Xu Hướng 3/2023 # Làm Sao Để Đến Miễu Bà Chúa Xứ Ở Thủ Đức Bằng Xe Buýt # Top 11 View | Apim.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Làm Sao Để Đến Miễu Bà Chúa Xứ Ở Thủ Đức Bằng Xe Buýt # Top 11 View

Bạn đang xem bài viết Làm Sao Để Đến Miễu Bà Chúa Xứ Ở Thủ Đức Bằng Xe Buýt được cập nhật mới nhất trên website Apim.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Phương tiện công cộng đến Miễu Bà Chúa Xứ ở Thủ Đức

Bạn muốn biết cách đến được Miễu Bà Chúa Xứ trong Thủ Đức, Việt Nam? Moovit giúp bạn tìm cách tốt nhất để đến Miễu Bà Chúa Xứ với hướng dẫn từng bước từ trạm trung chuyển công cộng gần nhất.

Moovit cung cấp bản đồ và hướng dẫn trực tiếp miễn phí để giúp bạn điều hướng trong thành phố của mình. Xem lịch trình, tuyến đường, thời gian biểu và tìm hiểu thời gian thực để đến được Miễu Bà Chúa Xứ là trong bao lâu.

Bạn đang tìm trạm dừng hoặc nhà ga gần nhất tới Miễu Bà Chúa Xứ? Kiểm tra danh sách các điểm dừng gần điểm đến của bạn nhất: Đh Nông Lâm; Khu Công Nghệ Cao Q9; Đại Học Nông Lâm.

Bạn có thể đến được Miễu Bà Chúa Xứ bằng Xe buýt. Đây là những tuyến và tuyến đường sẽ dừng lại gần đó – Xe buýt: 19, 33, 50, 60-3

Bạn muốn xem liệu có tuyến đường nào khác đưa bạn đến nơi đó sớm hơn không? Moovit giúp bạn tìm được các tuyến đường hoặc thời gian khác. Nhận được hướng dẫn từ và đến Miễu Bà Chúa Xứ dễ dàng từ Ứng dụng hoặc Trang web của Moovit.

Chúng tôi giúp việc đi đến Miễu Bà Chúa Xứ thật dễ dàng, đó là lý do tại sao hơn 930 triệu người dùng, kể cả người dùng ở Thủ Đức, tin tưởng Moovit là ứng dụng tốt nhất cho giao thông công cộng. Bạn không cần tải về từng ứng dụng xe buýt hoặc tàu hoả riêng lẻ, Moovit là ứng dụng giao thông tất cả trong một giúp bạn tìm thấy giờ chạy của xe buýt hoặc tàu hoả tốt nhất hiện có.

Miếu Bà Chúa Xứ Ở Châu Đốc

Miếu Bà Chúa Xứ

Miếu Bà Chúa Xứ không chỉ là điểm đến tâm linh nổi tiếng mà còn là một di tích lịch sử, kiến trúc quan trọng của vùng Châu Đốc, tỉnh An Giang. Miếu Bà tọa lạc dưới chân núi Sam, trước đây thuộc thị xã Vĩnh Tế nay thuộc phường Núi Sam, Thành phố Châu Đốc. Đây không chỉ là công trình kiến trúc đẹp và tôn nghiêm mà Miếu bà Chúa Xứ còn là một di tích nổi tiếng không chỉ ở Tây Nam Bộ và khắp vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long mà còn cả người Việt ở nước ngoài cũng biết đến.

