Bạn đang xem bài viết Lễ Kỳ Yên Nghi Thức được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Apim.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Lễ hội Kỳ Yên Nghi ThứcHàng năm, mỗi đình làng ở Bình Dương có nhiều ngày lễ:
– Các lễ tiết tứ thời có ngày đưa thần (25/12), rước thần (30/12), nguyên Đán (1/giêng), Đoan Ngọ (5/5), khai sơn (7/1).
– Xưa kia, ngày 25 tháng chạp, lúc hội có còn làm việc tại đình, có lợi rửa con dấu bỏ vào hộp niêm kín, rồi dựng nêu báo tin thời gian nghĩ tết. Do đó ngày đưa thần còn gọi là ngày dựng nêu hoặc ngày niêm ấn. Đồng thời đến chiều ngày mồng 7, hương chức hội tề làm lễ khai ấn.
– Các ngày lễ của các tôn giáo xâm nhập vào chốn đình trung có ba ngày Thượng Nguyên, Trung Nguyên, Hạ Nguyên.
– Các ngày lễ mang tính dân gian như lễ cúng miếu, cầu an tống phong.
Nhưng quan trọng nhất là lễ Hạ Điền và Thượng Điền. Lệ Hạ Điền thường tổ chức đầu mùa mưa – biến dạng của lễ Xuân Tế và thường ba năm có lệ lấy ngày Hạ Điền là ngày Kỳ yên. Còn lễ Thượng Điền tổ chức vào cuối mùa mưa, gọi là Thượng Điền chạp miễu. Nhưng ở Bình Dương thường không tổ chức lễ Thượng Điền vào những ngày cuối năm mà lại ảnh hưởng điển lễ “thu tế”, tổ chức lễ Cầu Bông (còn gọi là lễ Cầu Hoa, Kỳ Huê) tổ chức vào khoảng giữa tháng 8. Đại khái các đình trong tỉnh Bình Dương mỗi năm đều có một lễ lớn và một lễ phụ Kỳ yên có nghĩa là cầu an, có nơi gọi là vía thần Thành Hoàng, vía Ông. Đây là lễ hội quan trọng nhất trong năm. Lễ này kéo dài một ngày rưỡi đến ba ngày. Theo Trịnh Hoài Đức tác giả sách Gia Định Thành Thông Chí thì ngày giờ cúng tế tuỳ theo tục lệ của từng làng. Có chỗ chọn tháng giêng, tháng hai, giữ nghĩa “Xuân kỳ”, có nghĩa vào mùa xuân làm lễ cầu thần cho được sắp tới. Hoặc có chỗ tháng 8, tháng 9, giữ nghĩa “thu báo”, có nghĩa vào mùa thu làm lễ báo đáp sau khi gặt xong. Hoặc dùng trong ba tháng mùa Đông, giữ nghĩa trọn năm đã thành công nên tế “chưng”, tế “lạp” tạ ơn thần (ta gọi là chạp miễu). Như thế lễ Kỳ yên hay lễ Cầu Bông đều nhằm mục đích cầu “Phong điều vũ thuận”, mùa màng bội thu, “Quốc thái dân an”, làng xóm yên vui, dân giàu nước mạnh.
Kỳ yên thường tổ chức vào các ngày 12 – 13 hoặc rằm – 16 là những ngày có trăng để dân làng có thể đến tham dự suốt đêm, ra về thuận tiện. Trong những ngày này triều cường cao, ghe xuồng tới lui cũng tiện. Kỳ yên thường tổ chức vào những tháng giao mùa như tháng 2, tháng 4, tháng 11… là thời điểm dân làng rãnh rỗi. Hiện nay chúng ta thấy nhiều đình ở gần nhau thì có ngày lễ hội trùng gống nhau. Tương truyền đó là ngày đưa sắc thần về làng nên dân làng tổ chức hội hè ăn mừng. Nhưng đó chỉ là một cách giải thích.
Chương trình lễ Kỳ yên tại các ngôi đình ở Bình Dương diễn tiến như sau:
Lễ Khai môn
Lễ thỉnh sắc thần
Lễ Tiền Hiền, Chiến sĩ, Cúng miếu.
Tế Túc Yết
Tế Đàn Cả
Lễ Đưa Sắc
Lễ Kỳ yên (tại đình làng) hay các lễ cúng tế ( tại các miếu thờ phúc thần) đều mục đích tạo việc cho dân địa phương đến lễ bái cầu làng xóm bình yên, quốc gia thịnh vượng. Lễ Cầu Bông còn mang nét đặc trưng của nông nghiệp, lễ này có nghi tiết tế Thần Nông, Vũ Sư, Phong Bá, Lôi Công, Điển Di… cùng các vị thần sông núi để cầu mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu. Ngày Kỳ yên cũng là ngày tế Tiền Hiền – Hậu Hiền, Tiền Bối – Hậu Bối … Đây là một nghi lễ bắt nguồn từ nếp nghĩ quý trọng công lao của các bậc tiên tổ có công, biểu thị tư tưởng truyền thống uống nước nhớ nguồn, một hình thức tri ân các bậc tiền nhân có công khai sáng bồi đắp cho địa phương.
Gần đây các đình trong tỉnh Bình Dương thịnh hành tục thờ phượng cúng tế các liệt sĩ, là con dân trong làng hy sinh vì sự nghiệp cứu nước và giữ nước. Hoặc các đình định ra nghi thức niệm hương tưởng nhớ đên Chủ Tịch Hồ Chí Minh, Vị lãnh tụ tài ba của dân tộc. Các tục lệ này bao hàm ý nghĩa cũng tương tự như tục lệ thờ cúng các danh nhân hữu công ở địa phương, cần duy trì và phát huy.
Theo tên gọi, “Kỳ yên” tức là “Cầu an”. Do đó ngoài nghi thức tế tự chính thống còn mang nhiều dạng tính ngưỡng dân gian. Như trong ngày Kỳ yên có lễ cúng miễu, có thể mời bà bống diễn xướng múa hát. Một số nơi ngày Kỳ yên có thể mời thầy Pháp đến làm lễ tống ôn, tá thổ. Một số nơi, nhiều nhà sư đến tụng kinh cầu an cho bà con trong làng trong xóm. Tuy nhiên, không phải nơi nào cũng như thế vì xưa kia có nơi quan niệm chính thống đã lấn át các loại tín ngưỡng dân gian. Hơn nữa, càng về sau các loại nghi lễ không còn hợp thời, (như lễ Tống On, Tá Thổ) cũng bị trào lưu khoa học tấn công nên đã bị trừ. Thế nhưng từ khi kinh tế thị trường mở cửa thì các dạng tính ngưỡng dân gian này có khuynh hướng khôi phục.
Lễ hội là dịp trưng bày tài nghệ, sự khéo léo của dân chúng. Đây là dịp chị em phụ nữ thi tài làm bánh, thổi sôi (thông qua lễ vật dâng cúng). Đây là dịp các nghệ nhân giới thiệu tài chưng kết bằng hoa quả, cây lá, giới thiệu bộ đỉnh đồng, cái lọ cắm hoa… có một số nơi ngày Kỳ yên còn là dịp giới thiệu các loại trái cây đầu mùa… xa hơn có nơi còn tổ chức các trò chơi dân gian, đua ghe, đua xuồng, triển lãm gia súc, gia cầm… sau lễ hội ban tổ chức thường trích một phần quà phát thưởng (có thể là một khúc vải, một ít tiền) giá trị vật chất tuy không nhiều nhưng về tinh thần thì không có gì sánh được.
Nói đến lễ hội là nói đến tiệc tùng, hát xướng. Thế nhưng ở địa phương Bình Dương không có cảnh “chiếu trên, chiếu dưới” cũng không có cảnh “miếng thịt làng bằng một sàng xó bếp”. Lý do là theo tục lệ ở Nam bộ khi chức vụ cao được phần nhiều thì phải đóng góp nhiều. Hơn nữa, ngay từ khi những ngày đầu bị đô hộ, đình làng hội hè đã không còn do chính quyền địa phương trực tiếp quản lý. Do đó những người tham gia lễ hội có tính tự nguyện và bình đẳng, nhưng mang tính chiêu đãi thù tạc vui vẽ. Ở thị xã, thị trấn… cảnh ăn uống nhậu nhặt say sưa trong ngày lễ hội đã bắt đầu lùi vào quá khứ.
Còn hát bội trong ngày Kỳ yên là chương trình văn nghệ mang tính nghi lễ gồm ba tiết mục: Khai chầu đại bội, hát tuồng và tôn vương, hồi chầu. Tiết mục cuối cùng mang tính chúc tụng. Tiết mục đầu tiên mang tính nghi lễ như tẩy uế, thử trống và đánh ba hồi trống khai tràng. Chương trình đại hội là chương trình văn nghệ gồm các điệu múa cung đình giải thích thuyết tạo lập vũ trụ theo Dịch lý từ Thái cực sinh Lưỡng Nghi, Tứ Tượng, Ngũ Hành. Tiếp theo chương trình đại hội là ba màn hát: hai màn đầu có thể là cảnh loạn lạc, người trung bị gian thần hãm hại, vua bị tiếm quyền. Nhưng màn cuối cùng bắc buộc chính nghĩa phải thắng gian tà. Như vậy chức năng hát bội cung đình không hoàn toàn là trò biểu diễn giúp vui mà còn mang tính nghi lễ. Như thế người cầm chầu là người thay mặt thần, thay mặt khán giả khen chê bằng tiếng trống.
“Nghe trống chiến chết điếng cái đầu, nghe trống chầu cái đầu láng mướt” là tâm trạng của dân làng trong ngày Kỳ yên. Xưa kia theo nguyên tắc “tam niên đáo lệ Kỳ yên”, tức là ba năm phải tổ chức Kỳ yên to, có tế lễ, có hát xướng. Thế nhưng sau giai đoạn chiến tranh kéo dài một phần truyền thống được khôi phục, nhưng nhìn chung chỉ mới có một số đình đủ điều kiện tổ chức theo lễ.
Lễ Kỳ Yên
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Lễ Kỳ yên có nghĩa là lễ cầu an, là lễ tế thần Thành Hoàng lớn nhất trong năm của một ngôi đình thần ở Nam Bộ, Việt Nam. Tùy theo điều kiện kinh tế, nhưng thường thì cứ ba năm (tam niên đáo lệ kỳ yên) Ban quý tế đình làm lễ tế long trọng và qui mô hơn: Đại lễ Kỳ yên, tức ngoài các lễ tế thường kỳ còn có thêm 4 lễ nữa, đó là: Lễ rước Tổ hát bội, lễ Xây chầu, Hát chầu và Hồi chầu. Sơ lược các lễ tế Giới thiệu lễ Kỳ yên ở Nam Bộ xưa, sách Gia Định thành thông chí (mục Phong tục chí) của Trịnh Hoài Đức có đoạn: Cúng Kỳ yên: mỗi làng (ở Nam Bộ) có dựng một ngôi đình, ngày cúng tế phải chọn cho được ngày tốt, đến buổi chiều ngày ấy lớn nhỏ đều nhóm tại đình, họ ở lại suốt đêm ấy, gọi là túc yết. Sáng ngày mai học trò lễ mặc áo, mão, gióng trống khua chiêng làm lễ chánh tế, ngày sau nữa làm lễ dịch tế, gọi là đại đoàn, lễ xong lui về…[1] Hiện nay, lễ Kỳ yên cũng được tổ chức trong ba ngày, gồm nhiều lễ tế khá phức tạp nhưng cũng khá bài bản, trong đó có ba lễ chính là: Túc yết, Đàn cả (quan trọng nhất) và Lễ tế Tiền hiền, Hậu hiền. Tuy mỗi nơi có thể khác về giờ giấc, thứ tự & chi tiết, nhưng thường thì các lễ được tiến hành đại để như sau: Ngày thứ nhất Có các lễ tế: Lễ rước Tổ hát bội Đến kỳ đáo lệ Kỳ yên (Đại lễ Kỳ yên), ngay từ sáng sớm, Ban quí tế cử người bưng một khai gỗ có trầu, rượu, hương, đèn, tiền lễ; cùng 4 quân hầu cầm 4 món thuộc bộ Lỗ bộ và Ban nhạc lễ ra tận cổng để rước Tổ hát bội vào đình, rồi đặt trang trọng sau hậu trường võ ca. Lễ Thỉnh sắc Sau khi an vị Tổ hát bội xong, một đám rước với đầy đủ chiêng, trống, cờ, lộng, long đình cùng đội nhạc lễ, đội lân…đi đến chỗ cất giữ sắc thần (thường thì để ở trong một ngôi nhà kiên cố của một vị chức sắc có uy tín). Đến nơi, người có trách nhiệm vào tế một tuần hương, ba tuần rượu, đọc một bài văn tế ngắn gọn (hay khấn cũng được), rồi đem sắc đặt vào long đình, rước về. Đến đình, phải cử hành thêm nghi thức an vị, gồm: một tuần hương, ba tuần rượu và một tuần trà, rồi mới đưa tráp đựng sắc phong để trên bàn thờ thần nơi chính điện. Lễ này, Đình Châu Phú (An Giang) tiến hành vào 7 giờ sáng ngày mùng 10 tháng Năm âm lịch. Vào lúc ấy, một đoàn xe được trang hoàng đẹp đẽ chạy đến Nhà lớn cũng ở gần đó, làm lễ thỉnh sắc thần Nguyễn Hữu Cảnh về đình. Lễ Nghinh Một số làng, sau lễ thỉnh sắc thần Thành hoàng còn tổ chức Lễ Nghinh, tức đưa kiệu đến các đền miếu trong làng, dâng hương, khấn cung thỉnh mời chư vị thần về đình dự lễ. Xong, đem lư hương của các vị thần này lên kiệu trở về, đặt trên bàn hương án bày ở ngoài đình, hoặc trên bàn Hội đồng ngoại ở bên trong đình. Ở Đình Châu Phú, sau khi rước sắc thần Nguyễn Hữu Cảnh về đình; tiếp theo là Lễ nghinh, tức lễ thỉnh sắc thần Thoại Ngọc Hầu tại phủ thờ của ông Nguyễn Khắc Mi (cháu nhiều đời của Thoại Ngọc Hầu), và sắc thần của hai ông là Chánh vệ thủy Đỗ Đăng Tàu và Phó vệ thủy Lê Văn Sanh. Tụng kinh cầu an Có một số đình có phần lễ này. Đây vốn là nghi thức của Phật giáo hội nhập vào đình miếu, mục đích cầu chư Phật, chư thần thánh ban cho dân làng sự an lành. Khởi đầu cử người thiết lập bàn thờ Phật Quan Âm, rồi tiến hành niệm hương tán Phật, tụng kinh Phổ môn; cuối cùng đọc sớ rồi đốt sớ gửi cho chư Phật và cho chư thần thánh. Ngày thứ hai & thứ ba Có các lễ tế: Lễ Túc yết Tức là lễ hương chức ra ra mắt thần. Theo cổ lệ mà sách Gia Định thành thông chí đã biên chép, thì lễ này được tiến hành vào buổi chiều cho đến hết đêm ngày thứ nhất. Nhưng giờ đây, tùy theo điều kiện của mỗi đình, mà giờ giấc có thay đổi đôi chút. Theo sách Sổ tay hành hương đất phương Nam thì, sắp đến giờ hành lễ, các thành viên của Ban tế tự mặc áo thụng xanh, khăn đóng, mang giày đứng sắp hàng hai bên võ ca cùng với ban nhạc lễ, các lễ sinh và đào thài (đào chuyên hát chúc tụng) trong tư thế sẵn sàng. Rồi một lễ sinh bắt đầu xướng các nghi thức và các hương chức được phân công tuần tự thực hiện những nghi thức như sau: Củ sát tế phẩm: kiểm lại đồ cúng. Tuần hương: dâng hương. Tuần rượu thứ nhất: dâng rượu lần nhất. Đọc văn tế chữ Hán: cầu nguyện thần Thành hoàng phù trợ sao cho mưa thuận gió hoà, quốc thái dân an,… Tuần rượu thứ hai: dâng rượu lần hai. Tuần rượu thứ ba: dâng rượu lần ba. Hiến quả phẩm: dâng trái cây. Hiến bỉnh: dâng bánh. Tuần trà: dâng trà Ẩm phước: giống như lễ “thụ tộ” miền Bắc, tức Ban tế tự được thừa hưởng lễ vật đã dâng cúng, xem như đây như là lộc của thần ban. Hóa văn tế: có nghĩa đốt văn tế. Có đình giữ đến xong lễ đoàn cả mới đốt. Ở Đình Châu Phú, lễ Túc yết diễn ra vào lúc một giờ đêm ngày 11 tháng Năm âm lịch (tức ngày thứ hai của đại lễ) Ban quản trị đình đã tề tựu đông đủ để bắt đầu cúng túc yết. Chịu trách nhiệm chính ở buổi lễ cúng là ông Chánh tế – cũng là trưởng ban quản trị đình. Lễ cúng gồm một mâm xôi, một trái cây, một mâm trầu cau, một đĩa muối, gạo. Ngoài ra còn có những lễ vật khác do nhân dân mang đến dâng cúng. Bắt đầu vào lễ, ông Chánh tế đến dâng hương trước bàn thờ, rồi lần lượt các thành viên trong Ban quản trị thay nhau vào lễ. Kế đến là phần “Khởi chinh cổ”, sau khi đánh ba hồi trống và ba hồi chiêng mõ. Ban nhạc lễ với các nhạc cụ dân tộc bắt đầu trỗi lên, lễ dâng hương, chuốc tửu, tiệm trà bắt đầu…Sau cùng, bản văn tế (văn chúc) được mang đến trước bàn thờ. Người được cử quỳ xuống “đọc văn”, trong khi ban nhạc lễ trỗi nhạc phụ họa. Dứt bài văn tế, ông Chánh tế đốt bản văn này và một ít giấy tiền vàng bạc, phần nghi thức lễ túc yết coi như đã xong Lễ Tỉnh sanh và lễ Đàn cả Theo Sơn Nam thì Lễ Đàn Cả là quan trọng nhất. Nhà văn viết:…trước đó có lệ Túc yết, tức là ban Tế lễ gom lại, trình diện, diễn tập, có thể so sánh với dịp cúng giỗ ông bà, trước ngày giỗ chánh thức là buổi cúng Tiên. Đình nào khiêm tốn thì bỏ lễ Túc yết cho bớt kinh phí…Vẫn chưa dứt khoát về tên gọi: Đàn hay Đoàn. Trên tấm thiệp mời ở ngôi đền sát chợ Biên Hòa, thấy ghi Đại Đàn. Đàn là nơi cử hành lễ (lập đàn, đàn Nam Giao) có lẽ đúng hơn. Về cơ bản, trong cả nước, nghi thức nhau nhưng “đại đồng tiểu dị”. Lễ Tỉnh sanh thường diễn ra lúc 0 giờ (tức giờ Tý), với vật tế là một con heo còn sống, toàn sắc, bị cột bốn chân, đặt trên một chiếc ghế ngựa ngay trước bàn thờ Hội đồng ngoại. Sau khi heo bị thọc tiết, viên chánh tế dùng chén sạch hứng máu cùng một nhúm lông của con vật này, đặt lên bàn hương án. Chén huyết có ít lông này gọi chung là “mao huyết”. Theo Sơn Nam, lễ này bắt nguồn từ lễ giết người để tế thần; sau dùng trâu, bò hoặc heo để thay thế. Tỉnh sanh (tỉnh là tịnh, gạn cho trong sạch; sanh mang ý nghĩa hy sinh. Con vật bị giết để tế gọi là hy sinh); nói nôm na, lễ tỉnh sanh là lễ đâm con heo để tế thần[2]. Có nơi, như ở Đình Châu Phú dâng cúng một con heo trắng (heo đã mổ xong, cạo sạch, chưa nấu chín), một chén đựng huyết có một ít lông heo (gọi chung là “mao huyết”), một mâm xôi, một trái cây, một mâm trầu cau, một đĩa muối, gạo. Các lễ vật được bày trên bàn, riêng con heo trắng được đặt sấp, thân phủ lên một giá gỗ cao. Ngoài ra còn có những lễ vật khác do nhân dân mang đến dâng cúng. Ngay sau lễ Tỉnh sanh là lễ Đàn cả[3]. Cổ lệ chọn giờ này (giờ Tý) bắt nguồn từ quan niệm dịch lý: đây là giờ “âm lão, dương khởi”, tức là mọi điều tốt lành bắt đầu nảy sinh. Việc hành lễ tương tự như lễ túc yết, duy chỉ khác câu ở phần ẩm phước: lễ túc yết xướng: Nghinh thần cúc cung bái, thì ở lễ này xướng câu: Tạ thần cung cung bái. Lễ Chánh tế Cũng theo sách Gia Định thành thông chí, thì lễ Chánh tế được tổ chức vào sáng hôm thứ hai của lễ Kỳ yên, với phần nghi thức giống như lễ Túc yết. Ở Đình Châu Phú, lễ này được cử hành lúc vào 3 giờ sáng ngày 12 tháng Năm âm lịch, tức sáng sớm ngày thứ ba của cuộc lễ. Lễ tế Tiền hiền, Hậu hiền Đây là lễ tế các vị tiền nhân đã có công lập làng, lập đình; và các anh hùng liệt sĩ địa phương. Có đình tiến hành lễ này ngay sau khi lễ đoàn cả xong, nhưng cũng có đình để sang ngày thứ ba. Điều đặc biệt trong lễ này là cử nhạc lễ theo điệu Nhịp Bụa, nhưng hoàn toàn mang hơi Ai; khác với lễ Túc yết và lễ đoàn cả đều hoàn toàn mang hơi xuân. Lễ Xây chầu Bài chính: Lễ Xây chầu Theo Sơn Nam, nét đặc trưng của đình miếu Nam Bộ xưa là mỗi lần có lễ Kỳ yên, thì phải có các lễ: Xây chầu, Đại bội và hát bội. Căn cứ vào lời chúc tụng, lễ Xây chầu có từ đời vua Gia Long. Thường thì lễ này được cử hành sau lễ tế Đàn cả. Về cách thức xây chầu, đại để chia làm ba loại: Xây chầu văn, Xây chầu võ, và Xây chầu bán văn bán võ. Lễ này bắt nguồn từ quan niệm dịch lý của đạo Nho: thuận đạo trời (âm dương), an đạo đất (nhu cương) và hòa đạo người (nhân nghĩa); ba đạo này có hòa hợp thì vạn vật mới hanh thông, tốt đẹp. Theo nhiều nhà nghiên cứu, thì lễ Xây chầu vốn bắt nguồn từ Lễ Đại Bội trong cung đình nhà Nguyễn. Đây là một cảnh diễn lớn, gồm nhiều tiết mục liên hoàn nhằm thể hiện sự sinh thành vũ trụ và phát triển của vạn hữu[4]. Bởi vậy, theo Sơn Nam, Muốn ổn định thời tiết, trật tự xã hội, theo quan niệm xưa, phải tuân theo sự vận hành của Trời Đất mà kim chỉ nam là Kinh Dịch với thuyết âm dương, Bát quái, Ngũ hành. Việc Xây chầu chính là để nhắc nhở nguyên tắc ấy. Trích diễn biến lễ xây chầu ở Đình Châu Phú: Sau khi lễ túc yết xong, là đến lễ xây chầu và hát bội được tổ chức tại gian võ ca phía trước chính điện. Những người tham dự cũng ăn mặc chỉnh tề xếp thành hai hàng nhưng từ cửa chính điện trở ra. Trên gian võ ca, tất cả diễn viên đoàn hát bội đã hóa trang, trống mõ sẵn sàng. Ông Chánh bái chủ trì lễ nhúng một cành dương vào tô nước cầm trên tay vẩy ra xung quanh và đọc lời cầu nguyện: Nhất sái thiên thanh. (Trời thêm thanh bình) Nhị sái địa linh (Đất thêm tươi tốt) Tam sái nhơn trường (Người được sống lâu) Tứ sái quỷ diệt hình (quỷ dữ bị tiêu diệt). Đọc xong, ông chánh bái đánh ba hồi trống và nói: “Ca công – tiếp hát”, lập tức trống mõ của đoàn hát bội rộ lên và chương trình hát bội được bắt đầu.[5] Đến khi ấy, trống chầu được đặt dưới sân khấu, và cử quan viên ra cầm chầu gọi là cầm chầu đại bội để khen chê nghệ sĩ. Hát chầu Bài chính: Hát chầu Hát tuồng trong lễ Kỳ yên tại đình Mỹ Phước (Long Xuyên) năm 2010 Thường thì mỗi năm hay cứ ba năm một lần (đáo lệ Kỳ yên), Ban tế tự đình thuê một gánh hát bội về trình diễn gọi là hát chầu, trước để cúng thần (chức năng chính), sau để giúp vui cho dân làng. Tuồng diễn (thường là 3, 4 tuồng) đều phải tuân thủ một cách nghiêm nhặt những quy phạm chính thống. Điều này thể hiện rõ trong hầu hết mọi nghi thức, nhất là phần lễ tôn vương. Nói chung, các vỡ diễn đều phải biểu hiện cho được ý nghĩa: “trung thắng nịnh, chính thắng tà” và kết thúc bằng một màn tôn chân chúa (tôn vương) hay tôn soái. Tuồng hát bội mà các đình thường chọn hát là San Hậu (tôn vương), Phàn Lê Huê (tôn nữ soái), Tiết Nhơn Quí (tôn soái)…Ở Đình Châu Phú các tuồng được chọn hát thường là: Trần Bình Trọng, Sát Thát, Trưng Nữ Vương, Lưu Kim Đính, San hậu… Lễ hồi chầu Được cử hành sau khi khi tôn vương hay tôn soái. Lễ này có ý nghĩa là trình với thần rằng các buổi hát đã kết thúc. Lễ hồi sắc hay nối sắc Tức đưa sắc thần về nơi cũ. Nghi thức lễ diễn ra tương tự như khi thỉnh. Sau lễ này, các lư hương của chư thần trong lễ Nghinh cũng hoàn về nơi thờ phụng họ.
