng thấy ngôi miếu từ xa.

Ở khu vực huyện Châu Thành cũng có miếu thờ Bà Chúa xứ Thanh Điền. Miếu Thanh Điền nằm ở ấp Thanh Phước, trên một gò đất cao mà người địa phương hay gọi là gò tháp Rừng Dầu. Nguyên do là trên gò ngày xưa có cả một rừng cây dầu cổ thụ. Bên dưới gò có những móng nền tháp cổ; từng được người Pháp chú ý tìm kiếm những di vật cổ trong nửa đầu thế kỷ XX. Ngày nay, bà con có lòng tín ngưỡng đã không chỉ tôn tạo trùng tu ngôi miếu cũ, mà còn trồng lại cả một vườn cây dầu để trở lại với hình ảnh thuở xưa. Dầu đã mọc lại trên gò, mơn mởn măng tơ cao hàng chục mét và đã khép tán rủ đầy bóng mát.

Ngôi miếu vừa có cảnh quan đẹp đẽ, vừa có gốc gác lâu đời nhất ở Thành phố hiện nay chính là miếu Ngũ hành xóm Hố. Miếu nằm sát một bến sông có cảnh trí tuyệt vời được gọi là bến Miễu. Khuôn đất miếu nằm kế rạch Tây Ninh ở về phía hạ lưu cầu Thái Hòa khoảng 1 km. Quanh miếu là cả một cụm rừng xưa sót lại với nhiều cây sao, trâm, bồ đề và xoài cổ thụ. Có nhiều khả năng khu đất miếu chính là di tích phủ cũ thời Nặc Ông Chân – vua Chân Lạp. Ngay dưới gốc hai cây bồ đề xoắn bện vào nhau còn là một móng tháp gạch, cùng loại với gạch ở khu di tích quốc gia gò Cổ Lâm, xã Thanh Điền. Chung quanh đất miếu cũng phát hiện ra những nền móng tháp tương tự. Một thời chưa xa xôi lắm, bến miễu còn tấp nập trên bến dưới thuyền, do hoạt động buôn bán bằng ghe thuyền trên rạch Tây Ninh, nối ra sông Vàm Cỏ Đông về các tỉnh miền Tây còn thịnh hành. Thương lái đi và về thường ghé bến, để lên miếu thắp nhang, bày biện hoa trái cúng, cầu được bình an và mua may bán đắt. Ngày nay, giao thông bộ phát triển, nên dĩ nhiên thờ cúng miếu cũng đã thuyên giảm nhiều so với ngày xưa.

Về kiến trúc, các ngôi miếu thờ Bà Chúa xứ và Ngũ hành ở Tây Ninh không lớn, ngôi đáng kể nhất chính là miếu Ngũ hành ở khu phố 5, phường 1 có kích thước mặt bằng vuông, 4 mét mỗi chiều. Miếu Bà Chúa xứ Vàm Trảng cũng vuông, mỗi bề 3,6 mét. Cả hai ngôi vừa kể đều có thêm 1 hành lang ở mặt trước. Tuy miếu chỉ có 1 gian nhưng hành lang thường được xây thêm 2 trụ gạch (ngoài 2 cột chính) để tạo thành một hình ảnh mặt tiền có 3 nhịp gian. Hai nhịp bên có khi còn được tạo vòm cong, có lan can con tiện. Nhịp giữa xây tam cấp để bước lên. Ngôi có thể có kích thước lớn hơn cả là miếu Ngũ hành ở ấp An Thành, An Tịnh với kích thích mặt bằng: 3,6 x 5,1m. Còn lại, đa số có kích thước mặt bằng nhỏ hơn, chỉ từ 02 đến 2,4m mỗi bề. Có ngôi chỉ xây 3 mặt tường, còn phía trước để trống cho dễ bề bày biện phẩm vật cúng và dâng hương cúng tế. Đa số các ngôi miếu được xây với tường cột gạch, lợp ngói móc theo kiểu đơn giản với hai mái dốc. Bên trong cũng bài trí giản dị với thông thường là một bàn thờ chính ở giữa gian, hai bàn thờ phụ nhỏ hơn ở hai bên.