Miếu Bà Chúa Xứ có nguồn gốc cách đây 200 năm và đến nay vẫn là một điều bí ẩn. Tuy nhiên theo các nhà nghiên cứu thì miếu Bà được xây dựng từ khoảng đầu thế kỉ XVIII khi ông Thoại Ngọc hầu đến trấn giữ vùng đất Tây Nam. Ông được triều đình giao trọng trách đào kênh Vĩnh Tế, con kênh có độ dài 100km, rộng 50m, nối Châu Đốc với Hà Tiên. Có thể nói đây là một công trình vĩ đại nhằm mục đích thoát lũ, xả phèn cho ĐBSCL, rút ngắn con đường giao thương đường thủy vùng phía Tây. Tuy nhiên, khi tiến hàng thì liên tục gặp trục trặc, nhiều người chết do tai nạn, bệnh tật hoặc bị thú dữ tấn công.Thấy tình hình không mấy khả quan, vợ của ông Thoại Ngọc Hầu là bà Chậu Thị Tế đã nghe lời dân làng đến cùng bái tượng bà. Và quả nhiên ngay sau đó việc xây dựng diễn ra rất suông sẻ. Không chỉ thế, bà còn đến cầu cho ông Thoại Ngọc Hầu đánh thắng giặc ngoại xâm bảo vệ bình yên cho nhân dân. Sau đó, để tạ ơn, bà cho xây dựng lại ngôi miếu to và khang trang hơn. Nếu như đúng như trên thì Miếu Bà được xây dưới thời Minh Mạng.

Khoảng năm 1824, miếu được làm bằng tre lá tạm bợ chủ yếu là gỗ. Năm 1870, miếu được xây lại bằng gạch hồ ô dước, mái lợp ngói âm dương. Gần 100 năm sau đó, năm 1962 khi miếu bị xuống cấp trầm trọng nên được người dân sửa lại khang trang hơn và bắt đầu thu hút được nhiều người đến viếng. Ba năm sau, nhờ sự đóng góp của các mạnh thường quân, ngôi miếu được xây rộng ra có thêm nhà khách và hàng rào. Năm 1972 ngôi miếu được phá xây lại trừ tấm vách đá sau lưng Bà. Lần sửa chữa này do ý kiến của ông Nguyễn Văn Ứng, hội trưởng Hội cứu tế đề nghị và được tập thể Hội tán thành. Công trình khởi công tu sửa lần 2 đến tận năm 1976 thì miếu mới thật sự được xây dựng xong.Miếu Bà Chúa Xứ có kiến trúc dạng chữ “quốc”, hình khối tháp dạng hoa sen nở, mái tam cấp ba lầu, xây bằng gạch có 4 mái hình vuông, nóc lợp bằng ngói ống màu xanh, góc mái vút cao như mũi thuyền đang lướt sóng. Nhà để tượng cũng có mái vuông, ngay chính điện lát bằng gạch đá xanh, theo như lời ông hội trưởng thì vách 2 bên được xây bằng đá cẩm thạch nhập ở Ý, Nhật, Đài Loan do kiến trúc sư Huỳnh Kim Mãng và Nguyễn Bá Lăng thiết kế xây dựng.

Miếu Bà Chúa Xứ là một ngôi miếu cổ, thờ một tượng hình bằng đá. Theo lời kể của các ông thì hình tượng là một phụ nữ dáng ngồi. Dáng uy nghi, đội mũ, bị gãy một bên tay trái, bên trong mặc xà rông, bên ngoài mặc áo bào thêu rồng phượng. Mặt tượng được sơn màu nâu cánh dán, mắt đen. Hai bên là tượng cô bằng đá (bên phải),thờ cậu (bên trái). Còn theo như nhà khảo cổ học người Pháp Malleret đến nghiên cứu vào năm 1941, thì tượng Bà Chúa Xứ Núi Sam thuộc loại tượng thần Vishnu (nam thần),tạc dáng người nghĩ ngợi, quý phái, chất lượng bằng đá son, có giá trị nghệ thuật cao, được tạc cuối thế kỷ VI và rất có thể đây là một trong số hiện vật cổ của nền văn hóa Óc Eo.Sau này, nhà văn Sơn Nam cũng đã chép rằng: Tượng của Bà là pho tượng Phật đàn ông của người Khmer, bị bỏ quên lâu đời trên đỉnh núi Sam. Người Việt đưa tượng vào miễu, điểm tô lại với nước sơn, trở thành đàn bà mặc áo lụa, đeo dây chuyền. Và từ đó “Bà Chúa Xứ” là vị thần có quyền thế lớn ở khu vực ấy, xứ ấy…