Nhận xét
Ở lễ Kỳ yên, phần “lễ” chiếm phần quan trọng hơn phần “hội”. Các đối tượng cúng lễ là một tập hợp thần linh đông đảo không chỉ riêng có thần Thành hoàng Bổn cảnh. Lễ này là dịp để dân làng họp mặt, bàn chuyện, vui chơi. Những tục lệ này nhằm thắt chặt tình cộng đồng. Còn hát xướng trong ngày lễ Kỳ yên không phải là văn nghệ bình thường mà mang nội dung nghi lễ. Chương trình văn nghệ phải có nội dung đạo lý, kết thúc có hậu. Đặc biệt tiệc tùng trong ngày lễ Kỳ yên ở đình làng Nam Bộ chỉ mang tính liên hoan, chiêu đãi, hoàn toàn không có tục “chiếu trên, chiếu dưới”, nhậu nhẹt say sưa như những nơi khác.[6] Lễ Kỳ yên thu hút đông đảo nhân dân quanh vùng qui tụ về với lễ vật trên tay, người nào cũng trang phục chỉnh tề, quỳ lạy trước bàn thờ và cầu nguyện thần linh sao cho mưa thuận gió hoà, quốc thái dân an, mùa màng thuận lợi, sản xuất phát triển, nhân dân ấm no. Như thế, lễ Kỳ yên mang hai ý nghĩa: vừa tưởng nhớ một vị có công khai phá miền Nam Bộ, vừa cầu mong một cuộc sống no đủ. Cho nên, đây là một sinh hoạt văn hoá dân gian đáng được bảo tồn, duy trì và tạo điều kiện phát triển.
Thêm Một Bài Viết Lễ Kỳ Yên rất súc tích
DIỄN TIẾN CỦA LỄ KỲ YÊN
Tác giả: Sơn Nam
Ở đồng bằng sông Hồng, hồi đầu thế kỷ,sinh hoạt ở đình làng đa dạng. Đọc Phan Kế Bính, ta thấy nào Kỳ Yên, Kỳ Phúc (cầu an, cầu phước), Nhập Tịch. Ở Nam Bộ, nói chung không nghe đến Cầu Phước, tùy truyền thống để lại, do nguyên quán của dân địa phương hoặc của ban Tế tự mà bày ra cúng lớn, cúng nhỏ, thêm vấn đề « tiếp thị », nơi tập trung nhiều bạn hàng, tiểu thương…
Đình Bình Tân, trước chợ Bình Tây (Chợ Lớn) có thể tạm làm điển hình. Ngoài ra, còn đình Minh Hương Gia Thạnh (quận 5, đườnh Trần Hưng Đạo) thời trước đã tập trung nhiều thân hào am hiểu sinh hoạt cổ truyền, nay đang trên đà phục hồi.
Ban Quí Tế, hiểu là cúng tế dịp Tam Ngyên, Tứ Quí (ba ngày rằm và bốn mùa) lo chắm sóc phần trùng tu, tổ chức tế lễ. Xưa, ở đình, gọi Hương hội, Hương chức đình, với từng chức vụ trong hội, Ban tuy khác nhưng gần giống nhau, ở các đình. Xưa kia, đứng đầu là ông Hương Nhất, thành viên gồm Hương Nhì, Hưong Ba, Hương Tư, ĐạI Tổng Lý chấp sự, Chánh Hồi, Phó Hồi, Đông Hiến, Tây Hiến, Tổng Lý, Hiệp Lý, Hương trưởng.
Công việc của ban Tế lễ khá bề bộn, nhất là ở đình qui tụ đông đảo khách và bá tánh. Đây là những ngày lễ của đình Bình Tiên, thời trước (theo âm lịch) :
– Tháng Giêng : Tết Nguyên Đán, mùng 1, mùng hai, mùng ba. Ngày 13, vía Quan Thánh Đế Quân (Quan Công). Ngày rằm, 16, 17,lễ Kỳ Yên (cúng Thần). – Tháng Hai : mùng 2, vía Phưóc Đức Chánh Thần, một dạng, ông Bổn, Thần Tài. – Tháng Ba : Thanh Minh. Ngày 19, vía Hậu Thổ. – Tháng Năm: Mùng 5 và 6, vía Bà Linh Sơn Thánh Mẫu. Bà nầy , theo truyền thuyết, được phong cho thần núi Bà Đen (Tây Ninh). Mùng 10 và 11, tế Bổn Cảnh Thành Hoàng (thần sở tạI). Ngày 13, vía Quan Thánh Đế Quân. – Tháng Sáu: ngày 24, vía Quan Thánh Đế Quân. – Tháng Bảy: ngày 17 và 18, Vía Ngũ Hành Nưong Nương. – Tháng Chín: mùng 9, vía Quan Thánh Đế Quân. – Tháng MườI: Mùng 10, cúng Thần, cử hương chức đình nhiệm kỳ mới. – Tháng Chạp: 25, đưa Chư vị. Ngày 30, rước Chư vị.
Đại khái, tùy địa phương. Nhiều nơi, ở nông thôn, bày lễ Hạ Điền, Thượng Điền, hoặc Cầu Bông (cầu lúa trúng mùa, bông trái xum xuê). Nhiều đình nặng về cúng Quan Thánh,dấu ấn, có lẽ thời trước của “Hội kín” chống Pháp, suy tôn Quan Công là vị Thần linh ứng nhất. Có nơi bài thêm lễ vào mùng 7 tháng Giêng, dịp tiệm quán khai trương đầu năm. Hoặc mùng 9, mùng 10 tháng Giêng (mùng 9 vía Trời, mùng 10 vía Đất). Rằm tháng Giêng là rằm đầu năm, Thượng Nguyên, cúng lớn.
Đình Minh Hương Gia Thạnh (Chợ lớn), thời trước 1945 vì sung túc, gồm nhiều thân hào nhân sĩ nên dịp cử Ban Tế lễ cuối năm khá long trọng. Bàn cãi sôi nổi, biểu quyết, không ai đủ phiếu thì bầu lại trong vòng nhì, vòng ba. Mở đầu, buổi trưa ăn bánh Hỏi (ngụ ý hỏi han, xem chừng ai ứng cử). Nếu bầu chưa xong, bàn cãi tốn thì giờ, bày ra ăn bánh Xèo (xèo, nghĩa đen là xẹp, héo, xì hơi như trường hợp quả bóng mất hơi). Bầu xong, bày lệ ăn Suông (kiểu báng canh, con bánh co nhồI thịt, tôm). Suông, hiểu là suôn sẽ.
Phần việc nặng nề không kém là tiếp đón các hội của đình bạn, lắm khi từ xa đến. Đón nhận lễ phẩm, mời ban đạ diện hội đình bạn vào chánh điện để tế. Nói chuyện vui, mới ăn cỗ, rồi sau đó, khi đình bạn gặp dịp cúng tế, phải cử đại diện đến mà đáp lễ, thường là bằng hoặc là trội hơn món lễ của bạn, trường hợp đình chủ nhà khá giàu (nhang đèn, tiền mặt).
Trong số bá tánh, thường cử vài phụ nữ đứng tuổi phụ giúp về giao tế, hoặc làm trưởng ban lo thết đãi. Theo cỗ lệ, trừ trường hợp đình thờ nữ thần, trong ban Tế lễ chọn toàn là đàn ông. Nhưng từ nhiều năm, việc phân biệt ấy lần hồi trở nên linh động, họa chăng tỏ thái độ dè dặt, đề nghị những phụ nữ có uy tính, đứng tuổi vào ban Tế lễ, nhưng không cho trách nhiệm niệm hương hoặc làm Chánh tế, Bồi Tế. Đình Thần Hoàng, theo thông lệ, thờ thần đàn ông, khí Dương đem sức mạnh cho muôn loài, muôn vật.
Tuy theo đạo Khổng, ăn mặn, uống rượu nhưng dịp Kỳ Yên, để làm vui lòng bá tánhvá cũng để đoàn kết dân trong xóm, vã lại, những vị trong ban Tế lễ thường « kính Phật, trọng Tăng « nên cũng rước một nhà sư đến tụng kinh cầu an. Trước ngày lễ, bày bàn thờ Phật, thường vào buổi tối, trên bàn thờ chưng bày hoa, trái cây, nước trà thỉnh nhà sư tụng kinh. Vị Chánh tế hoặc Bồi tế phải quỳ xuống nghe kinh, ít nhất cũng vài đoạn. Lắm nơi, đủ phương tiện, thường là buổi chiều, bày cúng Thần Nông, với xôi, thịt, bánh qui trước miễu. Cúng luôn ông Hổ, nếu có thờ, thường là cái bệ gạch, không nóc. Đáng lưu ý : Thần thánh, chư vị ngày xưa không quen những thức ăn quá mới, bởi vậy, cúng với rượu đế. Trước khi tế, lấy vãi đỏ phủ cái mõ, cái chiêng, cái trống ; bên cạnh ba nhạc khí nầy, cắm ngọn nến, đốt cháy, phải chăng gợi sự quan trọng lửa thời xưa, âm thanh và ánh sáng rất cần thiết. Kiểm soát các người trực tiếp lãnh trách nhiệm xem khăn áo chỉnh tề chưa.
Ngoài việc trang trí thường lệ, ở làng, thậm chí ở thành phố, cần trình con heo « hy sinh » trên cái tợ nhỏ, tợ có dáng đặc biệt, như hai mái nhà chính giữa cao, hai bên hơi thấp, nhờ vậy tư thế con heo (đã thọc huyết trong lễ Tỉnh sanh) trông trang nghiêm hơn. Lắm khi,nếu giữ tục xưa thì khoét bên vai con heo một cục thịt nhỏ,tượng trưng thịt sông, đặt trên cái dĩa, cúng trên bàn thờ chính.
Đề phòng hôi hám, lắm khi đem con heo trụng sơ trong nước sôi có không luộc. Nhiều nơi còn giữ lề đặt miếng sườn heo sống (gói trong bao giấy hoặc ny lông) kế bên những món đã nấu chín, ở bàn thờ phụ.
Việc Tế lễ gồm nhiều tiết mục, tùy miếu hay đình làng, miếu thờ danh nhân không có mõ vì mõ thuộc về Thành Hoàng, chăm sóc trực tiếp việc làng thời xưa. « Mõ« , chữ Hán gọi là Thác, theo Đào Duy Anh, là miếng gỗ để đánh canh ban đêm. Đọc Phan Kế Bính, thấy chiêng và trống mà thôi, không thấy ghi cái mõ. Đình ở Nam Bộ, đánh mõ gọi là Kích thác. Phải chăng đây là bảo lưu một lệ hồi xưa, nghe tiếng mõ thì dân làng hiểu là họp dân hoặc báo động trôm cướp, chức năng ấy khi Pháp đến, giao cho hương chức hội tề, về hành chánh ; đình làng còn giữ vai trò tinh thần tượng trưng mà thôi.
Diễn biến của buổi cúng đình ở Nam Bộ được đơn giản hóa lần hồi, đại khái là vẫn ba tuần rượu, sau đó « Thụ tộ « hoặc « Ấm tộ « , hưởng tượng trưng lộc của thần, dùng chén rượu đã cúng mà uống, thay cho dân làng.
Buổi lễ lớn, quan trọng nhất là « Đàn Cả « , trước đó có lệ Túc Yết, tức là ban Tế lễ gom lại, trình diện, diẽn tập, có thể so sánh với dịp cúng giỗ ông bà, trước ngày giỗ chánh thức là buổi cúng Tiên thưòng. Đình nào khiêm tốn thì bỏ lễ Túc Yết cho bớt kinh phí.
Vẫn chưa dứt khoát về tên gọi : Đàn hay Đoàn. Trên tấm thiệp mời ở ngôi đền sát chọ Biên Hòa, thấy ghi Đại Đàn. Đàn là nơi cử hành lễ (lâp đàn, đàn Nam Giao) có lẽ đúng hơn.
« Việt Nam Phong Tục” của Phan Kế Bính tóm tát những chi tiết và lời xướng của lễ tế vùng đồng bằng sông Hồng. Trong quyển « Non Nước Khánh Hòa «, Nguyễn Đình Tư đã ghi nghi thức ở Nam Trung Bộ. Gần đây, cụ Đỗ Văn Rỡ đã ghi lại nghi thức (đã cải biến) ở Lăng Ông Bà Chiểu. Đây là ngôi miếu có cơ ngơi rộng, với kinh phí tế lễ tưong đối đầy đủ, giữ vài nét chính để gây không khí tôn nghiêm, trong hoàn cảnh Sài Gòn – Chợ Lớn đô thị hóa. Xin ghi lại để tham khảo. Về cơ bản, trong cả nưóc, nghi thức nhau nhưng « đại đồn tiểu dị « .
Những lời xướng sau đây do lễ sanh (học trò lễ) « xướng » lên, theo giọng riêng của hát bội (ta còn gọi đờn ca hát xướng).