Với miếu Bà Chúa xứ thì bàn thờ chính thường có một pho tượng bà được khoác áo choàng bằng gấm hay lụa đen hoặc đỏ có thêu ren kim tuyến. Với miếu Ngũ hành thì bàn thờ chính thường có 5 pho tượng bà, mỗi người khoác áo màu khác nhau; hoặc tượng nhỏ thì sơn vẽ màu trực tiếp trên tượng. Các bàn thờ nhỏ hai bên có khi là tượng Cô và Cậu hoặc hai cậu có tên: Cậu Tài, Cậu Quý. Theo những người cao tuổi, đa số các ngôi miếu trước kia không có tượng thờ, mà chỉ có ở trên bức tường giáp bàn thờ những chữ Hán được vẽ lên như là những bài vị để thờ cúng mà thôi. Tượng Bà mới chỉ có trong các miếu vài chục năm gần đây, do vậy đa số đều được đắp bằng vữa xi măng cốt thép.

Còn có một kiến trúc khác luôn gắn bó với ngôi miếu, và nhiều khi còn được xây cất cầu kỳ công phu hơn cả ngôi miếu. Đó là ngôi võ ca. Thường võ ca có diện tích lớn hơn ngôi miếu, và đây chính là nơi diễn ra các nghi lễ chính của việc thờ cúng các vị nữ thần; cũng là nơi các tốp hát múa bông, múa mâm vàng biểu diễn. Khi ấy bà con xóm ấp thường đứng vòng trong, vòng ngoài chung quanh để xem; và sau đó dọn cỗ bàn cùng ăn khi đã xong các lễ nghi cúng miếu. Võ ca của miếu bà An Phú có kích thước mặt bằng là: 6 x7,2m; trong khi miếu chỉ có 2,4 x 2,4m.

Ở miếu Ngũ hành xóm Hố, võ ca là 5,4 x 5,7m, trong khi miếu chỉ có mặt bằng hình vuông mỗi cạnh 4m. Đặc biệt là ở hai ngôi này, võ ca còn có kiến trúc đặc biệt và tiêu biểu, làm theo lối đình chùa truyền thống Nam bộ; nghĩa là có bộ khung cột cấu trúc kiểu “tứ trụ” cùng với hệ vì kèo, xiên trính bằng gỗ quý kích thước lớn và mái ngói hình bánh ít. Võ ca thường chỉ có cột mà không có tường bao, trống thoáng ba bề, bên trong có thể được bố trí vài bàn xây cố định để đến ngày cúng miếu mới bày biện nhang đèn, bông trái làm thành các bàn thờ địa hoàng, thành hoàng, binh gia, Quan tướng… Ngoài ra, chung quanh sân miếu, ở một số nơi có đất đai rộng rãi còn có thêm các ngôi miếu nhỏ, cỡ chỉ trên dưới 1m2, thờ binh gia, ông Tà, ông Cọp và chiến sĩ trận vong.

Các ngôi miếu Bà dường như không có tuổi, bởi có hỏi thì cũng được trả lời rằng miếu có từ thuở ông sơ, bà cố vài trăm năm trước. Nhưng cứ theo những truyền miệng qua các thế hệ cũng có thể chắc chắn rằng các miếu Bà chính là các ngôi thờ tự đầu tiên ở thôn, làng. Vậy nó cũng có lịch sử trùng với việc khai hoang mở đất lập làng. Nhân kỷ niệm 180 năm – Tây Ninh hình thành và phát triển, cũng xin điểm lại những ngôi thờ Bà đáng nhớ, còn được nhiều người lưu trong ký ức.

Gộp Tết Tây Và Tết Ta, Liệu Có Nên?

Kính bạch Thầy! Con nghe những thông tin trên thời sự và báo chí về việc gộp Tết tây và Tết ta. Con thấy có rất nhiều ý kiến trái chiều, riêng bản thân con thì không đồng tình với quan điểm ấy. Vì Tết ta đã là truyền thống lâu đời. Vậy theo quan điểm của nhà Phật thì việc này được nhìn nhận ra sao ạ? Con mong Thầy giải đáp thắc mắc giúp con với ạ. Con xin cảm ơn Thầy ạ!

Thầy Thích Trúc Thái Minh trả lời:

Kính thưa quý Phật tử!