Hàng năm vào các ngày 25, 26, 27 tháng 4 âm lịch, nhân dân các tỉnh phía Nam cùng nhân dân địa phương nô nức đến lễ ở miếu Bà. Trong ngày lễ còn có múa bóng, hát bội… Đêm ngày 23, mọi người đã tập trung về chùa để xem lễ tắm Bà. Tượng Bà được mang xuống, cởi áo ra, lấy nước mưa pha với nước hoa để tắm phong tục này đã tồn tại hàng trăm năm nay.Để có một chuyến du lịch vui vẻ và an toàn, du khách nên lưu ý một số điều sau:

Bởi vì Miếu Bà Chúa Xứ là một nơi linh thiêng và rất nổi tiếng nên lượng người đổ về đây viếng Bà hay du lịch rất đông đúc. Nên để phục vụ khách hành hương, khác du lịch xung quanh chùa có rất nhiều dịch vụ nhue bán đồ cúng, cho thuê heo quay, thả chim phóng sinh, xem quẻ đầu năm… vì vậy, du khách muốn mua sắm các đồ vật lễ Bà nên hỏi giá kỹ trước khi mua. Dọc đường đi sẽ có các trạm dừng, du khách có thể mua hoa, trái cây ở đây hoặc mua tại các điểm gần bến phà sẽ có giá rẻ hơn những điểm bán ở gần chùa. Nếu không mua được trên đường thì nên vào các cửa hàng lớn xung quanh chùa và hỏi kĩ giá trước khi mua. Tuyệt đối không mua nhang đèn từ những người bán lẻ đi theo mời mọc. Không chỉ vậy, sẽ có rất nhiều người chèo kéo du khách mua vé số, xin tiền hay gửi lộc,..

Xung quanh chùa có rất nhiều điểm bán hoặc cho thuê heo quay. Giá của những con heo quay ở nơi này sẽ đắt hơn khoảng 50.000đ/kg, chưa kể heo có thể bị để lâu hoặc có khi là heo tái sử dụng vì trước đó đã có người mang vào lễ Bà. Nếu du khách không thể mang heo quay từ nhà đi thì tốt nhất là lễ Bà bằng trái cây hoặc bánh mứt, không nên mua hoặc thuê heo quay tại chùa.Khi đến chùa, sau khi mua trái cây, nhang đèn cúng, du khách nên đi thẳng vào chùa để thắp hương, không nên nhận bất cứ lộc nào của người khác dúi vào tay, vì sẽ phải trả rất nhiều tiền. Sau khi thắp hương, du khách cũng không nên thả chim phóng sinh vì cho dù đã thỏa thuận trước giá cả, người bán thả chim ra, du khách vẫn sẽ bị đếm số lượng chim phóng sinh và tính tiền tăng đến chóng mặt. Đã có nhiều trường hợp xảy ra cự cãi, xô xát giữa khách hành hương và người bán.

Ở miếu bà lúc nào cũng đông khách hành hương nên khi vào khu vực chính điện của miếu, du khách phải hết sức cẩn thận với ví tiền của mình. Khi đi chùa, không nên mang theo nhiều tiền mặt, nếu để trong túi xách thì phải cài chặt và quay túi xách ra phía trước tránh tình trạng mất cắp xảy ra.

Tục Thờ Bà Chúa Xứ Ở Cà Mau

Tuy là vùng đất mới được khai phá nhưng Cà Mau là nơi hội tụ nhiều hình thức tín ngưỡng dân gian độc đáo và phong phú, trong đó có tục thờ Bà Chúa xứ.

Tục thờ Bà Chúa xứ là hình thức tín ngưỡng dân gian phổ biến ở Nam Bộ, một số miếu thờ nổi tiếng gắn với những lễ hội truyền thống được nhiều người biết đến như: miếu Bà Chúa xứ núi Sam (Châu Ðốc), miếu Bà Chúa xứ núi Bà Ðen (Tây Ninh), miếu Bà Chúa xứ Tháp Mười (Ðồng Tháp)… Những miếu thờ này từ lâu đã trở thành địa chỉ hành hương quen thuộc của đông đảo người dân Nam Bộ. Ðây cũng là những điểm đến tham quan của khách du lịch trong và ngoài nước.