- Bài ban ban tề, đứng vào vị trí của mình. – Tịnh túc thị lập, giữ im lặng. – Chánh tế tựu vị, Chánh Tế bước đến trưóc bàn nghi. – Bồi tế tựu vị, Bồi Tế (trợ lý) bước đến bàn nghi. – Củ sát tế phẩm, đích thân xem xét nhũng lễ phẩm trên từng bàn, cho biết đủ thiếu, sơ sót chi tiết nào chăng. – Ế mao huyết, đến hai cái tô đựn huyết tươi và lòng heo, nâng lên, đưa ra ngoài mà chôn. Nếu không làm tịt heo, trường hợp « tế chay « , không xướng mục này. Nhưng theo ý tôi, khó chấp nhận việc giải thích như thế. Món « hy sinh « không có, thì lấy gì thay thế cho « tam sinh « . Tế thần, dùng rượu, không gì thay thế được. Phải chăng rượu là món mặn ? Có thể giải thích vì lý do vệ sinh nên không chưng bài con heo đã cạo lông trước mặt quan khách, có thể gây ấn tượng « hôi hám ». – Thiểu thối , hoặc lễ nhượng, hai vị chánh và bồi tế xá, lui ra ngoài. – Chấp sự viên tựu vị, mấy vị chấp sự xếp hàng đi đế chánh điện. Chấp sự là người thi hành những công tác qui định, thí dụ như đánh trống, đánh chiêng. PhảI là người trong ban Tế lễ, khăn đen áo dài. – Nghệ quán tẩ sở, lễ sinh cầm ngọn đèn đi trước, hướng dẫn các vị trong ban đén cái giá, sẵn thau nước và cái khăn. Giữ mặt mày, tay chân sạch sẽ trở thành nguyên tắc. – Quán tẩy, thò tay vào thau nước, rửa mặt tượng trưng. – Thuế cân, lấy khăn mà lau mặt tuợng trưng. – Chỉnh y quan, sửa lại khăn áo cho chỉnh tề, tượng trưng. – Phục vị, trở lại vị trí cũ,trong chánh điện. – Chấp sự viên chấp kích, lễ sinh đưa cái mâm trong đó đặt sẵn cái dùi trống, dùi đánh chiêng, mõ. Chấp sự viên lãnh cái dùi, xá kính cẫn. – Chấp sự viên giả các tư kỳ sự, chấp sự viên đến vị trí, gần cái chiêng, cái trống hoặc cái mõ. – Khởi cổ lịnh, đánh ba hồi trống lịnh, hiểu đây là cái trống nhỏ, cầm tay, có cán. Thời xưa, vua hoặc quan đại thần đi ngoài đưòng,có tên quân hầu cầm loại trống nầy, chạy phía trước , mở đường. Tiếng trống nầy giúp ta tưởng tuợngvị thần đang ở trên đưòng vào đình miếu, đã tới ngoài cổng rồi. – Khai Thái bình thanh (thinh), đánh mõ ba hồi. Tôi hiển « Thái bình thinh « là những hồi mõ thongthả, bình thuờng, báo hiệu những ngày thái bình trong địa phhưong, khác với nhịp điệu của tiếng mõ báo động thời chiến. – Khởi minh chính, đánh ba hồi chiêng. – Khởi đại cổ, đánh ba hồi trống. – Chinh cổ tề thinh, chiêng và trống đánh ba tiếng, hết chiêng rồi trống. – Nhạc sanh tựu vị, đem hai cái trống lễ, loại trống đẹp, đặt trên cái giá ba chân, có thắp nến trên cái giá, trước cái trống. Hai trống nầy đặt bên tả, bên hữu ban nghi. – Nhạc sanh tác nhạc, đánh trống lễ, hai trống ăn rặp với nhau, trong khi những nhạc công ở bên vách thổi kèn, đánh đàn dây, bản Nghinh Thiên Tiếp Giá, dành tiếp rước nhà vua, tưởng tượng như vị thần đang ngự trên bàn thờ, thay mặt cho nhà vua để nhận lời thỉnh cầu của dân làng. Bản nầy khá dài, dứt một hồi, có tiếng trống cơm vỗ đơn chiếc, nghe độc đáo, rồi kèn, đàn, chập chõa lại hòa tấu. – Niệm hương viên tựu vị, người niệm thya mặt cho ban Tế lễđến trước bàn thờ, đ&ung ra, phải làm lễ quán tẩy, rữa mặt, chùi mặt tượng trưng, chỉnh đốn lại khăn áocho ngay ngắn, – Phục vị, người niệm hương quì xuống. – Phần hương, lễ sinh đốt ba cây nhang cung kính đưa lên trán, xưóng lên : tạ Thiên, tạ Địa, cầu chúc những vị lãnh đạo dân tộc mạnh khỏe, tạ Thánh Thần, nguyện gìn giữ nhang khói trong đình miếu, lễ tế mãi phát huy trang trọng.Thời xưa, ngươì lãnh đạo dân tộc là nhà vua. – Thượng hương, trao ba cây nhang cho lễ sinh cắm lên bàn thờ. – Phủ phục hương bình thân, bỏ tư thế quì, đứng thẳng người. – Cúc cung bái, xá rồi , quì lại. – Hưng, rồi bái ba lần. – Hưng bình thân, đứng thẳng người. – Lễ nhượng, lui ra ngoài, rới chiếc chiếu giữa điện. – Chánh tề tựu vị, viên chánh tề vào chiếu, đứng thẳng người xá. – Bồi tế tựu vị, viên bồi tế bước vào chiếu. – Đông hiến tựu vị, viên chấp sự phụ trách bàn thờ phía Đông bưóc vào chiếu, trình diện. – Tây hiến tựu vị, viên chấp sự phụ trách bán phía Tây đến trình diện , cả hai trở lại chỗ củ. – Đông tây các tư kỳ phận, hai viên chấp sự đến bán thờ phía Đông và phía Tây. – Nghệ hương án tiền, học trò lễ bưng đài đựng lư hương nhỏ đến chiếu giữa. – Giai quỳ, chánh tế, Bối tế và hai vị Đông, Tây hiến quì xuống. – Phần hương, hai tay nâng nén hương lên, bỏ vào cái lư nhỏ. Hiểu đây là dót trầm hương, trong lư nhỏ sẵn than đỏ rực, không trầm hương thứ thiệt thì dùng trâm hương vụn, gói lại với giấy, từng thỏi nhỏ. Hương cháy lên, rồi nâng ngang trán. – Thượng hương, Lễ sinh nhận cái lò hương, lui trở lại vị trí phía sau, rồi tiến vào chánh điện. – Phủ phục hưng bình thân, chánh, bồi tếĐông hiến, Tây hiến đứng dậy, rồi hưng bái, lại bốn lần. – Hành sơ hiến lễ, dâng tuần rượu thứ nhất. học trò lễ đem đến một khay rượu, với cái nhạo và chén trong khi xướng Nghệ tửu tôn sở. – Chước tửu, châm rượu vào chén, nửa chén. – Tấn tước, nâng chén rượu lên ngang trán. – Hiến tước, học trò lễ lui về phía sau rồi theo nhịp trống, tiến lên bàn thờ. « Tước » là kiểu chén đựng rưọu bằng đồng, thời cổ, thời đại đồ đồng, tước có ba chân ngắn và hai cánh ngạnh ; vị thần (hoặc quan to) cầm tước với ba cái chân, đứ lên miệng, ngữa mặt mà uống,nhờ hai cái ngạnh chỏi vào má mà rượu không đổ… Kế đến phần đọc văn chúc, hiểu là văn tế, ca ngợi công đức, cầu xin ơn của vị thần. Trước đây, có ngưởi chuyên đọc chúc văn, với lời lẽ ê a, rất khó nghe, như là kiểu đọc kinh. Nay thì caỉ cách, đọc dễ nghe hơn.
- Nghi lễ cứ diễn tiến, đến tuần rượu thứ nhì, gọi « Á hiến « , rót rượu nâng chén ngang trán, rồi « Hiến tưóc « . Đến tuần rượu thứ ba, gọi « Chung hiến lễ « . Có thể bài ra việc dâng bánh, dâng trái cây, dâng trà.
- Để chấm dứt, còn một lễ quan trọng là « Ẩm phước « , uống phần rượu trên bàn thờ, cúng nãy giờ, đem xuống cho Chánh tế, Bồi tế uống tượng trưng, rồi « Thụ tộ « ăn phần thịt đã cúng, tượng trưng, thường là ăn trái cây (nho, nhãn), ăn và uống thay mặt cho dân làng, như là lộc của thần thánh. Xong rồi, đốt văn tế, tuyên bố « Lễ Thành », tức là bế mạc. Học trò lễ xếp hàng, lạy thần, bá tánh lạy sau. Nói chung, khi đa số dân làng sống với nông nghiệp, sau vụ mùa hoặc chờ vụ mùa, chờ trời mưa, ai nấy rảnh rỗi, cúng ba tuần rượu (sơ hiến, á hiến , chung hiến) kéo dài hơn tiếng đồng hồ, với những động tác trang nghiêm,chậm rãi đưa rượu đến Chánh tế, rót rồi, lui ra phía đằng xa, để chậm rãi tiến lên bàn thờ, cứ lặp đi lặp lại dễ nhàm chán đối với người tham dự đang bận rộn sinh kế, thời nay. Nhưng không thể nào rút ngắng được, phải đúng ba tuần rượu ! Và mỗi tiết mục dâng rượu, trà, phải lạy bốn lạy, không bớt được, quá nhiều lần quì lại. Nếu rảnh rang, khi lớn tuổi, người tham dự có tể thư giãn tinh thần, trong bầu không khí đầy ánh sáng lung linh của nến, giọng thoi thúc liên tục của nhạc lễ, thêm màu sắc và bước đi cách điệu của học trò lễ.
- Ở đồng bằng sông Hồng, lễ sinh mặc khăn đen áo dài, đi chậm rãi, nhưng ở phía Nam, lễ sinh tiến tới, thối lui như vũ điệu, lắm khi lễ sinh cắm cờ sau lưng (điệu võ, khác với văn). Học trò lễ lần hồi cải cách dáng đi, đại khái mỗi hàng gồm hai người, người đi trước nâng ngọn đèn sáp, người thứ nhì nâng khay rượu, chân đá, nhún nhảy theo những bài bản xuất hiện từ sau năm 1930, thí dụ như chân đặt theo chữ Đinh (chữ Hán), rồi mở ra chữ Bát, kết thúc, đá chân lên, như chữ Tam. Lễ sinh mặc áo, đội mão như người thi đậu tú tài ngày xưa, chân mang giày ủng như võ tướng, trong khi nhạc trỗi, nhịp trống hướng dẫn bước đi cho rập ràng. Phải chăng điệu đi đứng của học trò lễ ở đình làng mô phỏng phần nào dáng đi của vũ sinh, trước kia, múa dành cho ông hoàng, bà chúa thưởng thức riêng ở cung điện, rồi du nhập vào phía đồng bằng sông Cửu Long và Đồng Nai, trở thành món ăn « bình dân« cho dân gian, khi khẩn hoang. Những người cố cựu, bảo lưu truyền thống xưa, bảo đó là sáng kiến của Tả Quân Lê Văn Duyệt, khi ngài làm Tổng Trấn cai quản toàn Nam Bộ. Như ta biết, Lê Văn Duyệt và vua Minh Mạng không thích nhau, vì mối thù riêng : Là công thần, họ Lê đứng về phía hoàng tử Cảnh (đã chết), chọn con hoàng tử Cảnh lên ngôi, khi Gia Long mất, không đồng ý chọn Minh Mạng. Minh Mạng trù dập bằng cách đưa họ Lê vào Nam, không cho ở Huế, e gây bất trắc về quân sự và chánh trị. Vào Nam, họ Lê mở mang đất đai, tổ chức cho dân khẩn hoang. Lại ban hành chính sách ngoại thương rộng rãi, như lấn quyến thách thức Minh Mạng. Ở Huế, có múa hát riêng cho vua chúa và hoàng tộc thưởng thức như là đặc quyền, đặc lợi ; vào Nam Bộ, Lê Văn Duyệt với quyền hạn lớn như vị Phó vương cũng trự xem mình đặc quyền đạc lợi không kém, và bình dân hóanhững thứ giải trí của giới quý tộc. Tham khảo « Nhưng đại lễ và vũ khúc của vua chúa Việt Nam » do Đỗ Băng Toàn và Đỗ Trọng Huề biên soạn, thấy có múa Lục Cúng, ghi lại kiểu đi theo hình các chữ Hán. – Dâng bình hương, chân đi theo kiểu chữ Nhật. – Dâng bình hoa, đi theo kiểu cái hoa nồi, một cánh (không rõ chi tiết hoa một cánh nầy – S.N) – Dâng đèn, chân đi theo hình chữ Á. – Dâng trà, theo hình chữ Thủy. – Dâng quả, theo hình chữ Vạn. – Dâng thực (thực phẩm) theo kiểu chữ Điền.
Về các bản nhạc dùng trong dịp tế lễ ở đình, có sự cải cách cho hợp với tình huống, trang nghiêm ra trang nghiêm, vui tươi ra vui tươi, dùng nhạc tài tử, nhạc hát bội và làn điệu hát dân gian. Dịp cúng tổ ngành nghề (thợ Bạc, hát Bội), thậm chí cúng cá Ông (cá Voi), vẫn tuân thủ nguyên tắc ba tuần rượu, không ai dám làm khác hơn, họa chăng thêm thắc chi tiết nhưng gọi với từ ngữ khác. Lễ Tất hoặc lễ Thành, lắm khi nói trại hoặc nói sai. Lại bài ra cúng những hội viên trong ban Tế quá cố, học trò lễ đi thật chậm, nhạc cử điệu Ai.
Ở Nam Bộ, lễ hội lớn vẫn là Kỳ Yên, những lễ khác diễn ra ở đình thường nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu của đồng bào địc phương, như mùng Bảy tháng Giêng, hoặc đêm Giao Thừa. Ở đồng bằng sông Hồng, theo Phan Kế Bính ghi lại có : – Tế Kỳ Phúc, với nghi thức và nội dung giống hệt như Kỳ Yên ở Nam Bộ, làm lễ cáo yết(Túc Yết ở Nam Bộ), rồi Tỉnh sanh để giết con « hy sinh ». Tế chủ, Bồi Tế tựu vị đọc chúc văn, Thụ Tộ, nhạc sinh tựu vị, sơ hiến, tiến tưóc, đọc chúc, Lễ Tất, cũng như quán tẩy, thuế cân, vân vân. Đáng lưu ý vì mang tính thống nhất đến tận mũi Cà Mau.
– Trà Nhập tịch, các bô lão lau thần vị,rước thần vị về đình, cử hành đại tế rồi xướng ca, có ả đào, kép hát chúc mừng, reo vang tỏ ý khoái trá, với đám đông phụ họa, reo ba lần, hát chèo mãi đến hôm xuất tịch, gọi « rã đám » (giải tán). Nội dung lễ « Nhập Tịch » được nêu rõ : « Lễ nầy cũng đồng nghĩa với cách ăn Tết đầu năm, nghĩa là dân mình khó nhọc, vất vã quanh năm thì phải có một dịp ăn uống vui chơi. Vậy nhân cái tục sùng thượng quỉ thần, bày ra trò nầy trò nọ, nhưng rút lại chỉ để cầu vui mà thôi… Xét ở luật lệ bản quốc (có lẽ luật Gia Long – S.N.), trong làng hát xướng thờ thần chỉ được phép làm một ngày một đêm, nếu là quá thì lấy luật vi chế mà luận tội. « Đã có luật cấm như thế, sao mà không thấy mấy nơi tuân hành đưọc ».
– Đại hội. Nếu Nhập tịch mỗi năm mở một lần thì Đại Hội cứ năm muời năm,hoặc năm bảy mươi nămmới mở một lần. Nếu đúng như lời Phan Kế Bính, có lẽ những người 50 tuổi lắm khi suốt đời không được thấy lễ Đại Hội ! Lễ nầy chỉ cử hành khi dân trong làng liên tục trúng mùa, hoặc được phong sắc thần (như vậy là có nhiều đình không có sắc thần) hoặc là tu sửa đình miếu (đại tu). Cũng là một kiểu nhập tịch nhưng qui mô lớn hơn, vui chơi suốt tháng mới dứt, «Tháng Giêng là tháng ăn chơi«.
Đình miếu sửa sang cho đẹp, mỗi người giàu hay nghèo sắm bộ quần áo mới, đường cái trong làng treo đèn.
Trướ nửa tháng, người đồng văn mỗi đêm dạy cho đàn em kỷ thuật đánh trống, điệu trống rước, đổ hồi, trống tế ; tập tành khiêng kiệu , đánh thanh la. Đến lễ rước nước, tìm giếng nước tốt, hoặc ra giữa sông, múc thức nước tinh khiết nhất để lau chùi tấm thần vị, dùng nấu nước pha trà khi cúng.
Lễ Gia quan cử hành, nhằm bắt buộc nhưng người khiêng kiệu và lãnh trách nhiệm khiêng trống, chiêng (gọi đô tùy) phải giữ thân thể sạch sẻ, ăn chay từ mấy ngày trước, họ vào phòng mặc quần áo riêng, với màu sắc rực rỡ, đặc biệt là mang một thứ khẩu trang, đề phòng mùi ô uế tứ miệng có thể làm ô uế cái thần vị.
Lễ Phụng nghinh hồi đình cử hành vào hừng sáng, nưng chuẩn bị trước khá lâu, tiếng trống thúc giục liên hồi để ai nấy đủ thời giờ sẳn sàngkhiêng kiêẹu từ miếu ra cổng. Kiệu dừng ở cổng tam quan để chờ các xã kết nghĩa đến, sắp hàng rồi cùng đi, đường kha xa từ miếu đến đình, cần thay đổi ngươì khiêng kiệu. Bọn đô túy mang nhiều thứ cờ đủ máu sắc tiêu biểu cho tứ ling (long, lân, qui, phụng) , cho bốn phưong Đông, Tây, Nam, Bắc, thêm trống chiêngtượng con ngựa bằng gỗ, lắm khi có voi trận (đan bằng mây)với lọng tán, gươm giáo. Các nữ nhạc côngvỗ tróng cơm. ỗi kiệu có tám người khiêng và tám người trù bị để tiếp sức. Đây là trường hợp một làng có một đình nhưng có bảy, tám đền miếu thờ thần thánh khác nhau. Ta thấy đô tùy mà trong Nam gọi trại ra « đạo tỳ « là người khiêng vác, không riêng gì cho đám tang, nhưng cũng cho lễ hội. Khiêng kiệu đòi hỏi kỹ thuật riêng, khi lên dốc, qua đồi cần được giữ thăng bắng.
Mục hát xướng đưọc trình diễn linh động, kèm theo ăn uống, mâm cỗ đưa đến, do những người nhá giả, nào cỗ chay, cỗ mặn.
Bách hí là nhưng trò giải trí như hát Bội với người cầm chầu đánh trống khen chê cách diễn xuất. Phải chăng hát Bội nầy là dạng mà trong Nam gọi « tuồng đồ « , lờì lẽ bình dân, pha trò để gây cười cho khán giả. Loại hát tuồng nhằm diễn lại những sự tích trong truyện Tàu như Tam Quốc…
Trò quỷ thuật (nay gọi ảo tuật) đã có từ xưa, như thả câu vào chậu nước không có gì, nhưng khi giật lên thì được con cá tươi, hoặc căng dây ngoài trời, có đi trên dây hát múa, ném và chụp những quả cầu nhỏ mà không để rớt. Dưới ao to, mọI người xúm nhau xem mua rối nước.
Tiết mục bắt bài (trong Nam gọi bắt bài Phiên) với nhiều cô gái cầm đèn, đội mão cài trâm, phấn son xinh đẹp, tới lui nhịp nhàng, múa hát theo bản »bắt bài« . Múa bông, theo Phan Kế Bính, « trò ấy ở Nam Kỳ thường có« . Ta hiểu đây là nhưng « bà bóng múa rối « , họ bái tró xiếc, trên đầu chiếc đũa, đặt cái dĩa, cử động nhẹ khiếng cái dĩa quay tròn, không rớt, hoặc cắn vào mồm một cái chân bàn nhỏ, ba chân kia nằm nghiêng, hàm răng cắn quá chặt khiếng cái bàn khôngrơi, hoặc cắn khúc cây ngắn, ở đầu khúc cây đạt cái ve chai dựng đứng. Ở trong Nam, những bà bóng nổi danh thường là « ái nam ái nữ « , lúc trình diễn, họ múa tay để giữ thăng bằng cho cái dĩa hoặc cái ve chai vừa nói ; thiếu âm nhạc đàn, sáo, hoặc thiếu tiếng vỗ tay để đánh nhịp của đồng bọn thì không trình diễn có kết quả được. Tổ tôm điếm, bái phu điếm là trò cờ bạc may rủi, trong rạp, ở mỗi gốc cất một cái chòi khá cao (gọi điếm, như điếm canh). Một hiểu Bài chòi ? Lại còn đánh cờ người, bên nam, bên nũ, ai muốn đánh thì đăng ký trước, đánh trên bàn cờ nhỏ, nhưng phất cờ, để những quân cờ (nam hay nữ) di chuyển. Trò đô vật, với kiện tướng đống khố. Lại đốt pháo bông (đốt cây bông), pháo bắng ra nhiều màu sắc, hình ảnh, hoặc chữ Hán ca ngợi sự thái bình, thạnh trị.
Bơi chải, gọi nôm na là đua thuyền, mỗi thuyền ngắn, nhỏ gồm chín mười người bơi, thi nhau đến mức trưóc. Lại còn trò chọi trâu (ở vùng Hải Dương), chọi chim họa mi, thi thả diều, leo côt thoa mỡ (phải chăng tục leo cột để giật phần thưỏng treo ở chót ngọn cờ do Tây phương du nhập ?). « Nấu cơm thi « đòi hỏi khả năng ứng phó trước khó khăn bất ngờ, như thiếu củi, chỉ có cây mía, phải ăn mía cho nhanh, lấy xác mía ẩm ướt ấy mà chụm bếp. Rồi đến buổi rã đám, tức là giải tán, bế mạc, sau non một tháng vui chơi.
Thật tốn kém thời giờ, tốn sức khỏe, tiền bạc, lãng phí quá đáng, thí dụ như chọi gà ăn tiền. Phan Kế Bính cực lực lên án kiểu hội hè nói trên. « Tiên chi lực ư dân nhi hậu thần giáng chi phúc « . Con người nên gắng sức làm việc, rồi sau đó, họa may thần ban phước cho.
Đọc Phan Kế Bính, ta còn thấy lễ Kỳ An (Kỳ Yên) ở đồng bằng sông Hồng lắm khi mang nội dung tôn giáo, đúng ra là đạo Lão suy thoái , với ít nhiều phù phép, nhằm đuổi ma đuổi quỉ. Khác với nội dung Kỳ Yên ở Nam Bộ. Hồi đầu thế kỷ nầy, Theo Phan Kế Bính, buổi lễ dùng toàn đồ hàng mã, mời nhà sư (hiểu là thầy cúng) và các pháp sư đến, lập hai đàn, dành cho môn phái nhà Phật và các pháp sư. Pháp sư múa gươm, mặt mày hoá trang cho ra vẻ hung hăng. Phía đạo Phật, nhờ thầy cúng đến bái lễ « Lục cúng », cúng sáu món như hương, đăng, hoa, trà, quả thực. Phap sư giăng dây, treo quần áo giấy, rồi cắt đứt sợi dây, tượng trưng cho việc cắt đứt sợi dây oan nghiệt hòng giải cứu chúng sanh. Lại lập đàn Mông Sơn, bên dưới bày cơm, cháo, mìa, khoai, kẹo, bánh, rồi thì dân trong xóm, trẻ con, người ăn mày tha hồ giành giật, chia phần. Lại bài lễ tống ôn do pháp sư bắt ấn, tay cầm nhang, tiễn đua ơn dịch ra khỏi làng.
Ở Nam Bộ, lễ nầy hồi xưa cử hành đơn giản, lắm nơi kết bè chuối, để trên bè con gà luộc, cái đầu heo, trên bè cắm cờ ; cúng xong thả bè cho trôi, chẳng ai muốn vớt. Theo lệ, chỉ có trẻ con chăn trâu, gốc là con, cháu vua Thần Nông mới được quyền vớt mà ăn. Các nhà dân tộc học phương Tây đã phân tích : Món dân cúng có hai yêu cầu khác nhau :
– Ở đình làng, với con heo, con bò làm vật « hy sinh », món cúng tưọng trưng cho phần thưởng quí giá ; Thần thánh đã hưỏng rồi, ta xin được cùng hưởng với Thần thánh để được phước, do ân trên ban cho.Những món cúng trở thành sạch sẽ, thiêng liêng, vô giá, « một miếng thịt làng bằng môt sàng thịt chợ « .
– Dịp tống ôn, tống quái là lo lót cho những hung thần ác độc, xấu xa, món cúng đã bị ô uế sau khi thần ôn dịch hưởng, nó trở thành ô uế, xui xẻo, không đem phước đúc, trái lại còn gây tai họa, phải vất bỏ.