Đạo Phật là đạo xuất thế gian nhưng cũng không ra ngoài thế gian mà soi sáng cho thế gian. Quan điểm của đạo Phật là “tùy thuận chúng sinh, nhi vi lợi ích”, tức là làm sao tùy thuận được chúng sinh mà vẫn có lợi ích giúp cho chúng sinh đạt được giác ngộ giải thoát.

Tết tây xuất hiện ở Việt Nam từ khi nào?

Ở Châu Á, có đến gần chục nước ăn Tết theo Tết cổ truyền của họ như Trung Quốc, Hàn Quốc, Triều Tiên, Thái Lan, Campuchia, Lào,… Còn Tết Dương lịch được hình thành từ một vị giáo hoàng công giáo. Ông chọn ngày đầu năm làm ngày Tết và từ đó hình thành việc ăn Tết dương lịch.

Dân tộc Việt Nam thời phong kiến vẫn dùng lịch âm, chỉ cho đến khi Pháp đô hộ thì mới xuất hiện lịch tây. Do Việt Nam đang trong quá trình hội nhập, văn hóa phương Tây tràn vào rất nhiều nên chúng ta cũng nghỉ Tết tây rồi ăn Tết ta hay hưởng ứng lễ Noel như các nước phương Tây.

Ý nghĩa và sự khác biệt của ngày Tết cổ truyền so với Tết tây

Từ bao nhiêu đời nay, Tết ta đã trở thành truyền thống của dân tộc. Chữ “Nguyên” trong “Tết Nguyên Đán” là nguyên sơ, khởi đầu; còn chữ “Đán” là sáng sớm đầu tiên. Tết Nguyên Đán có ý nghĩa là ngày đầu tiên của năm mới, tức là ngày mùng 1 Tết. Ngày ấy là ngày con cháu về cúng tiên tổ, anh em quây quần, sum họp, tổng kết năm cũ, bỏ tất cả các chuyện cũ không hay để đón chào năm mới khiến cho ai nghĩ đến cũng cảm thấy rất ý nghĩa và linh thiêng.

Ngày xưa, chúng ta thường đốt pháo còn bây giờ thì không. Nhưng tinh thần ngày Tết vẫn được giữ gìn. Thầy nhớ cảm xúc hồi nhỏ mỗi khi giao thừa xong cảm thấy con người đổi mới, hứa năm cũ cái gì chưa làm được thì sang năm mới mình sẽ cố gắng. Từ đó, Tết cổ truyền đã tạo thành cái hồn dân tộc thấm nhuần trong mỗi con người, đem lại rất nhiều thiện Pháp, lợi ích cho tất cả chúng ta.

Nếu chúng ta thường đón Tết tây là vui chơi ăn nhậu, hát ca thì ngày Tết cổ truyền chúng ta lại đi chùa xin lộc Phật, thăm hỏi ông bà, họ hàng gần xa, cố kết cộng đồng giáo dục tâm linh với tinh thần “mùng 1 Tết cha, mùng 2 Tết mẹ, mùng 3 Tết thầy”.

Có nên gộp Tết tây và Tết ta?

Có nhiều người đưa ra quan điểm là gộp Tết ta ăn cùng Tết tây cho đỡ tốn thời gian, tiền của,… nhưng Thầy nghĩ rằng chúng ta nên xác định xem cuộc đời này chẳng lẽ chỉ là để đi làm hay sao? Ngày Tết là ngày hưởng thụ về tinh thần cho nhân dân. Ngày xưa, các cụ rất nghèo mà còn xác định ăn chơi cả tháng Giêng để hưởng thụ và tích lũy năng lượng cho cả một năm.

Đối với quan điểm đạo Phật, cái gì lợi ích cho chúng sinh thì nên thực hành. Đối với dân tộc Việt Nam chúng ta, giữ Tết cổ truyền vẫn là điều rất tốt và nên làm. Thứ nhất, nó bảo lưu được những văn hóa truyền thống, bản sắc riêng. Thứ hai, Tết cổ truyền là tết tâm linh, có không khí thiêng liêng và ý nghĩa. Cho nên, nếu dân ta bỏ Tết cổ truyền là một mất mát rất lớn. Còn Tết tây đến với dân tộc ta không có tính chất tâm linh, chỉ là ăn chơi vui vẻ chút thôi.