Tại Cà Mau, theo kết quả kiểm kê vào đầu năm 2016, trên toàn tỉnh còn lại hàng chục miếu thờ Bà Chúa xứ được xây dựng quy mô, trở thành nơi sinh hoạt tín ngưỡng của cộng đồng. Riêng địa bàn TP Cà Mau đã có 14 miếu thờ. Tại các huyện trong tỉnh vẫn còn một số miếu thờ dưới hình thức cộng đồng, nhiều miếu thờ đã có hàng trăm năm, gắn liền với lịch sử khai phá, dựng làng, lập ấp của cư dân địa phương.

Miếu thờ Bà Chúa xứ ở ấp Rau Dừa, xã Hưng Mỹ, huyện Cái Nước.

Theo các nhà nghiên cứu, tục thờ Bà Chúa xứ ở Nam Bộ nói chung, ở Cà Mau nói riêng có nguồn gốc từ tín ngưỡng thờ mẫu, sâu xa hơn là tín ngưỡng “cha trời – mẹ đất” cổ truyền của người Việt. Theo chân những lớp người đi khai hoang, mở cõi, hình thức tín ngưỡng này đã được các lưu dân mang theo trong tâm thức, như một “hành trang tinh thần” từ quê cha, đất tổ.

Khi vào đến dãy đất miền Trung lại được giao lưu, tiếp biến văn hoá với tín ngưỡng thờ Mẹ xứ sở (vốn là nữ thần Pô Inư Nagar) của người Chăm, quá trình “Nam tiến” lại tiếp tục diễn ra cùng với sự gặp gỡ giữa các nền văn hoá Việt – Chăm – Khmer – Hoa… Trên vùng đất mới đã làm biến đổi nhiều yếu tố gốc của tín ngưỡng thờ mẫu truyền thống.

Hệ thống miếu thờ Bà Chúa xứ thường có 2 loại, loại miếu thờ của gia đình thường được lập với quy mô nhỏ, trong sân hoặc vườn nhà để các thành viên trong gia đình thờ cúng; loại miếu thờ cộng đồng do dân cư trong xóm góp công góp của xây dựng, ban đầu có thể làm bằng cây lá, khi có điều kiện thì xây dựng bằng bê-tông, cao và rộng để người có thể đi vào sắp lễ cúng kiếng thường xuyên.

Bên trong các miếu thờ thường có tượng Bà Chúa xứ bằng bê-tông ở tư thế ngồi, đặt trang nghiêm chính giữa bệ thờ, đầu đội mão trang trí sặc sỡ, mặc áo hoàng bào hoặc áo lụa thêu rồng phụng, trên cổ đeo nhiều chuỗi hạt, hai bên có lộng che, có khi thêm đôi hạc đứng chầu. Trong khuôn viên một số miếu thờ còn có bàn thờ Thông thiên, bệ thờ thần Nông, thần Hổ…

Bài vị trong các miếu thờ Bà Chúa xứ thường được viết bằng chữ Hán với các danh xưng của Bà: “Chúa xứ nương nương”, hoặc “Chúa xứ thánh mẫu”, có khi là “Chúa xứ bổn cảnh”. Thời Nguyễn, dưới triều vua Gia Long, bà còn được sắc phong là “Linh Sơn thánh mẫu” ghi nhận sự có mặt của tín ngưỡng thờ Bà Chúa xứ trong lịch sử dân tộc. Bà Chúa xứ vừa là một “phúc thần” với chức năng phù hộ sức khoẻ, tiền tài, danh vọng, công việc… nhưng có lúc lại đóng vai một “ác thần” trong những thề thốt, nguyền rũa, trù ếm lẫn nhau của nhân gian.