Với sự phát triển vế phòng bịnh, tiêm chủng, những bịnh không cứu chửa được như dịch tả, đậu mùa lần hồi khó hoành hành, nếu không là trừ tuyệt Vói nước sạch, vệ sinh cá nhân. Lần hồi, việc tống ôn không còn chỗ đứng trong tâm tư của những người bình thường, thậm chí những người bảo thủ, hoài cổ
Sơn Nam
Nghi Thức Tụng Kinh Kỳ Siêu Hằng Tuần
NIỆM HƯƠNG LỄ BÁI
TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN Án lam toá ha (3 lần)
TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN Án sa phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ thuật độ hám (3 lần)
CÚNG HƯƠNG TÁN PHẬT Nguyện đem lòng thành kính, Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo Thề trọn đời giữ đạo Theo tự tánh làm lành Cùng pháp giới chúng sinh Cầu Phật từ gia hộ Tâm Bồ Đề kiên cố Xa bể khổ nguồn mê Sớm quay về bờ giác.
(Xá rồi đọc tiếp bài kệ tán Phật)
Đấng Pháp vương vô thượng, Ba cõi chẳng ai bằng. Thầy dạy khắp trời, người, Cha lành chung bốn loài. Quy y tròn một niệm: Dứt sạch nghiệp ba kỳ. Xưng dương cùng tán thán, Ức kiếp không cùng tận.
KỲ NGUYỆN Chùa Giác Lâm, hôm nay là ngày… tháng… năm… đệ tử cập chư Phật tử, Thiện nam, Tín nữ thành tâm niệm hương dị khẩu đồng âm phúng tụng DI ĐÀ pháp bảo chi tôn kinh cập niệm Phật công đức. Nguyện Thập phương Thường Trụ Tam Bảo Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Chư Đại Bồ Tát, Chư Hiền Thánh Tăng Từ bi Tiếp độ cho chư Hương Linh: đọc tên… pháp danh… năm sanh (nếu có) hưởng thọ… quá vãng ngày… tháng… năm. Hôm nay là thất… được tịnh chư nghiệp chướng tốc xả mê đồ siêu sanh Tịnh Độ. Nam mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo tác đại chứng minh (3 lần)
QUÁN TƯỞNG (Đứng dậy cắm hương lên lư rồi vị chủ lễ chắp tay đứng thẳng và niệm)
Phật, chúng sanh, tánh thường rỗng lặng. Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn. Lưới đế châu, ví đạo tràng, Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời. Trước bảo tọa thân con ảnh hiện, Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.
LỄ TAM BẢO
(Vị chủ lễ xá ba xá rồi niệm lớn) Nam mô Tận hư không biến pháp giới, quá, hiện, vị lai chư Phật, tôn Pháp, Hiền thánh tăng thường trụ Tam bảo. (đồng lạy một lạy). Nam mô Ta bà giáo chủ đại từ đại bi Bổn sư Thích ca Mâu ni Phật, Đương lai hạ sanh Di lặc tôn Phật, Linh sơn hội thượng Phật Bồ Tát. (đồng lạy một lạy). Nam mô Tây phương cực lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật , Đại bi Quán Thế Âm Bồ tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (đồng lạy một lạy).
TỤNG KINH
(Toàn thể đều tụng)
Nam-mô Ðại-Bi Hội-Thượng Phật Bồ-Tát. (3 lần) Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại-bi tâm đà-la-ni. Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam-mô a rị da, bà lô yết đế, thước bát ra da, Bồ-đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da, án, tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tỏa. Nam-mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam-mô na ra cẩn trì hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ-đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na a ra sâm Phật ra xá-lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ-đề dạ bồ-đề dạ, bồ-đà dạ, bồ-đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha. Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam-mô a rị da, bà lô yết đế, thước bàng ra dạ, ta bà ha. Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha.
KỆ KHAI KINH Pháp Phật cao sâu rất nhiệm mầu, Nghìn muôn ức kiếp dễ hay đâu. Con nay nghe, thấy xin vâng giữ, Chân nghĩa Như Lai hiểu thật sâu.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)
PHẬT NÓI KINH A DI ĐÀ
Chính tôi được nghe: một thời kia đức Phật ở nơi vườn của ông Cấp-Cô-Độc, dưới rặng cây của ông Kỳ Đà thuộc nước Xá Vệ, cùng với một nghìn hai trăm năm mươi vị Đại Tỷ Khưu Tăng, mà các vị đều là bậc Đại A La Hán, là bậc trí thức trong chúng, như: Trưởng lão Xá lỵ Phất, Ma ha Mục Kiền Liên, Ma ha Ca Diếp, Ma ha Ca Chiên Diên, Ma ha Câu hy la, Ly bà Đa, Chu lỵ Bàn đà Già, Nan Đà, A Nan Đà, La hầu La, Kiều phạm ba Đề, Tân đầu lư phả la Đọa, Ca lưu đà Di, Ma ha Kiếp tân Na, Bạc câu La, A nâu lâu Đà… như thế là các vị đại đệ tử. Lại gồm có các vị Đại Bồ tát như: Văn thù Sư lỵ, Pháp vương Tử, A dật đa Bồ Tát, Kiền đà ha đề Bồ Tát, Thương tinh tiến Bồ Tát… Ngài cùng với các vị Đại Bồ Tát như thế. Và, vô lượng đại chúng chư thiên như: Thích đề hoàn nhân… cùng ở trong pháp hội. (1 tiếng chuông) Bấy giờ, đức Phật bảo Trưởng lão Xá lỵ Phất rằng: Từ cõi Sa bà này hướng về phương Tây, qua mười vạn ức cõi Phật, có một thế giới gọi là Cực lạc, mà cõi ấy có đức Phật hiệu là A Di Đà, hiện nay ngài đang thuyết pháp tại đó. (1 tiếng chuông) Này ông Xá lỵ Phất! Cớ sao cõi kia lại gọi là Cực lạc? Vì chúng sinh trong nước ấy không có những sự đau khổ, chỉ hưởng thụ những sự vui sướng mà thôi, nên gọi là Cực lạc. (1 tiếng chuông) Lại nữa, ông Xá lỵ Phất! Cõi nước Cực lạc có bảy trùng câu lơn, bảy trùng lưới chăng bảy trùng hàng cây những trùng đó đều bằng bốn thứ ngọc báu, vây bọc chung quanh. Thế nên nước kia gọi là Cực lạc. (1 tiếng chuông) Lại nữa, ông Xá lỵ Phất! Cõi nước Cực lạc có ao bằng bảy thứ ngọc báu, nước tám công đức tràn đầy trong ao ấy. Đáy ao, thuần lấy cát vàng giải khắp mặt đất. Đường và bực bốn bên ao đều hợp thành bởi vàng, bạc, lưu ly và pha lê. Trên ao có những lâu các cũng đều nghiêm sức bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, Xà cừ, Xích châu, mã não. Trong ao có những hoa sen lớn như bánh xe. Hoa sen xanh tỏa ra ánh sáng xanh, hoa sen đỏ tỏa ra ánh sáng đỏ, hoa sen trắng tỏa ra ánh sáng trắng, các hoa sen ấy đều có những hương vị thanh khiết vi diệu. Này ông Xá lợi Phất! Cõi nước Cực lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế. (1 tiếng chuông) Lại nữa, ông Xá lỵ Phất! Cõi nước của Đức Phật A Di Đà kia, thường trổi những âm nhạc cõi trời; đất bằng vàng ròng và ngày đêm sáu thời thường mưa xuống những hoa Mạn đà La cõi trời. Chúng sinh trong cõi này cứ sáng sớm ra họ thường đem những lẵng đựng hoa quý, cúng dàng mười vạn ức Phật ở các phương khác mà chỉ trong giây lát họ đã về ngay tới nước của họ, kịp bữa ăn sáng. Ăn xong họ đi kinh hành. Ông Xá lỵ Phất! Cõi nước Cực lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế. (1 tiếng chuông) Lại nữa, Ông Xá lỵ Phất! Nước kia thường có các giống chim có màu sắc sặc sỡ đẹp lạ, như: chim bạch hạc, chim khổng tước, chim anh vũ, chim Xá lỵ, chim ca lăng tần già, chim cộng mệnh. Các loài chim ấy, ngày đêm sáu thời hót ra những tiếng hòa nhã. Trong những tiếng ấy diễn tỏ những diệu pháp như năm căn, năm lực, bảy Bồ đề phận, tám Thánh đạo phận… Những diệu Pháp như thế, chúng sinh trong cõi này, nghe được pháp âm ấy rồi, hết thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Ông Xá lỵ Phất! Ông chớ nên bảo rằng các giống chim này thực do tội báo mà sinh ra. Sở dĩ thế là sao? Là vì cõi nước của đức Phật A Di Đà kia không có ba đường ác. Ông Xá lỵ Phất! Cõi nước đức Phật A Di Đà còn không có tên đường ác, huống là có ác thực ư? Các giống chim ấy đều do đức Phật A Di Đà muốn cho pháp âm lan rộng nên Ngài biến hóa ra như vậy. (1 tiếng chuông) Ông Xá lỵ Phất! Cõi nước đức Phật A Di Đà kia, có những làn gió hiu hiu thổi rung các hàng cây báu, cùng những mạng lưới báu, phát ra những tiếng vị diệu, ví như trăm nghìn thứ âm nhạc, đồng thời trổi lên. Ai nghe được tiếng ấy, tự nhiên đều sinh tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Ông Xá lỵ Phất! Cõi nước đức Phật A Di Đà thành tựu công đức trang nghiêm như thế. (1 tiếng chuông) Ông Xá lỵ Phất! Đối với ý ông nghĩ thế nào, đức Phật A Di Đà kia cớ sao lại có danh hiệu là A Di Đà? Ông Xá lỵ Phất! Đức Phật A Di Đà kia có vô lượng ánh sáng, soi khắp cõi nước mười phương mà không bị chướng ngại gì cả, vì vậy Ngài có tên hiệu là A Di Đà. Lại nữa, ông Xá lỵ Phất! Thọ mệnh của đức Phật A Di Đà kia cùng thọ mệnh của nhân dân nơi cõi Ngài thì vô lượng vô biên vô số kiếp, nên gọi là A Di Đà. Ông Xá lỵ Phất! Từ khi đức Phật A Di Đà thành Phật tới nay đã mười kiếp rồi. (1 tiếng chuông) Lại nữa, ông Xá lỵ Phất! Đức Phật A Di Đà kia có vô lượng vô biên đệ tử Thanh văn, mà các vị đều là bậc A la Hán. Đệ tử Thanh văn của Ngài rất đông, không thể đếm, tính mà biết hết được. Cả đến chúng Bồ tát cũng nhiều như thế. Ông Xá lỵ Phất! Cõi nước đức Phật A Di Đà kia thành tựu công đức trang nghiêm như thế. (1 tiếng chuông) Lại nữa ông Xá lỵ Phất! Các chúng sinh trong mười phương sinh sang cõi nước Cực lạc đều là các vị chứng ngôi bất thoái chuyển, mà trong đó có nhiều vị nhất sinh bổ xứ. Số lượng các vị ấy rất nhiều, không thể đếm, tính mà biết hết được, song chỉ có thể dùng chữ “vô lượng, vô biên, vô số” để nói được mà thôi. (1 tiếng chuông) Này ông Xá lỵ Phất! Chúng sinh trong cõi Sa bà được nghe kinh này nên phát nguyện, nguyện sinh sang cõi nước Cực lạc kia. Sở dĩ thế là sao? Vì được cùng hội họp tại một nơi với các bậc thượng thiện nhân như thế. (1 tiếng chuông) Ông Xá lỵ Phất! Không thể lấy một chút nhân duyên của thiện căn phúc đức, được sinh sang nước Cực lạc kia! Ông Xá lỵ Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói về đức Phật A Di Đà, cố gắng chuyên trì danh hiệu Ngài: hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, nhất tâm chẳng loạn, thì người ấy khi lâm chung sẽ được đức Phật A Di Đà cùng các bậc Thánh, hiện ra trước người ấy, người ấy trong khi chết tâm không điên đảo, liền được sinh sang cõi nước Cực lạc của đức Phật A Di Đà. Này ông Xá lỵ Phất! Tôi thấy sự lợi ích ấy, nên tôi nói ra lời này: “Nếu có chúng sinh nào, được nghe nói về kinh này nên phát nguyện, nguyện sinh sang cõi nước Cực lạc kia.” (1 tiếng chuông) Ông Xá lỵ Phất! Như tôi hiện nay đang khen ngợi sự lợi lạc trong công đức không thể nghĩ bàn được của đức Phật A Di Đà, thì phương Đông cũng có đức Phật A súc Bệ, đức Phật Tu Di Tướng, đức Phật Đại tu Di, đức Phật Tu di Quang, đức Phật Diệu Âm… các đức Phật như thế nhiều như số cát sông Hằng, các Ngài đều ở tại nước các Ngài, xuất ra tướng quảng tràng thiệt, che khắp ba nghìn Đại thiên thế giới, nói ra lời thành thực rằng: “Chúng sinh các ngươi nên tin sự khen ngợi về công đức không thể nghĩ bàn được của kinh Nhất thiết Chư Phật sở hộ niệm này.” (1 tiếng chuông) Ông Xá lỵ Phất! Thế giới phương Nam: có đức Phật Nhật nguyệt Đăng, đức Phật Danh văn Quang, đức Phật Đại Diệm Kiên, đức Phật Tu Di Đăng, đức Phật Vô Lượng Tinh Tiến, các đức Phật như thế nhiều như số cát sông Hằng, các Ngài đều ở tại nước các Ngài, xuất ra tướng quảng tràng thiệt, che khắp ba nghìn Đại thiên thế giới, nói ra lời thành thực rằng: “Chúng sinh các ngươi nên tin sự khen ngợi về công đức không thể nghĩ bàn được của kinh Nhất thiết Chư Phật sở hộ niệm này.” (1 tiếng chuông) Ông Xá lỵ Phất! Thế giới phương Tây: có đức Phật Vô Lượng Thọ, đức Phật Vô Lượng Tướng, đức Phật Vô Lượng Tràng, đức Phật Đại Quang, đức Phật Đại Minh, đức Phật Bảo Tướng, đức Phật Tịnh Quang, các đức Phật như thế nhiều như số cát sông Hằng, các Ngài đều ở tại nước các Ngài, xuất ra tướng quảng tràng thiệt, che khắp ba nghìn Đại thiên thế giới, nói ra lời thành thực rằng: “Chúng sinh các ngươi nên tin sự khen ngợi về công đức không thể nghĩ bàn được của kinh Nhất thiết Chư Phật sở hộ niệm này.” (1 tiếng chuông) Ông Xá lỵ Phất! Thế giới phương Bắc: có đức Phật Diệm Kiên, đức Phật Tối Thắng Âm, đức Phật Nan Trữ, đức Phật Nhật Sinh, đức Phật Võng Minh, các đức Phật như thế nhiều như số cát sông Hằng, các Ngài đều ở tại nước các Ngài, xuất ra tướng quảng tràng thiệt, che khắp ba nghìn Đại thiên thế giới, nói ra lời thành thực rằng: “Chúng sinh các ngươi nên tin sự khen ngợi về công đức không thể nghĩ bàn được của kinh Nhất thiết Chư Phật sở hộ niệm này.” (1 tiếng chuông) Ông Xá lỵ Phất! Thế giới Hạ phương: có đức Phật Sư Tử, đức Phật Danh Văn, đức Phật Danh Quang, đức Phật Đạt Ma, đức Phật Pháp Tràng, đức Phật Trì Pháp, các đức Phật như thế nhiều như số cát sông Hằng, các Ngài đều ở tại nước các Ngài, xuất ra tướng quảng tràng thiệt, che khắp ba nghìn Đại thiên thế giới, nói ra lời thành thực rằng: “Chúng sinh các ngươi nên tin sự khen ngợi về công đức không thể nghĩ bàn được của kinh Nhất thiết Chư Phật sở hộ niệm này.” (1 tiếng chuông) Ông Xá lỵ Phất! Thế giới Thượng phương: có đức Phật Phạm Âm, đức Phật Tú Vương, đức Phật Hương Thượng, đức Phật Hương Quang, đức Phật Đại Diệm Kiên, đức Phật Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân, đức Phật Sa La Thụ Vương, đức Phật Bảo Hoa Đức, đức Phật Kiến Nhất Thiết Nghĩa, đức Phật Như Tu Di Sơn, các đức Phật như thế nhiều như số cát sông Hằng, các Ngài đều ở tại nước các Ngài, xuất ra tướng quảng tràng thiệt, che khắp ba nghìn Đại thiên thế giới, nói ra lời thành thực rằng: “Chúng sinh các ngươi nên tin sự khen ngợi về công đức không thể nghĩ bàn được của kinh Nhất thiết Chư Phật sở hộ niệm này.” (1 tiếng chuông) Ông Xá lỵ Phất! Đối với ý ông nghĩ thế nào cớ sao gọi là kinh “Nhất thiết Chư Phật sở hộ niệm”? Này ông Xá lỵ Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào, nghe được kinh này mà thụ trì, và nghe được tất cả danh hiệu chư Phật sáu phương thì các thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy, đều được hết thảy chư Phật hộ niệm và đều chứng được địa vị bất thoái chuyển ở ngôi Vô thượng chính đẳng chính Giác. Vì vậy, ông Xá lỵ Phất! Các ông đều nên tin nhận lời nói của Tôi và lời nói của chư Phật. (1 tiếng chuông) Này ông Xá lỵ Phất! Nếu có người đã phát nguyện, đang phát nguyện, sẽ phát nguyện là muốn sinh sang nước của đức Phật A Di Đà, thì các người ấy đều được địa vị bất thoái chuyển ở ngôi vô thượng chính đẳng chính giác, ở trong cõi nước kia, hoặc là đã sinh sang, hoặc là đang sinh sang, hay là sẽ sinh sang. Vì vậy ông Xá lỵ Phất! Các Thiện nam tử, Thiện nữ nhân, nếu ai có lòng tin, nên phát nguyện sinh sang cõi nước kia. (1 tiếng chuông) Ông Xá lỵ Phất! Như tôi hiện nay đang khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn được của chự Phật, thì chư Phật tại sáu phương kia cũng khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn được của tôi, mà các Ngài nói ra lời nói này: “Đức Phật Thích Ca Mâu Ni hay làm những việc hiếm có và rất khó, Ngài ở trong cõi nước Sa bà thuộc về đời có năm thứ ác trược như kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược, mệnh trược, mà Ngài chứng được ngôi vô thượng chính đẳng chính giác. Được đạo quả rồi, Ngài vì các chúng sinh nói ra giáo pháp mà hết thảy thế gian khó tin này.” (1 tiếng chuông) Ông Xá lỵ Phất! Các ông nên biết rằng tôi ở trong đời có năm thứ ác trược làm việc khó tin này mà chứng được ngôi vô thượng chính đẳng chính giác, lại vì hết thảy thế gian nói ra giáo pháp khó tin này, ấy là rất khó. (1 tiếng chuông) Đức Phật nói kinh này rồi ông Xá lỵ Phất cùng các vị Tỷ khưu, và hết thảy Thiên, Nhân, A tu la… trong thế gian nghe đức Phật nói pháp, vui mừng tin, nhận, làm lễ mà lui. (1 tiếng chuông) Chân ngôn bạt hết thẩy căn bản nghiệp chướng được sinh sang Tịnh độ. Nẳng mồ a di đá bà dạ, đá tha già đá dạ, đá địa dạ tha, a di lị đô bà tỳ, a di lỵ đá tất đam bà tỳ, a di lỵ đá tỳ ca lan đế, a di lỵ đá tỳ ca lan đá, già di nhị già già na, chỉ đá ca lệ sa bà ha. (3 lượt 3 tiếng chuông) Hải hội Liên trì, Quán Âm, Thế Chí, Ngồi trên liên đài. Tiếp dẫn chúng sinh, Cùng lên kim giai, Nguyện lớn rộng mở. Mong khỏi trần ai. Nam mô Liên Trì hội thượng Phật, Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lượt 3 tiếng chuông) Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Quán tự tại Bồ tát, hành thâm bát nhã ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách. Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức, diệt phục như thị. Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm, thị cố không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức, vô nhãn nhĩ tỉ thiệt thân ý, vô sắc thinh hương vị xúc pháp, vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới, vô vô minh diệc, vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận, vô khổ tập diệt đạo, vô trí diệc vô đắc. Dĩ vô sở đắc cố Bồ Đề Tát đỏa y Bát nhã ba la mật đa cố tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh niết bàn, tam thế chư Phật y bát nhã ba la mật đa cố,đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Cố tri bát nhã ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư. Cố thuyết bát nhã ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết: Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha. (3 lần)
CÚNG NGỌ
Nam mô Thường Trụ Thập Phương Phật Nam mô Thường Trụ Thập Phương Pháp Nam mô Thường Trụ Thập Phương Tăng Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Nam mô Cực Lạc Thế Giới A Di Đà Phật Nam mô Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật Nam mô Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Nam mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát Nam mô Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát Nam mô Già Lam Thánh Chúng Bồ Tát Nam mô Lịch Đại Tổ Sư Bồ Tát Nam mô Giám Trai Sứ Giả Bồ Tát Nam mô đạo tràng hội thượng Phật, Bồ Tát
Nam mô tát phạ đát tha, nga đa phạ lồ chỉ đế, án tam bạt ra tam bạt ra hồng. (3 lần hoặc 7 lần) Nam mô tô rô bà da, Đát tha nga đa da, đát điệt tha, Án tô rô tô rô, bát ra tô rô, Bát ra tô rô ta bà ha. (3 lần) Thử thực sắc hương vị, Thượng cúng thập phương Phật, Trung phụng chư Hiền, Thánh, Hạ cập lục đạo phẩm, Đẳng thí vô sai biệt, Tùy nguyện giai bảo mãn, Linh kim thí giả.Đắc vô lượng Ba La Mật. Tam đức, lục vị, Cúng Phật, cập Tăng, Pháp giới hữu tình, Phổ đồng cúng dường. Án nga nga nẳng tam bà, Phạ phiệt nhựt ra hồng. (3 lần) TÁN CÚNG DƯỜNG Ngã kim phụng hiến cam lộ vị, Lượng đẳng tu di vô quá thượng, Sắc hương mỹ vị biến hư không, Duy nguyện từ bi ai nhiếp thọ. Nam mô Thuyền Duyệt Tạng Bồ Tát. (3 lần) Thượng cúng dĩ nhật Đương nguyện chúng sanh, Sở tác giai biện, Cụ chư Phật Pháp.