Vậy để lợi ích cho dân tộc thì chúng ta vẫn nên duy trì và làm cho Tết ta đầy đủ ý nghĩa như đúng bản chất của nó.

Khó Khăn Trong Việc Bảo Tồn Lễ Cúng Bến Nước Ở Tây Nguyên

Lễ cúng bến nước là một trong những lễ hội tiêu biểu, có vai trò rất quan trọng đối với đời sống đồng bào dân tộc Ê đê. Đặc biệt đây là không gian bảo tồn các loại hình văn hoá mà ở đây đó là thái độ của con người đối với tài nguyên đất, nước. Đây là một trong những lễ hội thường diễn ra vào tháng 3 dương lịch – đầu mùa mưa với mục đích cúng tạ thần nước đã đem lại những may mắn trong năm cũ và cầu mưa thuận gió hòa, mùa màng thuận lợi cho năm sau.

Lễ cúng bến nước từ trước tới giờ là mang tính cộng đồng, do vậy có những quy trình, các bước tiến hành tương đối bài bản. Đầu tiên nghi lễ được tiến hành ngay tại ngôi nhà của Trưởng bản là (Pha Buôn), tiếp theo được tiến hành ngay tại bến nước. Khi tiến hành nghi lễ, do vậy có những kiêng cữ nhất định như tất cả cộng đồng khi tham gia làm lễ không được có các biểu hiện như nói các từ ngữ không đẹp, không hay, mang tính rủi ro mà tất cả mọi người phải hoà vào thể hiện sự tôn trọng đối với toàn bộ quy trình của buổi lễ. Trong cái thời khắc diễn ra buổi lễ thì trẻ con không được phép chạy nhảy, đi lại xung quanh nơi cúng tế. Đặc biệt là những người phụ nữ mang thai không được tham dự. Sau nghi lễ cũng bến nước là phần hội, lúc này toàn thể cộng đồng mới được tham gia.

Tuy nhiên, theo tiến sĩ Buôn Krông Tuyết Nhung, Trưởng bộ môn Ngôn ngữ Trường ĐH Tây Nguyên, hiện thực trạng của Lễ cúng bến nước không còn như xưa nữa. Bởi nó bị tác động nhiều yếu tố như nguồn nước ngày càng cạn kiệt, đời sống kinh tế của cộng đồng dân tộc người Ê đê cũng trở nên hạn chế, do vậy để tiến hành được nghi lễ này cũng là điều khó khăn. Đối với người Ê đê, một nguyên tắc nghiêm ngặt đó là không được phá khu rừng đầu nguồn, vì đây là khu rừng thiêng, nơi giữ nguồn nước, nơi trú ngụ của thần linh, chính vì việc thần linh hoá vạn vật trên vũ trụ này là cách người dân nơi đây bảo vệ môi trường sống. Từ sau năm 1975 toàn bộ khu rừng nơi đây bị phá nghiêm trọng nên nguồn nước bị cạn kiệt, tất cả các bến nước của người Ê đê không đủ nước để phục vụ cho sinh hoạt cũng như cũng tế thần linh.

Lễ cúng bến nước đang đứng trước nguy cơ mai một cần được bảo tồn phục dựng.

Cũng theo tiến sĩ Tuyết Nhung một nguyên nhân nữa đó là địa phương chưa chú ý đúng mức vai trò, vị trí của các Lễ hội dân gian. Sau năm 2001, nhờ việc ý thức được vấn đề này thì toàn bộ tài nguyên đó lại không còn như trước đây nữa để chúng ta tiến hành lễ hội

Về cơ bản Lễ cúng bến nước vấn giữ nguyên. Tuy nhiên hiện nay nghi lễ này cũng có một số điểm khác so với trước. Về lễ vật thì trước đây cộng đồng tế lễ bằng trâu, bò và cúng rất nhiều ché rượu cần. Việc tổ chức lễ được thực hiện từ gia đình Trưởng buôn dẫn lễ đến bến nước và thực hiện mọi nghi lễ một cách trang trọng, thời gian tổ chức lễ kéo dài từ 2 đến 3 ngày. Còn giờ đây, mặc dù lễ vẫn được tổ chức với những thủ tục như vậy nhưng về phần lễ vật thì ít hơn. Cụ thể chỉ có cúng lễ bằng heo gà và tượng trưng 1 đến 2 ché rượu cần và nghi lễ được thực hiện rất ngắn gọn với thời gian từ 1 đến 2 giờ.