Tại các miếu Bà Chúa xứ, vào các ngày rằm và mùng 1 âm lịch hằng tháng (ngày Sóc, ngày Vọng) người dân địa phương thường sắp mâm lễ đến thắp nhang khấn vái cầu bình an, sức khoẻ, việc làm ăn thuận lợi, mùa màng bội thu… Lễ cúng thường là trái cây và bánh ngọt, những gia đình có điều kiện cũng cúng lễ mặn như thịt heo, gà, vịt.

Trong sách “Văn hoá và cư dân đồng bằng sông Cửu Long”, các tác giả Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Ðường đã mô tả hiện tượng thờ Bà Chúa xứ phổ biến ở Nam Bộ trước năm 1990: “Ở Nam Bộ, nhà nào cũng có miếu thờ Bà Chúa xứ, đặt ở góc nhà hoặc góc vườn. Trong rừng U Minh, người dân đốn củi, lấy mật ong cũng thờ Bà Chúa xứ để cầu mong được mạnh khoẻ, tránh được sốt rét, tránh rủi ro trong nghề nghiệp…”.

Ðặc điểm chung của các miếu thờ Bà Chúa xứ ở Cà Mau là hầu hết được xây dựng dọc theo các tuyến sông rạch, thuận lợi cho người dân đi lại để thực hành tín ngưỡng. Nhiều miếu thờ được lập ở ngã ba sông, nơi xuồng ghe thường qua lại, người trong xóm có công có việc đi ngang miếu như được nhắc nhớ vào thắp nén nhang “đi thưa, về trình” với thần linh. Những miếu thờ này không chỉ dành cho người dân địa phương, mà khách thương hồ có dịp đi ngang qua muốn cầu nguyện chuyện gì cũng có thể vào khấn vái để xin Bà phù hộ.

Hoàn cảnh hình thành các miếu thờ ở các địa phương cũng khác nhau, có gia đình do đã lập miếu từ nơi khác, khi di cư đến Cà Mau thì lập lại để thờ; có người do ốm đau, bệnh tật nên người nhà khấn vái cầu xin Bà Chúa xứ phù hộ, đến khi khỏi bệnh liền lập miếu thờ; có người nằm mộng thấy bà hiện về báo điềm lành hoặc điềm dữ đối với gia đình, làng xóm, để thể hiện lòng thành kính nên lập miếu thờ để Bà phù hộ, độ trì…

Có thể nói, tục thờ Bà Chúa xứ là sản phẩm văn hoá tâm linh được hình thành qua quá trình giao lưu, tiếp biến và hội tụ của nhiều làn sóng văn hoá trên vùng đất mới. Ðây là hình thức tín ngưỡng phổ biến trong đời sống dân gian Cà Mau qua nhiều thế hệ, gắn liền với công cuộc khai phá, định cư của người Việt ở vùng đất tận cùng đất nước./.

Bài và ảnh: Huỳnh Thăng

Miếu “Bà Chúa Xứ” Ở Núi Sam

Phát hiện này vào những năm 40 thế kỷ trước, cho thấy nền văn minh đô thị đã có trước công nguyên tại tỉnh An Giang, cũng như hiện nay tỉnh còn được mọi người biết qua dãy Thất Sơn huyền bí cùng miếu Bà Chúa Xứ.

QUẦN THỂ THẤT SƠN HUYỀN BÍ

Nói đến Thất Sơn mọi người đều sẽ có ấn tượng, bởi nơi đây đầy những sự huyền hoặc và kỳ bí, vì gần hai trăm năm nay vùng Thất Sơn đã có nhiều chuyện truyền kỳ lẫn những lời đồn đại, và điều này khiến mọi người mang tính hiếu kỳ luôn luôn tìm đến với dãy Thất Sơn để tìm hiểu.(xem so dien thoai theo phong thuy)

Thực tế quần thể Thất Sơn không chỉ có bảy ngọn núi mà có đến mười hai ngọn. Chúng kết hợp thành một dãy núi nằm về phía tây bắc thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang bây giờ, vì thế mà mọi người còn gọi vùng Thất Sơn là “Năm Non Bảy Núi” để cho thấy dãy núi vẫn có đủ 12 ngọn khác nhau.