Quy y linh
(Phần chữ nghiêng dành cho Chủ Lễ) Hương Linh Quy Y Phật Hương Linh Quy Y Pháp Hương Linh Quy Y Tăng Hương Linh Quy Y Phật, đấng phước trí vẹn toàn Hương Linh Quy Y Pháp, đạo thoát ly tham dục Hương Linh Quy Y Tăng, bậc tu hành cao tột Hương Linh Quy Y Phật, nguyện đời đời kiếp kiếp không quy y thiên, thần, quỷ, vật. Hương Linh Quy Y Pháp, nguyện đời đời kiếp kiếp không quy y ngoại đạo tà giáo. Hương Linh Quy Y Tăng, nguyện đời đời kiếp kiếp không quy y tổn hữu, ác đảng. Hương Linh đã Quy Y Phật Hương Linh đã Quy Y Pháp Hương Linh đã Quy Y Tăng Hương Linh vốn tạo các vọng nghiệp Đều do vô thỉ tham sân si Từ thân, miệng, ý phát sinh ra Hương Linh thảy đều xin sám hối (Một mình Vị chủ lễ niệm lớn) . Nguyện tận hư không biến pháp giới, quá, hiện, vị lai Chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng thường trú Tam Bảo từ bi tiếp độ Hương Linh vãng sanh cực lạc quốc. (đồng lạy một lạy) Hương Linh vốn tạo các vọng nghiệp Đều do vô thỉ tham sân si Từ thân, miệng, ý phát sinh ra Hương Linh thảy đều xin sám hối (Một mình Vị chủ lễ niệm lớn) . Nguyện Ta Bà giáo chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát từ bi tiếp độ Hương Linh vãng sanh cực lạc quốc. (đồng lạy một lạy) Hương Linh vốn tạo các vọng nghiệp Đều do vô thỉ tham sân si Từ thân, miệng, ý phát sinh ra Hương Linh thảy đều xin sám hối (Một mình Vị chủ lễ niệm lớn) . Nguyện Tây Phương giáo chủ Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát từ bi tiếp độ Hương Linh vãng sanh cực lạc quốc. (đồng lạy một lạy) (đánh 3 tiếng chuông chắp tay đồng niệm) Thân Phật Di-Đà màu sắc vàng, Tướng tốt sáng ngời không gì sánh. Bạch hào uyển-chuyển năm Tu di, Mắt biết lắng trong bốn biển lớn. Vô số hóa Phật trong hào quang, Chúng hóa Bồ tát cũng vô biên. Bốn mươi tám nguyện độ chúng sinh, Chín phẩm đều cùng lên ngàn giác. Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới Đại từ Đại bi A Di Đà Phật. (3 lượt 3 tiếng chuông) Nam mô A Di Đà Phật. (10 hay 1 tràng 3 tiếng chuông) Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát. (3 hay 10 lượt 1 tiếng chuông) Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát. (3 hay 10 lượt 1 tiếng chuông) Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát. (3 hay 10 lượt 1 tiếng chuông) Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải chúng Bồ Tát. ( 3 hay 10 lượt 1 tiếng chuông) (Cùng quỳ đọc bài phát nguyện) Con nay vì hết thảy bốn ơn ba cõi, pháp giới chúng sinh, nguyện dứt bỏ hết ba chướng, xin chí thành phát nguyện. (1 lễ 3 tiếng chuông)
HỒI HƯỚNG Phúng kinh công-đức thù thắng hạnh, Vô biên thắng phước giai hồi-hướng, Phổ nguyện pháp-giới chư chúng-sanh, Tốc vãng vô-lượng-quang Phật sát. Nguyện tiêu tam-chướng trừ phiền-não, Nguyện đắc trí-huệ chơn minh liễu, Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ. Thế thế thường hành Bồ-tát đạo. Nguyện sanh Tây-phương Tịnh-độ trung, Cửu phẩm Liên-hoa vi phụ mẫu, Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh, Bất thối Bồ-tát vi bạn lữ. Nguyện dĩ thử công-đức, Phổ cập ư nhứt thiết, Ngã đẳng dữ chúng-sanh, Giai cộng thành Phật-đạo.
PHỤC NGUYỆN Hôm nay là ngày… tháng… năm… tại chùa Giác Lâm Đệ tử cập chư Phật tử Thiện nam, Tín nữ thành tâm phúng tụng DI ĐÀ pháp bảo chi tôn kinh cập niệm Phật công đức hồi hướng kỳ siêu cho chư hương linh… (đọc sớ kỳ siêu tên họ… năm sinh… pháp danh… hưởng thọ… quá vãng… ngày… tháng… năm…) được tịnh chư nghiệp chướng tốc xả mê đồ siêu sanh lạc cảnh. Hựu nguyện: Kỳ an cho chư Phật tử, Thiện nam, Tín nữ… (đọc sớ kỳ an: tên tuổi) tiêu trừ nghiệp chướng tật bệnh tội khiên tai nạn hoạch ương nhất thiết ác duyên tất giai tiêu diệt, sở cầu như ý, sở nguyện tùng tâm tăng long phước thọ Phổ nguyện: Âm siêu dương thới pháp giới chúng sanh giai cộng thành Phật đạo. Nam mô A Di Đà Phật
TAM TỰ QUY
Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sinh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng. (1 lễ) Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sinh, thấu rõ kinh tạng, trí tuệ như biển. (1 lễ) Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lễ)
HỒI HƯỚNG (Xá 1 xá rồi đọc tiếp):
Nguyện đem công đức này, Hướng về khắp tất cả, Đệ tử và chúng sinh, Đều trọn thành Phật đạo. (Xá 3 xá rồi lui ra).
NGHI THỨC CÚNG VONG
CHỦ LỄ XƯỚNG Tang chủ tựu vi linh tiền nguyện hương Thượng hương Lễ hương linh tứ bái (4 lạy) Đánh 3 hồi chuông nhỏ.
CHỦ LỄ THỈNH LINH Tây phương Tịnh Độ hữu liên khai, linh giả tùng tư qui khứ lai; nhất niệm hoa khai than kiến Phật, vĩnh vô bát nạn cập tam tai. Dĩ thử chấn linh than triệu chư hương linh bất muội diêu văn tri trượng thừa Tam Bảo lực gia trì thử thực kim thời lai phó hội.
Hương hoa thỉnh, hương đang triệu thỉnh. Tam thỉnh chư hương linh dĩ lai thọ thử trai tu phổ cúng dường y nhiên thỉnh tọa thính văn kinh, điển kinh văn Bồ Tát Ma Ha Tát.
TỤNG DƯƠNG CHI Dương chi tịnh thủy biến sái tam thiên Tánh không bát đức lợi nhân thiên Pháp giới quãng tăng diên Diệt tội tiêu khiên, hoả diệm hoá hồng liên Nam mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)
TỤNG ĐẠI BI (1 biến)
Nam-mô Ðại-Bi Hội-Thượng Phật Bồ-Tát. (3 lần) Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại-bi tâm đà-la-ni. Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam-mô a rị da, bà lô yết đế, thước bát ra da, Bồ-đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da, án, tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tỏa. Nam-mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam-mô na ra cẩn trì hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ-đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na a ra sâm Phật ra xá-lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ-đề dạ bồ-đề dạ, bồ-đà dạ, bồ-đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha. Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam-mô a rị da, bà lô yết đế, thước bàng ra dạ, ta bà ha. Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha.
Tang chủ kiền thiền trà châm sơ tuần Lễ hương linh nhị bái (2 lạy)
TỤNG BÁT NHÃ (1 lần)
Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Quán tự tại Bồ tát, hành thâm bát nhã ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách. Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức, diệt phục như thị. Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm, thị cố không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức, vô nhãn nhĩ tỉ thiệt thân ý, vô sắc thinh hương vị xúc pháp, vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới, vô vô minh diệc, vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận, vô khổ tập diệt đạo, vô trí diệc vô đắc. Dĩ vô sở đắc cố Bồ Đề Tát đỏa y Bát nhã ba la mật đa cố tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh niết bàn, tam thế chư Phật y bát nhã ba la mật đa cố,đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Cố tri bát nhã ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư. Cố thuyết bát nhã ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết: Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha. (3 lần)
CHÚ VÃNG SANH (3 lần)
Nẳng mồ a di đá bà dạ, đá tha già đá dạ, đá địa dạ tha, a di lị đô bà tỳ, a di lỵ đá tất đam bà tỳ, a di lỵ đá tỳ ca lan đế, a di lỵ đá tỳ ca lan đá, già di nhị già già na, chỉ đá ca lệ sa bà ha.
Tang chủ kiền thiền hiến phạn cập châm trà (tang chủ dâng cơm, dâng trà)
TỤNG BIẾN THỰC – BIẾN THỦY CHƠN NGÔN (3 lần)
Nam mô tát phạ đát tha, nga đa phạ lồ chỉ đế, án tam bạt ra tam bạt ra hồng. (3 lần hoặc 7 lần) Nam mô tô rô bà da, Đát tha nga đa da, đát điệt tha, Án tô rô tô rô, bát ra tô rô, Bát ra tô rô ta bà ha. (3 lần)
CHỦ LỄ XƯỚNG Đây bát cơm đầy chư tang chủ kính dâng, chư hương linh ơi, đây ngọc với đây long, đây tình còn động trong thương nhớ, dương trần âm cảnh đã cách ngăn. Thượng phạn – Hiến trà Tang chủ kiền thiền lễ hương linh nhị bái (2 lạy)
TỤNG BÀI CÚNG VONG Nam mô Đa Bảo Như Lai
Nam mô Bảo Thắng Như Lai
Nam mô Diệu Sắc Thân Như Lai
Nam mô Quảng Bác thân Như Lai
Nam mô Ly Bố Úy Như Lai
Nam mô Cam lồ Vương Như Lai
Nam mô A Di Đà Như Lai
Thần chú gia trì tịnh pháp thực
Phổ thí hà sa chư hương linh
Nguyện giai bảo mãn xả san tham
Tốc thoát u minh sanh tịnh độ
Quy y Tam bảo phát bồ đề
Cứu cánh đắc thành vô thượng đạo
Công đức vô biên tận vị lai
Nhứt thiết hương linh đồng pháp thực
Thần chú gia trì pháp thí thực
Phổ thí hà sa chư hương linh
Nguyện giai bảo mãn xả san tham
Tốc thoát u minh sanh tịnh độ
Quy y Tam bảo phát bồ đề
Cứu cánh đắc thành vô thượng đạo
Công đức vô biên tận vị lai
Nhứt thiết hương linh đồng pháp thực
Thần chú gia trì cam lồ thủy
Phổ thí hà sa chư hương linh
Nguyện giai bảo mãn xả san tham
Tốc thoát u minh sanh tịnh độ
Quy y Tam bảo phát bồ đề
Cứu cánh đắc thành vô thượng đạo
Công đức vô biên tận vị lai
Nhứt thiết hương linh đồng pháp thực
Án nga nga nẳng tam bà phạ phiệt nhựt ra hồng (3 lần)
Tang chủ kiền thiền trà châm tam tuần Lễ hương linh nhị bái (2 lạy)
HỒI HƯỚNG Di Đà giáo chủ Địa Tạng năng nhân, thơ kim sắc túng vị đề huề phóng ngọc hào quang thùng tứ tiếp độ chư hương linh… (đọc sớ cúng linh kỳ siêu) tên họ… pháp danh… hưởng thọ… quá vãng ngày… tháng… năm… thất… Nguyện hương linh, hồn siêu cõi tịnh, nghiệp dứt chốn trần ai, hoa sen chin phẩm vừa khai, Phật bèn thọ ký cho nghe nhứt thừa. Cầu xinh chư Phật tiếp đưa hồn về Cực Lạc say sưa pháp mầy. Phổ nguyện: Nhất thành thượng đạt, vạn tội băng tiêu, nguyện chư hương linh đắc độ cao siêu, kỳ gia quyến hàm triêm lợi lạc. Âm siêu dương thới pháp giới chúng sanh giai cộng thành Phật đạo. Nam mô A Di Đà Phật
TAM TỰ QUY
Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sinh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng. Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sinh, thấu rõ kinh tạng, trí tuệ như biển. Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. CHỦ LỄ XƯỚNG Tang chủ kiền thiền trà châm chung tuần. Lễ chư hương linh tứ bái (4 lạy).
Đấng Pháp vương vô thượng,Ba cõi chẳng ai bằng.Thầy dạy khắp trời, người,Cha lành chung bốn loài.Quy y tròn một niệm:Dứt sạch nghiệp ba kỳ.Xưng dương cùng tán thán,Ức kiếp không cùng tận.Phật, chúng sanh, tánh thường rỗng lặng.Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn.Lưới đế châu, ví đạo tràng,Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời.Trước bảo tọa thân con ảnh hiện,Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.(Vị chủ lễ xá ba xá rồi niệm lớn)Nam mô Tận hư không biến pháp giới, quá, hiện, vị lai chư Phật, tôn Pháp, Hiền thánh tăng thường trụ Tam bảo. (đồng lạy một lạy).Nam mô Ta bà giáo chủ đại từ đại bi Bổn sư Thích ca Mâu ni Phật, Đương lai hạ sanh Di lặc tôn Phật, Linh sơn hội thượng Phật Bồ Tát. (đồng lạy một lạy).Nam mô Tây phương cực lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật , Đại bi Quán Thế Âm Bồ tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (đồng lạy một lạy).(3 lần)Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại-bi tâm đà-la-ni.Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da.Nam-mô a rị da, bà lô yết đế, thước bát ra da, Bồ-đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da, án, tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tỏa.Nam-mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà.Nam-mô na ra cẩn trì hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ-đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na a ra sâm Phật ra xá-lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ-đề dạ bồ-đề dạ, bồ-đà dạ, bồ-đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha.Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da.Nam-mô a rị da, bà lô yết đế, thước bàng ra dạ, ta bà ha.Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha.Chính tôi được nghe: một thời kia đức Phật ở nơi vườn của ông Cấp-Cô-Độc, dưới rặng cây của ông Kỳ Đà thuộc nước Xá Vệ, cùng với một nghìn hai trăm năm mươi vị Đại Tỷ Khưu Tăng, mà các vị đều là bậc Đại A La Hán, là bậc trí thức trong chúng, như: Trưởng lão Xá lỵ Phất, Ma ha Mục Kiền Liên, Ma ha Ca Diếp, Ma ha Ca Chiên Diên, Ma ha Câu hy la, Ly bà Đa, Chu lỵ Bàn đà Già, Nan Đà, A Nan Đà, La hầu La, Kiều phạm ba Đề, Tân đầu lư phả la Đọa, Ca lưu đà Di, Ma ha Kiếp tân Na, Bạc câu La, A nâu lâu Đà… như thế là các vị đại đệ tử. Lại gồm có các vị Đại Bồ tát như: Văn thù Sư lỵ, Pháp vương Tử, A dật đa Bồ Tát, Kiền đà ha đề Bồ Tát, Thương tinh tiến Bồ Tát… Ngài cùng với các vị Đại Bồ Tát như thế. Và, vô lượng đại chúng chư thiên như: Thích đề hoàn nhân… cùng ở trong pháp hội. (1 tiếng chuông)Bấy giờ, đức Phật bảo Trưởng lão Xá lỵ Phất rằng: Từ cõi Sa bà này hướng về phương Tây, qua mười vạn ức cõi Phật, có một thế giới gọi là Cực lạc, mà cõi ấy có đức Phật hiệu là A Di Đà, hiện nay ngài đang thuyết pháp tại đó. (1 tiếng chuông)Này ông Xá lỵ Phất! Cớ sao cõi kia lại gọi là Cực lạc?Vì chúng sinh trong nước ấy không có những sự đau khổ, chỉ hưởng thụ những sự vui sướng mà thôi, nên gọi là Cực lạc. (1 tiếng chuông)Lại nữa, ông Xá lỵ Phất! Cõi nước Cực lạc có bảy trùng câu lơn, bảy trùng lưới chăng bảy trùng hàng cây những trùng đó đều bằng bốn thứ ngọc báu, vây bọc chung quanh. Thế nên nước kia gọi là Cực lạc. (1 tiếng chuông)Lại nữa, ông Xá lỵ Phất! Cõi nước Cực lạc có ao bằng bảy thứ ngọc báu, nước tám công đức tràn đầy trong ao ấy. Đáy ao, thuần lấy cát vàng giải khắp mặt đất. Đường và bực bốn bên ao đều hợp thành bởi vàng, bạc, lưu ly và pha lê. Trên ao có những lâu các cũng đều nghiêm sức bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, Xà cừ, Xích châu, mã não. Trong ao có những hoa sen lớn như bánh xe. Hoa sen xanh tỏa ra ánh sáng xanh, hoa sen đỏ tỏa ra ánh sáng đỏ, hoa sen trắng tỏa ra ánh sáng trắng, các hoa sen ấy đều có những hương vị thanh khiết vi diệu.Này ông Xá lợi Phất! Cõi nước Cực lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế. (1 tiếng chuông)Lại nữa, ông Xá lỵ Phất! Cõi nước của Đức Phật A Di Đà kia, thường trổi những âm nhạc cõi trời; đất bằng vàng ròng và ngày đêm sáu thời thường mưa xuống những hoa Mạn đà La cõi trời. Chúng sinh trong cõi này cứ sáng sớm ra họ thường đem những lẵng đựng hoa quý, cúng dàng mười vạn ức Phật ở các phương khác mà chỉ trong giây lát họ đã về ngay tới nước của họ, kịp bữa ăn sáng. Ăn xong họ đi kinh hành.Ông Xá lỵ Phất! Cõi nước Cực lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế. (1 tiếng chuông)Lại nữa, Ông Xá lỵ Phất! Nước kia thường có các giống chim có màu sắc sặc sỡ đẹp lạ, như: chim bạch hạc, chim khổng tước, chim anh vũ, chim Xá lỵ, chim ca lăng tần già, chim cộng mệnh. Các loài chim ấy, ngày đêm sáu thời hót ra những tiếng hòa nhã. Trong những tiếng ấy diễn tỏ những diệu pháp như năm căn, năm lực, bảy Bồ đề phận, tám Thánh đạo phận… Những diệu Pháp như thế, chúng sinh trong cõi này, nghe được pháp âm ấy rồi, hết thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.Ông Xá lỵ Phất! Ông chớ nên bảo rằng các giống chim này thực do tội báo mà sinh ra. Sở dĩ thế là sao? Là vì cõi nước của đức Phật A Di Đà kia không có ba đường ác.Ông Xá lỵ Phất! Cõi nước đức Phật A Di Đà còn không có tên đường ác, huống là có ác thực ư? Các giống chim ấy đều do đức Phật A Di Đà muốn cho pháp âm lan rộng nên Ngài biến hóa ra như vậy. (1 tiếng chuông)Ông Xá lỵ Phất! Cõi nước đức Phật A Di Đà kia, có những làn gió hiu hiu thổi rung các hàng cây báu, cùng những mạng lưới báu, phát ra những tiếng vị diệu, ví như trăm nghìn thứ âm nhạc, đồng thời trổi lên. Ai nghe được tiếng ấy, tự nhiên đều sinh tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.Ông Xá lỵ Phất! Cõi nước đức Phật A Di Đà thành tựu công đức trang nghiêm như thế. (1 tiếng chuông)Ông Xá lỵ Phất! Đối với ý ông nghĩ thế nào, đức Phật A Di Đà kia cớ sao lại có danh hiệu là A Di Đà?Ông Xá lỵ Phất! Đức Phật A Di Đà kia có vô lượng ánh sáng, soi khắp cõi nước mười phương mà không bị chướng ngại gì cả, vì vậy Ngài có tên hiệu là A Di Đà. Lại nữa, ông Xá lỵ Phất! Thọ mệnh của đức Phật A Di Đà kia cùng thọ mệnh của nhân dân nơi cõi Ngài thì vô lượng vô biên vô số kiếp, nên gọi là A Di Đà.Ông Xá lỵ Phất! Từ khi đức Phật A Di Đà thành Phật tới nay đã mười kiếp rồi. (1 tiếng chuông)Lại nữa, ông Xá lỵ Phất! Đức Phật A Di Đà kia có vô lượng vô biên đệ tử Thanh văn, mà các vị đều là bậc A la Hán. Đệ tử Thanh văn của Ngài rất đông, không thể đếm, tính mà biết hết được. Cả đến chúng Bồ tát cũng nhiều như thế.