BÁ THĂNG/Lao động và Xã hội

Tết Nguyên Đán Là Gì? Những Phong Tục Ngày Tết Nguyên Đán

Tết Nguyên Đán là gì? Tết Nguyên Đán là dịp lễ quan trọng nhất của Việt Nam. Toàn bộ dịp Tết Nguyên đán hàng năm thường kéo dài trong khoảng 7 đến 8 ngày cuối năm cũ và 7 ngày đầu năm mới (23 tháng Chạp đến hết ngày 7 tháng Giêng).

Tết Nguyên Đán là gì?

Tết Nguyên Đán là gì? Hai chữ “Nguyên Đán” có nguồn gốc chữ Hán. Nguyên = đầu, Ðán = buổi sớm mai. Nguyên Ðán là buổi sớm mai của đầu năm. Tết Nguyên Đán (hay còn gọi là Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền hay chỉ đơn giản còn gọi là Tết) là dịp lễ quan trọng nhất của Việt Nam, theo ảnh hưởng văn hóa của Tết Âm lịch Trung Hoa và văn hóa Đông Á.

Văn hóa Đông Á – thuộc văn minh nông nghiệp lúa nước – do nhu cầu canh tác nông nghiệp đã “phân chia” thời gian trong một năm thành 24 tiết khí khác nhau (và ứng với mỗi tiết này có một thời khắc “giao thừa”) trong đó tiết quan trọng nhất là tiết khởi đầu của một chu kỳ canh tác, gieo trồng, tức là Tiết Nguyên Đán sau này được biết đến là Tết Nguyên Đán.

Nước ta ăn Tết từ bao giờ thì chưa rõ. Nếu căn cứ vào tục ăn bánh chưng ngày Tết và truyền thuyết cha ông ta biết làm bánh chưng từ thời Hùng vương thì ta đã ăn Tết từ đời các vua Hùng, song đấy chỉ là phỏng đoán, không có bằng chứng.

Trước ngày Tết, thường có những ngày khác để sửa soạn như “Tết Táo Quân” (23 tháng chạp âm lịch) và “Tất Niên” (29 hoặc 30 tháng chạp âm lịch). Vì Tết tính theo Âm lịch là lịch theo chu kỳ vận hành của Mặt Trăng nên Tết Nguyên Đán của Việt Nam muộn hơn Tết Dương lịch.

Toàn bộ dịp Tết Nguyên đán hàng năm thường kéo dài trong khoảng 7 đến 8 ngày cuối năm cũ và 7 ngày đầu năm mới (23 tháng Chạp đến hết ngày 7 tháng Giêng).

Người Việt Nam có tục hằng năm mỗi khi Tết đến, dù làm bất cứ nghề gì, ở bất cứ nơi đâu, vẫn mong được trở về sum họp cùng gia đình trong 3 ngày Tết.

“Về quê ăn Tết” không chỉ là khái niệm đi về, mà đằng sau nó là cả một quá trình hành hương về với cội nguồn, về nơi chôn nhau cắt rốn. Từ ngày rằm tháng Chạp (tháng 12 âm lịch) các gia đình đã bắt đầu rục rịch chuẩn bị sắm Tết, có rất nhiều phong tục được thực hiện trong suốt khoảng thời gian diễn ra ngày lễ lớn nhất trong năm của người Việt.

Sau khi tiễn đưa ông Táo người ta bắt đầu dọn dẹp nhà cửa, lau chùi đồ cúng ông bà tổ tiên, treo tranh, câu đối, và cắm hoa ở những nơi trang trọng để chuẩn bị đón tết. Miền Bắc có hoa Ðào, miền Nam có hoa Mai, hoa Ðào tượng trưng cho phúc lộc đầu xuân của mọi gia đình.

Những phong tục trong ngày tết Nguyên Đán là gì? Tất niên

Ngày Tất niên có thể là ngày 30 tháng Chạp (nếu là năm đủ) hoặc 29 tháng Chạp (nếu là năm thiếu). Đây là ngày gia đình sum họp lại với nhau để ăn cơm buổi tất niên. Buổi tối ngày này, người ta làm cỗ cúng tất niên.