Theo địa dư triều đình nhà Nguyễn viết, vùng Thất Sơn có đến 12 ngọn núi, chính Tổng Đốc thành An Giang thời đó đã đặt cho cho các tên núi là : Tà Chiến, Trà Nghịch, Tượng, Thốt, Cà Âm, Năm Sư, Khẻ Lập, Ba Xoáy, Ngất Sung, Nam Vi, Đoài Tôn và Chơn Sum.

Sau này theo thói quen, người dân chỉ gọi có bảy núi chính gồm : Trà Sư, Két, Đài, Tượng, Bà Đội Om, Ông Tô và Cấm Sơn, vì núi Cấm bao gồm những ngọn Ba Xoáy, Ngất Sung, Chơn Sum, Nam Vi và Đoài Tôn, bởi chúng liên kết với nhau. Sở dĩ những ngọn núi này có những tên kể trên, do mọi người căn cứ theo hình dạng của mỏi ngọn mà đặt tên cho dễ kêu, dễ nhớ.

Về tên Bảy Núi (Thất Sơn) như đã giải thích, còn Năm Non là gì ? Theo các vị kỳ lão trong vùng kể lại, cách đây gần hai trăm năm :

– NÚI CẤM (Cấm Sơn) : một trong bảy núi có tiếng là linh thiêng nhất, nơi tập trung các vị chân tu và đạo sĩ. Bởi lẽ Cấm Sơn thời gian trước thế kỷ 19 còn rất hiểm trở, rừng già mịt mù u tịch, thú dữ xê dịch từng đàn và quanh núi có năm vồ (gò) cao đặc biệt, mỏi vồ mang một tên riêng như :

– VỒ BỒ HÔNG : nằm ở hướng tây. Theo lời truyền khẩu từ nhiều đời, trước khi mới phát hiện ra vồ này thì loài Bồ Hông (bò rừng cao lớn hơn bò nhà) sinh sống ở đây rất đông, nên mọi người mới đặt tên là vồ Bồ Hông.

– VỒ ĐẦU : nằm về hướng tây bắc, đi theo ngã chợ Thum Chưn lên, có lẽ lúc mới lên núi thấy ngay vồ này trước mắt, nên được đặt là Vồ Đầu là vậy.

– VỒ BÀ : người Việt gốc Khmer thường gọi vồ là Phụm Barech, trước đây thờ bà Chúa Xứ, nằm về hướng nam.(so dien thoai phong thuy)

– VỒ ÔNG BƯỚM : nằm phía bắc Cấm Sơn. Ngày xưa người ta thấy mỏi buổi sáng tinh sương, từ trong hang đá có một bầy bướm khồng lồ bay ra như một đám mây bay vào vùng rừng rậm.

Không biết đàn bướm ấy bay đến đâu nhưng chiều tối thì chúng lại bay trở về hang đá ấy. Dân đi rừng tìm củi thấy vậy nên tò mò tụ đến xem làm xôn xao cả vồ, khiến đàn bướm bay đi mãi không về hang động này nữa. Vì lẽ đó mà người ta đặt tên là Vồ Ông Bướm hay còn gọi là Điện Bướm.

– VỒ THIÊN TUẾ : vồ cuối cùng nằm ở phía đông, người Khmer gọi vồ là Phụm Pra Péal, nơi đây có rất nhiều cây thiên tuế, có cây sống trên vài trăm năm rất to lớn xum xuê.

Còn thời nhà Nguyễn tên năm vồ này là Ngất Sung, Ba Xoáy, Nam Vị, Đoài Tôn, Chơn Sum.

Núi Cấm chỉ cao trên 780 mét, còn chiều dài đến gần 7,5 km và rộng 6,5 km, nằm giữa 4 thôn Vĩnh Trung, Thuyết Nạp (tổng thành Ý, huyện Tịnh Biên), Nam Qui (tổng thành Lễ) và Châu Lang (Long Thành Ngãi, huyện Tri Tôn) núi nằm giữa 2 núi Bà Đội Om và núi Đài.