Ông Xá lỵ Phất! Cõi nước đức Phật A Di Đà kia thành tựu công đức trang nghiêm như thế. (1 tiếng chuông)Lại nữa ông Xá lỵ Phất! Các chúng sinh trong mười phương sinh sang cõi nước Cực lạc đều là các vị chứng ngôi bất thoái chuyển, mà trong đó có nhiều vị nhất sinh bổ xứ. Số lượng các vị ấy rất nhiều, không thể đếm, tính mà biết hết được, song chỉ có thể dùng chữ “vô lượng, vô biên, vô số” để nói được mà thôi. (1 tiếng chuông)Này ông Xá lỵ Phất! Chúng sinh trong cõi Sa bà được nghe kinh này nên phát nguyện, nguyện sinh sang cõi nước Cực lạc kia. Sở dĩ thế là sao? Vì được cùng hội họp tại một nơi với các bậc thượng thiện nhân như thế. (1 tiếng chuông)Ông Xá lỵ Phất! Không thể lấy một chút nhân duyên của thiện căn phúc đức, được sinh sang nước Cực lạc kia! Ông Xá lỵ Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói về đức Phật A Di Đà, cố gắng chuyên trì danh hiệu Ngài: hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, nhất tâm chẳng loạn, thì người ấy khi lâm chung sẽ được đức Phật A Di Đà cùng các bậc Thánh, hiện ra trước người ấy, người ấy trong khi chết tâm không điên đảo, liền được sinh sang cõi nước Cực lạc của đức Phật A Di Đà.Này ông Xá lỵ Phất! Tôi thấy sự lợi ích ấy, nên tôi nói ra lời này: “Nếu có chúng sinh nào, được nghe nói về kinh này nên phát nguyện, nguyện sinh sang cõi nước Cực lạc kia.” (1 tiếng chuông)Ông Xá lỵ Phất! Như tôi hiện nay đang khen ngợi sự lợi lạc trong công đức không thể nghĩ bàn được của đức Phật A Di Đà, thì phương Đông cũng có đức Phật A súc Bệ, đức Phật Tu Di Tướng, đức Phật Đại tu Di, đức Phật Tu di Quang, đức Phật Diệu Âm… các đức Phật như thế nhiều như số cát sông Hằng, các Ngài đều ở tại nước các Ngài, xuất ra tướng quảng tràng thiệt, che khắp ba nghìn Đại thiên thế giới, nói ra lời thành thực rằng: “Chúng sinh các ngươi nên tin sự khen ngợi về công đức không thể nghĩ bàn được của kinh Nhất thiết Chư Phật sở hộ niệm này.” (1 tiếng chuông)Ông Xá lỵ Phất! Thế giới phương Nam: có đức Phật Nhật nguyệt Đăng, đức Phật Danh văn Quang, đức Phật Đại Diệm Kiên, đức Phật Tu Di Đăng, đức Phật Vô Lượng Tinh Tiến, các đức Phật như thế nhiều như số cát sông Hằng, các Ngài đều ở tại nước các Ngài, xuất ra tướng quảng tràng thiệt, che khắp ba nghìn Đại thiên thế giới, nói ra lời thành thực rằng: “Chúng sinh các ngươi nên tin sự khen ngợi về công đức không thể nghĩ bàn được của kinh Nhất thiết Chư Phật sở hộ niệm này.” (1 tiếng chuông)Ông Xá lỵ Phất! Thế giới phương Tây: có đức Phật Vô Lượng Thọ, đức Phật Vô Lượng Tướng, đức Phật Vô Lượng Tràng, đức Phật Đại Quang, đức Phật Đại Minh, đức Phật Bảo Tướng, đức Phật Tịnh Quang, các đức Phật như thế nhiều như số cát sông Hằng, các Ngài đều ở tại nước các Ngài, xuất ra tướng quảng tràng thiệt, che khắp ba nghìn Đại thiên thế giới, nói ra lời thành thực rằng: “Chúng sinh các ngươi nên tin sự khen ngợi về công đức không thể nghĩ bàn được của kinh Nhất thiết Chư Phật sở hộ niệm này.” (1 tiếng chuông)Ông Xá lỵ Phất! Thế giới phương Bắc: có đức Phật Diệm Kiên, đức Phật Tối Thắng Âm, đức Phật Nan Trữ, đức Phật Nhật Sinh, đức Phật Võng Minh, các đức Phật như thế nhiều như số cát sông Hằng, các Ngài đều ở tại nước các Ngài, xuất ra tướng quảng tràng thiệt, che khắp ba nghìn Đại thiên thế giới, nói ra lời thành thực rằng: “Chúng sinh các ngươi nên tin sự khen ngợi về công đức không thể nghĩ bàn được của kinh Nhất thiết Chư Phật sở hộ niệm này.” (1 tiếng chuông)Ông Xá lỵ Phất! Thế giới Hạ phương: có đức Phật Sư Tử, đức Phật Danh Văn, đức Phật Danh Quang, đức Phật Đạt Ma, đức Phật Pháp Tràng, đức Phật Trì Pháp, các đức Phật như thế nhiều như số cát sông Hằng, các Ngài đều ở tại nước các Ngài, xuất ra tướng quảng tràng thiệt, che khắp ba nghìn Đại thiên thế giới, nói ra lời thành thực rằng: “Chúng sinh các ngươi nên tin sự khen ngợi về công đức không thể nghĩ bàn được của kinh Nhất thiết Chư Phật sở hộ niệm này.” (1 tiếng chuông)Ông Xá lỵ Phất! Thế giới Thượng phương: có đức Phật Phạm Âm, đức Phật Tú Vương, đức Phật Hương Thượng, đức Phật Hương Quang, đức Phật Đại Diệm Kiên, đức Phật Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân, đức Phật Sa La Thụ Vương, đức Phật Bảo Hoa Đức, đức Phật Kiến Nhất Thiết Nghĩa, đức Phật Như Tu Di Sơn, các đức Phật như thế nhiều như số cát sông Hằng, các Ngài đều ở tại nước các Ngài, xuất ra tướng quảng tràng thiệt, che khắp ba nghìn Đại thiên thế giới, nói ra lời thành thực rằng: “Chúng sinh các ngươi nên tin sự khen ngợi về công đức không thể nghĩ bàn được của kinh Nhất thiết Chư Phật sở hộ niệm này.” (1 tiếng chuông)Ông Xá lỵ Phất! Đối với ý ông nghĩ thế nào cớ sao gọi là kinh “Nhất thiết Chư Phật sở hộ niệm”? Này ông Xá lỵ Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào, nghe được kinh này mà thụ trì, và nghe được tất cả danh hiệu chư Phật sáu phương thì các thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy, đều được hết thảy chư Phật hộ niệm và đều chứng được địa vị bất thoái chuyển ở ngôi Vô thượng chính đẳng chính Giác. Vì vậy, ông Xá lỵ Phất! Các ông đều nên tin nhận lời nói của Tôi và lời nói của chư Phật. (1 tiếng chuông)Này ông Xá lỵ Phất! Nếu có người đã phát nguyện, đang phát nguyện, sẽ phát nguyện là muốn sinh sang nước của đức Phật A Di Đà, thì các người ấy đều được địa vị bất thoái chuyển ở ngôi vô thượng chính đẳng chính giác, ở trong cõi nước kia, hoặc là đã sinh sang, hoặc là đang sinh sang, hay là sẽ sinh sang. Vì vậy ông Xá lỵ Phất! Các Thiện nam tử, Thiện nữ nhân, nếu ai có lòng tin, nên phát nguyện sinh sang cõi nước kia. (1 tiếng chuông)Ông Xá lỵ Phất! Như tôi hiện nay đang khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn được của chự Phật, thì chư Phật tại sáu phương kia cũng khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn được của tôi, mà các Ngài nói ra lời nói này: “Đức Phật Thích Ca Mâu Ni hay làm những việc hiếm có và rất khó, Ngài ở trong cõi nước Sa bà thuộc về đời có năm thứ ác trược như kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược, mệnh trược, mà Ngài chứng được ngôi vô thượng chính đẳng chính giác. Được đạo quả rồi, Ngài vì các chúng sinh nói ra giáo pháp mà hết thảy thế gian khó tin này.” (1 tiếng chuông)Ông Xá lỵ Phất! Các ông nên biết rằng tôi ở trong đời có năm thứ ác trược làm việc khó tin này mà chứng được ngôi vô thượng chính đẳng chính giác, lại vì hết thảy thế gian nói ra giáo pháp khó tin này, ấy là rất khó. (1 tiếng chuông)Đức Phật nói kinh này rồi ông Xá lỵ Phất cùng các vị Tỷ khưu, và hết thảy Thiên, Nhân, A tu la… trong thế gian nghe đức Phật nói pháp, vui mừng tin, nhận, làm lễ mà lui. (1 tiếng chuông)Nẳng mồ a di đá bà dạ, đá tha già đá dạ, đá địa dạ tha, a di lị đô bà tỳ, a di lỵ đá tất đam bà tỳ, a di lỵ đá tỳ ca lan đế, a di lỵ đá tỳ ca lan đá, già di nhị già già na, chỉ đá ca lệ sa bà ha. (3 lượt 3 tiếng chuông)Hải hội Liên trì,Quán Âm, Thế Chí,Ngồi trên liên đài.Tiếp dẫn chúng sinh,Cùng lên kim giai,Nguyện lớn rộng mở.Mong khỏi trần chúng tôi mô Liên Trì hội thượng Phật, Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lượt 3 tiếng chuông)Quán tự tại Bồ tát, hành thâm bát nhã ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách.Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức, diệt phục như thị.Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm, thị cố không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức, vô nhãn nhĩ tỉ thiệt thân ý, vô sắc thinh hương vị xúc pháp, vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới, vô vô minh diệc, vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận, vô khổ tập diệt đạo, vô trí diệc vô đắc.Dĩ vô sở đắc cố Bồ Đề Tát đỏa y Bát nhã ba la mật đa cố tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh niết bàn, tam thế chư Phật y bát nhã ba la mật đa cố,đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề.Cố tri bát nhã ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư.Cố thuyết bát nhã ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết:Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha. (3 lần)Nam mô tát phạ đát tha, nga đa phạ lồ chỉ đế, án tam bạt ra tam bạt ra hồng. (3 lần hoặc 7 lần)Nam mô tô rô bà da, Đát tha nga đa da, đát điệt tha, Án tô rô tô rô, bát ra tô rô, Bát ra tô rô ta bà ha. (3 lần)Thử thực sắc hương vị,Thượng cúng thập phương Phật,Trung phụng chư Hiền, Thánh,Hạ cập lục đạo phẩm,Đẳng thí vô sai biệt,Tùy nguyện giai bảo mãn,Linh kim thí giả.Đắc vô lượng Ba La Mật.Tam đức, lục vị,Cúng Phật, cập Tăng,Pháp giới hữu tình,Phổ đồng cúng dường.Án nga nga nẳng tam bà, Phạ phiệt nhựt ra hồng. (3 lần)Ngã kim phụng hiến cam lộ vị,Lượng đẳng tu di vô quá thượng,Sắc hương mỹ vị biến hư không,Duy nguyện từ bi ai nhiếp thọ.Nam mô Thuyền Duyệt Tạng Bồ Tát. (3 lần)Thượng cúng dĩ nhậtĐương nguyện chúng sanh,Sở tác giai biện,Cụ chư Phật Pháp.(Phần chữ nghiêng dành cho Chủ Lễ) Hương Linh Quy Y PhậtHương Linh Quy Y PhápHương Linh Quy Y TăngHương Linh Quy Y Phật, đấng phước trí vẹn toànHương Linh Quy Y Pháp, đạo thoát ly tham dụcHương Linh Quy Y Tăng, bậc tu hành cao tộtHương Linh Quy Y Phật, nguyện đời đời kiếp kiếp không quy y thiên, thần, quỷ, vật.Hương Linh Quy Y Pháp, nguyện đời đời kiếp kiếp không quy y ngoại đạo tà giáo.Hương Linh Quy Y Tăng, nguyện đời đời kiếp kiếp không quy y tổn hữu, ác đảng.Hương Linh đã Quy Y PhậtHương Linh đã Quy Y PhápHương Linh đã Quy Y TăngHương Linh vốn tạo các vọng nghiệpĐều do vô thỉ tham sân siTừ thân, miệng, ý phát sinh raHương Linh thảy đều xin sám hối(Một mình Vị chủ lễ niệm lớn). Nguyện tận hư không biến pháp giới, quá, hiện, vị lai Chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng thường trú Tam Bảo từ bi tiếp độ Hương Linh. (đồng lạy một lạy)Hương Linh vốn tạo các vọng nghiệpĐều do vô thỉ tham sân siTừ thân, miệng, ý phát sinh raHương Linh thảy đều xin sám hối(Một mình Vị chủ lễ niệm lớn). Nguyện Ta Bà giáo chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát từ bi tiếp độ Hương Linh. (đồng lạy một lạy)Hương Linh vốn tạo các vọng nghiệpĐều do vô thỉ tham sân siTừ thân, miệng, ý phát sinh raHương Linh thảy đều xin sám hối(Một mình Vị chủ lễ niệm lớn). Nguyện Tây Phương giáo chủ Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát từ bi tiếp độ Hương Linh. (đồng lạy một lạy) (đánh 3 tiếng chuông chắp tay đồng niệm)Thân Phật Di-Đà màu sắc vàng,Tướng tốt sáng ngời không gì sánh.Bạch hào uyển-chuyển năm Tu di,Mắt biết lắng trong bốn biển lớn.Vô số hóa Phật trong hào quang,Chúng hóa Bồ tát cũng vô biên.Bốn mươi tám nguyện độ chúng sinh,Chín phẩm đều cùng lên ngàn giác.Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới Đại từ Đại bi A Di Đà Phật. (3 lượt 3 tiếng chuông)Nam mô A Di Đà Phật. (10 hay 1 tràng 3 tiếng chuông)Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát. (3 hay 10 lượt 1 tiếng chuông)Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát. (3 hay 10 lượt 1 tiếng chuông)Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát. (3 hay 10 lượt 1 tiếng chuông)Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải chúng Bồ Tát. ( 3 hay 10 lượt 1 tiếng chuông)(Cùng quỳ đọc bài phát nguyện)Con nay vì hết thảy bốn ơn ba cõi, pháp giới chúng sinh, nguyện dứt bỏ hết ba chướng, xin chí thành phát nguyện. (1 lễ 3 tiếng chuông)Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sinh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng. (1 lễ)Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sinh, thấu rõ kinh tạng, trí tuệ như biển. (1 lễ)Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lễ)Nguyện đem công đức này,Hướng về khắp tất cả,Đệ tử và chúng sinh,Đều trọn thành Phật đạo.(Xá 3 xá rồi lui ra).(3 lần)Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại-bi tâm đà-la-ni.Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da.Nam-mô a rị da, bà lô yết đế, thước bát ra da, Bồ-đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da, án, tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tỏa.Nam-mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà.Nam-mô na ra cẩn trì hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ-đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na a ra sâm Phật ra xá-lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ-đề dạ bồ-đề dạ, bồ-đà dạ, bồ-đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha.Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da.Nam-mô a rị da, bà lô yết đế, thước bàng ra dạ, ta bà ha.Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha.Quán tự tại Bồ tát, hành thâm bát nhã ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách.Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức, diệt phục như thị.Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm, thị cố không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức, vô nhãn nhĩ tỉ thiệt thân ý, vô sắc thinh hương vị xúc pháp, vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới, vô vô minh diệc, vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận, vô khổ tập diệt đạo, vô trí diệc vô đắc.Dĩ vô sở đắc cố Bồ Đề Tát đỏa y Bát nhã ba la mật đa cố tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh niết bàn, tam thế chư Phật y bát nhã ba la mật đa cố,đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề.Cố tri bát nhã ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư.Cố thuyết bát nhã ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết:Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha. (3 lần)Nam mô tát phạ đát tha, nga đa phạ lồ chỉ đế, án tam bạt ra tam bạt ra hồng. (3 lần hoặc 7 lần)Nam mô tô rô bà da, Đát tha nga đa da, đát điệt tha, Án tô rô tô rô, bát ra tô rô, Bát ra tô rô ta bà ha. (3 lần)Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sinh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng.Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sinh, thấu rõ kinh tạng, trí tuệ như biển.Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại.Tang chủ kiền thiền trà châm chung tuần.Lễ chư hương linh tứ bái (4 lạy).
Đi Qua Mùa Lễ Kỳ Yên
Nếu ở Trảng Bàng, Đình Gia Lộc đã tổ chức đáo lệ Kỳ Yên từ ngày 14 tháng 3 âm lịch (29.4.2023) và kéo dài suốt 3 ngày sau; thì ở các huyện, thành phía Bắc tỉnh cũng râm ran trống hội Kỳ Yên tại các ngôi đình di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Đấy là Đình Hiệp Ninh, thuộc phường 2, TP. Tây Ninh và Đình Long Thành, nay thuộc xã Long Thành Nam, huyện Hòa Thành.
Sáng 3.5 (18.3 âm lịch), tại Đình Long Thành lúc 8 giờ, nghi lễ thỉnh tro từ mộ cụ Thành hoàng đã xong. Dàn trống hội của đoàn nghệ thuật lân sư rồng Thiện Anh cũng đã sẵn sàng. Người đến đình tấp nập. Rất nhiều trẻ em theo cha mẹ đến xem hội múa lân.
Bên trong ngôi võ ca trước đình, quan khách đã tề chỉnh trên dãy bàn dài chính giữa. Ngoài các ban Hội đình từ các địa phương trong tỉnh, còn có đại biểu các cơ quan đoàn thể huyện, xã. Trống hội khai trương rầm rộ. Xong, là đến lượt Ban tổ chức lễ đọc diễn văn ôn lại công đức của người xưa. Người có công khai phá vùng đất Long Thành, nay là 3 xã thuộc huyện Hòa Thành chính là cụ Trần Văn Thiện.
Theo niềm tin của người có đạo Cao Đài, cụ cũng được các đấng Thiêng liêng ban sắc giáng cho: “Thần hoàng Long Thành lên chức Văn Xương”. Sự kiện ấy là vào ngày 12 tháng Giêng Đinh Mão, tức 13.2.1927.
Trong và ngoài ngôi đình với mái ngói nâu trầm mặc, là đầy ắp những hương hoa, bánh trái quả phẩm. Trước ngai thờ hội đồng là hai tấm bằng công nhận di tích lịch sử văn hóa, một cấp quốc gia và một cấp tỉnh. Di tích cấp tỉnh là ngôi mộ cụ Trần Văn Thiện nằm cách không xa vị trí đình làng.
Đình Long Thành đã được tôn tạo khang trang từ hơn 10 năm trước bằng nguồn vốn xã hội hóa, nay vẫn còn nguyên vẻ đường bệ và vững chắc. Trước ngai thờ chính, phẩm vật cúng dâng lên mấy lớp. Là các loại bánh tét, bánh bò, bánh ít. Các mâm xôi gấc, xôi đậu đủ màu. Và các loại trái cây tươi ngon mơn mởn của quê hương.
Các đại biểu được mời vào thắp nhang cung kính dâng lên ngai thờ Thành hoàng. Xong, lại mời ra bàn thờ thần nông trước sân làm lễ. Đất quê, cây lúa vẫn là nguồn sống chính xưa nay của các xã Long Thành. Vậy nên, ai cũng cầu mong các linh thần ban cho mưa hòa, gió thuận. Sản vật nông nghiệp dồi dào, làm nền tảng cho điều mơ ước lớn hơn là quốc thái, dân an.
Nghi thức cho các quan khách đã xong. Giờ mới là lúc các vị cao tuổi, đạo cao đức trọng trong Ban Quý tế của đình làm lễ tế chính dâng hương hoa, quả phẩm lên Thành hoàng. Trống, chiêng điểm nhịp dội vang. Dàn nhạc lễ bổng trầm, thánh thót.
Các vị chánh tế, bồi tế vào vị trí. Học trò lễ nâng đèn nhang, quả phẩm trên tay, chân bước khoan thai. Nghi lễ này ở Đình Long Thành, từ hàng trăm năm qua vẫn giữ được bản sắc cổ truyền dân tộc. Chứng tỏ một sự tiếp nối của văn hóa Việt Nam bền bỉ, trường tồn.
Lễ đã hoàn tất. Nhưng ra đến cổng, khách vẫn được bà cháu một cụ già níu lại, tặng cho một phần lộc thần. Giở xem, mỗi phần ba chiếc bánh ú chặt chịa, thoảng thơm mùi lá chuối.
Vào hai ngày trước, ngày 16.3 âm lịch, Đình Hiệp Ninh của TP. Tây Ninh cũng vào Lễ hội Kỳ Yên. Theo Ban Quý tế hiện nay, đình cũng thờ cụ Trần Văn Thiện làm Thành hoàng. Nhưng thực ra là đình có sắc phong thời vua Khải Định ban cho làng Hiệp Ninh xưa thờ thành hoàng bổn cảnh.