Giữa ngày 30 (hoặc 29) tháng Chạp và ngày mồng 1 tháng Giêng, giờ Tý (từ 23 giờ hôm trước đến 1 giờ hôm sau), trong đó thời điểm bắt đầu giờ Chính Tý (0 giờ 0 phút 0 giây ngày Mồng 1 tháng Giêng) là thời khắc quan trọng nhất của dịp Tết. Nó đánh dấu sự chuyển giao năm cũ và năm mới, nó được gọi là Giao thừa.

Để ghi nhận thời khắc này, người ta thường làm hai mâm cỗ. Một mâm cúng gia tiên tại bàn thờ ở trong nhà mình và một mâm cúng thiên địa ở khoảng sân trước nhà.

Mâm lễ cúng Tất niên tùy theo điều kiện gia đình cũng như phong tục tập quán mỗi vùng có thể thịnh soạn hay thanh đạm, tuy nhiên một số thành phần bắt buộc phải có khi cúng theo phong tục của người Việt Nam gồm: hương hoa, vàng mã, đèn nến, trầu cau, rượu, trà, bánh chưng, cỗ mặn được bầy biện đầy đặn, trang nghiêm.

Giao thừa

Giao thừa là thời khắc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới. Trong thời khắc giao thừa mọi người trong gia đình thường dành cho nhau những lời chúc tốt đẹp nhất. Cúng Giao thừa là lễ cúng để đem bỏ hết đi những điều xấu của năm cũ sắp qua để đón những điều tốt đẹp của năm mới sắp đến.

Cúng ngày Tết

Tết là gì? Ngày mồng Một (tháng Giêng) là ngày Tân niên đầu tiên và được coi là ngày quan trọng nhất trong toàn bộ dịp Tết. Không kể những người tốt số, hợp tuổi được mời đi xông đất, vào sáng sớm ngày này, người Việt thường không ra khỏi nhà, chỉ bày cỗ cúng Tân niên, ăn tiệc và chúc tụng nhau trong nội bộ gia đình.

Ngày mồng Hai là ngày có những hoạt động cúng lễ tại gia vào sáng sớm. Sau đó, người ta chúc tết người thân, họ hàng.

Ngày mồng Ba thường là ngày sau cùng cúng cơm tại gia theo lệ cúng ít nhất đủ ba ngày Tết. Nhiều gia đình sẽ làm lễ hóa vàng tiễn các cụ trong ngày này. Nhiều người sẽ đi thăm hàng xóm, láng giềng, thăm thầy cô, đồng nghiệp để chúc Tết từ ngày mồng 3.

Xông đất

Nhiều người quan niệm ngày Mồng Một đại diện cho một năm mới. Vào ngày này, nếu mọi việc diễn ra suôn sẻ, may mắn, cả năm cũng sẽ được tốt lành, thuận lợi.

Ngay sau thời khắc giao thừa, bất cứ người nào bước từ ngoài vào nhà với lời chúc năm mới được coi là đã xông đất cho gia chủ. Người khách đến thăm nhà đầu tiên trong một năm cũng vì thế mà quan trọng.

Cho nên cứ cuối năm, mọi người cố ý tìm xem những người trong bà con hay láng giềng có tuổi hợp với gia chủ vào năm đó, người khỏe mạnh, vui vẻ, để nhờ xông đất.

Lì xì

Tùy vào mỗi vùng miền, các phong tục sẽ có chút khác biệt. Xã hội ngày càng phát triển, những phong tục truyền thống ít nhiều bị ảnh hưởng và mai một dần.

Tục lệ dựng cây nêu ngày Tết, đi hái lộc, xin câu đối đầu năm giờ không còn phổ biến như trước nữa. Tuy nhiên Tết Nguyên Đán trong tâm thức người Việt vẫn không gì có thể thay thế được.

Cứ dịp Tết đến Xuân về, lòng người lại nô nức, nhất là những người con xa xứ. Cái Tết không chỉ là ngày lễ đơn thuần. Đó là ngày của tình thân, của đoàn viên, của cội nguồn nơi chúng ta cất tiếng khóc chào đời.

Cập nhật thông tin chi tiết về Lên Với Tết Tây Nguyên trên website Apim.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!