Theo giả thuyết, tên núi Cấm (Cấm Sơn) được mọi người hiểu như sau :

– Nhiều người cho rằng, núi này vào thế kỷ 19 có tên Thiên Cẩm Sơn (tức Gấm Nhà Trời), còn dân làng mộc mạc đọc trại theo giọng địa phương là Thiên Cấm Sơn (tức Trời Cấm Vào Núi). Sau đọc gọn chỉ còn Cấm Sơn.

– Còn những người sống vào thời kỳ Nguyễn Ánh – Tây Sơn cho biết : khi chúa Nguyễn Ánh bôn tẩu tránh quân Tây Sơn vào núi ẩn mình, Chúa Nguyễn đã cấm dân lên núi nên dân chúng gọi là núi Cấm.

Giả thuyết nào cũng có cái lý đúng, nhưng chắc chắn tên núi Cấm có từ cuối thế kỷ 19 cho đến nay.(xem tu vi so dien thoai)

CHÙA TÂY AN

Khi nói đến Thất Sơn là nói đến dãy núi nằm sát biên giới nước Campuchia, và không ai không biết đến núi Sam (trước đây tên Vồ Bà), núi cao chừng 250m, nơi có chùa Tây An, lăng Thoại Ngọc Hầu và miếu Bà Chúa Xứ nằm trên một trục đường chính, và có những liên hệ gắn liền nhau. Hằng năm vào ngày 24 tháng 4 ÂL là ngày vía Bà Chúa Xứ.

Ở núi Sam còn có tháp Phái và chùa Phước Điền, tạo nên một quần thể di tích văn hóa, tín ngưỡng thờ Phật và Thần của vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Chùa Tây An trên đường đi đến miếu Bà Chúa Xứ, có nhiều điển tích, và có nhiều cách giải thích ai đã xây dựng chùa. Những điển tích đó như sau :

– Thoại Ngọc Hầu vâng lệnh vua Minh Mạng và Quan Tổng trấn Gia Định thành tức Tả quân Lê Văn Duyệt, qua Cao Miên “bảo hộ đất trấn Tây”. Ở quê nhà, vợ ông là bà Châu Thị Tế đêm ngày lo sợ chồng chết trận, lại là người mộ đạo sùng bái thần linh, bà van vái Trời Phật Thánh Thần gia hộ cho ông sớm được bình an trở về. Nếu lời cầu xin được như ý, bà sẽ lập chùa thờ Phật để tạ ơn.

Khi Thoại Ngọc Hầu từ trấn Tây (Cao Miên) bình an trở về, bà kể lại lời cầu khấn, ông liền cho xây chùa lấy tên Tây An Tự (ngôi chùa từ trấn Tây bình an trở về). Sau đó cho lính sang Cao Miên chở cốt Phật về thờ, theo truyền thuyết thì cốt tượng Phật này do vua Cao Miên tặng Thoại Ngọc Hầu vì ông có công dẹp yên giặc Xiêm La.(sim phong thủy)

Nhưng ông lo ngại việc tự ý xây chùa và đem cốt Phật từ đất Miên về thờ sẽ thấu đến triều đình. Sợ vua không phong sắc mà còn bị quở phạt, nên đặt thành tên miếu Bà Chúa Xứ để tránh phiền phức.

Thực tế tại vùng kinh Vĩnh Tế lúc ấy có cả chùa Tây An và cả miếu Bà Chúa Xứ, như vậy Thoại Ngọc Hầu xây dựng chùa Tây An hay xây dựng miếu Bà đang còn được mọi người tìm hiểu ?!

Theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí, vùng này trong thời gian Thoại Ngọc Hầu trấn đóng đã có chùa Thụy Sơn ở địa hạt Thụy Sơn, và chùa Tây An ở địa hạt Vĩnh Tế, không ghi có miếu Bà Chúa Xứ, mặc dù từ chùa Tây An đến miếu Bà không xa chỉ trên một đoạn đường ngắn. Phải chăng vào đời vua Tự Đức (1848 – 1883), miếu Bà chưa hình thành hoặc miếu còn quá nhỏ nên không được ghi vào sách ?