Tờ sắc phong vẫn còn kia làm minh chứng. Và ngày 16.3 âm lịch mỗi năm, các vị trong Ban đều tổ chức lễ rước sắc thần từ trụ sở UBND phường 2 về lại ngôi đình. Ngay từ buổi sáng ngày này, sân đình đã rộn rã đông vui người về xem các tiết múa lân sư rồng, mở màn cho kỳ lễ hội. Nghi lễ tế chính diễn ra vào sáng ngày 17.3 âm lịch. Có điều, làng xưa nay đã thành phường. Nên nghi thức lễ hội Kỳ yên cũng phần nào đã bị nhạt nhòa trong thời đô thị hóa.
Trong những ngôi đình di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh, lễ Kỳ yên vào dịp rằm tháng 3 (âl), trùng với kỳ nghỉ lễ 30.4 có Đình Truông Mít (huyện Dương Minh Châu). Những tưởng là xã mới thành lập sau 1975, đình sẽ không có gì đặc biệt.
Vậy mà ngày cúng đình, ngôi đình này lại rất đông vui, có cả chủ tịch UBND huyện Trần Văn To cùng nhiều nhà doanh nghiệp về tham dự. Thấy ngôi đình xập xệ, ngói lở tường long nên doanh nghiệp Hùng Diệp đã hỗ trợ ngay một khoản tiền hàng chục triệu để góp phần xây sửa đình làng.
Theo Ban Quý tế, Đình Truông Mít thờ ông Trạng Bảy, có tên thật là Phan Văn Mật. Ông là một vị tướng trong đội quân của Quan lớn Trà Vong Huỳnh Công Giản. “Sinh vi tướng, tử vi thần” theo quan niệm dân gian, khi ông mất, dân làng lập miếu thờ ông cùng các vị anh hùng hào kiệt một thời chống giặc, bảo vệ dân lành làm ăn sinh sống trên vùng đất mới.
Đình Truông Mít có khuôn viên rộng lớn, còn cả bàu gò thời xa xưa mọc nhiều cây rừng cổ thụ. Trong câu chuyện với cụ Phan Văn Duy, Trưởng Ban Quý tế đình, cụ còn nhớ về những bậc tiền nhân thời mở đất.
Như cụ cố nội Phan Văn Gồng từng đánh cọp khi Truông Mít còn hoang vu, cọp thường xuất hiện bắt người. Người diệt cọp nhưng vẫn tôn trọng sức mạnh của chúa sơn lâm, nên đình vẫn có ngôi miếu nhỏ thờ “ông Hổ”. Miếu này ở sau đình, trên một gò đất nhỏ, cũng nghi ngút khói nhang thơm cùng các đĩa tam sên, hoa trái…
Còn trên các bàn thờ chính, dĩ nhiên là đầy ắp những hương hoa, heo quay và bánh trái. Cuối tháng tư, cái bàu vuông nuôi cá trước đình đã nở đầy hoa súng tím. Phía bên lối vào còn có một hồ sen. Dưới bóng cây cao rợp tán, người người vào ra tấp nập.
Toàn dân thôn ấp hầu như đã quen biết nhau, hoặc làm ăn xa mới về, nên ríu rít bên nhau, tay bắt mặt mừng. Ôi, Đình Truông Mít! Cái tên nghe đã thấy xa xôi heo hút thuở nào, nay đã trở nên một chốn đông người, cảnh tượng tưng bừng xôn xao mặt nước. Lễ Kỳ Yên Đình Truông Mít. Lần đầu tới đây mà vẫn thấy có gì gần gũi, thân quen.
Đi qua Lễ hội Kỳ Yên của mấy ngôi đình đã được công nhận di tích lịch sử văn hóa vào đúng dịp có kỳ nghỉ dài ngày, vậy nên làng phố đỏ cờ bay, đình tạ rợp cờ thần. Các hội đình vẫn tưng bừng là nhờ có sự quan tâm của các cấp chính quyền địa phương, lẫn những tấm lòng thành tâm tín ngưỡng của người dân, dù trong cuộc sống đời thường vẫn có thể còn nhiều gian khó.
Với nhiều cố gắng, các vị trong Ban Quý tế vẫn duy trì được vào hai dịp “xuân thu nhị kỳ” các mùa Lễ hội Kỳ Yên và cầu bông, giữ được bản sắc văn hóa dân gian tại các ngôi đình, dù ở quê hay ở phố phường.
Lễ Hội Kỳ Yên Nam Bộ
Lễ hội Kỳ Yên đình Tân Chánh – Long An 29/05/2013 8:21
Đình Tân Chánh và Lăng mộ Nguyễn Khắc Tuấn (xã Tân Chánh, huyện Cần Đước) được xếp hạng di tích lịch sử – văn hóa năm 2012, là một di tích có giá trị về lịch sử, tư liệu, kiến trúc lăng mộ, đình làng, gắn liền với lịch sử khai phá đất phương Nam của lưu dân người Việt trên vùng đất cận biển Cần Đước, Cần Giuộc và nhân vật lịch sử Nguyễn Khắc Tuấn. Ngày mồng 5 mồng 6 tháng hai (AL) hàng năm, nơi đây còn diễn ra lễ hội Kỳ Yên. Như bao lễ hội Kỳ Yên khác ở Long An và Nam Bộ với các nghi lễ nông nghiệp truyền thống như Tỉnh Sanh, Túc Yết, Đoàn Cả… để tạ Thần Thành Hoàng bổn cảnh, thể hiện khát vọng cầu quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, an cư lạc nghiệp…, trong Lễ hội Kỳ Yên đình Tân Chánh còn có lễ Tống phong đậm phong cách văn hóa của cư dân cận biển và lễ Thỉnh sắc từ Đình đến lăng Nguyễn Khắc Tuấn. Xin giới thiệu loạt ảnh về lễ hội này trong lễ Kỳ Yên năm Quý Tỵ vừa qua.
.
.
Thuyền được đưa xuống phà ra sông Vàm Cỏ
.
.
Bài và ảnhNguyễn Tấn Quốc
Lễ Kỳ Yên (Lễ Thượng Điền) – Đình Bình Thủy Cần Thơ Lễ Kỳ Yên được các ngôi đình ở thành phố Cần Thơ tổ chức cúng vào 3 ngày khoảng giữa tháng ba, tháng 4 âm lịch. Cá biệt có nơi cúng vào tháng Bảy âm lịch, như đình thần Vĩnh Trinh. Còn lễ Kỳ yên Thượng Điền được tổ chức vào khoảng 2 hoặc 3 ngày giữa tháng 11 âm lịch.Thỉnh Sắc Thần Lễ Kỳ Yên Bình Thủy Cần Thơ
Kỳ yên tức là cầu an, mỗi đình tổ chức lễ cúng vào một ngày khác nhau. Lễ cúng thần dâng lễ vật để tỏ lòng tôn kính đối với Thành Hoàng. Thượng điền và Hạ điền là hai kỳ lễ lớn trong năm. Lễ Hạ điền tổ chức vào đầu mùa mưa, có ý nghĩa như là lễ xuống đồng, khai trương việc cày cấy. Lễ Thượng điền cử hành vào cuối mùa mưa, lúc đã thu hoạch các sản phẩm nông nghiệp. Do lễ Kỳ yên và lễ Thượng điền, Hạ điền có nghi thức cúng tế gần giống nhau nên các ngôi đình ở Cần Thơ đã nhập hai kỳ lễ này thành một, gộp lại để cúng chung. Trong các dịp cúng đình, ban tế tự thường ghi trên thiệp mời là lễ Kỳ yên Thượng điền hoặc lễ Kỳ yên Hạ điền. Trịnh Hoài Đức ghi lại trong “Gia Định thành thông chí” như sau: “Tế xã: mỗi làng xây dựng một ngôi đình, kỳ tế phải trước lựa ngày tốt, đến buổi chiều ngày ấy lớn nhỏ đều nhóm lại đình, suốt đêm ấy gọi là túc yết sáng sớm ngày mai áo mão trống chiêng làm lễ chính tế, ngày sau nữa làm lễ dịch tế, gọi là đại đoàn, lễ xong lui về. Dùng ngày giờ cúng tế tùy theo hương tục không đồng nhau, hoặc chỗ dùng tháng giêng là thủ nghĩa Xuân kỳ, hoặc chỗ dùng tháng 8, 9 là thủ nghĩa thu báo, hoặc chỗ dùng trong 3 tháng mùa đông, thủ nghĩa là trọn năm thành công, tế chưng tế lạp là đáp tạ ơn thần, sự tế có chủ ý, đều gọi là Cầu an. Ngoài hương lệ, tọa thứ có nghi tiết thứ tự đều nhượng cho vị hương quan ngồi trên, hoặc làng nào có người học thức làm theo lễ “Hương ẩm tửu”, giảng quốc luật và hương ước, ấy gọi là làng có phong tục tốt. Đồng thời trong ngày ấy xét sổ sách trong làng coi một năm ấy thâu nạp thuế khóa, diêu dịch, lúa tiền dư thiếu thế nào, nông điền được mất thế nào, giữa hội đồng trình bày tính toán; cùng bầu cử người chức sự coi làm Việc làng cũng bàn giao trong ngày ấy”. Lễ vật cúng thần Thành Hoàng trong dịp này tùy tình hình tài chính của đình, cũng như tùy vụ mùa hàng năm, trúng mùa hay thất mùa mà có sự gia giảm khác nhau, nhưng nhất thiết trên bàn lễ vật phải có một con heo quay, có nơi thì cúng thêm ngỗng, vịt. Ngoài ra, còn có bánh trái, trà rượu và một thứ nữa cũng không thể thiếu trong dịp này đó là xôi. Xôi này phần lớn do dân làng ở địa phương nấu sẵn đem vào cúng. Ngày xưa, đất đai của đình rộng nên thường cho dân làng mướn làm lúa để đình thu huê lợi. Cho nên, trong những dịp cúng đình, những người mướn đất của đình để canh tác mới nấu xôi đem vào đình để cúng, nhằm tạ ơn thần đã cho họ được no ấm, mùa màng tốt tươi. Những người không mướn đất của đình cũng đem hoa quả trong vườn của mình, cũng đem xôi, thịt đến đình để cúng thần Thành Hoàng làng mình. Bởi họ cho rằng, chính vị Thành Hoàng làng này trong năm đã che chở cho dân làng, phù hộ cho dân làng được yên ổn làm ăn, có cuộc sống no đủ. Truyền thống này ngày nay vẫn còn được duy trì trong mỗi dịp cúng đình ở Cần Thơ. Trong lễ hội Kỳ yên này, hầu hết các ngôi đình ở Cần Thơ đều có tổ chức lễ rước sắc thần và lễ hồi sắc. “Sắc thần là một tờ giấy súc khá tốt, dai, khổ giấy từ 1m20 đến 1m50 với chiều dài, từ 0,50m đến 0,60m với chiều rộng, dày, màu vàng. Mặt giấy có in nền chìm bằng dụ ngân hình rồng ẩn trong mây, chung quanh có khung hồi văn chữ vạn, nên gọi long đằng chỉ (giấy hình rồng dùng để sao chép), hoặc chữ đinh hay hoa lá dây chéo nhau. Mỗi sắc thần thường có từ 5 đến 11 hàng dọc, chép từ phải qua trái. Dòng cuối cùng đề niên hiệu, tháng, ngày cấp sắc. Ấn vàng của nhà vua dùng son phụng màu đỏ đóng lên hàng chữ đề niên hiệu, ngay giữa dòng chữ này, kể từ chữ (niên) trở xuống, ấn hình vuông, có bốn chữ viết theo lối triện là Sắc Mệnh Chi Bửu”2. Cúng Đình Ngày xưa, sắc thần thường để ở nhà các hương chức cất giữ, hoặc để trong nhà của những người trong ban tế tự. Đó là những người đủ uy tín, phẩm hạnh mới được giao giữ sắc thần. Bởi vì ngày xưa, thỉnh thoảng có xảy ra hiện tượng mất cắp sắc thần nên sau này người ta không dám cất sắc thần trong đình. Sắc thần là thiêng liêng cho nên đình nào có sắc thần là xem như sự công nhận hợp pháp của nhà nước đối với đình thần làng mình. Còn đình nào không có sắc thì chẳng khác nào “đình chui”, không đủ uy tín để mọi người tin tưởng đến cúng bái và cũng không đủ hiển linh để người ta đến cầu nguyện. Cho nên có những đình không có sắc thần thường tìm cách mua lại sắc thần của những kẻ trộm. Sắc thần ở Cần Thơ phong cho các vị Bổn Cảnh Thành Hoàng phần lớn là những vị thần trong ý niệm, hữu danh vô thực cho nên việc đình này mua lại sắc thần của đình kia cũng chẳng phương hại gì. Cái nào cũng là “Sắc phong Bổn Cảnh Thành Hoàng” chứ không hề có danh tánh cụ thể. Theo niềm tin của người xưa, sắc thần là thiêng liêng nên phải cất kỹ, không thể tùy tiện mở, nên không dễ mấy ai nhìn kỹ sắc thần. Một số ngôi đình ở Cần Thơ còn có lệ phơi sắc thần. Lệ phơi sắc này gồm hai mục đích: Thứ nhất, sắc thần được để trong hộp, cất kỹ suốt năm nên rất dễ bị ẩm ướt, mối mọt nên trong lễ cúng đình người ta đem sắc ra phơi là để kiểm tra xem sắc có bị hư hỏng không và cũng là để cho sắc có sự thông thoáng tránh bị ẩm ướt. Thứ hai, phơi sắc cũng là sự tự hào của đình làng mình vì đình mình có sắc. Điều này cũng để cho mọi người thấy đình làng mình là “đình chính thức” có sắc hẳn hoi, có sự công nhận đàng hoàng. Nghi lễ thỉnh sắc thường bắt đầu bằng một hồi trống để báo cho dân làng biết để đến cùng đi thỉnh sắc và cũng là một cách báo cho dân làng biết để bày hương án hai bên đường cúng tạ ơn thần (Lệ bày hương án hai bên đường ở Cần Thơ ngày nay đã không còn). Kế tiếp là chiêng, trống gióng lên báo hiệu cho cuộc rước bắt đầu. Đi đầu đám rước thường là chiêng, trống, kèn, kế đó là các vị chức sắc, những người trong Ban tế tự – những người này có nhiệm vụ như là những người dẫn đầu đám rước. Kế đó là hai viên chức trong làng. Một ôm ấn kiếm – kiếm của thần và một ông kia bưng dàn lỗ bộ nhỏ.Diễn tuồng trong lễ hội Kỳ Yên
Lễ hội Kỳ yên Thượng điển hút khách thập phương
Lễ hội Kỳ yên Thượng điền – một trong những lễ hội đình lớn nhất tại Cần Thơ và các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long – sẽ diễn ra trong ba ngày từ 21-23/5 (nhằm ngày 12-13-14 tháng Tư âm lịch).
Đình Bình Thủy còn có tên là “Long Tuyền Cổ Miếu” tọa lạc tại phường Bình Thủy, quận Ninh Kiều, cách thành phố Cần Thơ 4km trên quốc lộ 1A Cần Thơ đi An Giang.
Đình được xây dựng cách đây 161 năm, được sắc vua Tự Đức ban là “Bổn Cảnh Thành Hoàng” vào năm 1852, hiện xếp vào hàng cổ kính của Đình chùa Việt Nam, có mỹ quan kiến trúc nghệ thuật đặc sắc.
Trong ba ngày diễn ra Lễ hội Kỳ yên Thượng điền, khách thập phương và nhân dân trong thành phố Cần Thơ tấp nập lễ vật, hương đăng, cờ hoa rực rỡ về dự lễ cúng đình rất đông vui.
Toàn bộ kinh phí tổ chức lễ hội đều được xã hội hóa. Chín lễ và chín hội diễn ra trong suốt ba ngày đêm như lễ đưa sắc thần du ngoạn, lễ tếthần nông, lễ thay khăn sắc thần, lễ dâng tế, lễ túc yết, hội hát xếp, hát tuồng, cải lương, múa rồng, ẩm thực và các trò chơi dân gian, thu hút hàng chục ngàn lượt người đến dự hội.
Lễ hội Kỳ yên Thượng điền ở Đình Bình Thủy Cần Thơ được duy trì thường niên, là một trong nhiều lễ hội mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống của miền đất Nam Bộ Việt Nam.
Lễ hội năm nay do Sở Văn hóa Thông tin thành phố Cần Thơ, Ban quản lý di tích văn hóa lịch sử thành phố, Ban quản trị Đình Bình Thủy phối hợp với nhiều cơ quan, đơn vị, địa phương long trọng tổ chức./.
Trần Khánh Linh (TTXVN)
Đình Phú Lễ cúng Kỳ yên năm 2013 Ngày đăng: T5, 02/05/2013 Trong 2 ngày 27 và 28/4/2013 (nhằm ngày 18 và 19 tháng 3 năm Quý Tỵ) Đình Phú lễ (Ấp Phú Khương, xã Phú Lễ, huyện Ba Tri) đã tổ chức lễ hội kỳ yên, cầu quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, vạn gia thịnh vượng,.. Đình Phú Lễ được xây dựng vào năm Minh Mạng thứ 7 (1826), trên cơ sở ngôi đình bằng gỗ lá, được sắc phong vào năm Tự Đức thứ 5 (1851). Thềm và móng được cấu trúc bằng đá xanh, bên trên xây gạch. Đình gồm 10 gian: 6 gian chính và 4 gian phụ bố trí theo lối chữ “Đinh”. Đình chính gồm võ ca, viên đường, thính đường, chánh đường và hậu đường. Cột đình bằng gỗ lim, đường kính 40cm, mái lợp ngói vảy cá.Căn cứ vào bia còn lưu lại tại đình cho biết niên đại xây đình vào năm Minh Mạng thứ 7(1826) trên cơ sở ngôi đình bằng gỗ lá, được sắc phong vào năm Tự Đức thứ 5(1851). Thềm và móng được cấu trúc bằng đá xanh, bên trên xây gạch. Đình gồm tất cả 10 gian: 6 gian chính dính liền với mái và 4 gian phụ bố trí theo lối chữ “Đinh”. Đình chính gồm võ ca, viên đường, thính đường, chánh đường và hậu đường. Cột đình bằng gỗ lim, đường kính 40cm, mái lợp ngói vảy cá. Đình Phú Lễ là đình có quy mô lớn (diện tích 7.929m2) và đẹp vào bậc nhất của các làng quê ven biển Bến Tre. Đình nằm trong khuôn viên rộng, dưới bóng mát của nhiều cây cổ thụ làm tôn lên vẻ uy nghiêm trầm mặc vốn có của đình. Qua thời gian và chiến tranh các công trình và hiện vật bài trí bên trong đình như hương án, hoành phi, cuốn thư, bình phong, bao lam,… đã bị xuống cấp và hư hỏng nhiều. Tuy nhiên, những phần cơ bản về kiến trúc vẫn còn nguyên vẹn không bị bom đạn tàn phá, đặc biệt những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc gỗ sơn son, thếp vàng còn lưu giữ được đến hôm nay.Ban Khánh tiết đình Phú Lễ đang thực hiện nghi thức cúng Kỳ yên. Ảnh T.H.H.
Ngày 07/01/1993, đình Phú Lễ được Bộ văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia. Hàng năm, lễ hội tại đình Phú Lễ diễn ra hai lần: Lễ Kỳ yên vào 18-19 tháng 3 âm lịch để cầu mưa thuận gió hòa, và lễ Cầu bông vào ngày 9 – 10 tháng 11 âm lịch cầu cho mùa màng tươi tốt. Lễ hội có rước sắc thần, lễ tế Thành Hoàng, tế Tiền hiền, Hậu hiền (khai khẩn, khai cơ), các gian hàng trưng bày sản phẩm và tổ chức các trò chơi dân gian. Đêm hội có hát bội, ca nhạc tài tử và hát cải lương.
Trần Hoàng Huấn Lễ kỳ yên đình Phú Nhuận – TP HCM
Ảnh: Internet
(Cinet) – Lễ kỳ yên đình Phú Nhuận, được tổ chức vào khoảng 16-18 tháng 01 âm lịch hàng năm, tại 18 đường Mai Văn Ngọc phường 10, Phú Nhuận TP Hồ Chí Minh. Trong lễ có các nghi thức tụng kinh cầu an, lễ tế, nghi thức tôn vương và hồi chầu nhằm suy tôn Phật, thần, các vị tiền hiền, hậu hiền.
Tuy nhiên, cũng có ý kiến khác cho rằng: Đình Phú Nhuận được tái thiết vào năm 1852, nghĩa là đình đã có từ trước đó. Theo di tích còn lại hiện nay, là một cây đòn võng trên nóc đình có khắc chữ Hán ” Tự Đức ngũ niên “, nghĩa là năm Tự Đức thứ năm – tức năm 1852. Đình được tái thiết, vì lúc đầu, nằm ở vị trí khác, bên bờ một con kinh đào (đã lấp), bên cạnh chùa Cây Sai (chùa Phú Thạnh) trên con đường Huỳnh Văn Bánh hiện nay. Vào khoảng giữa thế kỷ 19, dân cư bắt đầu quy tụ về vùng Phú Nhuận, phần lớn, họ thuộc gia đình binh sĩ vào đóng ở trấn Phiên An, hoặc di dân từ “đàng Ngoài” vào. Ông Lê Tự Tài, quê ở Bắc Bộ vào Gia Ðịnh rất sớm, có công huy động dân khẩn hoang, lập ấp ở quanh vùng cầu Kiệu. Ông Tài, từng là thôn trưởng thôn Phú Nhuận và trở thành Xã trưởng, khi Phú Nhuận đổi thành xã, do đó, người ta quen gọi ông là xã Tài. Nhận thấy đình Phú Nhuận, trước kia nằm ở vị trí vùng trũng, gần rạch Thị Nghè, thường bị lầy lội vào mùa mưa nên xã Tài hiến cho làng Phú Nhuận hai mẫu đất trên gò Kim Qui, để dời đình về vị trí hiện nay.