Nên trong thời gian Thoại Ngọc Hầu trấn nhậm vùng Châu Đốc vào thời vua Minh Mạng (1820 – 1840), tương truyền cho rằng ông đã dựng lên chùa Tây An là đúng.

Nhưng có một tích khác lại quả quyết, Thoại Ngọc Hầu không xây dựng chùa Tây An mà ông dựng đền thờ Lễ Công ở hạt Châu Phú để thờ Thống suất chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh. Còn chùa Tây An do Tổng đốc Doãn Uẩn xây dựng năm 1847, tức 18 năm sau khi Thoại Ngọc Hầu qua đời.

Cũng có thể nói, chùa Tây An do chính Thoại Ngọc Hầu xây dựng vào những năm 1820 – 1825, lúc đó nơi đây đã có miếu Bà bên đường, nên ông mượn tên miếu Bà để tránh tội. Sau này vào năm 1847, Tổng đốc Doãn Uẩn mới trùng tu lại chùa Tây An lớn như ngày nay.(sim hop tuoi)

LĂNG THOẠI NGỌC HẦU

Thoại Ngọc Hầu tên thật là Nguyễn Văn Thoại (1762-1829), quê huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam, người có công đóng góp nhiều vào triều đình nhà Nguyễn đời Gia Long. Năm 1818, ông có công tổ chức đào kinh Đông Xuyên, còn gọi là kinh Thoại Hà.

Năm 1819 lại tổ chức dân chúng đào kinh Vĩnh Tế, nhưng ông chỉ đào được 3 năm thì ngừng, do dân phu đau ốm và chết quá nhiều, sau đó Tả quân Lê Văn Duyệt giao lại cho Trương Tấn Bửu đến đào tiếp.

Sau khi Thoại Ngọc Hầu qua đời, ông được truy tặng hàm Đô Đốc tước Ngọc Hầu, nên sách sử ghi là Đô thống Thoại Ngọc Hầu, có lăng tẩm đặt trên núi Sam, và gần như đối diện với miếu Bà Chúa Xứ.

Vào dịp lễ vía Bà hằng năm, chiều 24 tháng 4 ÂL, từ bên miếu Bà Chúa Xứ, Ban Quản Trị miếu Bà mặc lễ phục chỉnh tề sang Lăng thỉnh sắc ông qua Miếu dự lễ hội.

Đoàn thỉnh sắc Thoại Ngọc Hầu rất trang nghiêm, có lân dẫn đường rồi đến các vị chức sắc trong miếu Bà, các kỳ lão địa phương.(y nghia so dien thoai)

Đi sau các học trò lễ sắp thành hai hàng dọc, tay cầm cờ, cầm phướn đi hầu trước và sau Long đình, có lọng phủ do bốn người khiêng. Khi vào trong lăng, mọi người dâng hoa niệm hương tế lễ rồi thỉnh bốn bài vị lên Long đình rước về miếu Bà. Bốn bài vị gồm :

– Bài vị Đô thống Thoại Ngọc Hầu

– Bên trái bài vị bà chánh phẩm Châu Thị Tế

– Bên phải bài vị bà nhị phẩm Trương Thị Miệt

– Cuối cùng là bài vị các Công đồng

Khi thỉnh sắc về đến miếu Bà, các bài vị trên được an vị tại ngay chánh điện. Và ở đấy suốt thời gian tổ chức lễ vía Bà Chúa Xứ diễn ra.

Đến chiều ngày 27 tháng 4 ÂL như lúc thỉnh, các hương chức, các kỳ lão, học trò lễ vẫn cờ, phướn, Long đình tề tựu đưa sắc và các bài vị trở về Lăng Đô thống.(phong thuy sim)

Nguồn: Phongthuysim.vn

Cập nhật thông tin chi tiết về Làm Sao Để Đến Miễu Bà Chúa Xứ Ở Thủ Đức Bằng Xe Buýt trên website Apim.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!