Theo các tài liệu hiện có ở đình, năm 1852 khi mới tái thiết, đình Phú Nhuận, do hội tề làng Phú Nhuận quản trị, kinh phí xây dựng do quỹ làng xuất ra và một phần do dân làng tự ngyện đóng góp.
Lễ Kỳ yên bắt đầu bằng nghi thức tụng kinh cầu an của Phật giáo, tiếp theo là phần múa lân và biểu diễn võ thuật cổ truyền, các nghi thức tế thần, tế tiền hiền, hậu hiền. Buổi tối có phần xây chầu, đại bội và hát bội. Ngày thứ hai và thứ ba có nghi thức tế nam quan, nữ quan theo truyền thống Bắc bộ. Chấm dứt lễ hội là nghi thức tôn vương và hồi chầu theo truyền thống các đình Nam bộ./.
Cinet tổng hợp Lễ Hội Kỳ Yên Vĩnh Long
Lễ Hội Kỳ Yên: Chương trình lễ kỳ yên thường kéo dài hai ngày một đêm, gồm có các nghi lễ chính là: lễ thỉnh sắc thần; lễ tế Thần Nông, cúng miễu, liệt sĩ; lễ Túc yết; lễ Chánh tế; lễ cúng Tiền hiền, Hậu hiền, Hội viên quá vãng; lễ đưa sắc thần. Mục đích của lễ kỳ yên là tế thần thành hoàng để cầu quốc thái dân an, xóm làng thịnh vượng, no ấm. Các đình đều thờ Tiền hiền, Hậu hiền là những người có công quy dân lập làng hoặc bỏ tiền của xây dựng các công trình phúc lợi công cộng đầu tiên để lại gương soi cho đời sau. Cho nên nói chung, lễ kỳ yên mang ý nghĩa là ngày giỗ hội của làng. Các nghi lễ thường giống nhau, gồm một tiết mục dâng hương, ba lần dâng rượu, một lần dâng trà. Cuối một nghi lễ đều có một bài văn tế thay cho lời khấn, nội dung gồm những lời tán dương thần thánh và lời cầu nguyện của dân làng. Khi tế lễ phải có dàn nhạc cụ gõ nhịp gồm: mõ, chiêng, trống, chuông. Trong thực tế, ở lễ kỳ yên thì phần “lễ” chiếm phần quan trọng hơn phần “hội”. Các đối tượng cúng lễ là một tập hợp thần linh đông đảo không chỉ riêng có thần Thành hoàng bổn cảnh. Lễ kỳ yên là dịp để dân làng họp mặt, bàn chuyện gia đình yên ấm, vui chơi. Xưa kia, ở các đình còn có tục cứ ba năm đáo lệ tổ chức hát bội, cúng thần giúp vui bá gia, bá tánh. Những tục lệ này nhằm thắt chặt tình cộng đồng. Còn hát xướng trong ngày lễ kỳ yên không phải là văn nghệ bình thường mà mang nội dung nghi lễ. Chương trình văn nghệ phải có nội dung đạo lý, kết thúc có hậu. Lễ kỳ yên còn là dịp để các nghệ nhân thể hiện sự khéo léo như chưng hoa, kết quả. Buổi lễ cũng là dịp cho người làm vườn giới thiệu các loại cây trái mới, người làm ruộng giới thiệu các giống nếp ngon qua tài nữ công của chị em phụ nữ. Tuy nhiên, tiệc tùng trong ngày lễ kỳ yên chỉ mang tính liên hoan, chiêu đãi, hoàn toàn không có tục “chiếu trên, chiếu dưới” nhậu nhẹt say sưa. (internet)
Lễ hội Kỳ Yên ở đình Gia Lộc – Tây Ninh
Theo Địa chí Tây Ninh, cách đây trên 300 năm, những người dân Việt đầu tiên đã tiến về phương Nam, khai phá đất đai ở lưu vực sông Vàm Cỏ Đông, lập nên những khu dân cư mới. Khu Bình Tịnh – Phước Lộc là khu đất đầu tiên của Tây Ninh được khai phá và làng Bình Tịnh, xã An Tịnh, làng Gia Lộc, thị trấn Trảng Bàng, huyện Trảng Bàng là 2 làng cổ nhất của Tây Ninh.
Trong tiến trình khai hoang, lập ấp ở Trảng Bàng, ông cả Đặng Văn Trước là người có công lớn. Để ghi nhớ ơn ông, nhân dân trong làng đã xây đền thờ ông, rồi tôn ông làm Thành hoàng làng, thờ tại đình Gia Lộc, thị trấn Trảng Bàng, huyện Trảng Bàng. Hàng năm, nhân dân tổ chức lễ hội tại đình, hay còn gọi là lễ cúng đình, lễ Kỳ Yên, từ ngày 14 đến 16 tháng 3 (Âm lịch), để cầu nguyện cho mưa thuận gió hoà, một năm an lành, mùa màng bội thu, cũng là để kỷ niệm ngày ngày mất của ông.
Theo các bậc cao niên, từ năm 1926, sau khi đình được trùng tu, lễ kỳ yên ở đình Gia Lộc đã được tổ chức liên tục cho đến ngày nay, trở thành nề nếp sinh hoạt tín ngưỡng dân gian của người dân đất Trảng.
Lễ hội được tổ chức tại đền Ông cả Đặng Văn Trước và đình Gia Lộc. Vào 6 giờ sáng ngày 14 tháng 3, dân làng tiến hành làm lễ thỉnh sắc thần từ đền Ông cả về đình Gia Lộc. Sau khi Trưởng ban nghi lễ niệm hương xin thỉnh hàm ấn, Chánh lễ lấy sắc thần được bọc bằng vải hay lụa đỏ đựng trong một chiếc ống thiếc có nắp đậy, trải sắc ra, bọc cuốn lại bằng khăn điều mới, rồi đặt lên kiệu. Kiệu trang hoàng lộng lẫy, sơn son thếp vàng, do 4 lính thú khiêng. Đi theo kiệu có 2 Đào thài, 2 Trò lễ, dàn nhạc, quân hầu cầm 16 binh khí, tàn, lọng. Việc thỉnh sắc thần thể hiện lòng tôn kính, niềm tự hào của dân làng đối với Thành hoàng làng. Đoàn người tham gia lễ thỉnh sắc thần kéo dài hàng cây số. Dẫn đầu là lân, rồng, kế đến là ngựa có đai, yên phủ vải đỏ, có lính thú dẫn đường.
Sắc thần được rước vào đình, tiến hành cúng an vị, cúng tiền vãng (cúng những vị có công xây dựng đình).
Sau cúng tiền vãng là lễ túc yết (lễ xin ra mắt, yết kiến, một trong những nghi lễ không thể thiếu trong lễ kỳ yên). Phẩm vật chính bao gồm : 2 con heo quay, 1 con heo sống để tưởng nhớ thời ông cha ăn lông, ở lỗ, xôi, bánh trà, hoa, rượu… Sau khi trống đổ ‘tiếp giá nghinh thiêng’, trên nền nhạc Nam xuân, Nam ai, Đảo ngũ cung, có Đào thài, 14 học trò lễ lần lượt dâng cúng 3 tuần rượu, 1 tuần hương, 4 tuần trà. Học trò lễ cung kính dâng lên các vị thần lễ vật bày tỏ lòng tri ân của nhân dân đối với Thành hoàng, Tiền hiền, Hậu hiền, những người có công mở mang bờ cõi, có công xây dựng đình như hôm nay. Trong lễ túc yết, lễ thức quan trọng là phần khấn nguyện, ngưỡng vọng linh thần, Thành hoàng bản cảnh xã Gia Lộc – Ông cả Đặng Văn Trước. Tiếp đến là nghi lễ ẩm phước, phân phát lộc của các vị thần đến các ông Chánh tế, Bồi tề, Đông hiến, Tây hiến.
Trong lễ kỳ yên, lễ xây chầu – đại bội (chầu hát cầu mùa màng bội thu) là lễ thức quan trọng. Xây chầu không thể thiếu trống chầu. Người xây chầu là người cao tuổi, thể hiện sự trường thọ, người có đạo đức và nắm rõ nghi thức hành lễ. Trống chầu ở đình Gia Lộc là loại trống đại, có từ lâu đời. Cụ Nguyễn Văn Kềm, 88 tuổi, đã trông nom đình 45 năm cho biết, lúc nhỏ đến chơi ở đình đã thấy trống chầu này. Trống chầu phải được đặt đúng hướng, đúng luồng sinh khí để tránh những điều kỵ với chủ tế. Trống trở thành thái cực linh thiêng. Vì vậy, không ai được bước lên sân khấu, hoặc trải chiếu dưới trống. Người ta tin rằng, tiếng trống thái cực đêm khuya chẳng những làm cho thông thiên triệt địa, khiến cho hoàng thiên hậu thổ, thánh thần cảm ứng, mà còn tiêu diệt phiền não và khổ ải, đem lại sự an lạc, hòa ái. Tiếng trống sẽ xua tà ma, yêu quái tránh xa, biến mất. Tiếng trống còn có một sinh lực thức tỉnh con người, tránh xa những điều xấu, đoàn kết làm những điều lành cho quốc thái dân an.
Dương Anh (Theo Hồ sơ di sản, tư liệu Cục Di sản văn hóa)
Lễ Kỳ Yên ĐÌNH LONG THÀNH – Tây Ninh
1. Tên di tích: Đình long thành2. Loại công trình: Đình3. Loại di tích: Lịch sử4. Quyết định: Đã xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia theo quyết định số 1430 QĐ/ BT ngày 12 tháng 10 năm 19935. Địa chỉ: Xã Long Thành Nam – Huyện Hòa Thành – Tỉnh Tây Ninh.6. Thông tin về di tích Cách đây 161 năm, vùng đất ” Ngũ Long”: Long Giang, Long Khánh, Long Chư,õ Long Thuận, Long Thành, được cha ông khai phá lập nên những ruộng lúa, vườn rau. Trãi qua các thế hệ nối tiếp nhau đã xây dựng nên vùng đất Long Thành trù phú, sầm uất, dân cư đông đúc, xây dựng cuộc sống an bình thịnh vượng như ngày nay.
Hôm nay đứng trước đình thần uy nghi trầm mặc chúng ta kính cẩn nghiêng mình dâng hương trong Lễ Kỳ Yên tưởng nhớ và ghi ơn ông cha ta đã một thời đầu trần chân đất, khai phá rừng hoang, đặt dấu ấn đầu tiên của người Việt bằng cách xây dựng ngôi đình làng. “Đình Long Thành” được khởi công vào năm 1883 (năm Tự Đức thứ 36) thờ vị tiền hiền có công cùng nhân dân khai hoang mở đất (cụ Trần Văn Thiện và những người đương thời).
Cụ Trần Văn Thiện sanh năm Ất Mão (1795) tại làng Trung Lập, phủ Bình Long, tỉnh Gia Định. Vào năm Thiệu Trị nguyên niên 1841 cụ làm thôn trưởng Thôn Trung Lập. Đến năm 1844 cụ xin thôi làm Trưởng Thôn và cùng thân sinh là Trần Văn Quế đi kinh lý vùng đất Tây Ninh. Ngược sông Vàm Cỏ Đông, thấy đất hoang rừng rậm nhiều, không người khai phá, cụ dừng lại vùng Bến Cầu và di dân lập ấp, vì nơi đây tiện sông nước kênh rạch, đất đai màu mỡ. Trãi qua năm tháng cần mẫn phá rừng, khai hoang, tháo chua, rửa mặn, dân cư ngày càng đông đúc. Bến cầu còn gọi là chợ Cầu là trung tâm giao dịch, buôn bán trao đổi sản vật, chợ họp trên sông, tấùp nập trên vùng đất mới gồm 04 xã Long Giang, Long Khánh, Long Chử, Long Thuận.
Sau khi cụ thân sinh qua đời năm 1844. Cụ Trần Văn Thiện và một số người cùng chí hướng tiếp tục khai phá vùng đất mới. Cụ tập họp dân mở đất từ Rạch Rể đến rạch Cái Răng. Sau nhiều năm diệt thú dữ, đốn cây rừng lấy củi, lấy dầu chai và lâm sản đóng thuyền, ghe một vùng đất mới Long Thành được mở rộng. Những ruộng lúa vươn dài từ Bàu Sen (phía Đông), Bàu Đưng (phía Tây), Bàu Cây Cám phía Bắc).
Vào năm Thiệu Trị thứ 4 ngày 11-07-1844 Long Đình Thôn ( nay là Long Thành)Thái Định Long Thôn (nay là Hiệp Ninh) được thành lập. Hai năm sau -năm 1846- Long Thới Thôn, Thái Bình Thôn, Thái Hiệp Thôn là 3 làng xung quanh Phủ Tây Ninh được lập ra. Trong vòng 10 năm sau, từ Ngũ Long, đến Thái Đình, Thái Bình, Thái Hiệp, Long Thới đã có trên 08 làng nữa được lập ra.
Để giữ gìn biên cương cụ Trần Văn Thiện đã qui tụ dân nam lên ngã ba Vàm Trảng Trâu – Lò Gò lập nên Long Phú Thôn, vừa lao động khai hoang, vừa chiến đấu với giặc để giữ đất. Nhân dân trong vùng dưới sự chỉ huy của cụ Trần Văn Thiện lập ra một đội dân binh với gươm, giáo… cùng với tinh thần thượng võ đă đánh tan nhiều trận cướp phá của thổ dân Cao Miên…… Đội dân binh thường xuyên luyện tập võ nghệ, phân tán nhỏ, vừa sản xuất vừa chiến đấu ( tịnh vi nông, động vi binh ) để giữ gìn an ninh cho dân thôn xóm. Dân chúng công cử và được quan tri huyện cử cụ Trần Văn Thiện giữ chức cai tổng Hòa- Ninh từ ngày 08 tháng 10 năm Mậu Thân 1848 ( năm Tự Đức nguyên niên). Cụ chống lại sưu cao, thuế nặng và phản đối quan lại địa phương chuyên quyền, bốc lột, đàn áp dân chúng. Nhiều lần đệ đơn xin ân xá các tội phạm trong ngục tù, khuyến khích tội phạm ra đầu thú, rồi tổ chức họ mưu sinh, lập nghiệp lương thiện làm ăn.
Tuy tuổi đã cao, cụ vẫn một lòng giúp dân khai khẩn đất đai lập nghiệp và giữ đất. Suốt 40 năm cùng nhân dân khai phá đất Tây Ninh tạo nên một vùng đất đai bên bờ sông Vàm Cỏ chạy dài từ Cẩm Giang qua phủ Tây Ninh dọc theo đường xuống đến Vàm Trảng Trâu – Lò Gò. Cụ đã để lại cho đời sau biết bao công đức, tính kiên trì, nhẫn nại, vượt bao khó khăn hiểm nguy.
Cụ qui tiên ngày 18-09-1883 ( thọ 89 tuổi)- năm Tự Đức thứ 36, nhân dân dịa phương vô cùng thương tiếc, chôn cất cụ tại Bến Kéo và lập ngôi đền thờ tại nơi đây. Một sự kiện lịch sử lớn lao cũng đã xảy ra nơi đây, đó là vị anh hùng dân tộc Trương Quyền. Năm 1886 nghĩa binh của Bình Tây Đại Nguyên Soái dưới sự chỉ huy của Trương Quyền đã tiến quân đánh thẳng vào Đồn Thuận Kiều ( Chợ Lớn), đánh tan quân Pháp ở Bà Điểm-Hóc Môn, vượt lên phá giăc ở Củ Chi, Trảng Bàng, rồi lập căn cứ kháng chiến ở An Cơ. Tại đây trong tháng 6 năm 1886 nghĩa quân Trương Quyền đánh 3 trận lớn, giết tỉnh trưởng Laccơ Laugiơ, quan năm Macse Giơ và thừa thắng đánh thẳng vào tỉnh lỵ Tây Ninh, phá nhiều công sở, trại lính Pháp. Sau đó ông phân tán nghĩa quân hoạt đông khắp miền đông và miền tây Nam Bộ. Trương Quyền trở về Bến Kéo ( Long Thành) dưỡng bệnh và tạ thế ở đây vào ngày 20-08-1871.
Suốt gần 150 năm, sinh phần cụ Trần Văn Thiện và Trương Quyền được nhân dân chăm sóc hương hoa, gìn giữ nơi an nghỉ của hai vị có công lớn với dân, với nước. Đình Long Thành (xã Long Thành Nam, Huyện Hòa Thành ) đã được Bộ Văn Hóa Thông Tin công nhận là ” Di tích lịch sử văn hóa”. Mong rằng nhân dân chúng ta hãy xứng đáng với Tổ Tiên ngày trước, bảo vệ và phát huy truyền thống lao động để xây dựng cuộc sống mới ngày càng phồn vinh, hạnh phúc, an khang và thịnh vương.
Nguồn: ditichlichsuquocgia.violet.vn/
Nguồn: Internet
Lễ Cúng Kỳ Yên Đình Thái Bình
Trong hai ngày 1-2.1.2023 (nhằm 15-16.11 Đinh Dậu), Đình Thái Bình tổ chức Lễ cúng Kỳ Yên. Đây cũng là dịp kỷ niệm 100 năm sắc phong Thành Hoàng Bổn Cảnh (1917-2023).
Lễ cúng Kỳ Yên Đình Thái Bình được tổ chức hằng năm gồm các nghi lễ truyền thống như rước Sắc Thần, các nghi thức cúng cơm chay, cúng cầu Quốc thái dân an, cúng tế Linh Thần, cúng Thần Nông, Lễ Hồi sắc… nhằm cầu quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, cầu cho công việc lao động sản xuất của nhân dân được thuận lợi, đời sống ấm no, hạnh phúc.
Đình Thái Bình (khu phố 4, phường 1, thành phố Tây Ninh) được xây dựng trên 100 năm, thờ Thần Hoàng Bổn Cảnh Võ Văn Oai – là vị quan đại thần triều đình Huế. Ngày 18.3.1917, vua Khải Định năm thứ II đã sắc phong đình thành Thái Bình. Năm 1994 Đình Thái Bình được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng là Di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia và được trùng tu tôn tạo vào năm 2013.
Ông Trần Ngọc Hai – Hội phó Hội Quý tế Đình Thái Bình cho biết, bên cạnh Lễ cúng Kỳ Yên là ngày lễ lớn, hằng năm Đình còn tổ chức hai lễ cúng nhỏ khác, gồm Lễ Dựng Nêu và Lễ cúng Khai Sơn. Trung bình mỗi năm có khoảng 600 người dân đến cúng viếng tại Đình Thái Bình để cầu bình an.
Đình Thái Bình Tổ Chức Lễ Cúng Kỳ Yên
Trong hai ngày 13-14.12 (nhằm ngày 15 và 16 tháng 11 Âm lịch), Đình Thái Bình tọa lạc tại khu phố 4, phường 1, thành phố Tây Ninh đã tổ chức Lễ cúng Kỳ Yên.
Lễ Kỳ yên Đình Thái Bình được tổ chức hằng năm gồm các nghi lễ truyền thống như: lễ rước Sắc Thần, các nghi thức cúng cơm chay, cúng cầu Quốc thái dân an, cúng tế Linh Thần, cúng Thần Nông, lễ hồi sắc… nhằm cầu quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, cầu cho công việc lao động sản xuất của nhân dân được thuận lợi, đời sống người dân ấm no, hạnh phúc. Đồng thời cũng là để giữ gìn nét đẹp truyền thống tín ngưỡng dân gian của dân tộc.
Đình Thái Bình đã được xây dựng trên 100 năm, thờ Thần hoàng Bổn Cảnh Võ Văn Oai – là vị quan đại thần triều đình Huế, người có công chống giặc ngoại xâm và tuẫn tiết tại vùng đất này. Ngày 18.3.1917, vua Khải Định năm thứ II đã sắc phong đình thành Thái Bình.
Ngôi đình được sửa chữa lớn vào năm 1950. Khuôn viên đình rộng 1.700m 2, tiền đình quay về hướng Đông Nam, mặt tiền đắp nổi biểu tượng cuốn thư: sách và gươm, 2 bên có lầu chuông, gác trống, đỉnh nóc đình có lưỡng long chầu nguyệt. Nội thất trang trí hoành phi: “Thái cảnh thanh bình” và “Thần thánh cảm linh”, cùng với các cặp song nghê, song phượng, tùng, cúc, trúc, mai và các đồ thờ tự.
Năm 1994 Đình Thái Bình được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) xếp hạng là Di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia và được trùng tu tôn tạo vào năm 2013.
Cập nhật thông tin chi tiết về Lễ Kỳ Yên Nghi Thức trên website Apim.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!